|
. |
ÐẠI THỪA VÀ SỰ
LIÊN HỆ VỚI TIỂU THỪA
Nguyên tác: Nalinaksha Dutt
HT.
Thích Minh Châu dịch,
Ấn hành 1971 (tái bản 1999)
---o0o---
CHƯƠNG
MỘT
KHÁI
NIỆM LỊCH SỬ CỦA THỜI ÐẠI CHUYỂN TIẾP
TỪ TIỂU THỪA QUA ÐẠI THỪA.
Lịch
sử Phật giáo trong sáu, bảy thế kỷ đầu tiên có thể
xem là bao trùm ba thời kỳ như sau:
A- Phật giáo Tiểu
thừa nguyên thủy hay thuần túy, được gìn giữ phần lớn
trong các tập Pàli Nikàya, Vinaya (kinh bộ và luật bộ) hay
trong những đoạn văn Sanskrit tương đương đã tìm được.
B- Phật giáo Tiểu
thừa hỗn tạp được đại diện bởi những học phái
thành hình khoảng một thế kỷ sau đức Phật nhập diệt.
Tài liệu của thời đại này rất khan hiếm, được hạn
chế trong một số kinh sách, hoặc rõ ràng thuộc một học
phái đặc biệt nào hay có những bằng chứng cụ thể xác
nhận thuộc một học phái nào. Những tài liệu này cũng
được tìm thấy trong những biên khảo đặc biệt đề cập
đ?n lịch sử của một số học phái hay những giáo lý của
các học phái này.
C- Thời hưng khởi của
Phật giáo Ðại thừa hay như Rosenberg đã viết, thời kỳ
chống đối giữa Tiểu thừa và Ðại thừa. Tài liệu của
thời kỳ này phần lớn được tìm thấy trong các tập
Prajnàpàramità (Bát nhã Ba-la-mật), Saddharma Pundarìka (Diệu
pháp liên hoa kinh), Dasabhùmikasù tra (Thập địa kinh), Gandavyùha
(Hoa nghiêm), Lankàvatàra (Nhập lăng già) và các luận tác của
các Ngài Nàgarjuna (Long thọ), Asvaghosa (Mã minh), Asanga (Vô trước)
và một số vị khác, khi các tập này đề cập đến vị
trí tương đối của Tiểu thừa và Ðại thừa.
THỜI
KỲ THỨ NHẤT (450 đến 350 trước Công nguyên):
PHẬT GIÁO TIỂU THỪA NGUYÊN THỦY HAY THUẦN TÚY
Ðã có một số tài liệu
văn học khá phong phú về thời kỳ thứ nhất này (thế kỷ
thứ nhất sau khi đạo Phật được hưng khởi), và nhờ vậy
giúp chúng ta giải quyết được nhiều vấn đề - một kết
quả nhờ công lao khó nhọc của Hội Pàli Text Society về vấn
đề ấn hành các nguyên bản Pàli Tạng. Với danh từ Tiểu
thừa, nguyên thủy hay thuần túy, chúng ta muốn nói đến hình
thức Phật giáo mà một phần lớn Luật Tạng và Kinh Tạng
Pàli đã đề cập đến. Với mục đích hiện tại trình
bày khái niệm của thời kỳ chuyển tiếp từ Tiểu thừa
sang Ðại thừa, chúng tôi sẽ trình bày một số kết luận
của các nhà học giả Phật giáo về đạo Phật trong thời
kỳ này, để xác nhận sự thay đổi của đạo Phật ngang
qua quá trình thời gian và phát khởi các học phái sau này.
Những kết luận được đề cập như sau:
1) Ðạo Phật được
bành trướng giới hạn trong một số thành phố hay làng
ở tại vòng đai trung tâm Ấn Ðộ từ Ðông sang Tây. Những
làng và thành phố quan trọng từ Ðông sang Tây như sau:
Kajangala, Campà, Ràjagaha (Vương xá), Gayà, Kàsi, Nàlandà,
Pàtaliputta, Vesàli, Sàvatthi (Xá vệ), các thuộc quốc của
Licchavi, Vajji, Videha, Malla, Bhagga và Koliya; Kosambi, Sankassa,
Ujjeni, Avanti, Mathura và Veranja. Cũng có một số tín đồ từ
nước Maddarattha, phương Bắc lại và hai làng Bà-la-môn xứ
Kuru và một số địa điểm phía Nam như Patitthàha,
Gandhàra và Takhasilà chưa được biết đến.
2) Các vua chúa và bộ
lạc được các tài liệu kể trên đề cập đến thuộc
tiền A-dục (Asoka) như Vua Bimbisàra (Tần bà ta la),
Ajàtasattu (A xà thế), Pasenadi Kosala (Ba tư nặc xứ Kiều tát
la) và Canda Pajjota và những bộ lạc như Buli, Koliya và
Vaji.
3) Vị trí của hàng
cư sĩ chưa được xác định. Các cư sĩ hình như chỉ đóng
vai trò hộ trì Tăng già hơn là một thành phần của Giáo
hội. Các vị này chỉ kính ngưỡng đức Phật và các đệ
tử của Ngài, nghe các vị này diễn giảng, giữ gìn một
số giới luật, và gặp dịp tụng đọc lời quy y Tam bảo,
hình thức độc nhất phân biệt một đệ tử đức Phật
với các người khác. Tuy vậy vị trí xã hội của các cư
sĩ không thay đổi, vì vẫn tiếp tục thuộc thành phần
xã hội trước khi trở thành Phật tử. Ở Ấn Ðộ, vị
trí xã hội thường hay tùy thuộc với tôn giáo.
4) Tôn giáo với toàn
nghĩa của nó chỉ dành riêng cho những vị xuất gia, trở
thành một tu sĩ, gìn giữ giới luật Pàtimokkha (Giới bổn).
Cư sĩ không thể giữ chu toàn giới bổn. Cho đến 10 giới
cũng khó giữ cho đầy đủ.
5) Các tập Pàramità
(Ba-la-mật) chưa được biết đến. Ðời sống đức Phật
thường bắt đầu khi Ngài xuất gia cho đến khi giác ngộ
Bồ đề, thỉnh thoảng có nói đến đời sống trước của
Ngài, như trong kinh Mahàgovinda hay Mahàsudassana. Quan điểm
đời sống của một vị Bodhisattava (Bồ-tát) thực hành
các hạnh Ba-la-mật còn rất mù mờ, nếu không phải là
không được biết đến.
6) Các tập Jàtaka (Bổn
sanh), một trong chín Anga (Chín Bộ kinh) chỉ nói một vài
vài mẩu chuyện liên hệ đến đời sống tiền thân của
đức Phật, như được tìm thấy trong kinh Mahàgovinda,
Mahàsudassana, Makha Deva và các Jàtaka khác, như ông Rhys
Davids đã sưu tầm trong các tập Nikàya và Vinaya. Nhưng các
chuyện tiền thân này chưa được tập hợp thành một tập
riêng diễn tả các hạnh Pàramita (Ba-la-mật) của vị Bồ-tát.
7) Ðức Phật là một
người nhưng toàn tri, có thần thông và chứng được nhiều
quả vị, các loại chúng sanh khác không chứng được. Sự
xuất hiện một đức Phật rất là hiếm có trong đời và
trải qua nhiều kiếp mới có một vị xuất hiện.
8) Giáo lý được giới
hạn trong ba Pháp Ấn: Vô thường (Anicca), Khổ (Dukkha) và
Vô ngã (Anatta), Tứ thánh đế (Ariyasacca), lý Duyên khởi
(Paticcasamuppàda) và Bát chánh đạo (Atthangika-magga);
phương pháp tu hành được giới hạn trong 37 pháp trợ đạo
(Bodhipakkhika Dhamma) những phương pháp tu hành này thường
được chia thành ba Vô lậu học: Sìla (Giới), samàdhi (Ðịnh)
và Pannà (Tuệ).
9) Mục đích đời sống
là A-la-hán quả, đôi khi là Ðộc giác quả (Pacceka Buddha)
và không đời nào Phật quả. Những thứ bực tu chứng đến
A-la-hán quả gồm có bốn: Sotàpanna (Dự lưu), Sakadàgàmi
(Nhứt lai), Anàgàmi (Bất lai), và Arahatta (A-la-hán).
10) Nibbàna (Niết
bàn) là một trạng thái an tịnh hoàn toàn, tận trừ mọi
phiền não (Kilesa) và do vậy mọi đau khổ là một trạng
thái hoàn toàn an tịnh (Sànta), vi diệu (Panìta) và cực lạc.
THỜI
KỲ THỨ HAI (350 đến
100 trước Công nguyên):
PHẬT GIÁO TIỂU THỪA HỖN HỢP
Lịch sử các sự kiện
và giáo lý đạo Phật trong thời kỳ này, một thời kỳ tối
quan trọng trong lịch sử Phật giáo, vẫn chưa được biết
rõ ràng và đầy đủ; trước hết vì những tài liệu để
tìm hiểu lịch trình giai đoạn này quá ít ỏi (2) và thứ
hai là chưa xác định một cách rõ ràng thời gian tính của
những tài liệu đã tìm được. Giai đoạn này chứng kiến
sự phân hóa giáo hội Tăng già thành nhiều tông phái và sự
phân tán những tông phái này khắp lãnh thổ Ấn Ðộ, mỗi
tông phái phát triển riêng biệt. Sự phân hóa trong Giáo hội
tuy là một điều không hay theo quan điểm chính thống, nhưng
thực trạng này cũng chứng tỏ sự chú tâm đặc biệt của
các đệ tử, cố gắng xác định thế nào là lời dạy
chân chính của đức Phật. Ðây cũng là sự cố gắng để
giải thích những lời cựu giáo theo tân pháp và áp dụng
chúng vào thực trạng thay đổi của đời sống bấy giờ,
do sự tiến bộ của tư tưởng trải hơn một thế kỷ đem
đến.
Sự
trưởng thành của văn
học Abhidhamma
Ðể theo kịp đà phát
triển của tư tưởng, các cựu tông phái phải cố gắng vượt
bực để kiện toàn và giữ vững vị trí của mình. Và kết
quả của sự cố gắng này là chúng ta có văn học
Abhidhamma của phái Theravàda (Thượng tọa bộ) và phái
Sarvàstivàda (Nhất thế hữu bộ). Những điểm tương đồng
lớn giữa các tập Nikaya (Àgama) (3) và tập Vinaya (Luật bộ)
(4) của phái Thượng tọa bộ và phái Nhất thế hữu bộ,
và những điểm tương phản lớn giữa văn học Abhidhamma
(5) của hai tông phái này nêu rõ rằng khi các tập Nikàya
và phần lớn luận bộ được kiết tập, hai giáo phái này
sống gần nhau ở Magadha (Ma kiệt đà) hay xung quanh xứ này
(6) và sử dụng chung một tài liệu (7), trái lại trong khi
kiết tập văn học Abhidhamma, chúng sống xa nhau và phát triển
văn học Abhidhamma một cách độc lập (8). Xét về nội dung
của tập Kathàvatthu, thuộc phái Thượng tọa bộ, chúng ta
thấy rõ rằng sự phát triển văn học Abhidhamma không những
để kiện toàn quan điểm riêng biệt của mình, mà cũng để
công kích quan điểm của đối phương và thành lập quan điểm
của mình đối với chúng. Do vậy, chúng ta có thể nói rằng
giai đoạn này không những chứng kiến sự xuất hiện của
nhiều tông phái mới mà cả sự phát triển mới mẻ của
những tông phái cũ (9).
Sự
xuất hiện của tập Jàtaka (Bổn sanh) và Avadàna (Thí dụ).
Ngoài sự cố gắng của
tân, cựu tông phái cạnh tranh nhau trong địa hạt văn học,
chúng ta cũng chứng kiến một sự tranh chấp sắc bén để
truyền bá giáo lý từng tông phái trong quần chúng và chính
nhờ sự tranh chấp này, đạo Phật được truyền bá rất
rộng rãi trong dân chúng. Chúng ta thấy rõ rằng các tập
Jàtaka và Avadàna có dụng ý xây dựng và phát huy lòng tin của
quần chúng đối với đạo Phật và nhờ vậy quần chúng
hóa tông giáo của mình (10). Các tập Jàtaka là một hậu ý
của Thượng tọa bộ, ban đầu không thuộc Tam Tạng của
phái này (Buddhavacana). Tập Jàtaka hay tổng số các chuyện
tiền thân mà một số mẩu chuyện được chạm khắc vào
các thạch tích danh tiếng ở Ấn Ðộ, nhất định thuộc
loại cựu trào như các học giả Rhys Davids, Cunningham,
Oldenbergn, và winternitz đã chứng minh, nhưng không phải tất
cả các mẩu chuyện Jàtaka đều đồng thời với các tập
Nikàyas. Theo Rhys Davids, các mẩu chuyện Jataka được tìm thấy
cả trong các tập Nikàya (Suttanta- Jàtaka của tập
Cullaniddesa) và trong tập Jàtaka thuộc loại chuyện tiền
thân cổ kính nhất. Ý kiến này được xem là rất có giá
trị.
Jàtaka được ghi vào
trong chín bộ kinh (Navànga), một phân loại rất xưa về
kinh điển đạo Phật. Sự phân loại này có thể khiến ta
nghĩ rằng các Phật tử thời xưa không phải không có một
văn học Jàtaka riêng biệt. Sự thật không phải vậy,
chúng ta cần phải nhớ rằng sự phân loại kinh điển thành
9 bộ kinh không phải nói đến 9 loại văn học riêng mà chỉ
là sự phân loại chín loại hành văn riêng được tìm thấy
trong kinh điển của các Phật tử cựu trào. Trong một bài
kinh Sutta hay Suttanta có thể có từng đoạn được xem là một
Sutta (Kinh), một Geyya (Ứng tụng) (11), một Gàthà (Kệ), một
Udàna (Vô vấn tự thuyết), một Veyyàkarana (Ký thuyết), một
Abbhutadhamma (Vị tăng hữu) hay một Jàtaka (Tiền thân). Sau
khi sự phân loại thành chín bộ kinh được thành hình khá
lâu, thời sự kiết tập các bộ Udàna, Itivuttaka và Jàtaka
mới xuất hiện. Sự giải thích về chín bộ kinh của Ngài
Buddhaghosa cũng nêu rõ rằng vị Luận sư này không tìm thấy
những bộ phận văn học nào tương ứng với chín bộ kinh.
Ðiều đặc biệt đáng chú ý là sự giải thích của vị
Luận sư về hai trong chín bộ kinh tức là Vedalla (Phương quảng)
và Abbhutadhamma (12). Vị Luận sư thú nhận không tìm thấy một
tập nào hay toàn bộ nào có thể phân loại vào hai loại
trên và vị này phải ghi một số kinh vào loại này. Dựa
vào hai điểm trên để suy xét, chúng ta nghĩ đến nên giải
thích cả bảy bộ kinh còn lại cũng tương tự như hai bộ
Vedalla và Abbhutadhamma. Thay cho liệt kê toàn tập Abhidhamma
vào Veyyàkarana (13), các bài kinh, trong ấy Ngài Sàriputta,
Mahàkaccàyana và đức Phật (14) giải thích với nhiều chi
tiết về Tứ đế và Bát chánh đạo, hay về giáo lý khác
của đạo Phật hay những lời dạy căn bản của đức Phật,
tất cả bài kinh kể trên nên liệt kê vào Veyyàkarana. Cũng
vậy, bộ kinh Jàtaka không phải chỉ nói đến 550 chuyện tiền
thân như Luận sư Buddhaghosa đã nói, mà chỉ cho một số
câu chuyện trong các tập Nikàya khi đức Phật kể đến những
tiền thân của Ngài. Pùrvànusmrtì (Túc mạng minh) là một
trong những thắng trí (Abhijnà) của vị A-la-hán. Như vậy
thật phù hợp với giáo lý nguyên thủy khi nói đ?n các tiền
thân. Nhưng dụng ý dùng các mẩu chuyện về Túc mạng minh
để làm phương tiện truyền bá đạo Phật, dụng ý này đến
sau, ít nhất là một thế kỷ nữa, từ khi đạo Phật mới
thành hình. Do vậy chúng ta phải đặt sự trước tác hay kiết
tập văn học Abhidhamma và văn học Jàtaka trong giai đoạn thứ
hai (15).
Như Buddhaghosa , các
nhà Luận sư Ðại thừa đã cố gắng phân loại Tam tạng
kinh điển của mình theo 12 bộ kinh - một sự phân loại
được Nhất thế hữu bộ, Ðại chúng bộ và các tông
phái khác chấp nhận đặt tập Astasàhasrikà Prajnàpàramità
theo Sùtra,và đặt tập Gandavyùha, Samàdhiràja và Saddharma-
pundarika (Diệu pháp liên hoa) theo Veyyàkarana, v.v... Nhưng sự
phân loại kinh điển theo 12 bộ kinh này không phải là công
trình của các nhà Ðại thừa. Chính do các vị Nhất thế hữu
bộ (16) và Ðại chúng bộ khởi xướng và được các tông
phái Tiểu thừa khác tuân theo. Ba bộ kinh được thêm là
Nidàna (Duyên khởi). Avadàna (Thí dụ) và Upadesa (Luận nghị).
Burnouf giải thích Nidàna là những tác phẩm nói đến những
nguyên nhân trước khi xảy ra sự tình, nghĩa là như thế nào
Sàkyamuni thành Phật. Nguyên nhân là đức Phật đã thành tựu
các hạnh Pàramita (Ba-la-mật) và như vậy các tác phẩm hay
một phần của những tác phẩm này diễn tả sự thành tựu
các hạnh Ba-la-mật được gọi là Nidàna. Burnouf cũng nêu
rõ là không có một văn học nào được gọi là Nidàna. Sự
giải thích của Burnouf được chứng minh bởi phần
Nidanakathà của tập Jàtakatthavannanà. Nhưng trong văn học Ðại
thừa cũng như trong tập Mahàva- stu, Nidàna có nghĩa là tự
phần, phần này nhiều khi đề cập trước đến vấn đề
sẽ nói đến ở các đoạn sau, như trường hợp tập Mahàvastu
(17). Những đoạn đức Phật sửa soạn nhập thiền, phóng
hào quang v.v..., sự xuất hiện của đức Phật trên hoa sen
v.v... trước khi giảng tập Prajnàpàramita được gọi là
Nidàna (18). Trong những bản dịch Tây Tạng của tập
Ratnakùtasùtra (Bảo tích kinh), dịa điểm diễn giảng của
một kinh được gọi là Nidàna. Theo các giải thích trên,
Nidàna có thể xem là tự phần của một tác phẩm. Nghĩa của
chữ Avadàna đã rõ ràng và không cần giải thích thêm. Chữ
này gồm tất cả những mẩu chuyện tiền thân đức Phật
hay những đệ tử của Ngài, hay những đệ tử tại gia đặc
biệt của Ngài và một văn học rất phong phú được nẩy
nở theo phân loại này (19). Nhưng sự giải thích danh từ
Upadesa có một vài điểm khó hiểu. Không có lý do gì để
phân loại các loại kinh Tantrà (Mật kinh) theo Upadesa vì các
loại này chưa được thành hình khi danh từ Upadesa được
phổ biến. Upadesa nghĩa là giảng huấn, như chữ Tây Tạng
bab-par-bstanpahisde dịch chữ Upadesa đã chứng minh. Trong một
tác phẩm Hán văn (20), upadesa được giải thích là những
bài đề cập đến những pháp tế nhị và bí mật. Như vậy
chữ này, về sau được hiểu theo nghĩa bí mật, như tập
Abhisamayalankàra kàrikà đôi khi được gọi là
Prajnàpàramitopadesasàstra (21).
Sự
chấp nhận các hạnh Ba-la-mật trong giáo lý Thượng tọa bộ
Chúng ta thấy rõ loại
văn học được chấp nhận, ít nhất là theo hai phân loại.
Chúng gồm phần lớn các mẩu chuyện, sự tích và ví dụ
v.v... hơn là phần giáo lý chính của đạo Phật. Chúng được
chấp nhận trong văn học Phật giáo dưới hình thức
Pùrvànusmrtis. Mục đích chính là phổ thông hóa đạo Phật
và để nêu rõ đạo Phật là đạo cho đại chúng cũng như
cho một số ít người chọn lọc có thể thoát tục xuất
gia. Ðây là một sáng kiến mà tông phái nguyên thủy sớm
nhất, tông phái Thượng tọa bộ, phải chấp nhận một cách
miễn cưỡng vì sự bắt buộc của hoàn cảnh. Văn học đầu
tiên của Thượng tọa bộ không nói đến Pàramità (22) và
mãi sau này, khi nói đến các hạnh Ba-la-mật, chỉ để gợi
niềm tin cho tín đồ chứ không phải khuyến khích tín đồ
làm theo. Nhưng thái độ của Nhất thế hữu bộ và Ðại
chúng bộ lại khác hẳn. Các vị này không phủ nhận sự
khó khăn tày trời để thực hiện các hạnh Ba-la-mật, nhưng
vẫn khuyến khích tín đồ nên cố gắng thực hành các hạnh
trên. Không những gây niềm tin, nhưng cũng khuyến khích mọi
người thực hành hạnh Dàna (Bố thí), Sìla (Trì giới)
Ksànti (Nhẫn nhục), Vìrya (Tinh tấn), Dhyàna (Thiền định)
và Prajnà (Trí tuệ), các vị này tạo ra rất nhiều mẩu
chuyện không những liên hệ với đời sống đức Phật mà
cả với đời sống của những người đạt đến địa vị
trọng yếu trong đạo Phật.
Tông phái Thượng tọa
bộ nói đến 10 Ba-la-mật tức là Dàna (Bố thí), Sìla (Trì
giới), Nekkhamma (Ly dục), PaJnà (Trí tuệ), Viriya (Tinh tấn),
Khànti (Nhẫn nhục), Sacca (Sự thật), Adhitthàna (Phát nguyện),
Mettà (Từ) và Upekkhà (Xả). Nhưng trong toàn văn học
Sanskrit, Tiểu thừa hay Ðại thừa, sớm hay muộn chỉ nói
đến 6 Ba-la-mật (23). Chỉ trong tập Dasabhùmikasùtra (Thập
địa kinh) (24) mới nói đến 10 Ba-la-mật, thêm 4 pháp:
Upàyakausalya (Xảo phương tiện), Pranidhàna (Phát nguyện),
Bala (Lực) và Jnàna (Trí). Nếu chúng ta so sánh ba danh sách
thì danh sách 6 Ba-la-mật là xưa nhất. Thượng tọa bộ thêm
vào Nekkhamma (Ly dục), Sacca (Sự thật), Adhitthàna (Phát nguyện),
Mettà (Từ), Upekkhà (Xả) và bỏ rơi Dhyàna (Thiền). Rõ
ràng danh sách này thiếu hệ thống vì Mettà và Upekkhà là 2
pháp trong 4 vô lượng tâm và phải được các vị A-la-hán
thực hành triệt để, và Sacca có thể bỏ vào Sìla (Giới).
Trong hai pháp còn lại, Adhitthàna là phát nguyện (như Sumedha
phát nguyện thành Phật) và cố gắng thực hành cho kỳ được
pháp này tương đương với pháp Pranidhàna của Ðại thừa
(25). Nekkhamma (Ly dục Ba-la-mật) nghĩa là thoát ly thế tục,
đặc biệt được Thượng tọa bộ nhấn mạnh, và hạnh
này thật sự là một đặc điểm của giáo lý Thượng tọa
bộ, còn Ðại chúng bộ và Nhất thế hữu bộ thời ít đả
động đến. Các nhà Ðại thừa cũng dành một địa vị đặc
biệt cho Nekkhamma, nhưng không bắt buộc mọi người đều
phải thoát ly thế tục để được hưởng những đặc ân
của tôn giáo.
Một trong những nguyên
nhân chính của ba thái độ khác nhau của ba tông phái đối
với vấn đề Ba-la-mật là Thượng tọa bộ bác hẳn quan
niệm một cá nhân có thể phát nguyện thành Phật, còn hai
tông phái kia vẫn xem sự phát nguyện thành Phật có thể
thành tựu được, dầu là một việc làm rất khó khăn.
Trong tập Divyàvadàna (26) có những đoạn nói đến sau thời
thuyết pháp của đức Phật, có chúng sanh nhận chân được
sự thật, có chúng sanh chứng được một trong bốn quả thánh,
có chúng sanh phát nguyện chứng Thanh văn quả hay Duyên giác
quả và có chúng sanh chứng được Vô thượng chánh đẳng
chánh giác (Anuttara-samyaksambodhi). Ðoạn này cho chúng ta thấy
Nhất thế hữu bộ (bộ phái của tập Divyàvadàna) không bảo
thủ như Thượng tọa bộ. Ðại chúng bộ như đã được
biết là học phái đầu tiên đã chấp nhận sự thay đổi
quan điểm này. Tông phái này là tông phái tiên phong của Ðại
thừa và tự nhiên các hạnh Ba-la-mật trở thành giáo lý của
học phái này. Như vậy, sự chấp nhận và sự hệ thống
hóa các hạnh Ba-la-mật chính do Ðại chúng bộ hay Nhất thế
hữu bộ khởi xướng và sau cùng được phái Thượng tọa
bộ chấp nhận với một vài sửa đổi cần thiết.
Liên hệ mật thiết với
các hạnh Ba-la-mật là các Jàtaka (Bổn sanh) và Avadàna (thí
dụ) và kết quả là các điêu khắc ở Bharaut và Sanchi. Cả
ba học phái đều tận lực tuyên truyền và nay cũng chưa rõ
học phái nào là cha đẻ tinh thần cho các kiến trúc bằng
đávĩ đại ấy. Nhiều học giả (27) cố gắng truy nguyên
những bia đá khắc những mẩu chuyện Jàtaka và nhiều mẩu
chuyện được tìm thấy trong tập Jàtakatthavannanà. Tuy vậy
sự truy nguyên này cũng chưa lấy gì làm chắc chắn cho lắm
và rất có thể văn học rất phong phú của Avadàna nay còn
trong tình trạng bản thảo có thể giúp phần truy nguyên
được chắc chắn và tốt đẹp hơn.
TRUYỀN
GIÁO
Sự cố gắng của các
học phái để truyền bá giáo lý của mình được thành
công như đã được các kiến trúc bằng đá ở Ấn Ðộ chứng
thực. Mỗi học phái chắc chắn tăng số tín đồ rất nhiều
như đã được chứng thực trong một số bia ký, các bia ký
này thuộc một giai đoạn sau hơn một chút giai đoạn hiện
đang được đề cập. Những bia ký này có nói đến tặng
vật đặc biệt cho mọi học phái. Nhưng ngoài những bia ký
này còn những bia ký khác không ghi một học phái đăc biệt
nào mà chúng cúng cho Tăng giới khắp bốn phương
(Caturdisasangha). Sự kiện này nêu rõ các đệ tử có thể
thuộc một học phái đặc biệt nào nhưng chúng cúng dường
tất cả học phái. Vì thời đại những bia ký này không
giúp nhiều cho thời đại đang được đề cập đến, nên
chúng ta phải tự bằng lòng với những kết quả nhỏ mọn
của một số tài liệu ít oi. Số tài liệu này có thể
được biên tập chậm hơn thời đại đang được đề cập
đến, nhưng có thể xem là đem lại những tài liệu cần
thiết cho giai đoạn hiện tại.
Từ các tập Nikàya,
chúng ta thấy rằng đạo Phật nguyên thủy được giới hạn
trong vòng Trung Ấn từ Anga đến Avanti, ngoài ra còn có một
số tín đồ ở những địa phương xa xăm phương Bắc và
phương Nam (28). Ðoạn nói về sự phân chia xá lợi đức Phật
trong kinh Mahàparinibbàna, văn hệ Pàli và Tây Tạng (29) cho
chúng ta rõ một cách khá xác đáng sự truyền bá đạo Phật
trong khoảng bắt đầu giai đoạn thứ nhất. Những dân tộc
được chia xá lợi là dân tộc Licchavis ở Vesàli, Sàkyas
ở Kapilavatthu, Buli ở Allakappa, Koliyas ở Ràma-gàma, Bràhmana
ở Vethadìpa, Mallas ở Pàvà Kusinàrà, Moriya ở Pipphalivana
và dân chúng ở Magadha (Ma kiệt đà). Những địa điểm
được đề cập đến đều thuộc đông Ấn Ðộ. Một địa
điểm ngoài đông Ấn được đề cập là Gandhàrapura, được
xem là có thờ một răng Phật (30). Nhưng chi tiết này được
thêm về sau, như vị chú giải đã nêu rõ. Chắc chắn dân
chúng Gandhàrapura không được chia phần xá lợi.
Giới vức của
Majjhimajanapada (Trung quốc, một tên khác của Ấn Ðộ chỉ
giới vức đạo Phật được truyền bá) như đã ghi trong tập
Mahàvagga thuộc Luật tạng (31) giúp chúng ta hiểu thêm về
sự bành trướng đạo Phật trong giai đoạn đầu. Giới vức
ấy như sau: Kajanagala nigama, phương Ðông, sát rừng
Mahàsàlà, con sông Sallavatì phía Ðông nam, Setakannika nigama
phía Nam, Thùna bràhmanagàma phía Tây và Usìrapabbata phía Bắc.
Theo tài liệu này, Avantidakkhinàpatha là một biên địa (32),
cũng như nước phía Ðông xứ Kajan-gala, được xem chính là
Bhagalpur (33). Tập Divyàvadàna (34) duy trì truyền thống này,
chỉ thay xứ Kajangala phía Ðông bởi xứ Pundravardhana. Nếu
Pund-ravardhana được xác nhận là một địa điểm ở Bắc
Bengale, thời tập Divyàvadà-na có nới rộng giới vức phía
Ðông một chút.
Tên một địa điểm nữa
trong tài liệu này cần được chú ý. Ðó là Usìraddhaja của
tập Mahàvagga và Usìragiri của tập Divyàvadàna. Chúng ta
được biết một hòn núi Usìra ở gần Mathurà (35) và
Tàranàtha cũng nói chúng ta biết rằng Upagupta (Ưu ba cúc
đa), vị tu sĩ danh tiếng ở Mathurà và theo truyền thống Nhất
thế hữu bộ là vị tôn sư của vua A-dục, sống tại chỗ
này ba năm trước khi đi đến Kashmir và sau khi rời khỏi
vàrànasì (36). Như vậy Mathurà một thành trì của Nhất thế
hữu bộ, được kể vào trong Majjhimajanapada.
Theo tài liệu về kỳ
kiết tập Vesàli như tập Cullavagga (37) đã ghi chép, và
trong Luật tạng của Nhất thế hữu bộ và học phái
Dharmagupta, hình như chân trời của đạo Phật, cho đến bắt
đầu thế kỷ thứ hai sau khi đạo Phật dù được thành lập,
cũng không được rộng rãi cho lắm. Những tài liệu địa
dư trích được trong tập Cullavagga như sau: Yasa, vị triệu
tập kỳ kiết tập chính thống Vesàli, từ Vesàli đến và
đi Kosambi. Và tại đây, vị này cử sứ giả đi đến các
vị Tỳ kheo ở Pàtheyya và Avantidakkhinàpatha. Sambhùta
Sànavàsi lúc bấy giờ ở tại núi Ahoganga, tập họp 60 vị
Tỳ kheo ở Pàtheyya và 80 vị Tỳ kheo ở Avanti-dakkhinàpatha,
tất cả những vị này đều theo hạnh đầu đà. Ðại đức
Revata ở Soreyya, đi ngang qua các xứ Sankassa, Kannakujja,
Udumbara và Aggalapu- ra đến tại Sahajàti. Ðại đức Salha
ở Sahajàti, sau khi thảo luận xác nhận rằng các Tỳ kheo
ở Pàtheyya xử sự đúng với giới luật, còn các Tỳ kheo
ở Pàcìnaka là sai lầm.
Ðể giải quyết sự
tranh chấp, một hội đồng được thành lập. Trong hội đồng
này, các Ðại đức Sabbakàmi, Salha, Khujjasobhita và
Vàsabhagàmika đại diện cho phái Pàcìnaka, còn các đại đức
Revata, Sambhùta Sànavàsi, Yasa và Sumana đại diện cho phái
Pàtheyyaka. Một sự kiện cần phải để ý trong tài liệu
này là sự phân chia các vị Tỳ kheo thành hai phái:
Pàcìnaka và Pàtheyyaka. Pàcìnaka chỉ cho người ở phương
Ðông, đặc biệt là dân Vesàli. Vị đại diện chính thức
cho phái này là Sabbakàmi (38), một đệ tử của Ananda và
Salha, một tu sĩ có tiếng ở Sahajàti. Pàtheyyaka là những
tu sĩ ở Kosambi, Pàtheyya và Avantidakkhinàpatha; đại diện
cho phái này là Sambhùta Sànavàsi, một nhân vật quan trọng
trong truyền thống Thượng tọa bộ và Nhất thế hữu bộ,
Revata - một lão Tỳ kheo ở Soreyya, và yasa - nổi danh vì
liên hệ kỳ kiết tập thứ hai (39).
Truyền
thống Tổ sư hay Àcariyaparamparà
Những tài liệu về kỳ
kiết tập thứ hai của Nhất thế hữu bộ và Thượng tọa
bộ giống nhau (40). Và về danh sách các vị Tổ sư thừa kế
cũng không có sự sai khác. Thượng tọa bộ chỉ nói đến
Sambhùta Sànavàsi như là một hội viên của hội đồng kỳ
kiết tập thứ hai, còn Nhất thế hữu bộ nói vị này là
Tổ sư thừa kế Ananda. Hai truyền thống lại tách riêng ra
sau kỳ kiết tập thứ hai, một truyền thống nói đến kỳ
kiết tập của vua A-dục dưới sự lãnh đạo của
Moggaliputta Tissa, còn truyền thống kia thì làm lơ và chỉ
nói đến Upagupta, vị cố vấn tôn giáo của vua A-dục và
nói rất nhiều đến kỳ kiết tập Kaniska ở Jalandhara, thế
cho kỳ kiết tập vua A-dục. Sự sai khác về truyền thuyết
này rất có ý nghĩa, và từ đó, lịch sử đạo Phật không
còn là lịch sử của một đạo Phật mà trở thành lịch sử
của nhiều học phái, đặc biệt là ba học phái Thượng tọa
bộ, Nhất thế hữu bộ và Ðại chúng bộ (41).
Phái Thượng tọa bộ
thiên hẳn về Luật tôn và dù cho truyền thuyết Tây Tạng
xem Kaccàyana là vị lãnh đạo của học phái này, Upàli, vị
kiết tập Luật tạng cũng được học phái này kính trọng,
và sự liên hệ của Upàli với kỳ kiết tập vua A-dục,
được tiếp tục nhờ những đệ tử của Ngài. Chúng ta cần
để ý rằng tuy Thượng tọa bộ nói đến một danh sách Tổ
sư truyền thừa (Acariyaparamparà) từ Upàli hay Sàriputta, nhưng
không bao hàm ý nghĩa lịch đại tổ sư. Trong tập Majjhima
Nikàya (42), đặc biệt nói đến Tăng già Phật giáo không
có vị lãnh đạo tối cao. Sự thật chỉ có truyền thuyết
Tây tạng và Trung hoa mới cho chúng ta một quan niệm lịch
đại tổ sư thừa kế. Tập Atthasàlinì cho chúng ta một
danh sách các vị Tổ sư A tỳ đàm, bắt đầu từ Sàriputta,
nhưng truyền thuyết này không đáng tin cậy (43).
Truyền thống Thượng
tọa bộ và Nhất thế hữu bộ về lịch đại tổ sư trong
hai thế kỷ đầu có thể tóm tắt như sau:
MAHÀ-KASSAPA |
ANANDA |
SANAVÀSIKA
(giảng sư tại Sràvasti và lân cận) |
UPAGUPTA
(Tirhut- Mathura, cố vấn tôn giáo của A-dục theo
truyền thuyết Nhất thế hữu bộ) |
DHITIKA
(Nhập đạo tại Mathurà, đến thăm hay trú ở Kashmir,
Tukhàra, KàmarÙpa và Malava, Menander và Hermasios là hai
vị đồng thời và thọ giáo với Ngài). |
MADHYÀNTIKA
(Benares, Ùsìra rồi giảng sư ở Kashmir). |
SÀRIPUTTA |
BHADDAJI |
SOBHITA |
-MOGGALI-PUTTA
TISSA (Pàtaliputta: Cố vấn tôn giáo của A-dục theo
truyền thuyết Thượng tọa bộ)
- NÀGASENA của
MILINDAPANHA (nếu Minàra của Tàranàtha là Milinda của các
tập Pàli) |
UPÀLI |
SÀSADA
(Vesali) |
SONAKA
(Ràjagaha) |
SIGGAVA
(Pàtaliputta) |
Như chúng tôi đã lưu
ý, chúng ta không nên xem Àcariya-paramparà như là lịch đại
tổ kế vị, và chúng ta cũng đừng để thời gian làm vị
Tổ sư theo thời gian trung bình thông thường chúng ta làm,
khi nói đến sự kế vị của vua chúa, vì các vị Tổ sư
Phật giáo thường sống lâu và không có truyền thống trò
kế vị thầy; lại nữa lễ nhập đạo nhận đệ tử có
thể xảy ra trong đời sống sớm nhất hay trễ nhất của vị
Tổ sư. Theo truyền thuyết Tây Tạng, Madhyàntika được
Ananda nhận làm đệ tử không bao lâu trước khi Ananda nhập
diệt (44). Và như vậy Madhyàntika có thể đồng thời cả với
Sanavàsi và Upagupta, hay của Dàsaka, Sonaka, Siggava và
Moggaliputta. Ðọc truyền thuyết theo cách này và chú ý đến
tên các thành phố, địa điểm hoạt động của mỗi vị Tổ
sư, chúng ta cho thể nói rằng, sau kỳ kiết tập Vesàli,
phái Nhất thế hữu bộ ngày càng được nhiều tín đồ,
được truyền bá về hướng Bắc và có hai địa điểm
quan trọng: Mathura với Upagupta là vị lãnh đạo, và Kashmir
với Madhyàntika là vị lãnh đạo. Hai địa điểm này được
hợp nhất dưới sự lãnh đạo của Dhitika, vị này hình như
mở rộng chân trời ảnh hưởng của Nhất thế hữu bộ về
hướng Ðông, đến Kàmarùpa, về hướng Tây, đến Màlava,
về hướng Tây bắc, đến Tukhàra, lãnh vực của Minàra và
Imhasa. Phái Thượng tọa bộ vẫn giữ căn cứ tại Magadha cùng
với một nghành ở Ujjeni do Mahàkaccàyana sáng lập.
Mahindavà Sanghamittà (45) hình như có liên hệ mật thiết đến
ngành Ujjeni của Thượng tọa bộ và truyền bá học phái
này đến Tích Lan.
Vai
trò của vua A-dục trong sự truyền bá đạo
Phật
Chúng ta chưa biết được
rõ ràng vai trò của vua A-dục trong sự truyền bá đạo Phật.
Nếu thật vua A-dục có giúp đỡ cho đạo Phật được truyền
bá, chúng ta cũng chưa biết rõ Vua giúp cho một học phái
nào nói riêng, hay giúp cho đạo Phật nói chung. Trong những
lời huấn dụ của Vua được ghi chép trong các bia ký,
chúngta không tìm thấy một bằng cớ nhỏ mọn nào nêu rõ
sự giúp đỡ thiết thực của Vua trong sự truyền bá đạo
Phật. Các bia ký Ngài nói đến Dhammavijaya (Pháp thắng) chống
với sự chinh phục bằng binh khí, nhưng Dhamma không phải chỉ
riêng cho đạo Phật. Dhamma theo vua A-dục gồm có những
cách ngôn khuyến khích một đời sống lý tưởng hay làm
các việc phước thiện đưa đến hạnh phúc cho đời này
hay đời sau.
Các bia ký không đề cập
đến Niết bàn, hay Chơn không hay Vô ngã hay Khổ đế. Trái
lại chỉ nói đến Chư thiên, sự hạnh phúc sống trên
thiên giới, đời sống này không bao giờ là lý tưởng của
đạo Phật nguyên thủy, vì đời sống ở Dục giới, Sắc
giới hay Vô sắc giới đều vẫn phải chịu đau khổ, theo
quan niệm của đạo Phật nguyên thủy. Nhưng chúng ta phải
công nhận rằng khi một hoàng đế như A-dục có thiện ý với
một tôn giáo đặc biệt nào và tự xưng là tín đồ cư
sĩ của đạo Phật và đi chiêm bái các thánh tích Phật
giáo, thời tự nhiên tôn giáo ấy được sự khích lệ
phát triển và do vậy sự truyền bá của các tu sĩ Phật giáo
trở thành dễ dàng. Như vậy chúng ta có thể xem vua A-dục
như môt nhà truyền bá đạo Phật tiêu cực, và dưới triều
đại của Ngài, đạo Phật được truyền bá rộng rãi
trong quốc độ của Ngài và nhiều khi vượt ngoài biên giới
Ấn Ðộ, như các quốc gia của Yavana, Kamboja, Gandhàra và
Pitinika về phía Tây và Codas, Pàndyas cho đến Tàmraparni về
phía Nam. Vì vua A-dục chỉ là một vị hộ trì, một cư
sĩ, lẽ dĩ nhiên Ngài không thể can thiệp vào các tranh chấp
học phái đang xảy ra trong triều đại của Ngài. Vì vậy rất
khó mà tin truyền thuyểt của tập Mahàvamsa cho rằng Vua ủng
hộ phái Vibhajjavàda (tức là Thượng tọa bộ) (46) hay truyền
thuyết của các tập Avadàna cho rằng Vua là một đệ tử
trung kiên của Upagupta.
Một điểm rất đặc
biệt nữa là vua A-dục không đề cập đến quan niệm Bồ-tát,
các hạnh Ba-la-mật, những hạnh này rất dễ dàng thuận tiện
được chấp nhận vào quy ước đạo đức gồm những câu
cách ngôn của Ngài. Vua khuyến khích dân chúng nên lựa con
đường trung đạo, tránh xa hai sự thái quá, một là thoát
ly ra khỏi thế tục, hai là sự đắm say trong ganh tị, sân
hận, giải đãi v.v... Như vậy chứng tỏ Vua không tán
thành một đời sống thoát ly gia đình, một lối sống được
đ?o Phật nguyên thủy Tiểu thừa quan trọng hóa. Có lẽ vì
vua A-dục ưa thích đời sống lý tưởng của một cư sĩ
hơn đời sống thoát tục của một tu sĩ nên các tu sĩ đạo
Phật tìm cách phổ thông hóa đạo Phật và nhờ vậy chúng
ta có một nền văn học Jàtaka và Avadàna rất phong phú.
Truyền thuyết của tập
Mahàvamsa về vai trò vua A-dục trong đệ tam kiết tập với
Moggaliputta Tissa, và sự đặc phái của sứ giả truyền
giáo đến nhiều địa điểm tại Ấn Ðộ đang chờ đợi
sự minh chứng. Rất có thể có một kỳ kiết tập riêng của
học phái Thương tọa bộ được triệu tập với sự lãnh
đạo của Moggaliputta Tissa trong thời đại vua A-dục và những
hoạt động tích cực để truyền bá đạo Phật ở trong và
ngoài xứ Ấn Ðộ (47), với sự ghi chép có màu sắc đặc
biệt của tập Mahàvamsa. Cũng một nhận xét tương tự, chúng
ta nên xem các truyền thuyết về hai vị cố vấn tôn giáo
cho vua A-dục, Ngài Upagupta và Ngài Moggaliputta Tissa. Vua A-dục,
một vị Vua không thiên vị, đối xử bình đẳng với những
Phật tử và không phải Phật tử. Trong trường hợp này, tự
nhiên Ngài không ủng hộ một học phái này chống lại một
học phái khác. Các vị Thượng tọa bộ và Nhất thế hữu
bộ liên hệ tên của Ngài với những vị Tổ sư lãnh đạo,
với mục đích quan trọng hóa học phái của mình. Như vậy
thật là vô ích, mọi cố gắng chứng minh Upaguputa và
Moggaliputta Tissa là một, như Smith và một số học giả đã
làm (48). Chúng ta có thể tin tưởng chấp nhận truyền thuyết
của Mahàvamsa, nói rằng trong thời đại vua A-dục, đạo Phật
được truyền bá đến các nước Kashmira Gandhàra,
Mahisamandala, Vanavàsì, Yona, Mahàrattha, Himavanta Padesa,
Suvannabhùmì và Lankàdìpa (49).
Sự
nghiệp của phái Ðại chúng bộ
Nếu chúng ta tìm đuợc
các tài liệu của phái Ðại chúng bộ, chúng ta sẽ được
biết thêm nhiều về sự truyền bá đạo Phật trong giai đoạn
này. Rất có thể tài liệu chữ Hán về Luật tạng Ðại
chủng bộ, chứa chấp nhiều tin tức quan trọng, nhưng hiện
chúng ta chưa biết gì về những tài liệu này. Vì không có
một truyền thuyết nào của Ðại chúng bộ, nên chúng ta
không có những tin tức rõ ràng về Ðại chúng bộ và phần
đất Ấn Ðộ nào mà học phái này giới hạn sự hoạt động
của mình. Theo tài liệu về cuộc kiết tập ở Vesàli,
chúng ta có thể nói rằng học phái này vẫn gìn giữ trung
tâm ở Vesàli và từ nơi bia ký trên tượng đá sư tử ở
Mathura (120 trước kỷ nguyên (50), và những chữ khắc trên
độc bình Wardak ở A phú hản (51), chúng ta có thể tin rằng
học phái này cố gắng truyền bá về hướng Bắc. Nhưng các
hang ở Karle và vị trí trung tâm hoạt động hai chi phái
Pubbaseliya và Aparaseliya của Ðại chúng bộ ở Dhanakataka cho
chúng ta thấy học phái này thành công trong sự truyền bá về
hướng Nam hơn là về hướng Bắc.
Theo Bác sĩ Burgess, các
tháp Amaràvatì ở Dharanikot (Dhànykataka) bắt đầu được xây
dựng sớm cho đến khoảng thế kỷ thứ hai trước kỷ nguyên
(52) và Nàgàrjuna có liên quan mật thiết với sự đóng đô
đạo Phật ở địa điểm này. Dù thế nào, không có gì
nghi ngờ sự kiện Dhànyakataka là trung tâm chính của phái
Caityaka, hai chi nhánh Pùrva và Aparasaila của học phái Ðại
chúng bộ và dân chúng ở tại đây đã cúng dường rất
nhiều cho trung tâm Phật giáo này. Chính là một địa điểm
được tập Manjusrìmùlakalpa xem là thích hợp để tu hành.
Tập Manjusrìmùlakalpa nói thêm chỗ này có thờ xá lợi đức
Phật. Sự kiện này được một bia ký mới tìm được chứng
thực, bia ký này ghi rõ, người chị của vua Màdhariputra
srìvìrapurusadatta có cúng dường một cột trụ cho bảo tháp
cất chứa xá lợi của đấng Chánh giác. Trong những bia ký
trên tượng đá sư tử ở Mathura (120 trước kỷ nguyên
(50), và những chữ khắc trên độc bình Wardak ở A phú hản
(51), chúng ta có thể tin rằng học phái này cố gắng truyền
bá về hướng Bắc. Nhưng các hang ở Karle và vị trí trung
tâm hoạt động hai chi phái Pubbaseliya và Aparaseliya của Ðại
chúng bộ ở Dhanakataka cho chúng ta thấy học phái này thành
công trong sự truyền bá về hướng Nam hơn là về hướng Bắc.
Theo Bác sĩ Burgess, các
tháp Amaràvatì ở Dharanikot (Dhànykataka) bắt đầu được xây
dựng sớm cho đến khoảng thế kỷ thứ hai trước kỷ nguyên
(52) và Nàgàrjuna có liên quan mật thiết với sự đóng đô
đạo Phật ở địa điểm này. Dù thế nào, không có gì
nghi ngờ sự kiện Dhànyakataka là trung tâm chính của phái
Caityaka, hai chi nhánh Pùrva và Aparasaila của học phái Ðại
chúng bộ và dân chúng ở tại đây đã cúng dường rất
nhiều cho trung tâm Phật giáo này. Chính là một địa điểm
được tập Manjusrìmùlakalpa xem là thích hợp để tu hành.
Tập Manjusrìmùlakalpa nói thêm chỗ này có thờ xá lợi đức
Phật. Sự kiện này được một bia ký mới tìm được chứng
thực, bia ký này ghi rõ, người chị của vua Màdhariputra
srìvìrapurusadatta có cúng dường một cột trụ cho bảo tháp
cất chứa xá lợi của đấng Chánh giác. Trong những bia ký
tại chỗ này, do Bác sĩ Burgess biên tập, có bia ký số 121
nói đến học phái Caityaka, học phái này có hai chi nhánh
Pùrva và Aparasaila. Trong những vật tìm được ở khu vực kế
cận chỗ này, có hai trong nhiều bia ký khác tìm được, có
nói đến học phái Puvaseliya (Pùrvasaila) và Avaras (Aparasaila)
(53). Các bia ký này có thể được xem là thuộc khoảng thế
kỷ thứ hai sau kỷ nguyên. Một địa điểm quan trọng khác
gần Dhànykataka là Srìparvata (Srisailam) tại chỗ này, theo
truyền thuyết Tây Tạng, ngài Nàgàrjuna sống những ngày cuối
cùg của đời Ngài (54). Tập Manjusrìmùlakalpa cũng chú ý đến
núi này, xem đó là một địa điểm thích hợp để tu hành.
Một bia ký mới tìm được ghi rõ một số tín đồ xây dựng
một số tháp tịnh xá và đào giếng cho các tín đồ đi
chiêm bái các Phật tích từ Gandhàra, Cìna, Aparànta, Vanga,
Vanavàsì, Tambapannidìpa đến. Từ những sự kiện này,
chúng ta có thể kết luận rằng khoảng đầu thế kỷ thứ
nhất sau kỷ nguyên, trên bờ sông Krishna tại quân Guntur có
môt trung tâm quan trọng của phái Ðại chúng bộ. Danh từ
Andhaka dùng để gọi các chi phái của học phái này cho
chúng ta biết học phái này rất thịnh hành ở xứ Andha và
được vua chúa, quý tộc và dân chúng xứ Andha ủng hộ như
bia ký ở Amaràvati nêu rõ.
Ðạo
Phật sau vua A-dục
Tập Mahàvamsa và
Sàsanavamsa trình bày một lịch sử liên tục của đạo Phật
ở Ấn Ðộ cho đến thời đại vua A-dục, rồi nói đến lịch
sử đạo Phật ở Tích Lan, khiến chúng ta không rõ về sự
nghiệp của phái Thượng tọa bộ ở Ấn Ðộ cho đến khi
chúng ta có tập Mìlindapanha. Theo tập này, vua Milinda ở
Sàgala (Sialkot, Lahore) rất chú ý đến đạo Phật, và
Nàgasena sinh ở Kajangala, phương cực đông của
Majjhimajanapada, đến thăm vua, đi ngang qua các xứ Vattaniya
và Pàtaliputta. Nàgasena dừng tại Sankheyyaparivena ở Sàgala,
con đường của Nàgasena đi cho chúng ta thấy đạo Phật đã
truyền bá đến Sàgala (55) về phương Bắc.
Tàranàtha trái lại tiếp
tục câu chuyện và cho chúng ta biết sự truyền bá đạo Phật
ở Ấn Ðộ sau vua A-dục. Nhưng vì Ngài phần lớn dựa theo
truyền thuyết Nhất thế hữu bộ cho nên phần lịch sử
Ngài nói đến có thể xem là lịch sử của phái Nhất thế
hữu bộ. Ngài chép rằng Upagupta độ cho Dhitika (56) sinh trưởng
ở Ujjayinì, tại Mathura, chỗ ở thường nhật của Upagupta.
Sự lãnh đạo như vậy đã trao qua từ Upagupta đến Dhitika,
và vị này truyền bá đạo Phật rất mạnh và giáo hóa
được Minàra, Vua xứ Tukhàra. Nhiều tu sĩ đồng thời với
Dhitika từ Kashmir đến tại chỗ này và xây dựng nền tảng
đạo Phật vững bền ở đây. Các vị này được sự ủng
hô của vua Minàra và Imhasa, (57) con vua Minàra. Rồi Dhitika
đi đến Ðông Ấn ở Kamarùpa và độ cho một Bà-la-môn
giàu có tên là Siddha và xây dựng đạo Phật ở tại chỗ
này. Xong Ngài đi đến Màlava và độ cho một Bà-la-môn
giàu có tên là Adarpa và như vậy đạo Phật bắt đầu được
truyền bá tại địa phương này. Cuối cùng Ngài đến tại
sinh quán Ujjayinì và sống những ngày cuối cùng của đời
Ngài tại đây. Ngài được Kàla và Krsna (58) kế vị và tiếp
theo là Sudarsana và Bharukaccha. Lãnh vực hoạt động phần lớn
của cả hai vị Ty kheo này là ở phía Tây (Sindhu) và phía Bắc
(Kashmir) Ấn Ðộ. Krsna được ghi chép là truyền bá đạo
Phật đến Nam Ấn, kể cả các đảo nhỏ chung cả Tích Lan
và sau đó truyền bá đến Màhàcìna (59). Poshada, vị kế tiếp
Krsna truyền bá đạo Phật ở Orissa dưới triều đại vua
Vigatàsoka (60). Tài liệu của Tàranàtha đầy những chuyện
thần thoại và do vậy không thể xem là chân xác. Nhưng nhiều
lời tuyên bố của Ngài không phải là vô lý và trong nhiều
trường hợp được các nhà chiêm bái Trung Hoa xác chứng.
Do vậy những tài liệu này cũng có giá trị của chúng, nhưng
chúng ta phải dè dặt thận trọng trong khi dùng đến.
Những
phát triển về giáo lý
Nay chúng ta tìm hiểu một
quan điểm tổng quát về những phát triển giáo lý trong
giai đoạn tiền Ðại thừa. Phái Ðại chúng bộ rõ ràng
là môn phái Tiểu thừa sớm nhất đã nêu rõ có xu hướng
quan niệm đức Phật như một hóa thân và quan niệm này
được phát xuất thế bộ (61), một chi phái của Ðại
chúng bộ, phát triển cùng độ. Nhưng chúng ta chưa chắc học
phái Ðại chúng bộ hay học phái Nhất thế hữu bộ đã
sáng tác đầu tiên quan niệm Bồ-tát và hạnh Ba-la-mật, 6
hạnh Ba-la-mật mà một vị Bồ-tát nào cũng bắt buộc phải
thực hành, thường được các tác phẩm của Ðại chúng bộ
và Nhất thế hữu bộ nói đến, và cả hai đều chịu trách
nhiệm về sự lớn mạnh và phong phú của văn học Avadàna
(62), đề tài chính của nền văn học này là sự thành tựu
các hạnh Ba-la-mật.
MỤC
ÐÍCH PHẬT QUẢ
Nay còn lại một quan
điểm nữa, tức là sự chứng ngộ Phật quả như là mục
đích và kết quả là A-la-hán quả bị hạ thấp xuống
(63). Phái Thượng tọa bộ không phải tuyệt đối cho rằng
Phật quả không thể đạt được, vì có Bà-la-môn Sumedha
đã trở thành Thích Ca Mâu Ni và một chúng sanh nào đó sẽ
trở thành Phật Di Lặc, nhưng vì hai trường hợp này quá
hy hữu nên phái này tự nghĩ khó mà đề cập Phật quả làm
lý tưởng cho nhân loại noi theo. Các vị Thượng tọa bộ
tuyên bố rằng phải trải nhiều kiếp một đức Phật mới
xuất hiện ở đời và các tập Latitavistara, Mabàvastu và
nhiều tập Ðại thừa khác cũng đồng ý quan niệm này. Tuy
vậy, tập Divyàvadàna chép rằng sau khi đức Phật thuyết
pháp, có kẻ chứng Thanh văn giác, có kẻ chứng Ðộc giác,
có kẻ chứng Chánh đẳng giác (64). Nói rằng có kẻ chứng
được Chánh đẳng giác có nghĩa là, đến thời đại tập
Divyàvadàna, phái Nhất thế hữu bộ đã công nhận lý tưởng
Chánh đẳng giác là một quả vị có thể thành đạt được.
Như vậy rõ ràng phái Nhất thế hữu bộ khuyến khích nguyện
vọng đạt được Phật quả, nghĩa là đời sống của vị
Bồ-tát và như vậy, mục tiêu Phật quả không phải chỉ
thuộc Ðại chúng bộ hay Ðại thừa. Các vị Nhất thế hữu
bộ cũng như các vị Thượng tọa bộ đều quan niệm đức
Phật như một con người, nhưng các vị này quan trọng hóa
những đức tính và năng lực của đức Phật khiến đức
Phật trở thành một bậc siêu nhân.
Sự
cống hiến của phái Nhất thế hữu bộ cho Ðại thừa.
Phái Nhất thế hữu bộ
có hai quan niệm về thân (Kàya) (65): Rùpakàya (Sắc thân)
và Dharmakàya (Pháp thân) nhưng không có ý nghĩa Ðại thừa
gì, dù cho quan niệm Pháp thân của phái này giúp phái
Yogàcàrin hình thành quan niệm Svasambhogakàya (tự thọ dụng
thân) của chúng. Các vị Nhất thế hữu bộ cũng chịu trách
nhiệm thêm một pháp ấn thứ tư Sùnya (Không) vào ba pháp
ấn Khổ, Vô thường và Vô ngã, nhưng Sùnya không có nghĩa
Ðại thừa gì và chỉ có nghĩa Vô ngã mà thôi (66).
Nhưng một trong giáo
lý quan trọng của phái Nhất thế hữu bộ, và tôi tin rằng
chính giáo lý này đã giúp cho Ðại thừa phát triển, đó
là lý thuyết cực đoan Astitvavàda (lý thuyết công nhận sự
thức hữu của các pháp họp thành một chúng sanh). Chúng ta
có thể nói Ðại thừa là một sự tiếp tục của những
biện thuyết về đức Phật của phái Ðại chúng bộ và
các chi nhánh của bộ phái này và một sự chống đối lý
thuyết Astitvavàda của phái Nhất thế hữu bộ, một giáo
điều, theo các nhà Ðại thừa, đã xuyên tạc trắng trợn
giáo lý đức Phật (67). Chính sự chống đối này đưa đến
một cực đoan khác, lý thuyết Dharmasùnyatà (Pháp không,
không có một pháp nào thật có) mới là giáo lý chơn chân
chính của đức Phật.
Sự đóng góp thứ ba của
các phái Tiểu thừa, đặc biệt là phái Nhất thế hữu bộ,
là sự trình bày hay phân tích về Skandhas (Uẩn), Dhàtu (Giới),
Àyatana (Xứ), Àryasatya (Thánh đế), các Angas (Pháp) của
Pratìtyasamutpàda (Duyên khởi) v.v... các nhà Ðại thừa chấp
nhận toàn diện những lý thuyết này, nhưng liệt chúng vào
giới vức Samvrti (Tục đế), Parikalpita (Biến kế sở chấp),
Paratantra (Y tha khởi), tuy vậy vẫn công nhận sự lợi ích
cần thiết của chúng để một vị Bồ-tát đạt đến
Paramàrtha (Chơn đế) hay Parinispanna (Viên thành thực) (68).
Sự
tiếp xúc của các vị Nhất thế hữu bộ với các vị Ðại
thừa
Các vị Ðại chúng bộ
có thể là các tiền phong của Ðại thừa, nhưng rõ ràng
các vị Nhất thế hữu bộ cống hiến rất nhiều cho sự lớn
mạnh của Ðại thừa, cách này hay cách khác. Như một dấu
hiệu của sự tiếp xúc mật thiết, Subhùti (Tu bồ đề) một
nhân vật quan trọng của truyền thống Nhất thế hữu bộ
đóng một vai trò quan trọng trong tập Prajnàpàramita (Bát
nhã Ba-la-mật). Thật là kỳ dị khi thấy một tu sĩ Tiểu
thừa giải thích lý thuyết Chơn không (Sùnyata), phản ngược
với giáo lý của chính mình. Cho nên tập Prajnàparamita giải
thích sự mâu thuẫn này bằng cách xem sự thuyết pháp của
Subhùti không phải do sở kiến của mình mà chịu ảnh hưởng
của chư Phật. Tập Lalita Vistara được các nhà Ðại thừa
công nhận là chân tả chính xác lịch sử Phật Tổ và sự
kiện này cho thấy sự liên lạc giữa Nhất thế hữu bộ
và Ðại thừa, vì theo các dịch giả Trung Quốc, tập
Lalista Vistara là lịch sử Phật Tổ theo phái Nhất thế hữu
bộ. Ðại thừa chắc chắn bắt đầu ở Nam Ấn, khu vực này
cũng là trung tâm hoạt động của nhiều chi nhánh phái Ðại
chúng bộ, nhưng Ðại thừa thật sự phát triển ở Ðông
Ấn, và tại chỗ này ảnh hưởng của Nhất thế hữu bộ
rất mạnh. Tàranàtha cho chúng ta biết tập Prajnàpàramita
(Bát nhã Ba-la-mật) được Manjurì (Văn Thù Sư Lợi) thuyết
đầu tiên ở Odivisa (Orissa) (69). Ðịa điểm này tuy không
phải là trung tâm chính của phái Nhất thế hữu bộ nhưng
ở gần khu vực chịu ảnh hưởng của bộ phái này. Chúng
ta đã thấy Dhitika truyền bá đạo Phật Nhất thế hữu bộ
ở Kàmarùpa và Pundravardhana là biên giới cực đông khu vực
ảnh hưởng của phái Nhất thế hữu bộ. Nhưng địa điểm
tiếp xúc có kết quả nhất giữa các vị Nhất thế hữu bộ
và các vị Ðại thừa là ở Nalanda, địa điểm này trở
thành trung tâm chính của Ðại thừa và là địa điểm hoạt
động của Ngài Nàgàrjuna (Long thọ).
Các
vị Ðại chúng bộ chính thuộc phái Tiểu thừa
Như vậy chúng ta thấy
rằng các vị Nhất thế hữu bộ cũng chịu trách nhiệm về
sự lớn mạnh của phái Ðại thừa như các vị Ðại chúng
bộ. Ngoài những biện thuyết về đức Phật, các vị Ðại
chúng bộ không được xem là có đóng góp thêm gì cho sự lớn
mạnh của Ðại thừa. Rất có thể tập Prajnàpàramita (Bát
nhã Ba-la-mật), theo truyền thuyết Tây Tạng, thuộc phái
Pùrvasaila, đã cống hiến nhiều cho triết lý Ðại thừa,
nhưng chúng ta không biết gì đến tập Prajnàpàramita ấy. Từ
bản tường trình của Vasumitra về giáo lý Ðại chúng bộ
và từ những cuộc thảo luận ghi chép trong tập Kathàvatthu
về giáo lý của Ðại chúng bộ, chúng ta không thấy có đặc
tính Ðại thừa gì cả. Như Ðại chúng bộ nói về:
1) Năm hay sáu
ViJnànakàya (Thức thân), khác với Thượng tọa bộ và Nhất
thế hữu bộ về công năng của các căn.
2) Bốn hay tám Tiểu
thừa Thánh đạo và Thánh quả, tập kathàvatthu có thêm:Ðại
chúng bộ cho rằng các vị A-la-hán vẫn còn
Avijjà-Vicikicchà (Vô minh nghi) vì các vị này không biết
được những vấn đề thuộc về Phật giới
(Buddhavisaya).
3) Sự cần thiết sử
dụng (Prayoga) Trí tuệ (Prajnà) để trừ khổ và hưởng lạc,
một trong những giáo lý quan trọng của các học phái Tiểu
thừa (70).
4) Samyagdrsti (Chánh kiến),
Sraddhendriya (Tín căn) (71) không thuộc thế tục (Laukika), tập
Kathàvatthu thêm rằng các vị Ðại chúng bộ cho rằng già
và chết không thuộc thế tục Laukika và xuất thế
(Lokiya), vì chúng thuộc Aparinipphanna (Vô vi) và sự già và
chết của các pháp thế xuất cũng thuộc xuất thế (72).
5) Samyaktva-niyàma (73)
hướng đến chánh kiến và sự diệt trừ các kiết sử
(Samyojana).
6) Ðức Phật giảng
pháp theo nghĩa Nìtàrtha (74).
7) Các pháp Asamskrta
(Vô vi) có đến 9 pháp, không phải ba như của Nhất thế
hữu bộ.
8) Các Upaklesa (Phiền
não), Anusaya (Tùy miên) và Paryavasthàna.
9) Không có các pháp
quá khứ và vị lại, trái với lý thuyết của Nhất thế
hữu bộ.
10) Không có
Antaràbhàva (Trung ấm thân), chống với lý thuyết Nhất thế
hữu bộ và Sammitìyas.
Theo những điểm kể
trên và một vài điểm trong tác phẩm của Vasumitra và tập
Kathàvatthu, chúng ta không tìm thấy những đặc tính Ðại
thừa gì. Cũng trong tập Màhvastu, những đoạn giải thích về
Tứ đế, lý Duyên khởi và lý Vô thường, khổ và vô ngã
không vượt khỏi giới vực Tiểu thừa. Những dấu vết Ðại
thừa trong giáo lý Ðại chúng bộ như sau:
(I) Các giả thuyết về
các đức Phật xem các đức Phật là xuất thế
(lokottara), không có Sàsravadharma (hữu lậu pháp), đầy đủ
sắc thân (Rùpakàya) (75), Prabhàva (năng lực) và Àyu (tuổi
thọ) vô biên, có thể sống không cần ngủ hay nằm mộng,
luôn luôn trong tình trạng thiền định, không giảng bằng
danh từ hay bằng lời, đầy đủ Ksanikacitta (Sát-na tâm =
hiểu tất cả pháp trong một Sát-na) v.v...
(II) Quan niệm về Bồ-tát
nghĩa là các vị Bồ-tát không sinh và không lớn trong mẫu
thai như người thường. Vào mẫu thai với tâm thần sáng
suốt không bao giờ chứa chấp những tư tưởng, cảm giác
về dục lạc, hận thù hay làm hại, và chịu thọ sanh
vào hạ giới vì lợi ích cho chúng sanh.
Những giả thuyết về
đức Phật như vậy nhiều hay ít cũng tương xứng với quan
điểm đại chúng bộ về đời sống của đức Thích Ca
Mâu Ni. Các vị Ðại chúng bộ không công nhận tất cả
chúng sanh sẽ thành Bồ-tát và cuối cùng sẽ thành Phật.
Quan niệm về bốn Càryà (hạnh) và 10 Bhùmi (Ðịa) của
phái Xuất thế bộ có hơi thiên về Ðại thừa. Chất liệu
Ðại thừa hình như không có bao nhiêu trong giáo lý của Ðại
chúng bộ. Như vậy, Ðại chúng bộ hoàn toàn thuộc Tiểu
thừa, trừ quan điểm về đức Phật có hơi sai khác.
Nay chúng ta có thể
tuyên bố tóm tắt lịch sử đạo Phật trong giai đoạn thứ
hai như sau:
- Ðạo Phật không còn
là một, nay đạo Phật đã chia thành ba học phái chính là:
Thượng tọa bộ, Nhất thế hữu bộ và Ðại chúng bộ, Thượng
tọa bộ ở lại vòng đai trung tâm Ấn Ðộ, làm cho địa vị
c?a mình mạnh hơn ở Avanti; tại đây Mahakaccàya xây dựng nền
tảng đạo Phật, và tại chỗ này, mahinda được gửi đi Tích
Lan để truyền bá đạo Phật Thượng tọa bộ. Nhất thế
hữu bộ cũng ở Trung Ấn với trung tâm hoạt động ở
Matahura và Kashmir, địa điểm đầu do Upagupta sáng lập, địa
điểm thứ hai do Madhyàntika - Dhitika, kế vị của Upagupta
và Madhyàntika truyền bá đạo Phật rất rộng rãi ở Bắc
Ấn, gồm có Tukhàra phía Tây Bắc, Màlava và Odivisa (Orissa)
và Kàmarùpa về phía Ðông, Ðại chúng bộ đặt trung tâm
ở Vesàli và có đồ đệ rải rác khắp Bắc Ấn, nhưng
được thịnh hành ở phương Nam. Tóm lại, đạo Phật trong
thời đại này được truyền bá khắp Bắc Ấn và một phần
ở Nam Ấn.
- Hoàng đế A-dục chú
trọng đặc biệt đến đạo Phật, nhưng không giúp đỡ một
học phái nào riêng biệt. Dhamma (Pháp) được các bia ký đề
cập đến phần lớn có tính chất đạo đức và thiếu
màu sắc đặc biệt của một học phái nào hay của đạo
Phật về sau. Vua khuyến khích một đời sống tại gia chân
chính hơn là đời sống của một vị xuất gia hay ẩn sĩ.
Tuy vậy Vua kính trọng và ủng hộ các vị tu sĩ và ẩn sĩ.
Sự chú ý đặc biệt của các vua chúa như Minàra và Imhasa
đã giúp đỡ rất nhiều để đạo Phật được truyền bá
ra ngoài nước Ấn Ðộ.
- Sự liên hệ giữa cư
sĩ và Tăng già không có những thay đổi rõ rệt so sánh với
giai đoạn trước, nhung các hàng cư sĩ được chú trọng đặc
biệt hơn với sự cố gắng phổ thông hóa đạo Phật, nhờ
các Jàlaka và Avadàna và nhờ đề cao các hạnh Ba-la-mật
cho hàng cư sĩ thấy.
- Sự biên tập các
Jàtaka và Avadàna được nhấn mạnh và những ai đọc, viết,
vẽ khắc chúng đư?c xem là được nhiều công đức tôn
giáo. Ðiểm này được quần chúng cư sĩ tán thành và xem
là nguồn gốc gặt hái nhiều công đức. Kết quả là có
nhiều thạch tích điêu khắc được chạm trổ và chỉ có
một số được gìn giữ ở Sanchi và Bharaut. Công đức phổ
thông hóa đạo Phật bằng Jàtaka và Avadàna trước hết là
do Nhất thế hữu bộ, sau mới đến Thượng tọa bộ.
- Sự phân loại chín bộ
kinh (Navàngas) được tăng thêm thành 12 bộ kinh Dvàdasànga,
cộng thêm Nidàna, Avadàna và Upadesa. Dù cho các tập Jàtàkas
thành một bộ trong chín bộ kinh, chúng không thành một nền
văn học riêng, nhưng được nhập trong các bài kinh được
xem là do đức Phật và các đệ tử của Ngài thuyết giảng.
- Ðời sống đức Phật
bắt đầu không phải từ khi Siddhartha xuất gia mà từ lời
phát nhuyện (pranidhàna) của Bà-la-môn Sumedha (Thiện Tuệ)
và sự dự đoán (Veyyà-Karana = thọ ký) của đức Phật Nhiên
Ðăng.
- Các giáo lý căn bản
vẫn tương tự như trong giai đoạn trước với một vài
thay đổi nhỏ, như là thêm Sùnya (Không) vào ba pháp ấn Vô
thường, Khổ, Vô ngã và thêm sáu Ba-la-mật vào ba mươi bảy
pháp trợ đạo.
- Một vài thay đổi
căn bản được thành hình trong giáo lý của các học phái
được phát triển trong giai đoạn này. Như Nhất thế hữu
bộ bắt đầu lý thuyết thực tại luận của chúng, về sự
hiện hữu của quá khứ, hiện tại và vị lai v.v... ; còn
Ðại chúng bộ quan niệm đức Phật như hóa thân và chấp
nhận quan niệm về Bồ-tát.
- Mục đích của đời
sống vẫn là A-la-hán quả và Ðộc giác quả đối với
Thượng tọa bộ, còn Nhất thế hữu bộ thêm vào Chánh đẳng
giác.
- Quan niệm Niết bàn
là Sukha (Lạc), Sànta (Tịnh) không thay đổi bao nhiêu. Nhất
thế hữu bộ và Ðại chúng bộ phần lớn đồng quan điểm
với Thượng tọa bộ (76). Nhưng giáo lý thực tại luận của
Nhất thế hữu bộ khiến giáo sư Stcherbatsky giải thích Niết
bàn như một trạng thái cuối cùng không có sinh mệnh.
- Sự phát triển của
văn học Abhidhamma xảy ra trong thời kỳ này. Vì các học
phái chính có những trung tâm hoạt động tại nhiều địa
điểm khác nhau ở Ấn Ðộ, nên sự phát triển văn học
Abhidhamma của từng học phái độc lập với văn học
Abhidhamma của các học phái khác. Sự kiện này giải thích
sự sai khác quá nhiều giữa văn học Abhidhamma của Thượng
tọa bộ với văn học tương đương của Nhất thế hữu bộ.
- Quan điểm về Bồ-tát,
các hạnh Ba-la-mật và mục đích Phật quả là những dấu
vết Ðại thừa độc nhất trong giáo lý của Ðại chúng bộ,
Nhất thế hữu bộ và những chi phái của chúng.
---o0o---
Mục
lục
|
1.1
|
1.2
|
2.1
|
2.2
|
3.1
|
3.2
|
3.3
|
3.4
|
3.5
|
4.1
|
4.2
|
5
---o0o---
|
Thư Mục Tác Giả |
---o0o---
Chân thành
cám ơn Đạo hữu Bình Anson đã gửi tặng phiên bản điện tử
(Quang Duc Website, tháng 5, 2002)
Trình bày: Nhị Tường
Cập
nhật : 01-05-2002
|
|