111.
LÀM CHỦ SANH TỬ
Người tham
thiền tham đến thân bất khả đắc, tâm bất khả đắc,
thân tâm đều bất khả đắc thì người nào tạo sanh, người
nào tạo tử? Nếu sanh tử không ai tạo thì sanh tử vốn không,
như thế tức là nghĩa vô thủy vô sanh. Tâm đã vô sanh thì
sanh từ đâu có? Có tức là sanh, có sanh ắt có diệt, niệm
niệm sanh diệt chẳng ngừng thì đâu phải là công phu vô
tâm. Nếu cái tâm tham thiền đến chỗ vô tâm thì chẳng cho
có một tâm, cũng chẳng cho có hai tâm.
Có người
hỏi : "Ngay lúc tham thiền, nói hai tâm chẳng cho có thì đúng,
tại sao một tâm cũng chẳng cho có?".
Đáp :" Nếu
biết có một tâm thì có năng biết sở biết, tức thành hai
tâm. Do hai tâm này đã bất khả đắc nên một tâm đương
nhiên cũng bất khả đắc. Sao vậy? Trong Tín Tâm Minh nói :
"Nhị nhân nhất hữu, nhất diệc mạc thủ" (hai do một mà
có, một cũng chẳng trụ), đó mới là thật một tâm, là
thật lìa sanh diệt, là thật lìa sanh tử. Phải biết, sanh
diệt là nhân, sanh tử là quả. Trước liễu cái nhân sanh
diệt, sau diệt cái quả sanh tử. Tại sao có người tâm diệt
mà thân chưa diệt, có người thân diệt mà tâm chưa diệt.
Ý ấy thế nào? Tham thiền đến chỗ Không tịch, vô niệm
vô sanh, gọi là tâm diệt. Nhờ cái thân hữu tận (tạm có)
này hành cái hạnh vô lậu, đây gọi là thân chưa diệt. Có
người thân diệt mà tâm chưa diệt, thân này là do cảm quả
báo đời trước chịu các khổ vui, báo khổ vui hết thì thân
diệt vong, đây gọi là thân diệt. Nhờ cái nhân thiện ác
mà cảm cái quả thiện ác, đây gọi là tâm chưa diệt. Tâm
diệt, thân diệt lại có hai nghĩa :
l. Tâm diệt
thì sanh cũng diệt, hễ có sanh thì mỗi mỗi đều sanh. Than
ôi! Có sanh thì có luân hồi, có tánh mạng, có sanh tử, có
thế giới. Hễ diệt được cái sơ sanh từ vô thủy thì đủ
thứ sanh liền diệt.
2. Tâm diệt
thì thân cũng diệt, hễ tâm sanh thì đủ thứ thân sanh. Buồn
thay! Thân thiên nhân, thân tu la, thân loài người, thân địa
ngục, thân tất cả các loài chim bay thú chạy, nếu làm cho
cái sơ tâm từ vô thủy này diệt thì đủ thứ thân liền
diệt vậy. Tham thiền dũng mãnh một mạch tham thẳng chẳng
ngừng nghỉ, dẫu cho Phật khuyên ta đừng tham ta cũng chẳng
tin, ma buộc ta đừng tham ta cũng chẳng nghe.
Đến đây
chẳng những được làm chủ sanh tử mà cũng được làm chủ
sanh diệt, thủ phạm của sanh diệt bị cái đắc lực của
tham thiền bắt được. Vui mừng biết bao! Người tu hành dụng
công phu phải làm chủ sanh tử mới cho là công phu liễu sanh
thoát tử, mới cho là công phu minh tâm kiến tánh, mới cho
là công phu đại triệt đại ngộ, mới cho là công phu thành
Phật làm Tổ. Nói tóm lại, chỉ có công phu tham thiền mới
có thể khiến mọi người làm chủ sanh tử. Cảm tạ Phật,
Tổ và đại chúng.
112.
ĐẦU SÀO TRĂM THƯỚC
Người tham
thiền nghĩ thế gian vô thường, quán thân rất khổ, tại
sao ở chỗ khổ chịu cái thân khổ này? Thật người tu giống
như người đời. Đó là ông khổ, tôi khổ, toàn thân là
khổ, cả thế giới là khổ, há chẳng thành cái biển khổ
sao! Người ta thường nói :
"Biển khổ
mênh mông, ngày nào dứt. Sanh đến tử đi, bao giờ thôi".
Do đây tức tối tràn hông, dũng mãnh lập chí lớn xuất trần,
một chân nhảy ra khỏi cũi lồng phàm phu, xuất gia thọ giới,
cầu thầy học đạo, chịu khổ tham thiền ngày đêm không
gián đoạn, không rảnh ăn cơm, đâu dám ngủ nghỉ, thu nhiếp
thấy nghe, nỗ lực tham thiền, dũng mãnh chẳng màng tất cả,
quyết chí muốn thấu tam quan, tế tâm truy cứu càng vi tế
đến chỗ vô tâm, sau khi quên vô tâm thì chẳng sanh cái sanh.
Cái sanh chẳng sanh, ấy là dụng tâm chân chánh. Chỗ dụng
tâm được toàn chân.
"Chân tâm
dụng, tuyệt sơ thân
Chư Phật
chẳng thể gần
Chúng sanh
chẳng thể biết
Tự bước
lên quan ải, đến đầu sào trăm thước
Chưa đến
nơi, chớ do dự, trên đường đầu sào nhiều lối tẻ
Chân trước
sình, chân sau bùn, dù bước khó khăn không thấy mệt
Bắt đầu
đông, dần dần ít, đến chỗ vắng người khó hỏi đường
Chẳng sợ
quỷ, chẳng sợ thần, từng bước từng bước tiến lên mãi
Đường thiền
trơn trợt cứ đi mãi
Qua đất
bằng, đến chân núi, chân trái đụng nhằm cọp, chân phải
dẫm nhằm
rắn
Núi khó leo,
đường khó đi, gai gốc rậm rạp tổn thương người
Đi một bước,
giở một chân, tay nắm chẳng kịp thân liền ngã
Trong bụng
đói, mắt rơi lệ, hễ tay buông lỏng mất mạng ngay
Dũng mãnh
chạy thẳng lên một mạch, chân đụng đá, chân đụng mây
Nhân ngã
chẳng màng còn ai thân, chẳng thấy trời, chẳng thấy
người
Chư Phật
chư Tổ chẳng quan tâm
Bồ Tát cũng
khó độ thân ta
Hoát nhiên
thẳng lên đường hết lối
Phóng mắt
nhìn, không một trần
Leo đến
đầu sào cần tiến tới
Từ chỗ
này, tiến một bước
Mười phương
thế giới hiện toàn thân.
113.
TRÊN BỜ VỰC THẨM BUÔNG TAY
Người tham
thiền cần phải đến chỗ tuyệt đỉnh của thiền. Ước
mong sư tăng trong Thiền Tông và tất cả người đời hãy
tìm đường tiến lên, chân bước vào cửa mới được khen
là bậc cao nhân cái thế. Nếu ở mãi trong trần ai bị bụi
đóng khói xông thì chẳng phải là thượng sách của người
tham thiền.
Người có
chút tri thức nghĩ trần thế như đôi dép rách, tưởng danh
lợi như bùn dính chân, thế gian là lao ngục, gia đình là
gông xiềng, con cái là quỷ đòi nợ, vợ chồng là kẻ báo
thù. Xem kỹ thế gian không có một cái gì là phải, sao chẳng
quày đầu tự hỏi lấy mình. Hỏi rằng : "Cái gì là ta?".
Đáp : "Trừ cái đãy da thúi này ra, hãy truy vấn thật sâu,
hỏi đến miệng ăn cơm mà chưa nhai một hạt gạo, thân mặc
áo mà chưa dính một tấc tơ". Lại xét kỹ thêm, bậc căn
khí lớn một bước lên núi, đã đến đảnh núi, đều thiết
yếu là chớ màng đến mình và người, chẳng nên nhìn các
núi ở bốn phía. Cuộc sống trên núi cũng chẳng phải việc
của mình huống là việc khác. Theo sự hiểu lầm của người
đời, cho: " Pháp tham thiền là việc phiền toái, nào là lên
núi, nào là đến đảnh, nào là khởi nghi, nào là thâm nhập.
Sao chẳng một ngày, hai ngày, một khắc làm xong, khỏi bị
kéo tới kéo lui, cảm thấy dường như quá khó, khiến cho
người nghe sợ mà lại ngán". Thật là lầm lớn vậy!.
Phải biết
: Thân ông saün có một vị Phật sống, chẳng ở ngoài thân,
chẳng ở trong thân, chẳng ở chặng giữa của thân, chưa
lìa thân ông một chân, nửa bước. Ông nghĩ có biện pháp
nào để thấy được vị Phật sống này? Ông hãy suy xét
kỹ lưỡng xem! Nếu chẳng màng đến thì cô phụ tánh linh,
chôn mất chính mình, chìm mãi trong lục đạo, không có ngày
thoát khổ, có thể nào nhẫn tâm chẳng màng đến nó chăng?
Hôm nay đã
giảng đến "trên đầu sào tiến thêm một bước", rất là
trọng yếu, tại sao lại đem mấy lời thế tục này nói để
làm gì ? Chính ngay khi nói, xin hỏi, người đã đến tuyệt
đỉnh núi, lên núi không lối, xuống núi không đường, chính
là chỗ miệng chẳng thể bàn, tâm chẳng thể nghĩ thì đâu
có ngôn thuyết, đâu có tâm tư. Phải biết chỗ cùng tột
của Thiền Tông là đường ngôn ngữ dứt, chỗ tâm hành diệt,
không thể nghĩ suy. Nay nói "trên bờ vực thẳm buông tay" là
chẳng phải việc thế gian và xuất thế gian có thể so sánh.
Tôi hôm nay giảng đến chỗ này đều chưa nói rõ. Tại sao
vậy? Ước mong người đọc chớ hiểu lầm mà trách rằng
: "Cái cảnh giới của khai ngộ sao chẳng thố lộ ra hết".
E tai hại cho tiền trình của người học, nên tôi y theo người
xưa nói :
"Nếu ta nói
trắng ra cho ông nghe, đến khi khai ngộ, ông sẽ mắng ta".
Bởi vậy, tôi chẳng muốn bị thiên hạ mắng.
114.
TUYỆT HẬU TÁI TÔ
(Chết rồi
sống lại)
Người tham
thiền, trước tiên học tử thế, rồi học tử thân, lại
học tử tâm. Thế có thể chết, thân chẳng thể chết. Thân
có thể chết, tâm chẳng thể chết. Phải biết, tử thế
tức là chết cái sắc không của thế gian. Tử thân tức là
chết cái nghiệp tướng của thân. Tử tâm tức là chết cái
mê chướng của tâm. Thực ra chẳng phải tử thế vì tử
thế thì không còn xứ sở, cũng chẳng phải tử thân vì tử
thân thì không còn thế gian, lại chẳng phải tử tâm vì tử
tâm thì không còn thân thể.
Từ địa
vị phàm phu cho đến kiến tánh thành Phật không có chút kỳ
lạ, chỉ là lìa hết tất cả sự tương đối của thế gian
như sắc không, sáng tối, lấy bỏ, yêu ghét.... Vậy thân,
tâm, thế giới, cả ba đều lìa sạch hết, tịch diệt không
còn, luôn cả cái không còn cũng chẳng còn, ấy là đại tử
(tuyệt hậu), rồi đại hoạt (sống) trở lại (tái tô). Khi
ấy mới có thể chấn đại địa, động chư Thiên, mới có
thể liễu sanh tử, mới có thể thành Phật, Tổ. Nay khuyên
mọi người hãy làm con người này, hãy hành cái việc này,
hãy tu cái nhân này, thì quyết định cảm cái quả này.
Hỏi : "Người
phàm phu chết rồi sống lại được gọi là Thánh nhân, từ
đâu hạ thủ công phu?Người thế gian có thể hành thử, nếu
hành chẳng đến thì thân người phàm vẫn còn nguyên, nếu
hành đến được thì trở thành Thánh nhân, tốt biết bao!".
Đáp : Ông
ngay chỗ THÂN, TÂM, THẾ mà hạ thủ công phu, vậy làm sao
liễu được thế? Làm sao quên được thân? Làm sao không cái
tâm? Những việc này đều là việc nhỏ, dù trình độ thấp
kém cũng chẳng cần phí nhiều công phu, chẳng tốn nhiều
tiền bạc, vai chẳng gánh nửa cân, tay chẳng xách bốn lượng,
chỉ ôm chặt câu thoại đầu, hôm nay cũng tham, ngày mai cũng
tham, năm nay cũng tham, năm tới cũng tham, lâu ngày thuần thục
tự có ngày đạt đến mục đích. Điều khẩn yếu là dù
sống dù chết cũng chỉ hành pháp này, chẳng hành pháp khác,
dù nguy dù vong chỉ một tâm này, chẳng sanh tâm khác. Nơi
một tâm một pháp khai ngộ thì chắc chắn sẽ được kiến
tánh dễ như ăm cơm uống nước vậy. Nếu nhiều tâm nhiều
pháp thì khó như mò kim dưới đáy biển. Khó dễ đều do
mình. Người tuyệt hậu tái tô chân thật, gặp người mắt
sáng (người đã ngộ) giơ tay hạp chưởng, cử chỉ nói nín,
cơ phong qua lại đều ăn khớp nhau. Nếu lúc ở trên bờ vực
thẳm vừa sanh lo nghĩ liền thành người đọa thân tử hán
(thằng chết), nghĩa là người nửa chết nửa sống. Người
này gặp Thiện tri thức ngữ ngôn vấn đáp thì đỏ mặt
tía tai, nếu bị hỏi nữa, tâm sanh hoang mang. Học nhân chẳng
nên học người này.
115.
QUA SƠ QUAN
Người tham
thiền căn khí lớn nhỏ bất đồng. Sức lớn thấu thẳng
ba quan, sức nhỏ thấu hai quan, sức nhỏ hơn chỉ thấu Sơ
Quan. Để thấu Sơ Quan, thật đã phải chịu biết bao gay go,
nếm biết bao gian khổ mới tiến qua quan này. Một phen tiến
qua quan này mới biết từ vô lượng kiếp làm thiện tạo
ác, sanh tử luân hồi đều là một trường mê mộng. Nay tỉnh
lại rồi, rất sanh hổ thẹn, có người buồn vui lẫn lộn,
có người rơi lệ khóc to. Từ đây thay đầu đổi mặt chuyên
làm công việc bảo nhậm, ba thứ ác nghiệp nơi thân, bốn
thứ ác nghiệp nơi khẩu, ba thứ ác nghiệp nơi ý sẽ dần
dần tự sạch hết, còn tập khí căn bản sâu nặng cũng sẽ
từ từ tẩy sạch. Đối với bốn ác nghiệp khẩu, ba ác
nghiệp ý từ xưa đến nay cử tâm tức lầm, động niệm
tức trái, sức của Phật Tổ, cũng chẳng thể trừ giúp ta
được, Bồ Tát nguyện lớn cũng chẳng thể cứu ta được.
Diêm Vương ác lớn cũng chẳng thể diệt giúp ta được. Phật,
Tổ nếu trừ được tham sân si cho ta thì cũng trừ được
cho người khác, ắt mọi người trong thiên hạ đều được
độ hết. Bồ Tát chẳng cứu được ta thì ta làm sao được
cứu. Nếu ta được cứu thì người thế gian cũng đều được
cứu, vậy cả thảy đều vô ngã, vô ngã rồi thì làm sao
có thế gian! Diêm Vương nếu diệt được cho ta thì địa
ngục, tam đồ sẽ không có người đến, hạt giống địa
ngục cũng không thì còn ai làm Diêm Vương! Tham sân si của
tâm là hạt giống của thế giới, hạt giống của pháp giới,
hạt giống của lục đạo, hạt giống của cõi u minh. Muốn
bứng cây, phải nhổ gốc. Hạt giống là cái gì ? Là tâm
của chúng ta. Hôm nay tiến vào quan khẩu câu thoại đầu của
Tổ sư thiết lập rồi, chẳng những tiến vào quan mà ở
ngoài quan này nghỉ ngơi cũng được vô cùng thọ dụng. Sao
vậy ? Vì thân nghiệp bất tịnh, khẩu nghiệp bất tịnh,
ý nghiệp bất tịnh đâu thể đạt đến biên giới của Sơ
Quan. Người nào có thể nói ra một câu chuyển ngữ (lời
nói vô sở trụ) thì đã qua Sơ Quan, cũng gọi là chứng ngộ.
Người chưa chứng ngộ cần phải ba nghiệp trong sạch, rồi
mới nói đến việc tiến vào Sơ Quan. Đến đây thì thành
Phật chẳng xa. Chỗ tôi giảng đây đều là trình tự công
phu, chứ chẳng phải chỗ thấy. Chỗ thấy, người đến tự
biết, chẳng cần tôi giảng. Tôi giảng thành quấy.
116.
PHÁ TRÙNG QUAN
Người tham
thiền cần phải nỗ lực tham, đừng có một chút do dự,
vì do dự ắt ngừng nghỉ khó tiến. Người đã qua Sơ Quan
thấy đến việc dưới cửa Tổ sư, biết được cái tâm
độ thế của Tổ sư. Dù ở trong cửa mà lẩn quẩn ở góc
điện. Người chưa nhập vào chỗ sâu kín trong nhà thì có
tình hình như thế. Có người còn chưa thấy đến tim phổi
của Tổ sư, chỗ sâu kín bên trong, vì thế sau khi ngộ lại
phải nghi nữa, là ý này vậy. Người xưa nói : "Trước khi
chưa ngộ như mất cha nẹ, sau khi đại ngộ lại như mất
mẹ cha". Đây là sau khi phá Sơ Quan lại khởi nghi tình mạnh
mẽ cầu tiến lên. Sau khi ngộ, dụng công có hai con đường
: Một con đường vẫn y theo đường cũ tiến tới tức là
con đường dụng công ban đầu. Đây là công phu của bậc
đại nhân. Nếu sau khi ngộ tu hành, chỉ là tu mà vô tu, vô
tu mà tu, có thể gọi là công phu bảo nhậm. Đây là kiến
địa chẳng trụ mà trụ. Nếu cầu chân trụ cần phải chân
hành, đến chỗ phải tiến qua một lớp cửa nữa, chân hành
chẳng hành, chân trụ chẳng trụ, đến đây cái quan ải của
Tổ sư thiết lập không ngăn trở được. Cái đại nghi sau
khi đại ngộ so với người sơ học còn mãnh liệt hơn, vì
chẳng cầu ngộ, chẳng cầu mê, chẳng thành Phật, chẳng
độ chúng sanh, tâm tham, ý cũng tham, thức cũng tham, thế cũng
tham, thân cũng tham, tinh tấn cũng tham, biếng nhác cũng tham,
có giới cũng tham, không giới cũng tham, định cũng tham, loạn
cũng tham, ngu cũng tham, trí cũng tham, hôn trầm cũng tham, vọng
cũng tham, mê cũng tham, tỉnh cũng tham, đây gọi là đại tham
sau khi ngộ. Đại tham tức là trùng nghi (ngộ rồi nghi lại)
vậy. Có công phu trùng nghi chắc chắn sẽ phá Trùng Quan. Người
tiểu căn mặc dù sanh tử có thể liễu, luân hồi có thể
ngừng, đây chỉ là nửa đường mà họ chẳng chịu tự bỏ
để tiến lên, vì chẳng tự bỏ tức là có sở trụ rồi.
Phải dũng mãnh tiến lên đến chỗ chẳng nghi thì Trùng Quan
thật chẳng còn xa. Đợi khi công phu miên mật, người và
pháp đều quên, phàm thánh chẳng khác, dần dần thấu qua
Trùng Quan.
Ba quan của
Thiền Tông chỉ nói chỗ hành, chẳng nói chỗ thấy. Chỗ
thấy như người uống nước lạnh nóng tự biết. Chẳng phải
tôi không nói, chớ nghi tôi không lời, mọi người đến đây
rồi tự biết.
117.
THẤU LAO QUAN
Người tham
thiền sau khi phá Trùng Quan, cần nhất không nên lìa công phu
bước đầu. Như người dùng chân đi đường, chẳng phải
tàu thủy, chẳng phải xe lửa, thí dụ như người ở Saigon
muốn đi Vũng Tàu, dùng chân đi đến địa phận Long Thành
dụ cho phá Sơ Quan. Người sức nhỏ dừng lại lưu luyến
mấy ngày hoặc trụ luôn ở đó. Đây là chỗ hành của người
qua Sơ Quan. Người sức lớn biết chỗ này chẳng phải là
Vũng Tàu liền bỏ đi, trên đường không có gai gốc sỏi
đá, đại lộ bằng phẳng, dụ cho sau khi phá Sơ Quan không
còn chút trở ngại, vung tay đi thẳng, lại đến Bà Rịa (Trùng
Quan) phạm vi rộng lớn hơn, nhãn giới mở mang, đa số người
muốn trụ ở đây. Suy nghĩ thêm nữa, phía trước còn có
đường đi nên tiếp tục tiến tới, càng đi càng thấy thù
thắng hơn cho nên đi mãi đến tận Vũng Tàu. Phật pháp vốn
chỉ một thừa, phương tiện mà nói thành ba. Thiền Tông vốn
một pháp ngộ, vì con người căn khí có lớn nhỏ, nên phương
tiện nói có ba quan. Nhưng ba quan này có người sơ tham dũng
mãnh truy cứu thẳng phá Lao Quan (Vũng Tàu). Có người sơ tham
thẳng phá Trùng Quan (Bà Rịa), về sau chịu khổ tu hành lâu
ngày cũng phá Lao Quan (Vũng Tàu). Lại có người sơ tham hạnh
chẳng tinh nhuệ, sức chẳng dũng mãnh, song cũng ráng sức
qua Sơ Quan (Long Thành). Người sức lớn như voi qua sông, chân
đạp đến đáy. Người sức trung bình như nai qua sông, chân
ở giữa chừng. Người sức nhỏ như thỏ qua sông, nổi trên
mặt nước. Giả sử đều là bậc thượng căn tham thiền
thì cùng nhau đến Mạt Hậu Lao Quan, đồng thời đập vỡ,
ra khỏi Lao Quan. Tình trạng sau khi ra khỏi Lao Quan dù tất
cả kinh giáo của chư Phật, ngữ lục của Tổ sư, sự nghiệp
độ sanh của Bồ Tát, pháp giới, hư không giới, thật tế
giới, Chân Như giới, Niết Bàn giới, bất cứ cảnh giới
Phật Thánh nào, đếu nhất thời siêu việt. Ví như tất cả
chư Phật và chúng sanh chưa ra ngoài hư không một bước, Lao
Quan chính là ở ngoài hư không. Ra khỏi hư không tức là ra
khỏi Lao Quan, nếu lấy hư không dụ cho Lao Quan, vậy ai là
người ra được cái Quan này? Chỉ có người tham thiền mới
chẳng nhọc nửa bước mà chắc chắn ra được cái Quan này.
Ngừơi
đọc hỏi : Nghĩa chánh sao chưa nói rõ?
Đáp : Chẳng
phải vậy. Nghĩa chánh của một quan còn chưa nói, huống là
ba quan ư!.
118.
BUÔNG KHÔNG XUỐNG
Người tham
thiền đối với thế giới thân tâm buông không xuống. Thân
ở trong Tòng Lâm mà tâm ở ngoài thế gian. Tu không lợi ích,
không chút tiến bộ, phải biết là do tâm bị nghiệp thức
nhốt chặt, thức bị ý mê hoặc nhốt chặt, ý bị tưởng
trần nhốt chặt, tưởng bị thân thể nhốt chặt, thân bị
gia đình nhốt chặt, gia đình bị sơn hà nhốt chặt, sơn
hà bị đại địa nhốt chặt, đại đị bị hư không nhốt
chặt, hư không bị vô minh nhốt chặt, vô minh bị bất giác
nhốt chặt, bất giác bị chúng sanh nhốt chặt, chúng sanh
bị mê luân (bánh xe mê lầm) nhốt chặt.
Cái quan ải
lớn của mê luân này từ xưa đến nay chẳng biết đã nhốt
biết bao nhiêu hữu tình vô tình như thiên địa, nhật nguyệt,
người và phi người, nhà cửa, cây cối, cầm thú, nam nữ....
Quá khứ đã nhốt trải qua vô lượng kiếp, rồi hiện tại
cho đến vị lai cùng tột vô lượng kiếp chẳng biết nhốt
đến khi nào mới thôi. Than ôi, đau đớn thay! Xem đi xét lại
đều do ba chữ Buông Không Xuống mà ra, làm cho hồ đồ hỗn
loạn. Nếu thức buông xuống suy lường, thân buông xuống
vọng tưởng, hư không buông xuống đại địa, gạch ngói
buông xuống đất sình, như thế, thức buông suy lường rồi
thì tâm bất khả đắc, thân buông vọng tưởng rồi thì thân
bất khả đắc, hư không buông đại địa rồi thì thế gian
bất khả đắt, vậy ba thứ thân, tâm, thế hoàn toàn buông
xuống thì muốn tìm một chúng sanh cũng không ra. Phải biết
ba chữ Buông Không Xuống bản lãnh rất lớn. Nó khiến "bất
giác" thành chúng sanh, khiến vọng tưởng thành thân thể,
khiến hư không thành đại địa, khiến thân xác nằm núi
hoang, khiến đầu xanh thành đầu trắng, khiến đi bị ngồi,
khiến chạy bị ngưng, ấy đều là sức lớn của mê luân.
Nếu ta muốn có đủ sức làm cho cái mê luân được ngộ
thì phải tìm ra một phương pháp buông xuống được. Phương
pháp đó tức là pháp tham thiền. Hãy mau mau ôm chặt câu thoại
đầu tham mãi, dẫu cho phải chịu khổ năm ba mươi năm cũng
phải đập vỡ cái mê luân này mới được đến chỗ thôi
nghỉ của việc tham thiền. Nay tôi dặn thêm một lời : "Thôi
nghỉ thì được, chỗ thôi nghỉ thì chẳng thể được".
119.
KHAI TÒNG LÂM
Người tham
thiền sau khi ngộ rồi, tự lợi đã xong ắt phải độ người.
Cái pháp độ người lợi nhất, lớn nhất chẳng bằng mở
Tòng Lâm dựng đạo tràng. Phật ra đời cứu thế, sáng lập
rừng Cấp Cô Độc, Thiên Đà La, núi Kỳ Xà Quật, Linh Thứu
Sơn. Chư Tổ đời sau thì sáng lập đại-tòng lâm để cho
mười phương chúng sanh có chỗ yên tâm tu tập. Chỗ này là
chỗ của tất cả hiền thánh huân tập, có Long Thiên, thần
Già Lam hộ trì, dung nạp nhiều chúng, rộng độ nhiều người,
quy củ trang nghiêm, so với các pháp môn khác không gì sánh
bằng. Chư Phật chư Tổ đã như thế, ta cũng như thế, đây
chính là thay Phật tuyên dương, giúp Phật hoằng hoá.
Muốn sáng
lập Tòng Lâm ắt phải y theo cổ pháp. Cổ pháp có hai :
Một là chánh
pháp trụ lâu ở thế gian, chỗ hoằng pháp độ sanh đều
là Tòng Lâm. Hai là sau đời Đường Trung Quốc, Mã Tổ khai
Tòng Lâm, Bá Trượng thiết lập Thanh Quy như lò rèn lớn,
như lò đúc tượng đúc ra tượng Phật, đúc ra tượng Tổ.
Nếu người trụ trì giữ đúng pháp Tòng Lâm thì tất cả
chúng giữ quy củ. Trong Tòng Lâm, trụ trì tham thiền thì tất
cả chúng đều tham thiền, trụ trì phạm pháp thì tất cả
chúng phạm quy củ. Vậy muốn sáng lập Tòng Lâm việc trọng
yếu nhất trước tiên là phải được nơi chốn thích hợp,
kế phải được người thích hợp, có được cả hai mới
thành tựu cơ sở để hoằng pháp. Muốn hoằng đại pháp
phải nhờ đại nhân, có đại nhân hoằng đại pháp mới
được gọi là cơ sở hoằng đại pháp. Thế nào là đại
pháp? Nay các ông hãy tận sức suy nghĩ thử xem cái nào là
đại cái nào là đại pháp. Hãy suy đi xét lại thì mới biết
cái đại của thế gian chẳng qua nơi tâm. Tâm trùm khắp hư
không, bao hàm đại địa. Tâm đại chẳng bằng pháp đại
của đại tâm, ấy là cái đại pháp bậc nhất, đại pháp
này chính là tham thiền. Có đất lập Tòng Lâm để cho người
tham thiền ở, hành cái pháp tham thiền mới cho là bậc đại
nhân ở đại Tòng Lâm hoằng hóa đại pháp. Nếu sáng lập
được Tòng Lâm khắp đại địa cho mọi người an cư, phổ
biến học đại pháp, ấy mới là chân khai sáng Tòng Lâm,
là chơn trụ trì Tòng Lâm, là chơn hoằng đại pháp tham thiền.
Nguyện tăng hành như thế, tục cũng hành như thế mới không
cô phụ lòng ta.
120.
CHÁNH PHÁP TRỤ LÂU
Người tham
thiền nên nghĩ pháp đã cứu ta vậy phải làm sao cho pháp
cứu được người. Dùng cái pháp cứu ta để cứu người
mới không cô phụ người lập pháp, cũng không trái ý của
đại pháp. Pháp lợi người này chẳng phải pháp thế gian
có thể sánh bằng. Tại sao? Vì học pháp thế gian thì thành
thế gian. Pháp này chẳng những thành thế gian còn muốn độ
thế gian. Làm sao độ thế gian? Phải biết mọi người có
tâm, mọi người có pháp. Hỏi rằng : Không biết ta có tâm
gì, có pháp nào? Đáp : Ngươi có đi đường chăng, nói chuyện,
ăn cơm, giao thiệp chăng? Người hỏi nói: Những việc này
ta thường làm đâu thể nói là tâm pháp. Đáp : Lúc ngươi
ngủ tại sao không làm, lúc chết tại sao không làm, ngủ cũng
có ta, khi chết cái thây ở trên đất cũng còn ta, tại sao
không nói chuyện, không đi đường.... Người hỏi vừa nghe
lời này con mắt ngơ ngác không thể hỏi nữa. Thật rất
đáng thương xót, ấy là ứng dụng hằng ngày mà chẳng tự
biết vậy. Người khắp thế gian chỉ biết có ta, chẳng biết
có tâm nên cứ luân hồi mãi trong tứ sanh lục đạo.
Phật ra đời
vì cái khổ của chúng sanh chẳng liễu tự tâm nên lập đại
pháp để cứu tâm người. Đại pháp dù có ở Tòng Lâm, nhưng
muốn trụ lâu dài thì phải trụ trong tâm của người tham
thiền. Cái tâm tham thiền tức là đại pháp. Một người
tham thiền thì đại pháp trụ trong tâm một người, mười
người tham thiền thì đại pháp trụ trong tâm mười người,
người khắp thế giới tham thiền thì đại pháp trụ trong
tâm người khắp thế giới, pháp đồng như tâm, tâm đồng
như pháp, người ắt có tâm, tâm ắt có pháp. Nếu người
vô
tâm thì không có pháp này.
Hôm nay mới
được phát minh chỗ chánh pháp được trụ lâu. Tại sao ?
Cái lâu nhất của thế gian chẳng bằng cái tâm lâu của con
người, cái chánh nhất của thế gian chẳng bằng cái pháp
chánh của con người, thế gian có thể hoại, tâm người chẳng
thể hoại, pháp cũng như thế, thế gian có thể không, tâm
người chẳng thể không, pháp cũng như thế, nên muốn chánh
pháp trụ lâu cần phải có đất để trụ lâu, đất đó
tức là tâm địa của con người vậy. Người hoằng dương
đại pháp cần phải tự xét.
Người tu
hành nên trừ sạch tập khí thiện ác của tự thân, tẩy
sạch cấu bẩn chơn vọng của tự tâm, tướng đi hình dạng
như thần, tướng đứng như cây cột trụ, ngồi như chuông,
nằm như cung, mới là có tướng tốt hoằng đại pháp.
HẾT