|
c
HƯƠNG
HẢI THIỀN SƯ NGỮ LỤC
GIẢNG GIẢI
Thích
Thanh Từ
TIỂU
SỬ THIỀN SƯ HƯƠNG HẢI
(1628-1715)
Thiền
sư Hương Hải sanh năm 1628, tịch năm 1715. Đối chiếu với
Thiền sư Chân Nguyên sanh năm 1647 thì Thiền sư Hương Hải
sanh trước mười chín năm. Thiền sư Hương Hải đi tu năm
hai mươi lăm tuổi trễ hơn, so với Thiền sư Chân Nguyên xuất
gia năm mười chín tuổi, nhưng năm hai vị đi tu gần với
nhau cùng ở đời vua Lê Hy Tông và Lê Dục Tông. Ở miền
Bắc thì ngài Chân Nguyên được các vị Thiền sư truyền
tâm ấn còn Thiền sư Hương Hải ở miền Nam thì được các
vị ở phía Nam truyền – ngày nay là miền Trung, vì đó là
thời Nam Bắc phân tranh, phía Nam của chúa Nguyễn và phía
Bắc của chúa Trịnh vua Lê.
Sư
sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ
tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời
của Sư làm quan Quản Chu Tượng coi thợ đóng thuyền cho triều
đình. Ông sanh được hai người con trai. Con cả trông coi Lãng
Doanh, tước Hùng Quận Công, quản đốc ba trăm lính thợ.
Con thứ làm chức Phó cai quan, tước Trung Lộc Hầu, là ông
Tổ bốn đời của Sư. Khoảng niên hiệu Chính Trị đời
vua Lê Anh Tông (1558-1571), Trung Lộc Hầu theo Đoan Quốc Công
Nguyễn Hoàng vào trấn Quảng Nam. Ông được Nguyễn Hoàng
tin dùng nên thăng chức Chánh cai quan, quản lãnh các lính thợ
đóng thuyền. Nguyễn Hoàng lại dâng sớ về triều kể rõ
công trạng, vua Lê phong cho ông hiệu là Khởi Nghĩa Kiệt Tiết
Công Thần, cấp cho ba mươi mẫu ruộng và con cháu được
thế tập.
Đây
kể lai lịch tổ tiên của Ngài năm đời về trước. Bây
giờ đến Ngài.
Sư
thuở nhỏ đã thông minh tài giỏi, năm mười tám tuổi thi
đỗ Hương Tiến (Cử nhân) được chọn vào làm Văn Chức
trong phủ chúa Nguyễn. Sau lại bổ Sư ra làm Tri phủ Phủ
Triệu Phong (nay là tỉnh Quảng Trị). Năm Sư hai mươi lăm
tuổi rất hâm mộ Phật pháp nên tìm vào học đạo với Thiền
sư Viên Cảnh ở Lục Hồ, được đặt pháp danh là Huyền
Cơ Thiện Giác, pháp tự Minh Châu Hương Hải. Sau Sư lại tìm
đến Thiền sư Đại Thâm Viên Khoan để tham học.
Hai
mươi lăm tuổi Ngài thọ học với hai Thiền sư Viên Cảnh
và Viên Khoan. Thời điểm này ở Đàng Trong chưa có các vị
Thiền sư Trung Hoa sang, như vậy có thể xem hai Thiền sư Viên
Cảnh và Viên Khoan là gốc của hệ phái Trúc Lâm Yên Tử,
do đó Thiền sư Hương Hải cũng thừa nhận mình là con cháu
của hệ phái Trúc Lâm Yên Tử. Như thế ta thấy rõ rằng
hệ phái Trúc Lâm Yên Tử tưởng như mất, song vẫn thầm
thầm truyền trao mãi đến thời nay.
Hơn
ba năm sau, Sư từ quan xin xuất gia, rồi dong thuyền ra biển
Nam Hải, trụ trên ngọn núi Tim Bút La, cất ba gian nhà tranh
ở tu.
Tức
là Ngài học đạo lúc còn cư sĩ với hai Thiền sư Viên Cảnh
và Viên Khoan, đến ba năm sau mới xuất gia lúc đó hai mươi
tám tuổi. Ngài dong thuyền ra biển Nam Hải trụ trên núi Tim
Bút La và cất ba gian nhà tranh ở tu. Nói núi thật ra là đảo
Tim Bút La.
Sư
ở đây chuyên tu thiền định và giới luật tinh nghiêm được
hơn tám tháng, nhân dân cùng quan trưởng xa gần đều quý
kính, tiếng tăm vang dội. Sau chúa Nguyễn nghe danh sai sứ ra
đảo mời Sư về. Người đời thường truyền tụng lại
lúc Sư sắp đắc đạo có nhiều câu chuyện rất linh dị.
Ngài
ở đảo Tim Bút La tu rồi ngộ đạo. Đồ đệ có ghi lại
câu chuyện lúc Ngài tu trên đảo, chúng ta có thể lấy làm
kinh nghiệm thêm trong sự tu hành.
Như
nói khi Sư mới ra tu ở núi Tim Bút La này, gần đó có biển
tên Ngọa Long Hải và đảo Đại Lãnh. Hai nơi này ít người
đi đến và là hang ổ của ma quái. Chúng ma đã nhiều lần
kéo đến ngăn trở sự tu hành của Sư, mà tâm Sư vẫn không
lay động.
Một
đêm vào lúc canh hai, những đồ đệ của Sư bỗng trông thấy
một con ma lớn đen sì, cao chừng hai trượng (tám thước)
xồng xộc chạy vào, một lúc rồi biến đi đâu mất. Đến
cuối canh ba, bỗng có một con rắn lớn bò đến quấn chặt
mình Sư, Sư không cựa động được, cố nhích mình lần tới
bàn Phật, niệm chú Thần Đao, một lát con rắn ấy biến
mất.
Giả
sử mình lâm vào hoàn cảnh đó thì có rợn người không?
Mới canh hai, đệ tử trong chùa đã thấy một con ma lớn đen
sì cao chừng hai trượng xồng xộc chạy vào một lúc rồi
mất. Thấy như vậy quý vị ngồi thiền trên chùa có
yên lặng được không, hay là cứ rởn óc hoài rồi xả bỏ
chạy? Đó là trận thứ nhất. Đến cuối canh ba, đang ngồi
tu một mình trên chùa, bỗng có một con rắn lớn bò đến
quấn chặt mình Sư, việc này thật là hết sức kinh hoàng.
Sư không cựa động được, cố nhích mình lần tới bàn Phật
niệm chú Thần Đao, một lát con rắn ấy biến mất. Trận
này phá Ngài quá đỗi, Ngài phải dùng tới thần chú để
trị, còn chúng ta tu không có thần chú nếu gặp trường hợp
này thì phải làm sao? Đây tôi xin đặt thành nghi vấn để
sau này sẽ giải thích.
Lại
một hôm, đang giữa ban ngày bỗng mây đen kéo đến trước
sân mù mịt, gió cuốn ầm ầm, cây gãy cát bay, mái nhà bung
tốc, một lát mới hết.
Đến
tháng thứ ba, lại một lần giữa đêm vắng, núi non yên tĩnh,
bỗng nghe tiếng như ngàn muôn con mèo kêu ran lên một chặp.
Lại
đến tháng thứ tám, một lần giữa canh vắng đêm khuya, Sư
đang ngồi thiền trước điện Phật, hương đèn sáng choang.
Bỗng thấy quân ma vừa trai vừa gái đứng vây tứ phía, đứa
cầm giáo, đứa cầm mác, đứa dắt trâu, đứa dắt ngựa,
đứa dắt voi, nhiều thứ quái tượng. Sư cảm thấy đau bụng,
mắt mờ không thấy ánh sáng của đèn, không thấy tượng
Phật, chỉ thấy toàn ma tinh.
Tới
đợt này lại kinh hoàng hơn nữa, toàn là ma bủa vây.
Lúc
đó Sư dùng hết sức trì chú, nhiều phương thức bí mật
đều không linh nghiệm. Sư bèn lập chí Kim Cang tưởng lửa
Tam-muội, quyết đốt cháy thân mình và thiêu cả thế giới.
Quả thấy rất linh nghiệm, một lát chúng ma biến đâu mất,
cảnh sắc lại quang minh như trước. Song giữa đêm vắng núi
yên không ai thấy biết.
Trận
này là trận đặc biệt. Lúc này thần chú trị hết nổi,
do đó Ngài lập chí Kim Cang nghĩa là chí thật vững chắc
tưởng lửa Tam-muội trong thân đốt mình và toàn thể thế
giới. Như vậy quý vị thấy thần chú linh hơn quán tưởng
hay quán tưởng linh hơn thần chú? Đoạn trên thì thần chú
trị được rắn nhưng tới đây thần chú hết linh, trị quân
ma không nổi, phải quán lửa Tam-muội đốt cháy thân mình,
cháy tất cả xung quanh, luôn cả thế giới, ma hoảng sợ chạy
hết. Những việc này nghe như chuyện hoang đường không bao
giờ có. Nhưng đối với người tu thì lại khác. Đức Phật
Thích-ca khi sắp thành đạo dưới cội Bồ-đề, nhiều đợt
ma xuất hiện thử thách. Đợt thứ nhất hiện hình bà Da-du-đà-la
tới than thở khóc lóc khuyên Ngài trở về. Phật thắng được
đợt thứ nhất thì đợt thứ hai hiện ra với tất cả loài
yêu quái đầu trâu mặt ngựa, cầm gươm cầm giáo vây quanh.
Ma dùng cả hai thế lực để phá mình. Thế lực thứ nhất
là thế lực của tình cảm, dụ dỗ bằng tình cảm không
được thì nó dùng thế lực thứ hai là hùng hổ dọa nạt.
Chừng nào chúng ta thắng được hai thế lực đó mới là
thắng cuộc. Quý vị thấy hai thế lực này dễ hay khó thắng?
Nếu người hèn nhát thì thấy thế lực hùng hổ sẽ hoảng
sợ, còn yếu về tình cảm thì bị thế lực tình cảm dụ
dỗ bèn chạy theo. Như vậy trong khi tu, có những lúc chúng
ta phải vượt qua thử thách thuộc tình cảm hay thử thách
thuộc uy vũ thì mới có thể thành công được. Nhưng vượt
qua bằng cách nào? Ở đây có nêu ra cách thứ nhất là Ngài
niệm thần chú, cách thứ hai là Ngài quán tưởng. Phật ngày
xưa dùng cây cung thiền định và mũi tên trí tuệ để trị
quân ma. Khi ma dùng tình cảm quyến rũ thì Phật quở trách
nó là đãy da nhơ nhớp, ma hổ thẹn đi mất, đó là dùng
trí tuệ. Khi ma dọa nạt bằng hình ảnh ghê rợn thì Phật
nhắm mắt định tâm, ma cũng rút lui. Phật dùng cung thiền
định và tên trí tuệ để trị quân ma, không nghe nói Phật
tụng chú gì hết. Ngày nay chúng ta tu cũng phải đầy đủ
mũi tên trí tuệ và cây cung thiền định để dẹp phá quân
ma. Nếu không định tâm được, nghe la hét bao vây, rợn người
lên rút chạy thì thua cuộc. Qua câu chuyện của ngài Hương
Hải rồi nhìn lại đức Phật ngày xưa, cả hai đều trải
qua những trường hợp bị ma phá, từ đó chúng ta có thể
rút ra kinh nghiệm để tu tập. Khi quân ma tới, chúng ta có
thể quán lửa Tam-muội tức lửa chánh định, lửa này là
lửa tưởng ở nội tâm không phải lửa bên ngoài. Do đó
có nhiều thiền sư ngồi tu trong núi Tuyết, vào mùa đông
cởi trần ngồi trên tảng đá mà không lạnh là do tưởng
lửa Tam-muội. Nhưng đó là tu quán tưởng về lửa, không
phải định tâm hoàn toàn. Theo Thiền Nguyên Thủy, muốn quán
tưởng về lửa thì quên ba đại kia (đất, nước, gió) chỉ
tưởng lửa trong người của mình, thì lửa từ từ phát ra.
Còn nếu tưởng về nước thì như trong kinh Lăng Nghiêm đã
kể: Có thiền sư nhập định, đệ tử tới vén màn nhìn
vào phòng thấy toàn là nước, đó là quán nước. Sức quán
tưởng rất mạnh chớ không phải thường. Tôi chưa gặp những
trường hợp này, tuy nhiên tôi có thể góp ý với quý vị:
Nếu ứng dụng đúng như Phật thì khi ma quái đến dọa phá,
cứ yên tâm thiền định, không khởi niệm thì không sợ,
lấy định mà trị. Nếu ma đến dùng nữ sắc dụ dỗ thì
biết rõ bản chất là nhớp nhúa, là hư ảo, thấy như vậy
là dùng trí tuệ phá được ma. Chúng ta còn có thể dùng lối
quán các pháp tự tánh là không, tức là biết tứ đại ngũ
uẩn của mình rỗng không, tất cả sự vật bên ngoài duyên
hợp cũng là rỗng không. Tất cả pháp tánh đều không thì
không có cái không nào (vật bên ngoài) hại được cái không
nào (của mình). Chúng ta tu yếu yếu nếu có ma thì ma nhỏ
nhỏ thôi, hoặc rung cây hoặc hiện chuột hiện rắn, làm
ồn ào một chút, mình cứ khéo định tâm, đừng thèm duyên
theo thì nó qua. Nên nhớ định tâm thì nhắm mắt, chớ mở
mắt thì định không được. Hoặc quán các pháp là duyên
hợp hư ảo, giả dối không thật thì nó cũng qua. Ngày nay
quý vị tu ở trong chúng ngồi mấy chục người ma đâu dám
vào, khi nào ngồi một mình ở ngoài gốc cây hoặc ngoài vườn
thì chừng đó mới sợ.
Sáng
ra, Sư cho rằng đất này là ác địa, khó giáo hóa được,
bèn trở về quê cũ là làng Bình An Thượng, phủ Thăng Hoa
xứ Quảng Nam. Sư bảo với bà con làng xóm rằng: “Chỗ đảo
này từ lúc mở mang đến nay chưa được khai hóa, chính là
ác địa, cung ma, khó mở đạo pháp”. Sư ở qua một tuần,
chợt có người Mán đến cầu thỉnh, Sư hỏi người ấy:
-
Ban đêm đến tìm tôi chắc là có duyên cớ gì cần tỏ bày?
Người
Mán thưa:
-
Cả thôn xóm của tôi có ba ngôi đền cũ ở núi Tim Bút La.
Một miếu thần Cao Các Đại Vương, một miếu Phục Ba Đại
Tướng Quân, một miếu thần Bô Bô Đại Vương. Hôm Sư cụ
về được bốn ngày, trong làng chợt thấy thần cả ba ngôi
đền này đều phục đồng lên nói rằng: “Hôm nọ bọn
ma tinh tác quái mấy lần để làm não hại Pháp sư, chúng
ta ngồi yên xem thử coi ai thắng, ai bại. Chúng ta bỗng thấy
Pháp sư biến hình biến tướng chẳng biết ở đâu, khiến
chúng ma tinh phải lui hết. Chúng ta thấy Pháp sư thật là
đạo hạnh kiêm toàn. Vì vậy chúng ta rất phục Pháp sư ấy,
nên báo cho dân làng biết hãy đi thỉnh Sư về trụ ở đây.”
Bấy giờ mọi người trong làng nghe thấy việc như trên mới
cho tôi vào thỉnh bạch Sư cụ về duyên do trước đó.
Khi
ấy Sư nghĩ: “Việc bọn ma đã nép phục hiển nhiên rồi”.
Nên sau đó Sư lại một phen cùng đệ tử xuống thuyền trở
ra đảo Tim Bút La. Từ đây Sư ở chuyên tu hơn tám năm an
ổn, không có gì chướng ngại. Sư được thần khen quỷ giúp,
cảm ứng tự nhiên, Phật pháp thịnh hành, tiếng tăm vang
khắp.
Đoạn
huyền bí ở trên là quỷ, bây giờ là thần. Khi Ngài về
rồi thì ba vị thần ở cả ba ngôi đền lên đồng báo cho
dân làng biết. Thần nói rằng Pháp sư biến hình biến tướng
chẳng biết ở đâu, khiến chúng ma tinh phải lui hết. Sở
dĩ ma thấy được là qua tâm tưởng của mình, nên khi tưởng
lửa, tưởng nước hoặc tưởng không thì ma hết thấy ta.
Cho nên chiều chiều cúng thí thực, có một chung gạo, một
chung cháo gì thôi mà tưởng ra rất nhiều, bủa khắp tất
cả khiến bao nhiêu cô hồn ăn cũng no, ăn rồi mà chén cơm
còn nguyên vì ăn bằng tưởng. Ngày xưa Sư ông tôi kể câu
chuyện ở Quảng Ngãi. Vị trụ trì núi Thiên Ấn đời thứ
hai chuyên tu thiền, Hòa thượng không có đi đám. Hôm đó
rằm tháng bảy, làng xã
tổ chức lễ cúng cô hồn, lên chùa rước. Hòa thượng sai
thầy Tri sự đến chứng đàn. Hòa thượng ở nhà vào phòng
ngồi thiền, một hồi thấy bọn cô hồn đi cả bầy đến
thưa kiện: “Thưa Hòa thượng, bữa nay sao thầy Tri sự cho
chúng con ăn chìa khóa, ăn không được.” Hòa thượng
ngạc nhiên rồi cũng yên lặng, một lát bọn cô hồn lui đi.
Tới khuya thầy Tri sự về, Hòa thượng kêu hỏi tại sao bọn
cô hồn về đây nói cho ăn chìa khóa nên ăn không được.
Thầy Tri sự thú thiệt là khi ngồi đàn, đang bắt ấn chuẩn
bị tụng chú, rờ túi thấy mất xâu chìa khóa, không biết
để ở đâu, nên tụng chú thì tụng mà cứ nhớ xâu chìa
khóa. Vì vậy ma thấy chìa khóa. Khi mình tưởng cái gì thì
cái ấy hiện lên và ma thấy được. Bởi vậy khi cúng cô
hồn phải cẩn thận, phải tưởng ra cơm nước cho đầy đủ
để chúng ăn no nê, đừng nên nghĩ gì khác. Ở đây Ngài
tưởng lửa thì ma không thấy được thân mà chỉ thấy lửa
nên chạy mất. Điều này rất quan trọng vì khi tâm chúng
ta tưởng điều gì thì cái thấy của quỷ thần sẽ chuyển
biến theo. Nếu khởi niệm sợ thì chúng sẽ làm tới, mình
chỉ có nước bỏ chạy mà thôi. Do đó chúng ta phải vững
tâm không sợ hoặc chúng ta tưởng lửa Tam-muội, tưởng không,
tưởng giả thì ma sẽ tan mất.
Một
hôm, Thuần Quận Công trấn thủ Quảng Nam có bà vợ đau đã
lâu mà không trị lành, nghe danh tiếng của Sư, ông cho người
đến rước. Sư đến nhà lập đàn tụng kinh bảy ngày bảy
đêm, phổ độ gia tiên và oan khiên thì bệnh bà lành mạnh.
Cả nhà đều kính phục, đồng xin quy y với Sư, cộng lại
là năm mươi người. Từ đây Sư đã có tín chủ. Xong việc,
thí chủ đưa Sư trở lại đảo Tim Bút La.
Hơn
nửa năm sau, quan Tổng Thái Giám là Hoa Lễ Hầu ở Quảng
Nam mắc bệnh lao đã ba năm, thuốc men trăm thứ vẫn không
khỏi, bèn từ quan về dưỡng già ở quê nhà. Lúc đó Thuần
Quận Công đang trấn thủ Quảng Nam là người có nghĩa xưa
với vị quan trên nên đến thăm hỏi. Hai ông nói chuyện về
nguyên do bệnh, Thuần Quận Công kể cho Hoa Lễ Hầu về bệnh
của vợ mình không ai trị khỏi, nhờ thỉnh vị tăng ở đảo
ấy gia trì kinh chú, được một tháng thì lành bệnh. Vì vậy
nên xin Trưởng quan hãy đến đảo ấy cầu thỉnh cho được
Sư hành trì pháp lực mong sẽ được mạnh chăng. Hoa Lễ Hầu
nghe nói linh nghiệm cũng tin thật chẳng dối, liền cho Thuần
Quận Công dẫn mười người lính và một chiếc thuyền đến
chùa ở đảo thỉnh Sư tới dinh Hoa Lễ Hầu tại Quảng Nam
trị hộ. Sư đến gặp Hoa Lễ Hầu hỏi han nguyên do bệnh
từ bao giờ. Hoa Lễ Hầu đáp rằng:
-
Bệnh đã ba năm không phương cứu chữa, mong thầy từ bi có
phương gì cứu giúp cho.
Sư
bảo:
-
Trưởng quan quyền cao chức trọng giết hại nhiều người,
phải nương sức đại sám hối mới mong được an lành khỏi
bệnh.
Hoa
Lễ Hầu nghe theo lời Sư, thiết lập đàn tràng bảy ngày
bảy đêm, phổ độ oan khiên, bệnh dần dần được bớt,
đến một tuần trăng thì thân thể khoẻ mạnh. Quyến thuộc
lớn nhỏ trong toàn dinh đều quy y với Sư được hơn bảy mươi
người. Sau đó Hoa Lễ Hầu về Thuận Hóa vào phủ chầu
chúa. Lúc này Dũng Quốc Công Nguyễn Phúc Tần, tục gọi là
chúa Hiền (1648-1687) đang trị vì, Chúa hỏi thăm:
-
Gặp thuốc nào, thầy nào, ai hay cứu khỏi cho ngươi?
Hoa
Lễ Hầu thưa:
-
Thần may mắn gặp bậc minh sư ở núi đảo tên Minh Châu,
thỉnh về nhà trì tụng kinh chú, phổ độ oan khiên, nương
nhờ sức Phật mới được mạnh khỏe như cũ.
Khi
ấy Dũng Quốc Công sai Hoa Lễ Hầu thỉnh gấp Sư về kinh
giúp nước. Một hôm Sư vâng chiếu về triều. Vào phủ chúa
Hiền hỏi thăm:
-
Nghe nói Sư ở núi khổ hạnh có sức tu hành, đến nhà người
trừ được khỏi bệnh tật!
Chúa
Hiền sai quan lập Thiền Tịnh Viện ở núi Quy Kính mời Sư
ra ở đây chúc lành cho Vương gia, hộ trì quốc mạch.
Sư
ở núi Quy Kính giáo hóa thạnh hành, bà Quốc Thái phu nhân
cùng ba công tử là Phúc Mỹ, Hiệp Đức và Phúc Tộ đều
xin quy y học đạo, tu hành tại gia. Quan quân cũng đồng quy
y học đạo rất nhiều, gồm bảy trăm vị chánh quan, hơn
một trăm vị phó quan, quân lính trong ngoài hơn một ngàn hai
trăm vị.
Qua
đoạn này có những điều cần nêu lên: Ngài tu có công đức
nhiều, các quan nghe tiếng, thỉnh Ngài trị bệnh giùm. Trong
phần trị bệnh, Ngài đề ra một pháp sám hối. Vì làm quan
có khi đi đánh giặc, giết hại nhiều người bây giờ phải
thành tâm sám hối, sám hối rồi thủng thẳng từ từ trị
bệnh, thì mới được lành. Việc này chúng ta thấy cũng hợp
pháp, bởi vì người có tội sám hối lần lần tội nhẹ,
những nghiệp chướng cũng giảm, thì bệnh được trừ. Nhưng
chúng ta đặt vấn đề: Phật tử hay ai đó muốn nhờ trị
bệnh, chúng ta đều lãnh trị và nếu trị ai cũng lành hết,
thì sao? Thì chắc thế gian này không ai chết, ai đau trị cũng
lành hết thì đâu có chết. Như vậy đâu được, vì chính
ông thầy cũng chết nữa kia mà. Quý vị có tin rằng tất
cả bệnh nhân, chúng ta khuyên họ sám hối, rồi trì tụng
kinh Phổ Môn… thì bệnh gì cũng lành không? Hay là chỉ nói
được rằng: Nếu ai có bệnh gọi là nghiệp mà chưa hết
duyên với trần thế thì có thể sám hối, trì kinh lần lần
bệnh thuyên giảm. Đừng nói rằng: Ông thầy đó tu hay, ông
thầy đó tu có phước nhiều, bệnh gì cầu ông trị cũng
hết. Như vậy không có lẽ thật. Bởi vì người hết duyên
rồi thì phải đi, dù thầy của ông, ông trị cũng không nổi,
chớ đừng nói là cha, là mẹ, là bà con quyến thuộc, huống
nữa là Phật tử. Chỗ này, chúng ta nên hiểu rằng Ngài sắp
có duyên hóa độ, nên ai đó bệnh mời Ngài tới, Ngài tụng
kinh cầu nguyện cho họ được thuyên giảm để Ngài tạo
duyên hóa độ, không phải tất cả người tới Ngài tụng
đều hết, đều lành, tôi khẳng định như vậy. Ở đây
chúng ta thấy Ngài đi xa hơn đức Phật thời xưa một chút.
Ngày xưa có người nào bệnh rồi nhờ Phật tụng kinh cầu
nguyện cho hết bệnh không? Chắc Phật chưa từng làm việc
đó. Chuyện rất đau khổ là một bà có đứa con duy nhất
chết. Bà đi khắp nơi cầu cứu, dần đến chỗ Phật. Phật
dạy: “Bà hãy đi khắp trong xóm tìm nhà nào mà không có
người chết xin ít tro, tới đây ta sẽ cứu cho”. Bà bèn
đi khắp cả làng xóm, hỏi nhà nào cũng có người chết,
không có được chút tro để đem về. Phật bèn nói: “Đúng
vậy! Tất cả thế gian ai rồi cũng phải chết và cái chết
đó là cái lẽ thường, có gì mà ngươi phải đau khổ”.
Ngài không nói ta có thần chú, ta có phép mầu trị hết. Như
vậy, Phật trị bệnh cho bà ấy bằng cách dạy bà dùng trí
tuệ nhận định sự việc đúng như thật mà thôi. Bởi vì
đa số chúng ta ngày nay, sống với tình cảm nhiều hơn trí
tuệ, cho nên khi cha mẹ, anh em đau bệnh chết, chúng ta khổ
sở quá nhiều, cầu người này người kia cứu. Nhưng sự
thực chết là một lẽ thường, ai cũng phải đến, kẻ đi
trước, người đi sau. Chúng ta biết là việc thường thì
tự nhiên phải lo tu, lo làm lành, làm lợi ích cho chúng sanh,
chớ cầu cho khỏi chết làm sao được. Đó là chuyện đức
Phật, nhưng đệ tử Phật sau này nói như vậy hơi khó chấp
nhận. Dùng trí tuệ dạy người ta khó, thôi để lập đàn
tụng kinh cầu nguyện cho. Lập đàn cầu nguyện cho thì được
cũng tốt, không được cũng không sao. Nếu được thì nói:
“Đó là nhờ phước tụng kinh”, nếu không được thì nói:
“Nghiệp người đó đã mãn”. Đàng nào cũng đưa tới chết,
nhưng như vậy có cảm tình hơn là mình từ chối. Vì vậy
mà không mất lòng Phật tử, còn nói thẳng thắn như Phật
thì mất lòng quá. Quý vị nên hiểu rõ, không nên bắt chước
Ngài, nói: “Ai bệnh tới tôi tụng kinh cho” mà mất uy tín.
Mười người hết bệnh năm người, còn năm người chết
thì cũng như không. Cho nên chúng ta phải hiểu cho rõ ràng
những điều này.
|