Lại
một hôm Sư rảnh rang dạy chúng:
-
Muốn cầu thấy Phật cứ nhận nơi chúng sanh, chỉ vì chúng
sanh mê không tự biết có Phật, chớ Phật đâu có làm mê
chúng sanh. Ngộ được tự tánh của mình thì chúng sanh là
Phật, mê tự tánh của mình Phật là chúng sanh. Giữ được
tự tánh của mình bình đẳng thì chúng sanh là Phật, để
tự tánh mình gian hiểm thì Phật là chúng sanh.
Muốn
cầu thấy Phật cứ nhận nơi chúng sanh. Nghĩa là đừng tìm
Phật ở chỗ nào, cứ ngay nơi chúng sanh mà thấy mà nhận.
Chỉ
vì chúng sanh mê không tự biết có Phật, chớ Phật đâu có
làm mê chúng sanh. Sở dĩ chúng ta không biết mình có Phật
là tại vì mình mê. Ngay nơi mình đã có Phật mà không chịu
nhận, không chịu biết cho nên mê. Mê tức là mình quên Phật,
thật ra Phật lúc nào cũng hiện tiền, lúc nào cũng sẵn sàng
không có giấu diếm, không có trốn tránh ở đâu.
Ngộ
được tự tánh của mình thì chúng sanh là Phật, mê tự tánh
của mình Phật là chúng sanh. Hai câu này xác nhận, ngộâ
được tự tánh của mình thì chúng sanh là Phật. Quý vị
thử xác định xem, hiện giờ chúng ta là chúng sanh hay là
Phật? Không ai dám nói. Không dám nói mình là Phật, mà cũng
không dám nói mình là chúng sanh. Đây nói rất rõ, ngộ được
tự tánh của mình thì chúng sanh là Phật. Nếu ngay nơi tánh
của mình - tánh mình tức là tánh giác của mình - ngộ được
thì chúng sanh là Phật. Còn ngay tánh giác sẵn có của mình
mà quên, thì Phật là chúng sanh. Quý vị là “chúng sanh là
Phật” hay là “Phật là chúng sanh”? Chúng ta đang Chúng
sanh mà nói là Phật, thì có vẻ cao quá. Nhưng sự thực, tự
tánh của mình tức là tánh giác, mà giác là Phật. Nếu nhận
được tánh giác hay ngộ được tánh giác của mình tức là
nhận ra Phật. Tức là chúng sanh biến thành Phật. Có tánh
giác tức là Phật rồi mà quên bẵng thì Phật là chúng sanh!
Như vậy chúng sanh và Phật cách nhau chừng bao xa? Thấy như
bên cạnh thôi nhưng kiếm không ra! Chúng ta tu để thành Phật,
không phải là chuyện thiên nan vạn nan, ngay nơi mình mà nhớ
tánh giác thì chúng sanh là Phật, quên tánh giác thì Phật
là chúng sanh, gọn làm sao! Chỉ cần đổi chữ “quên” thành
chữ “nhớ” là được. Chỉ có một chữ nhớ với chữ
quên thôi. Thí dụ chúng ta học thuộc bài, lâu ngày quên,
nếu ai nhắc một hai chữ, sực nhớ lại, đâu có khó. Chỉ
cần nghe người ta gợi vài tiếng liền sực nhớ lại, như
trở bàn tay. Từ chúng sanh trở thành Phật, là chuyện dễ
dàng như trở bàn tay, để xuống là úp, lật lại là ngửa,
úp là quên, lật ngửa lại là nhớ. Nhớ quên bên cạnh đó
thôi mà không chịu nhớ mới đau! Năm này quên, năm nọ quên,
cứ quên hoài và nhớ những chuyện hơn chuyện thua, chuyện
phải chuyện quấy, chuyện được chuyện mất, chuyện vui
chuyện buồn, chuyện thương chuyện ghét. Mấy chuyện đó
thì nhớ, còn tánh giác không chịu nhớ. Nhớ tánh giác là
làm Phật, quên tánh giác là làm chúng sanh, mà nhớ chúng sanh
thì quên Phật chắc chắn rồi không nghi. Còn nếu tất cả
buồn thương giận ghét buông hết thì trở lại nhớ Phật.
Như vậy người tu chỉ khéo tỉnh, khéo giác thì ngay nơi hiện
đời thấy mình với Phật không xa. Nếu không thì muôn đời
cũng không thấy Phật, lúc nào cũng thấy chúng sanh, khi nhắm
mắt đi thì theo nghiệp đi gặp chúng sanh nữa, tiếp tục
vui buồn thương ghét nữa. Mất cái thân đó qua đời khác
tiếp tục vui buồn thương ghét nữa nên gặp chúng sanh hoài,
những mặt đó thay đi đổi lại thôi, mà cứ luẩn quẩn
luân hồi. Nếu chúng ta nhớ Phật nhớ tánh giác thì mọi
cái vui buồn, thương ghét chỉ là đồ bỏ, không có giá trị
gì hết, không thèm nghĩ tới, không thèm bàn luận thì ngay
nơi đây là Phật chớ đâu xa.
Giữ
được tự tánh của mình bình đẳng thì chúng sanh là Phật,
để tự tánh mình gian hiểm thì Phật là chúng sanh. Tánh bình
đẳng là sao? Như ở trong nội viện tăng, nội viện ni, mỗi
bên trên năm mươi. Ai đối với năm mươi người này, không
có thương ghét, bình đẳng như nhau, thì người đó cũng gần
thành Phật rồi. Nếu có người thân người sơ, có người
thương người ghét, đó là gian hiểm. Bởi vì có thương có
ghét nên người nào chúng ta thương thì che chở, người nào
ghét, có lỗi một chút mình bươi móc ra thành hai. Người
mình thương, họ hỏi một mình muốn nói tới hai còn người
mình ghét họ tới hỏi, mình làm thinh không muốn trả lời.
Như vậy là gian hiểm chứ gì? Chúng ta nghe nói gian hiểm tưởng
đâu là chỉ những kẻ lưu manh, nhưng không phải, hễ có
thương có ghét là có gian có hiểm. Đó là một lẽ thực.
Bởi vậy cho nên giữ được cái tâm bình đẳng thì chúng
sanh là Phật.
Tâm
ta sẵn có Phật. Phật sẵn nơi mình đó là chân Phật. Nếu
tự tâm không Phật thì tìm chân Phật nơi nào? Nên kinh nói:
“Tâm sanh thì các pháp sanh,
tâm diệt thì các pháp diệt”. Phàm phu tức là Phật, phiền
não tức Bồ-đề. Niệm trước mê là phàm phu, niệm sau giác
là Phật. Niệm trước chấp cảnh là phiền não, niệm sau
lìa cảnh là Bồ-đề.
Tâm
ta sẵn có Phật. Phật sẵn nơi mình đó là chân Phật. Ngài
chỉ Phật cho chúng ta thấy tường tận, tâm ta sẵn có Phật.
Ai cũng đều có Phật hết vì ai cũng có tâm. Phật sẵn nơi
mình mới là Phật thật. Tại sao? Bởi vì Phật sẵn nơi mình
mới là Phật giác, giác mới thật. Vậy mà Phật thật chúng
ta lại coi thường, còn ông Phật ngồi làm thinh trên bàn thì
mình lạy mình thích.
Nếu
tự tâm không Phật, thì tìm chân Phật nơi nào? Tự tâm mình
không Phật, còn tìm ở đâu ra chân Phật. Buồn thương giận
ghét, hơn thua phải quấy là cái tướng tạm bợ sanh diệt
hay là cái tướng thật? Có khi buồn có khi thương, có khi
giận có khi ghét, chợt cái này chợt cái kia. Còn cái hằng
giác hằng tri tạm bợ hay là chân thật? Bỏ cái tạm bợ
sống với cái chân thật là dễ hay khó? Như vậy thì Phật
không xa, ở bên cạnh thôi, chúng ta khéo một chút sẽ thấy
rõ ràng. Những câu này là những câu chỉ thẳng. Tất cả
cái tâm buồn thương giận ghét, hơn thua phải quấy đó lặng
hết thì ngay tâm này là Phật rồi, ngay đó cũng là thiền
rồi, còn tìm đâu nữa?
Nên
kinh nói: “Tâm sanh thì các pháp sanh, tâm diệt thì các pháp
diệt”. Ngay tâm chân thật mà để cho niệm khởi gọi là
tâm sanh, tâm sanh thì tất cả các pháp buồn thương giận
ghét… đều theo đó sanh, còn nếu tâm diệt thì các pháp
buồn thương giận ghét theo đó diệt, chớ không có gì lạ
hết.
Phàm
phu tức là Phật, phiền não tức Bồ-đề. Hai chữ “tức”
này có nhiều người cho là không hợp lý. Tại sao chúng sanh
tức là Phật? Tại sao phiền não tức là Bồ-đề? Phật với
phàm phu khác, phiền não với Bồ-đề khác. Đó là cái nhìn
theo đối đãi. Còn đúng với tinh thần của Thiền tông hay
là của Đại thừa thì như trên đã nói. Nếu chúng ta còn
có tâm buồn thương giận ghét, hơn thua phải quấy… thì
chúng ta là phàm phu. Nếu tâm buồn thương giận ghét… lặng
xuống thì vô tâm, vô tâm là Phật. Như vậy thì người nào
nhạy dễ buồn, dễ thương, dễ ghét, thì người đó chắc
chắn là phàm phu, phàm phu thứ thiệt. Còn nếu người nào
thản nhiên, tất cả buồn thương giận ghét không dính mắc
thì từ phàm phu dễ chuyển thành Phật. Cho nên phàm phu tức
là Phật. Vì buông hết những niệm buồn thương giận ghét…
thì vô tâm, mà vô tâm tức là Phật.
Phiền
não tức là Bồ-đề, phiền não chính là những bứt rứt,
bực bội, lo buồn; Bồ-đề tức là sáng suốt giác ngộ.
Hai cái đó không tách rời nhau. Thí dụ như có người bị
những điều bức bách buồn khổ quá không thể chịu nổi,
liền vô chùa xin xuất gia, họ tu hành tinh tấn, rất thanh
tịnh. Như vậy ở cảnh phiền não bức bách nhờ đó họ
chuyển, đi tu rồi được thanh tịnh, thì phiền não tức Bồ-đề.
Đó là tôi ví dụ xa, còn ví dụ gần, như chúng ta tu mà ai
đó thấy mình tu tinh tấn đáng khen, nhưng thay vì khen, họ
thử. Hôm nào mình đang đi nghiêm trang tề chỉnh, nghe họ
nói: Gã đó tu giả dối, thấy người ta làm bộ nghiêm chỉnh.
Mình dễ phiền não không? Người ta chọc cho mình phiền não,
nhưng nghe xong mình cười, không buồn, không giận gì hết
thì có phải Bồ-đề không? Như vậy thì bên cạnh phiền
não mà chúng ta không lầm, không khởi buồn thương giận ghét
thì đó là Bồ-đề, không phải tìm Bồ-đề ở đâu. Đức
Phật giác ngộ ngay trong thế gian này. Ngay trong cảnh đau khổ
của chúng sanh mà Ngài giác ngộ, đó là trong phiền não mà
Ngài đạt Bồ-đề. Chúng ta tu cũng vậy, có nhiều người
cứ nghĩ nguyện làm sao đời tu từ khi vào đạo cho tới khi
thành Phật đừng có gì trở ngại hết. Nếu nguyện như vậy
tu chừng bao nhiêu kiếp thành Phật? Phật dạy ba vô số kiếp,
nếu nguyện như vậy thì chắc mười vô số kiếp. Bởi vì
tu mà mọi việc đều êm xuôi vui vẻ hết, thấy mình ngon
lành quá rồi cứ chơi thong thả, có gì đâu mà tu! Còn bị
kẻ này rầy, kẻ kia mắng, đáng khóc, đáng buồn v.v…, nếu
những lúc đó chúng ta vẫn tỉnh, vẫn sáng, không buồn, không
phiền, thì đó là cơ hội để thấy phiền não tức Bồ-đề,
gặp suôn sẻ hết thì chắc không bao giờ thành Bồ-đề được.
Niệm
trước mê là phàm phu, niệm sau giác là Phật. Ở trên
nói một đời người chuyển phiền não thành Bồ-đề hay
là chuyển phàm phu thành Phật. Bây giờ chỉ cần trong từng
tâm niệm, tâm niệm trước mê là phàm phu, tâm niệm sau giác
là Phật. Làm phàm phu từng tâm niệm, làm Phật cũng từng
tâm niệm. Huynh đệ nói vài câu xúc phạm bản ngã chúng ta
một chút, vừa chớm giận, đó là niệm phàm phu rồi. Ngay
sau đó mình nghĩ “tu mà còn bản ngã sao?” liền dừng, hết
giận thì niệm đó là niệm Phật. Như vậy đang làm phàm
phu chuyển qua làm Phật. Nhưng làm Phật một lúc lại quên.
“Ờ hồi nãy nói hơi nặng” thì thành phàm phu trở lại.
Rồi lại tỉnh “Nói đâu có gì nặng nhẹ, qua rồi mất
đâu có thiệt” thì lúc đó làm Phật. Như vậy thì một
ngày mình có mấy lần làm phàm phu, mấy lần làm Phật? Không
biết phàm phu nhiều hay Phật nhiều? Nếu ngày nào Phật cũng
nhiều hết, niệm Phật được liên tục thì càng hay.
Niệm
trước chấp cảnh là phiền não, niệm sau lìa cảnh là Bồ-đề.
Chấp cảnh tức là trần cảnh sắc, thanh, hương, vị, xúc.
Nếu niệm trước mình chấp sắc thanh hương vị xúc thì đó
là phiền não. Niệm sau lìa thì Bồ-đề. Thí dụ như hôm
nào có ai cúng dường được một món ăn hơi vừa miệng thôi
không dám nói ngon, huynh đệ chia vừa tới mình thì hết trơn,
ai cũng ăn ngon lành mà mình không có gì hết, thì lúc đó
ra sao? Nếu mà chấp cảnh thì có phiền não không? Chấp món
ăn đó là thiệt, món ăn đó là ngon, thì tự nhiên phiền
não. Vừa khởi cái chấp tại sao món đó cho người kia không
cho mình, liền sanh phiền não. Nhưng sau đó nói: “Ôi ăn uống
một chút rồi cũng tiêu mất hết, có gì thậät đâu?” Không
thèm chấp nữa thì Bồ-đề liền. Từ những ví dụ nhỏ
quý vị xét ra những việc lớn. Nghĩa là phiền não với Bồ-đề
kế một bên, nên người biết tu thì một ngày khởi chừng
năm lần phiền não, mà phải mười lần Bồ-đề thì tốt,
rồi lần lần cho tới mười hai, hai mươi lần Bồ-đề. Phiền
não giảm, Bồ-đề tăng mới được. Đó là câu cầu chúc
cho nhau. Cầu chúc Bồ-đề tăng trưởng là vậy đó. Bởi
vì chúng ta ngày nào cũng có những cái vừa ý, không vừa
ý. Không vừa ý thì phiền não, nếu chúng ta biết xả, không
chấp vào đó, chúng ta bị thiệt thòi, mà không cho là quan
trọng thì lìa phiền não được Bồ-đề, như thế là niệm
Bồ-đề. Mong rằng tất cả quý vị từ đây về sau Bồ-đề
tăng trưởng luôn luôn, còn phiền não thì suy giảm mỗi ngày,
giảm cho thấy được chớ không phải giảm chầm chậm. Lúc
chưa hiểu thì mỗi ngày một trăm lần phiền não, giờ hiểu
rồi còn chín mươi, còn tám mươi, chừng mười bữa thì hết
trơn. Giảm như vậy là hay tuyệt.
Tự
thể của chân tâm chẳng phải chỗ ta nói bày đến được,
trong suốt như hư không không bờ mé, như tấm gương trong
sạch tròn sáng, khen chê khó đến kịp, nghĩa lý khó suốt
thông.
Bây
giờ Ngài chỉ tâm thể của chúng ta, tự thể của chân tâm
không thể chỉ bày ra được, mà cũng không thể nói đến
được. Nó luôn luôn trong suốt như hư không, không có bờ
mé. Như vậy thì sao? Cụ thể một chút thì thấy ngay tâm
thể của mình. Như con mắt chúng ta thấy cảnh, lỗ tai chúng
ta nghe tiếng, lưỡi chúng ta nếm vị, mũi chúng ta ngửi mùi,
thân chúng ta xúc chạm. Nếu con mắt không bệnh, không mù
thì có lúc nào không thấy? Nếu lỗ tai không điếc thì lúc
nào không nghe? Nếu cơ thể mình lành lặn không bệnh thì
lúc nào không biết xúc chạm? Như vậy cái tướng nghe, ngửi,
nếm, xúc chạm hiện tiền. Đưa một vật gì vào lưỡi là
biết ngọt chua ngay. Lúc nào cũng biết. Ở mũi thì thơm, hôi
gì mình cũng nghe. Như vậy cái biết nó hiện ở mắt,
hiện ở tai, ở mũi, ở lưỡi, ở thân, luôn luôn lúc nào
cũng hiện tiền. Nhưng cái biết đó có sinh có diệt,
có động có tịnh gì không? Chúng ta nhìn ra thấy núi, thấy
hồ, thấy cây cối, cái thấy đó tướng mạo ra sao? Không
có một chút hình tướng. Không có hình tướng mà mờ đục
hay trong suốt? Cái hay thấy này không bị cái gì làm cho mờ
đục hết. Như vậy thì nó có không? Bây giờ có người hỏi:
“Khi thấy núi thấy hồ, thấy rừng thấy cây, cái thấy
của Thầy ra sao?” Chúng ta trả lời thế nào? Không có lời
để diễn tả! Khi không diễn tả được thì người ta cho
mình là nói dóc, nói vô lý. Cái diễn tả không được, thì
nó không có nhưng tuy dường như vô lý mà thực tình
có. Nếu nói cái thấy tôi thế này thế kia, cái thấy tôi
xanh, vàng, đỏ, trắng, thì dường như có lý mà thật ra là
vô lý là sai, là trật. Cái thấy này trong suốt, hiện tiền,
không giới hạn cho nên giống như tấm gương trong sạch tròn
sáng, khen chê khó đến kịp, nghĩa lý khó suốt thông. Đó
là nói ở mắt, còn ở tai, ở mũi, ở lưỡi cũng vậy, làm
sao mà diễn tả được cái đó ở nơi mình.
Không
thể lấy cái có không, nơi này chốn nọ mà xét tột được
chỗ u huyền của nó. Cũng không thể lấy trí khôn và ngôn
ngữ mà bàn đến chỗ huyền diệu của nó. Chỉ
có ai ngộ được chân tâm thì hiểu ngay nơi mình. Ví như
muôn thứ hương thơm chỉ đốt một lò là hiểu hết mùi
thơm. Như vào bể cả tắm, chỉ cần hớp một ngụm nước
là biết hết toàn vị của bể cả.
Không
thể lấy cái có không, nơi này chốn nọ mà xét tột được
chỗ u huyền của nó. Tự
thể chân tâm của chúng ta không thể lấy cái có, cái không
hoặc là nơi này, chốn nọ để mà xét tột cái chỗ u huyền
của nó được.Chỉ
lấy cái thấy mà nói, chúng ta đã không thể diễn tả nổi.
Cũng
không thể lấy trí khôn và ngôn ngữ mà bàn đến chỗ huyền
diệu của nó. Dù khôn đến đâu cũng không có cách gì mà
diễn tả ra được nó, cho nên không có dùng ngôn ngữ mà
diễn tả. Thấy thì cứ thấy thôi.
Chỉ
có ai ngộ được chân tâm thì hiểu ngay nơi mình. Ai mà nhận
ra được chân tâm mình thì người đó biết rõ nó đang hiện
tiền, không nghi ngờ một tí nào hết.
Ví
như muôn thứ hương thơm chỉ đốt một lò là hiểu hết
mùi thơm. Như vào bể cả tắm, chỉ cần hớp một ngụm nước
là biết hết toàn vị của bể cả. Cái chân thật của mình
hiện tiền sẵn, khi nào ngộ được thì mình mới biết, không
ngộ thì không biết. Ngộ được tức biết ở mắt, ở tai,
ở mũi, ở lưỡi, ở thân, ở ý đều có cái đó giống như
đốt chừng vài ba miếng trầm, lên khói thì biết trầm thơm.
Cũng như hớp một ngụm nước biển thì biết toàn thể nước
biển cũng mặn như thế.
Chốn
chân thật thâm sâu lặng lẽ, giác ngộ thì bụi trần lắng
sạch tâm thể trong ngần; dứt hết mối manh danh tướng của
ngoại cảnh, sạch hết những năng sởû ở trong tâm.
Hiểu
lý này rồi, mới thấy thương mọi người chung quanh, có tâm
thể trong suốt hiện tiền mà cứ để bị che phủ hoài. Ngồi
lại hai người ba người thì nói chuyện huynh này, huynh nọ,
huynh kia. Huynh này hơn huynh nọ thua, huynh này phải huynh kia
quấy. Ngồi lại cứ bao nhiêu đó mà bàn, tới gần đi ngủ
cũng còn tiếc, muốn bàn thêm một vài chuyện nữa cho hết
ý. Lúc tôi còn đi học, ở tại trường không đi đâu, lâu
lâu có huynh đệ đi về quê trở lại, tôi mừng lắm, không
phải mừng bánh trái, mà cốt để hỏi thăm chuyện này chuyện
nọ ở quê ra sao. Như vậy đó, người này đi về kể cho
người kia nghe, người kia nghe cũng hơi phấn khởi rồi kể
người nọ. Như thế mới vui, chứ còn mỗi người một góc
cú rũ, mạnh ai nấy sống buồn lắm. Cho nên cứ đem chuyện
này chuyện nọ, kể cho nhau nghe đầy lỗ tai. Tối ngủ cũng
nhớ chuyện đâu đâu, ngồi thiền tụng kinh cũng nhớ chuyện
thiên hạ. Như vậy tức là cứ để cho bụi phủ lấp mãi
mãi, tâm không bao giờ được yên lặng, được trong sáng.
Cho nên người biết tu, mọi chuyện hơn thua phải quấy xem
như trò trẻ con, không có gì là quan trọng hết. Điều quan
trọng là làm sao mình đừng mê. Đừng mê tức là đừng để
cho bụi trần chen vào. Bao nhiêu bụi trần vì chúng ta ham phủ
quá nó mới dính, chớ nếu người ta kể mà mình không quan
tâm, không có chú ý thì có dính đâu? Tôi hay nói chúng ta
thích làm cảnh sát quốc tế. Chuyện gì của thiên hạ đâu
đâu mình cũng muốn chen vào để phân xử, chuyện phải quấy
ở xứ nào, cũng muốn ngồi phê bình, cho vậy là khôn. Mà
không ngờ mình cứ phủ mãi, cái tâm trong sáng bị vùi lấp
trở thành mờ tối. Khi chúng ta giác ngộ, tất cả những
bụi trần bên ngoài được lắng sạch xuống, tâm thể được
trong ngần, dứt hết mối manh danh tướng của ngoại cảnh,
sạch hết những năng sở trong tâm.
Bởi
ban đầu bất giác, bỗng khởi ra vọng động, chiếu soi lại
tự tâm, theo cái chiếu soi ấy mà sanh ra tâm trần nên gọi
là chúng sanh. Như gương
hiện hình tượng, chợt có thân căn.
Đây
là theo kinh Lăng Nghiêm. Chúng ta sẵn có tánh giác, nhưng tánh
giác đó không giữ tự tánh, không giữ cái nguyên vẹn của
nó, bỗng khởi niệm chiếu soi lại nó, xem tánh giác mình
là gì? Đó là từ bất giác bỗng khởi ra vọng động, bởi
có chiếu soi lại cho nên có năng có sở, chiếu soi lại tự
tâm. Rồi theo cái chiếu soi ấy mà sanh ra tâm, trần. Trong
thì tâm, ngoài thì cảnh, có tâm có trần nên gọi là chúng
sanh.
Như
gương hiện hình tượng, chợt có thân căn. Lúc đó giống
như cái gương để ở ngoài trời, có bao nhiêu hình người,
hình cảnh đều hiện trong đó hết cho nên nói là có thân
căn.
Từ
đó chân tâm bị dời đổi, căn tánh bị sai lạc, chấp tướng
đuổi theo danh, chứa mãi những vọng trần ứ đọng, kết
mãi những vọng thức liên miên. Đem túm bọc chân giác vào
giấc mê đêm, đắm chìm mê muội trong tam giới. Làm
mù lòa con mắt trí ở trong ngõ tối, khúm núm cúi lòn trong
chín loài. Ở trong cõi chẳng đổi dời, bỗng dưng luống
chịu kiếp luân hồi.
Từ
cái giác minh mà bỗng khởi lên minh giác, dấy niệm thành
ra có năng có sở biến thành chúng sanh, giống như gương là
năng và cảnh hiện vào gương là sở, cho nên nói có thân
có tâm. Khi thấy trong có thân ngoài có cảnh rồi, từ đó
chân tâm bị dời đổi, căn tánh bị sai lạc, rồi chấp vào
tướng đuổi theo danh. Có cảnh phải đặt tên cảnh, cảnh
gì, tên gì? Rồi theo cảnh, theo danh đó chứa mãi những vọng
trần ứ đọng. Những vọng từ hình ảnh mình tích lũy trong
lòng, ứ đọng kết mãi những vọng thức liên miên. Đến
giờ ngồi thiền, những cái đó nó trào lên, trào lên hoài
không ngừng, không hết.
Đem
túm bọc chân giác vào giấc mê đêm, đắm chìm mê muội trong
tam giới. Thể chân giác của mình là cái thật rỗng thênh
mà bây giờ túm bọc nó lại, đi vào chỗ mê. Rồi từ đó
đắm chìm mê muội trong tam giới, lăn lộn qua lại không dừng,
khi nào dứt được chúng mới giải thoát được.
Làm
mù lòa con mắt trí ở trong ngõ tối. Chúng ta đã có
con mắt trí, bây giờ nó dồn lại thành một con người, một
con vật, thì tự nhiên con mắt trí bị mù lòa, bị hạn chế
ở trong một người, một thân thể, cho nên nói đi trong ngõ
tối.
Khúm
núm cúi lòn trong chín loài. Lẽ ra thì chúng ta thênh thang tự
tại mà không chịu, lại chui lòn đầu này, đầu kia để
làm người, làm thú khổ chưa? Đó là đi trong chín loài.
Ở
trong cõi chẳng đổi dời, bỗng dưng luống chịu kiếp luân
hồi. Cái thể thanh tịnh chân giác là cái không đổi dời,
không sanh diệt mà bỗng dưng chui vào trong chỗ sanh tử, chịu
kiếp luân hồi. Chúng ta rất thảnh thơi, rất tự tại mà
không giữ được cái thảnh thơi tự tại để đi vào trong
chỗ xấu xa khổ sở, chịu những luân hồi rồi than thân
trách phận. Như vậy chúng ta than trách ai? Có nhiều người
nói chán cái kiếp người quá, không muốn làm người nữa,
rồi muốn làm chim, làm cây thông… đủ thứ. Ai xúi giục
chúng ta làm kiếp người đây? Chỗ khác thì nói tại cái
này, tại cái kia, theo nhà Phật thì chính cái mê dẫn chúng
ta đi, làm cho chúng ta phải chịu khổ. Cho nên:
Trong pháp vô thoát mà tự chuốc sự trói buộc nơi thân. Như
con tằm mùa xuân làm kén tự giam mình, con thiêu thân mùa thu
tự nhào vô đèn thiêu xác.
Đem những sợi tơ nhị kiến buộc lấy nghiệp căn khổ sở,
dùng đôi cánh của lòng tham mù quáng toan dập tắt vòng lửa
tử sanh.
Trong
pháp vô thoát mà tự chuốc sự trói buộc nơi thân. Vô thoát
tức là không có mở. Tại sao không có mở? Bởi vì có cái
gì trói đâu mà mở. Trong pháp vô thoát là trong chỗ không
có trói, không mở mà bây giờ tự mình trói buộc lấy thân
mình. Tâm thể không sanh không diệt, không thương không ghét,
không phải không quấy, không có cái gì gọi là trói buộc.
Bởi không trói buộc cho nên không có giải thoát chỉ tự
mình chuốc lấy sự trói buộc.
Như
con tằm mùa xuân làm kén, tự giam mình. Như con tằm tới mùa
Xuân làm kén, khi kén đầy đủ rồi, người ta lấy kén bỏ
vô nồi nước sôi luộc lên lấy tơ. Như vậy, chúng ta làm
kén để nhốt mình, rồi giết mình luôn chớ có ai làm cho
mình! Nếu con tằm không có kén thì chắc không ai nấu nó
để lấy tơ.
Con
thiêu thân mùa thu tự nhào vô đèn thiêu xác. Mùa thu con thiêu
thân nhiều lắm, nó bay vô đèn thiêu xác.
Đem
những sợi tơ nhị kiến. Nhị kiến tức là chấp hai bên.
Buộc
lấy nghiệp căn khổ sở, dùng đôi cánh của lòng tham mù
quáng toan dập tắt dòng lửa tử sanh. Khi còn mang cái chấp
hai, thì luôn luôn dẫn mình đi trong cái khổ, trong cái trói
buộc. Dùng đôi cánh của lòng tham mù quáng, mà mong dập tắt
dòng lửa tử sanh thì không bao giờ thoát sanh tử được.
Chúng ta lỡ ở trên thế gian này, cái gì cũng thấy hai hết.
Thấy hai là nhân của sanh tử. Nếu không còn thấy hai thì
hết sanh tử. Chúng ta cứ mở miệng là thấy hai, cho đóù
là lẽ thật nên khó mà diệt được. Vì thế chúng ta cứ
tiếp tục đi trong sanh tử liên miên không có ngày dừng. Tu
không phải khó, mà khó vì huân tập đã quá sâu, bàn nói
cái gì cũng hỏi cái này có hay không, phải hay quấy, thiệt
hay giả, luôn luôn tạo cớ cho mình phải thấy hai. Người
ta nói phải thì mình chịu, người ta nói quấy thì mình không
ưa, rồi có tham có sân. Như vậy là cái nhân để mình tạo
nghiệp, còn nếu hết thấy hai thì thôi hết tạo nghiệp.
Đó là chuyện hiển nhiên.
Lại
có những kẻ tà căn ngoại chủng, tiểu trí quyền cơ; chúng
không hiểu rõ nguồn bệnh của sanh tử, không biết gốc kiến
chấp của ngã nhân (ta người). Chỉ muốn tránh chỗ huyên
náo, bỏ nơi hoạt động, cố phá từng tướng tách từng
mảnh bụi của từng vật thể để tìm hiểu biết. Làm như
thế, tuy nói rằng nếm được mùi tĩnh lặng, thầm hợp với
lý không, nhưng không biết đó là cái lối làm chôn vùi chân
tánh, trái ngược chân giác, chẳng khác nào kẻ đã biện
rõ sắc xanh đỏ trong mắt, chỉ lo tắt quầng sáng của ngọn
đèn, không lo xét tột cùng cái huyễn thân ở trong thức,
lại luống chạy trốn cái bóng rỗng dưới mặt trời. Như
thế chỉ lao nhọc tinh thần, tốn hao sức lực. Chẳng khác
nào đổ nước vào băng, ném củi vào lửa. Có biết đâu,
bóng lòa hiện ra màu xanh, bóng rỗng theo nơi thân. Nếu chữa
khỏi bệnh lòa ở mắt thì bóng xanh kia tự mất, diệt thân
huyễn chất này thì bóng nọ không còn.
Lại
có những kẻ tà căn ngoại chủng, tiểu trí quyền cơ; chúng
không hiểu rõ nguồn bệnh của sanh tử, không biết gốc kiến
chấp của ngã nhân (ta người). Những người có chủng tử
tà ma ngoại đạo, tiểu trí quyền cơ, không hiểu được
nguồn bệnh của sanh tử, không biết gốc kiến chấp của
ngã nhân - nghĩa là kiến chấp từ hai bên mà ra.
Chỉ
muốn tránh chỗ huyên náo, bỏ nơi hoạt động, cố phá từng
tướng, tách từng mảnh bụi của từng vật thể để tìm
hiểu biết. Cho trong chúng ồn ào quá, khó tu quá, đi kiếm
trong non, trong núi cất cái am nho nhỏ ngồi tu, rồi phân tích
từng mảnh bụi, từng sự vật để quán chiếu, nghĩ như
vậy là hay.
Làm
như thế tuy nói rằng nếm được mùi tĩnh lặng, thầm hợp
với lý không, nhưng không biết đó là cái lối làm chôn vùi
chân tánh, trái ngược chân giác, chẳng khác nào kẻ chẳng
biện rõ xanh đỏ trong mắt, chỉ lo tắt quầng sáng của ngọn
đèn. Ví dụ như chúng ta đốt đèn dầu, nếu mắt mình nhậm,
thì nhìn thấy có quầng xanh quầng đỏ, chúng ta lại cho là
tại cái đèn, tắt đèn để không thấy quầng xanh quầng
đỏ. Như vậy đúng không? Quầng xanh, quầng đỏ từ đèn
hay từ mắt của mình? Không biết gốc từ mắt bệnh để
trị, mà cứ chấp cái đèn có vòng xanh vòng đỏ thì có thông
minh không? Cũng vậy, không biết cái chấp hai bên của mình
sanh ra đủ thứ phiền não, không chịu lo diệt nó, lại nói
ở đây ồn quá tu không được, chạy tránh chỗ khác dễ
tu. Như vậy chỉ tránh cảnh mà không tránh cái mê cái loạn
của tâm. Ý này rất là rõ, chúng ta có nhiều người mắc
bệnh đó. Cho nên mới nói rằng chỉ tránh chỗ huyên náo,
bỏ hoạt động rồi ngồi quán phân tích, lúc đó cũng được
chút ít yên ổn hợp với lý không, nhưng làm như vậy thì
đã chôn vùi chân tánh, trái ngược với chân giác. Chân tánh,
chân giác giống như cái đèn, cái đèn không có hiện màu
xanh màu đỏ, tại con mắt bệnh. Không lo trị bệnh mà cứ
lo tắt đèn.
Không
lo xét tột cùng cái huyễn thân ở trong thức, lại luống
chạy trốn cái bóng rỗng ở dưới mặt trời. Như chúng ta
đi dưới ánh mặt trời thấy có bóng. Chúng ta ghét cái bóng
mình muốn chạy trốn nó, mà cứ chạy mãi ngoài trời chừng
nào hết bóng? Có người nói không cần chạy đâu, chỉ vào
trong chỗ mát thì hết bóng. Nhưng ở đây Ngài muốn nói sợ
bóng không bằng sợ thân. Thân này từ huyễn thức tạo nên,
bây giờ không biết dẹp trừ cái huyễn thức đó, mà cứ
sợ cái bóng vô lý. Cái gốc không sợ mà sợ cái ngọn. Bởi
có thân mới có bóng, chúng ta sợ bóng thì phải biết chuyển
cái thân. Nếu thân không còn, thì bóng làm gì có.
Như
thế chỉ lao nhọc tinh thần, tốn hao sức lực. Như vậy thì
tốn công mà không có lợi. Chẳng khác nào đổ nước vào
băng, ném củi vào lửa. Cho nên đây mới giải thích lại.
Có
biết đâu bóng lòa ở ngay màu xanh, bóng rỗng theo ngay nơi
thân, bóng lòa tức là bóng xanh vàng, nó từ cái lòa ở con
mắt. Còn cái bóng ở bên cạnh thân mình, đó là cái bóng
rỗng theo thân. Có biết đâu lòa hiện ra màu xanh, bóng rỗng
theo nơi thân, nếu chữa khỏi bệnh lòa ở mắt thì bóng xanh
kia tự mất, diệt thân huyễn này thì bóng nọ không còn.
Nếu
biết quay ánh sáng soi lại nơi mình, bỏ ngoại cảnh mà xem
ở tự tâm, thì Phật nhãn sáng suốt, bóng nghiệp tự tan,
pháp thân hiện ra, những vết trần tự diệt.
Ta
phải lấy lưỡi dao trí của tâm tự giác mà rạch lấy ra
tâm châu trong những mối dây quấn chặt. Phải dùng mũi giáo
tuệ chặt đứt lưới kiến chấp trong trần cảnh. Ấy chính
là tông chỉ cùng tâm cái chân
thuyên đạt thức đó vậy.
Nếu
biết quay ánh sáng soi lại nơi mình.
Kết thúc Ngài nói rất rõ: Chúng ta tu nếu biết quay ánh sáng
xoay lại nơi mình, là phải phản quang tự kỷ.
Bỏ
ngoại cảnh mà xem ở tự tâm.
Nghĩa là lúc nào cũng đừng chạy theo trần cảnh, phải sống
với tự tâm.
Phật
nhãn sáng suốt, bóng nghiệp tự tan, pháp thân hiện ra, những
vết trần tự diệt. Chúng ta sống ở cõi đời này mà muốn
quay lại tự tâm rất là khó. Tại sao? Bởi vì con mắt lúc
nào cũng ngó ra, bắt nó ngó vào nó không chịu. Lỗ tai cũng
vểnh ra ngoài đón tiếng. Con mắt thì đón hình tướng, lỗ
tai thì đón âm thanh, lỗ mũi thì đón mùi, lưỡi thì chờ
vị, rồi thân đợi xúc chạm. Như vậy luôn luôn nó đòi
hỏi theo năm trần ở ngoài, chớ không chịu quay trở lại.
Bây giờ tu, thay vì phóng ra chúng ta phải quay lại, chiếu
lại. Chư tăng chư ni tự nhiên quay lại không nổi, cho nên
bắt ngồi thiền. Ngồi ngó xuống để nhìn lại mình, theo
hơi thở để biết lại mình. Đó là cái thuật quay lại chớ
còn phóng ra ngoài thì quên mình. Nếu đi đứng nằm ngồi
đều biết quay lại mình thì khỏi ngồi thiền cũng được.
Nếu đi đứng mà quên mình thì phải ngồi thiền, ngồi đủ,
ngồi đúng giờ đúng giấc đàng hoàng. Người biết bỏ ngoại
cảnh mà xem ở tự tâm mình thì Phật nhãn sáng suốt. Ngài
Đạo Nguyên ở Nhật Bản khẳng định: “Một giờ ngồi
thiền là một giờ làm Phật”. Bởi vì biết quay
lại để mở sáng mắt trí tuệ của mình. Một giờ
ngồi thiền là một giờ làm Phật, còn ngồi thiền, gật
lên gật xuống thì không làm Phật, không sáng suốt. Cho nên
chúng ta phải biết rõ ngồi thiền là quay lại mình, biết
phản chiếu lại mình, đó là giác, giác là Phật. Chạy theo
ngoại trần thì mê, mà mê là chúng sanh. Ngồi hai giờ là
giác luôn hai giờ. Phải làm sao giờ làm Phật nhiều hơn giờ
làm chúng sanh mới được.
Chúng
ta quay lại thì đó là Phật nhãn, nếu Phật nhãân sáng suốt
thì bóng nghiệp tự tan. Bây giờ khi chúng ta quay lại, ngồi
thiền soi lại mình, nhìn hơi thở, nhìn niệm. Những niệm
buồn thương giận ghét dấy lên đều nói vọng không theo
thì nó tan, niệm tan là tan nghiệp. Niệm lặng xuống rồi
đâu còn nghiệp, như vậy phá vọng tưởng cho tan là làm cho
bóng nghiệp tự tan, thì Pháp thân tự hiện, đơn giản như
vậy. Nếu mình hằng tri, hằng giác không có niệm nào, thì
pháp thân hiện tiền, những vết trần tự diệt; vì niệm
thì duyên theo bóng, nhớ người thì có bóng người, nhớ cảnh
thì có bóng cảnh, bóng người bóng cảnh là vết trần ở
ngoài. Đâu có khi nào khởi niệm mà không duyên bóng bên ngoài.
Như vậy nếu mình làm chủ được niệm thì niệm tan, bóng
trần ở ngoài hết thì Pháp thân hiện không có nghi ngờ.
Ta
phải lấy lưỡi dao trí của tâm tự giác mà rạch lấy ra
tâm châu trong những mối dây quấn chặt. Tức là hạt châu
sáng có sẵn của tâm bị quấn chặt trong những
mối dây thập triền thập sử.
Phải
dùng mũi giáo tuệ chặt đứt lưới kiến chấp trong trần
cảnh. Chấp trần cảnh tức là chấp sắc, thanh, hương, vị,
xúc… Nếu được như vậy ấy chính là cái tông chỉ cùng
tâm, cái chân thuyên đạt thức đó vậy. Nếu chạy trốn
chỗ này chỗ kia để cho được yên, được thảnh thơi, hay
là được nhẹ nhàng dễ tu, đó chưa phải là cùng tâm, chưa
phải là đạt lý. Như vậy là Ngài đã chân tình chỉ dạy
cho chúng ta cách tu thế nào là đúng, thế nào là không đúng.