THAM
THIỀN PHỔ THUYẾT
Lai
Quả Thiền Sư
Việt
Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
Từ
Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
75.
TINH TẤN
Hai chữ TINH
TẤN quan hệ rất lớn, tinh tấn của hành đạo, tấn đạo
mà hành ắt thành Tứ thánh, thối đạo mà hành ắt thành
lục phàm. Như người đi đường, bắt đầu từ địa ngục,
ngạ quỷ, súc sanh, cõi người, tu la, cõi trời, Thanh Văn,
Duyên Giác, Bồ Tát, Phật, mỗi con đường một trăm dặm,
mười con đường là một ngàn dặm. Chúng ta ở cõi người,
trước có sáu trăm dặm, sau có ba trăm dặm, hướng tới trước
tinh tấn đi vào chỗ vui, hướng về phía sau tinh tấn đi vào
chỗ khổ. Hướng về phía trước hay phía sau đồng một tinh
tấn, người tu hành cần phải xét kỹ mới được. Chẳng
gắng tinh tấn ắt nhiều biếng nhác. Cái tệ của biếng nhác,
không tiến tới thì sẽ thụt lùi, lâu ngày như con thuyền
bị nước cuốn trôi xuống phía dưới (địa ngục), cho nên
cần phải xét đúng sự thật, lựa chọn hành vi.
Chư Tăng
chúng ta đối với các việc trái phép, phá giới, chẳng nên
làm, việc lợi người giúp vật phải nên làm. Náo loạn Tòng
Lâm, trái phạm với chức sự chẳng nên làm. Tham thiền sâu,
phát khổ hạnh phải nên làm. Điều chẳng nên làm phải răn
chừa, điều nên làm phải cố gắng thì đối với hai chữ
TINH TẤN mới chẳng dùng lầm. Bằng không thì đối với giới
sát, thấy con rệp chẳng dùng nước sôi dội nó thì cũng
dùng dầu lửa để tưới nó, thật là tinh tấn của người
phá giới sát. Kẻ tinh tấn phá bốn giới sau, theo đây suy
ra thì biết.
Đạo niệm
của người tu hành, thế nào là tinh tấn? Thế nào là biếng
nhác? Người dụng tâm niệm niệm không gián đoạn, chẳng
cho có một mảy may tạp niệm, thực hành lâu ngày như thế
gọi là chân tinh tấn. Nếu ban đầu đạo niệm kiên cố tinh
nhuệ, kế đó lười biếng lơi lỏng, rồi đến gián đoạn
thôi nghỉ, đây gọi là biếng nhác. Nếu tinh mà chuyên tâm,
tấn mà chẳng thối, tức là tinh tấn vậy.
76.
THIỀN ĐỊNH
Chỉ tu thiền-duyệt
sanh lên cõi Trời Tứ Thiền, chỉ tu không-định sanh lên cõi
Trời Tứ Không, tu cả hai thiền và định sanh lên 18 lớp
của cõi trời sắc giới.
Thiền định
của Thiền Tông, tiếng Phạn là Thiền Na, Trung Hoa dịch là
Tịnh lự. Phải biết, tịnh lự tức là thiền, toàn thiền
tức là định. Công của tịnh lự chẳng phải cạn cợt dễ
thấy, dễ biết đâu ! Cần phải trước tiên trong thân, ngoài
thân chẳng khởi tướng động, rồi sau đó trong tâm ngoài
tâm chẳng sanh tâm động. Tâm động chẳng sanh, tâm ấy tự
tịnh. Tịnh này do thân tịnh tâm tịnh rồi sau đó là tịnh
lự, do lự rồi sau mới được định, chẳng phải đình chỉ
cái tịnh lự rồi mới thành định, lại cũng chẳng phải
thân tâm bất động mới gọi là định. Chân tướng của
định này là do công của tịnh lự làm đến. Toàn tịnh lự
tức là định, toàn định tức là tịnh lự. Thiền Tối Thượng
Thừa của Tổ Đạt Ma và Lục Tổ nói là thiền này vậy.
Thế nên
mgười tham thiền chẳng được ngưng niệm, ngưng niệm tức
đồng quán chiếu. Công phu của quán chiếu là không cho một
niệm khởi. Công phu của tham thiền là không cho một niệm
ngưng (giữ nghi tình).
Phải biết,
một chữ THIỀN như cha sanh ra Phật, Tổ, một chữ ĐỊNH
như mẹ sanh ra Phật, Tổ, cho nên Kinh nói : "Mười phương
chư Phật huệ đều do THIỀN ĐỊNH sanh" là vậy. Kẻ bàng
quan nhìn thấy người khắp thế gian trần lao lăn lóc, nghiệp
thức mênh mang, làm sao cho nó hết được? Nếu có thể quày
đầu, ngay đó liền giác (phá Sơ Quan) thì mới là nhập vào
biên giới của THIỀN ĐỊNH. Lại giác nữa (phá Trùng Quan)
ắt biết việc làm trước kia đều quấy, ngày nay đều phải.
Nếu mọi người nếm được một chút ý vị của THIỀN ĐỊNH
thì e không muốn làm người thế gian nữa!
77.
TRÍ HUỆ
Trí hay phá
ngu, huệ hay phá si. Ngu tức là tâm của người, si tức là
thân của người. Trí như mặt trời, huệ như ánh sáng. Trí
là cái thể mặt trời, huệ là cái dụng ánh sáng. Hai chữ
TRÍ HUỆ, đem đống vàng bạc thất bảo đầy cả hư không
đổi nó cũng chẳng thể được. Trí huệ tuy quý hơn thất
bảo đầy cả hư không, song chỉ có một mình Phật có thể
nói là đầy đủ, ngoài ra ai cũng kém hơn. Đạo của trí
huệ cố nhiên người đời chẳng so bằng. Hàng chư tăng chúng
ta là những người phải tu huệ nghiệp mà còn chẳng biết
trí huệ là vật gì, thật chẳng đáng than thở ư!
Phải biết,
trí huệ này hư không chẳng thể bao bọc nó, đại địa không
thể chứa đựng nó, nhà cửa không thể nhốt nó, cơm ăn
áo mặc không thể nuôi nó. Dẫu cho hư không có thể treo một
hạt bụi, trí huệ cũng chẳng dính một vật nào. Ở đây
hai chữ TRÍ HUỆ là mượn làm đề mục để lập ngôn, ngoài
ra, thiên đường, địa ngục, các loài sống dưới nước,
trên đất, trong hư không, hữu tình, vô tình, đều là mê
trí huệ, theo ngu si, tùy nghiệp tạo thành, vốn không có căn
cứ chân thật, cho nên Phật nói : "Nếu người phát chân quy
nguyên (kiến tánh) thì mười phương hư không thảy đều tiêu
mất". Thử hỏi : "Hư không còn phải tiêu mất, tất cả các
thứ đặt để ở chỗ nào?".
Muốn biết
cội nguồn của trí huệ, thực không thể chỉ ra vì da mặt
lỗ mũi của ta, xương của con chó, đuôi của con bò, lỗ
tai của Phật, cho đến gạch ngói sỏi đá đều là chỗ ẩn
thân của trí huệ, muỗi mòng rận rệp đều là chỗ cội
nguồn của trí huệ. Người ngộ trí huệ thành chư Phật,
kẻ mê trí huệ thành chúng sanh. Người còn ở địa vị học
đạo cần phải chú ý.
78.
HỶ XẢ
Hỷ xả là
một trong Tứ-nhiếp-pháp (hỷ xả, cú ngữ, lợi hành, đồng
sự) của Bồ Tát. Xả cần phải hỷ xả, nếu xả mà chẳng
hỷ, chẳng gọi là chân xả, nếu hỷ mà chẳng xả, cũng
chẳng gọi là hỷ xả.
Người hành
đạo Bồ Tát, như có người muốn xin một tròng con mắt ta
để làm thuốc, ta liền vui mừng móc tròng con mắt ra, dùng
giấy gói lại, hai tay đưa cho họ, chẳng thấy đau đớn,
còn an ủi họ rằng : "Nếu ông cần thêm xin hãy đến, ta
sẽ biếu ông một tròng nữa". Khi ấy, dù thí hai con mắt
mà xem như việc bình thường, không tỏ ra một chút tướng
khổ hay khó chịu đối với họ. Lại chẳng nên nói với
họ là ta học đạo Bồ Tát. Tự hành cũng dạy người hành,
dần dần dạy khắp người thế gian hành. Có thể làm đến
mức người thí mắt nhiều, người xin mắt ít, như thế thì
chúng sanh khắp mười phương thế giới có hy vọng độ hết.
Pháp xả
của hỷ xả tròng con mắt như vậy, pháp xả tất cả các
căn cũng như vậy. Ta xả như thế, ước mong tất cả Phật
tử cũng xả như thế.
Phải biết,
chúng sanh dù vô biên nhưng chẳng ở ngoài hư không, chúng
sanh nhiều đến mức nào chũng chỉ ở trong một hư không,
nếu thêm một người xả tròng con mắt thì bớt đi một chúng
sanh, thêm ngàn người xả tròng con mắt thì bớt đi ngàn chúng
sanh, lâu ngày sẽ bớt đến hết vậy.
79.
ÁI NGỮ
Ái ngữ là
đạo của Bồ Tát phát tâm mang hình thức của các loài để
độ chúnt sanh. Thật ra khẩu nghiệp của con người có bốn
thứ đều đưa mình xuống địa ngục. Bốn thứ này là :
Vọng ngôn (nói láo). Dĩ ngữ (thêu dệt). Ác khẩu (chửi mắng).
Lưỡng thiệt (chia rẽ). Bốn thứ này ở trong loài người
không thiếu một thứ nào. Cho nên Bồ Tát muốn cho tất cả
chúng sanh trồng hạt giống lành của Phật, thường dùng lời
từ ái để lợi ích hữu tình. Cuộc đời làm việc của
chúng ta thành công ít mà thất bại nhiều đều do không có
ái ngữ. Như người học thỉnh khai thị không có ái ngữ,
lạy ba lạy xong, nói : "Thầy hãy nói cho tôi nghe cách dụng
công phu". Lời này chẳng cung kính, làm động niệm Thiện
tri thức.Người có ái ngữ sẽ nói : "Xin Hòa Thượng từ
bi con là kẻ hậu học khổ não chẳng biết dụng công, thỉnh
Hòa Thượng dạy bão". Đây là ái ngữ, là lời cung kính thỉnh
pháp.
Bậc trên
đối với cấp dưới không có ái ngữ, dụ như có người
xông vào liêu phòng, thấy mặt liền mắng : "Cái thằng này
làm loạn liêu phòng, bắt gặp mi một lần nữa, ta đánh cho
một trận". Lời lẽ thô ác, tướng mạo hung hăng, làm cho
người phạm lỗi sợ hãi chạy trốn.
Nếu người
có ái ngữ, thấy người xông vào liêu phòng, sẽ nói :
"Ông nên
ở lại liêu phòng mình dụng công, siên năng học tập, chớ
phạm quy củ, lần sau không nên xông lạn vào liêu phòng người
khác nữa". Lời lẽ ôn hòa tiếng nói êm tai khiến cho người
phạm lỗi nghe qua vừa buồn vừa ừng, tự biết hổ thẹn.
Đạo của
ái ngữ, chẳng phảiái ngữ của tình dục thế gian có thể
so sánh. Người học đạo chớ nên hiểu lầm.
80.
LỢI HÀNH
Lợi hành
là đạo của Bồ Tát làm việc lợi ích chúng sanh. Người
ngộ đạo là Bồ Tát, người chưa ngộ đạo mà làm cái hạnh
đồng với hạnh Bồ Tát cũng được Bồ Tát. Theo thứ lớp,
đầu tiên hỷ xả, dùng tài vật để kết duyên, kế dùng
ái ngữ để kết duyên, rồi dùng lợi hành để kết duyên.
Lợi hành
có hai thứ :
l. Trợ giúp
người hành đạo là lợi hành.
2. Lợi tất
cả người là lợi hành
Trợ giúp
người hành đạo : như người muốn ở Tòng Lâm, không có
y áo, không có lộ phí, thiếu giới điệp, thiếu hành trang,
Bồ Tát tìm cách cho họ áo chăn của mình, bán y bát của
mình cho họ làm lộ phí, đem giới điệp của mình cho họ
dùng, đem cả gánh hành lý của mình cho họ. Chỉ lo cho người
ấy
đầy đủ, chẳng màng đến sự cần dùng của mình, thành
tựu cho ngưới ấy đầy đủ hành lý vật dụng không chút
bỏn xẻn. Nếu có người khác cũng phát tâm ở Tòng Lâm thì
cũng thành tựu cho họ giống người trước không có một
niệm chán nản.
Lợi tất
cả người : Bồ Tát vì lợi tất cả chúng sanh khiến cho
mọi người hoan hỷ an vui, lấy cái lợ của mình để làm
lợi cho người, lấy cái pháp của mình đã ngộ đem dạy
người, lấy cái hạnh của mình làm tập cho người làm. Người
có trái đạo, khuyên họ hối cải. Người có biếng nhác,
khuyến khích họ siêng năng. Người có phá giới, an ủi họ
giữ giới. người có lui sụt, khuyên họ tiến tới. Gặp
người chán đời thì khuyên giải họ, khuyên người làm con
hiều thảo, khuyên người hiếu sắc giới sắc khuyên người
phản nghịch quy chánh.
Phải biết,
tự mình hành đạo là công nhỏ, khuyên người hành đạo
là công to, thế nên cái đạo lợi hành vô tận vậy.
81.
ĐỔNG SỰ
Bồ Tát muốn
độ tất cả chúng sanh phải dùng Tứ nhiếp pháp để nhiếp
họ.
Dồng sự
có hai :
l. Tự làm
việc độ chúng sanh và giáo hơn người khác làm việc độ
chúng sanh, đồng là một sự.
2. Dùng pháp
giáo hóa mà chúng sanh chẳng nhận thì phải tùy hình hóa độ
tuỳ vật hóa độ, đồng là một sự.
Cũng như
muốn độ người ăn xin thì phải cùng người ấy làm nghề
ăn xin để độ họ, muốn độ người làm nghề hạ tiện
thì phải cùng người ấy làm nghề hạ tiện để độ họ,
cho đến muốn độ con heo thì cũng đầu thai làm con heo để
độ.... gọi là đồng sự nhiếp. Ngoài ra, những việc độ
chúng sanh khác, theo đây suy ra mà biết.
82.
LẬP CHÍ HƯỚNG THƯỢNG
Chí hướng
thượng của người đời chẳng qua đi học sách thánh hiền.
Chí hướng thượng của sự đi học chẳng qua được làm
quan. Chí hướng thượng của làm quan chẳng qua được lên
chức. Đây nói hướng thượng, chẳng nên hướng hạ vì hướng
hạ không có con đường tiến thân.
Lại như
người đi xin cơm nếu có chí hướng thượng thì thà chết
đói bên đường chứ chẳng chịu ăn trôọm ăn cắp. Do có
chí này nên tự nhủ : "Ta học hành vi của người tốt, thà
chết đói dọc đường chứ không xin cơm". Người đời thấy
gã nghèo cùng này tâm niệm chánh đại, thân không làm bậy
ắt thuê làm công, dần dần tiến lên, chẳng bao lâu thành
người giàu sang. Sao vậy? Vì tuy là kẻ nghèo đi xin cơm nuôi
sống nhưng có chí hướng hơn người, nên có sự quang vinh
này. Nếu hướng hạ thì tệ hại không thể tưởng.
Hàng tăng
sĩ chúng ta nếu hàng ngày chỉ biết ứng phó kinh sám, đến
lúc làm Phật sự một chút cũng không biết bị người chủ
trì cầm thước đập mạnh xuống bàn, liếc mắt một cái
thì người ấy biết rằng cái chùa nhỏ này không ở lâu
được, rồi liền lập chí auyết định dầu chết chẳng
những không làm kinh sám, mà cả mão Tỳ Lư cũng chẳnt còn
muốn đội nữa. Thà ở Tòng Lâm mà chết, chứ chẳng ở
chùa tư mà sống, đây là chí hướng thượng vậy.
Lại có người
trụ Tòng Lâm suốt ngày để thời gian trôi qua, lâu ngày đạo
niệm mỗi ngày một giảm, tập khí mỗi ngày một tăng. Kẻ
tiểu căn khi nghiệp thức nổi lên thì tối trời đen dất,
nên phạm quy củ, liền bị đuổi ra, nghĩ lại sao mà ngu quá,
hận mình không có chí hướng thượng. Người đại căn ở
lâu ngày thấy đối với mình vô ích, với đạo toàn trái,
một mai mạnhmẽ lậpl chí xung thiên, nhờ một chén cơm của
Tòng Lâm nuôi ta tu đạo. Như vậy, dù chết cũng chẳng theo
tập khí lưu chuyển, triệt để sửa lỗi, suốt ngày lấy
đạo làm niệm. Bằng không cứ ỷ lại Tòng Lâm nuôi thân
mình mà không có chút đạo niệm, thành kẻ hướng hạ. Nay
quyết tử vì đạo, đó là lập chí hướng thượng.
83.
TRỪ BIẾNG NHÁC
Trừ biến
nhác là điều thế gian xuất thế gian đều phải có. Biếng
nhác là chất độc của thành công. Muôn việc ở đời nếu
dính nhằm hai chữ BIẾNG NHÁC thì việc làm đó giả sử có
thành công cũng nhất định là không tốt đẹp, người ta
thường nói là chưa đạt đến mức hoàn mỹ.
Lại như
lên núi lấy ngọc báu, phấn chấn tinh thần còn chẳng phải
dễ đến, giả sử có biếng nhác chẳng những của báu thuộc
về tay người mà tánh mạng cũng bị vùi chôn dưới núi,
đâu có cái khổ nào bằng! Phải biết hai chữ BIẾNG NHÁC
là vật độc ác hơn hết của thế gian. Làm việc gì, hễ
có biếng nhác kề cận thì chắc chắn việc ấy hỏng.
Chúng ta học
hành đạo Bồ Tát, ở trên việc lợi sanh chịu khổ giống
như trên thân bị giao nhỏ cắt thịt hằng ngày, mỗi việc
đau đớn, mỗi ngày đau đớn còn chẳng chán sự khổ não,
đầy đủ tinh thần chẳng màng đến thân, làm cho người
vui, khiến cho người tin. Hơi có dáng lười mỏi chẳng những
việc độ người chẳng được mà tâm độ sanh cũng khó phát
khởi.
Việc tham
thiền cũng vậy lúc mới bắt đầu, sức tin chân thiết, sức
thân hùng tráng, ngày ăn một bữa, đêm không nằm ngủ, trải
qua ba năm lại kết bạn cùng quỷ biếng nhác, tự mình làm
chướng ngại mình. Chẳng nói : "Đạo chẳng phải là việc
một ngày", thì cũng nói : "Phải đều thân cho toất rồi thủng
thẳng hành đạo cũng được". Lại nghĩ rằng : "Còn thòi
gian dài ba mươi năm lo gì chẳng xong". Chẳng dè đã bị quỷ
BIẾNG NHÁC làm mê, tự chẳng hay biết, trái lại còn cho cái
tư tưởng thối đạo là phải. Đâu chẳng nghe sách Nho nói
: "Đạo, chốc lát cũng không thể rời, rời được thì chẳng
phải đạo". Thử hỏi : "Người tham thiền nên biếng nhác
ư? nên tinh tấn ư? Cổ Đức nói : "Sáng siêng năng, chiều
biếng nhác, chẳng những đạo chẳng thành mà người cũng
bị cuốn theo dòng thể tục".
84.
CUNG KÍNH
CUNG là lễ
phép với người, KÍNH là trọng lời người dạy, ấy gọi
là CUNG KÍNH. Người đời không có cung kính thì không có lễ
độ. Lễ độ thiếu thì luân thường ắt rồi loạn. Hai chữ
CUNG KÍNH là cái chìa khóa rất lớn trên thế giới, an nhân
tâm, chẳng nên có khoảnh khắc lơi lỏng. Chúng ta phải gắng
sức thực hành hai chữ CUNG KÍNH, chẳng nên bỏ qua. Sao vậy?
Người xưa nói : "Chúng sanh khắp mười phương đều là cha
mẹ quá khứ của ta, cũng là chư Phật vị lai, ta lại là
cha mẹ quá khứ của họ, là chư Phật vị lai của họ". Người
biết được ái lý làm cha mẹ lẫn nhau, làm chư Phật lẫn
nhau thì thế giới này thành thế giới Phật, đâu có kiếp
nạn chiến tranh, nước lửa xoay vần, lại đâu có tội lớn
sát sanh, trộm cắp, dâm dục, vọng ngữ để tạo. Nếu ai
cũng nhận định mọi chúng sanh đều là cha mẹ của ta, đều
là chư Phật vị lai thì đời nào mà chẳng thiện, người
nào mà chẳng tốt.
Chúng ta là
người học hạnh Bồ Tát, cần phải học gương của đức
Thích Ca lúc ở nhân địa làm Bồ Tát Thường Bất Khinh, thấy
người đang bắn chim, ngài liền lễ bái nói : "Tôi chẳng
dám khinh ông, ông sẽ thành Phật". Chữ Phật, ngài nói rất
to tiếng. Người săn bắn thấy ngày lại mình, khẩu súng
bắn chẳng trúng đích, giận thấu xương tủy, xua đuổi vị
Bồ Tát này. Con chim nghe tiếng súng bay đi mất, như vậy cứu
được hai mạng. Vì sao? Người săn bắn nghe được tiếng
Phật thì huệ mạng được cứu, con chim nghe tiếng súng bay
đi nơi khác, thì thân mạng được cứu. Lại gặp có nhiều
ngưới đánh lộn, Bồ Tát liền nhảy đến ôm, nói : "Xin
các ông hảy đánh tôi". Những người đánh lộn nghe nói như
thế bèn giải tán. Nếu có người đánh ngài, ngài dập đầu
lại nói : "Tôi chẳng dám khinh ông, ông sẽ thành Phật". Nếu
có người dùng đá ném ngài, ngài cũng nói : "Tôi chẳng dám
khinh các ngài, các ngài sẽ thành Phật". Người khắp thế
gian học được hạnh của vị Bồ Tát này thì đạo cung kính
thông đạt vậy.
85.
CÚNG DƯỜNG
Cung phụng
thức ăn nuôi dưỡng thân tâm cho nên gọi là cúng dường.Lúc
Phật tại thế, Ngài giáng sanh dưới cây Vô-Ưu, thành đạo
dướicội Bồ Đề, thị tịch ở giữa hai cây Sa La, tiêu
biểu một đời thành Phật chưa từng ở quá phòng tư của
mình, giảng đường, tịnh xá đều do vua quan cúng dường.
Mỗi ngày vào thành khất thực hiển thị một đời thành
Phật tự mình chẳng dự bị bếp núc, mà đều do cư sĩ,
Bà La Môn cúng dường. Tự chẳng cất nhà ở, chẳn trồng
trọt ăn, chẳng dệt vải mặc mà đều để cho người cúng
dường cầu phước huệ,
Chúng ta là
người học hạnh Bồ Tát phải cúng dường như thế nào?
Người không có cơm áo, giảng cho họ biết về báo ứng của
không có cơm áo, ấy là chân cúng dường. Người chết yể
hoặc nhiều bệnh khổ, giảng cho họ biêt về nhân duyên giết
hại. Người nhiều nghèo nàn khốn khổ, giảng cho họ biết
về nhân duyên tham lam bỏn xẻn. Người nhiều ái dục giảng
cho họ biết về quả báo thân thể xấu xí. Người nhiều
tai nạn nước lửa giảng cho họ biết về quả báo giận
hờn. Người phỉ báng Tam Bảo, giảng cho họ biết về quả
báo đọa địa ngục. Người tin xuát gia, giảng cho họ biết
về nhân duyên tam thế (quá khứ, hiện tại, vị lai). Người
chẳng tin trụ Tòng Lâm, giảng cho họ biết về nhân duyên
bỏ mất cơ hội. Người nhiều niềm tin trụ Tòng Lâm, giảng
cho họ biết về nhân duyên Phật pháp.
Đã nói chân
cúng dường, sao chẳng dạy người xả thân cúng dường, hoặc
lóc thịt cúng dường. Phải biết, trong các sự cúng dường,
pháp cúng dường là hơn hết.Thân cúng dường chỉ đem lại
cái vui nhất thời, còn pháp cúng dường khiến thành Phật
đạo. Lại, La Hán thần thông rộng lớn vô cùng mà chẳng
thể làm cho người liễu sanh tử, thoát luân hồi. Thế nên,
thần thông chỉ có thể lợi mình mà chẳng thể lợi người.
Bồ Tát thuyết pháp, đã có thể lợi người, lại có thể
lợi mình, mình người đều lợi, đây là chân cúng dường
vậy.