ÐẠI THỪA VÀ SỰ
LIÊN HỆ VỚI TIỂU THỪA
Nguyên tác: Nalinaksha Dutt
HT.
Thích Minh Châu dịch,
Ấn hành 1971 (tái bản 1999)
---o0o---
Những
lý do phải xem Sràvakayàna (Thanh văn
thừa) là Tiểu thừa
Dù cho thái độ hòa giải
của tập Saddharmapundarika, cố gắng nêu rõ các vị
Nirvànagàmim (đã chứng Niết bàn Tiểu thừa) cuối cùng sẽ
thành Nhất thế trí (Sarvajnas) và Tiểu thừa chỉ là một xảo
phương tiện, điều rất rõ ràng là tập này cũng như các
tập Ðại thừa khác đều có một thái độ kẻ cả và cố
gắng xác nhận Ðại thừa cao thượng hơn Tiểu thừa rất
nhiều.
Tập Sùtràlankàra nói
rằng có bảy đặc tính, mà Ðại thừa phải được xem là
lớn: Một là nền tảng (àlambana: duyên) là lớn vì kinh điển
Ðại thừa rất sai biệt và vô số lượng. Thứ hai quả chứng
(pratipatti) của Ðại thừa là lớn vì Ðại thừa thành tựu
hai mục đích: Tự lợi và lợi tha. Thứ ba, kiến thức do
Ðại thừa giảng dạy là sâu kín vì đi sâu vào Không tánh
(nairàtmyabhàva) của cả nhân và pháp (pudgala và dharma). Thứ
tư, Ðại thừa đòi hỏi nhiều khổ hạnh lớn, vì Ðại thừa
đòi hỏi sự tinh tấn tha thiết trải nhiều đời, nhiều
kiếp. Thứ năm Ðại thừa là lớn trong những vật liệu phương
tiện, vì người theo Ðại thừa không cần phải rời khỏi
cuộc đời, miễn rằng các vị này không bị ràng buộc vì
đời. Thứ sáu Thành quả (Samudàgama) của Ðại thừa là lớn,
vì Ðại thừa đưa đến bala (lực), vaisàradya (vô úy) và
18 àvenikadharmas (bất cộng pháp) (72). Thứ bảy và cuối
cùng, Ðại thừa là lớn trong sự thi hành những trách nhiệm
của đức Phật, nghĩa là trong sự trình bày về chứng quả
Bồ đề (Sambodhi) và Ðại bát niết bàn (Mahàparinirvàna)
(73).
Danh từ Hìnayàna (Tiểu
thừa) cũng đủ nêu rõ địa vị thấp kém mà các nhà Ðại
thừa dành cho Tiểu thừa. Danh từ thường dùng trong văn học
Ðại thừa là Sràvaka (Thanh văn) và Pratyekabuddha (Ðộc
giác). Những danh từ này không có màu sắc gì và những người
Tiểu thừa cũng dùng chữ Sàvaka hay Sràvaka trong những danh
từ Pakatisàvaka (Tự tánh Thanh văn), Aggasàvaka (Ðệ nhất
Thanh văn), Sàvakasangha (Thanh văn tăng già), Sàvika (Nữ thanh
văn) v.v... Danh từ Pratyeka (Pacceka) buddha (Ðộc giác Phật) cũng
được các nhà Tiểu thừa thường dùng. Danh từ Hìnayana
được dùng để chỉ rằng các hàng Thanh văn và Ðộc giác
Phật là Hìnàdhimukta (hạ liệt) (74). Các vị này cũng được
gọi là Pràdesika (tạp thừa) vì tâm trí các vị này chỉ
có một cái nhìn phiến diện (pràdesika) chứ không tổng
quát về sự thật (75).
Àsaya
(khuynh hướng)
Tập Sùtràlankàra (Ðại
trang nghiêm kinh) phân tích nêu rõ rằng vì hàng Thanh văn là
hìnàdhimukta và do vậy sự tinh tấn, giảng dạy, công đức
và thành quả của những vị này thấp kém nếu so sánh với
các vị Ðại thừa (76). Chính do bản nguyện của mỗi người
mà giáo pháp được giảng dạy, và chính do giáo pháp được
giảng dạy mà chúng ta tinh tấn tu trì. Chúng ta gặt hái
công đức tùy theo sự tinh tấn của mình và quả Bồ đề
xứng lượng với công đức của chúng ta, hoặc Sràvakabodhi
(Thanh văn giác), Pratyekabodhi (Ðộc giác) hay Mahàbodhi (Ðại
bồ đề) (77).
Như vậy sự phân loại
dựa lên trên Àsaya (khuynh hướng) của từng cá nhân. Các
hàng Thanh văn hay Ðộc giác bị các nhà Ðại thừa khinh rẻ
vì các vị này chỉ lo phần tự giác (àtmaparinirvànàsaya)
mà không hướng đến sự dắt dẫn người khác đến Niết
bàn, không kể đến tự thân. Vì các vị này chỉ hướng
đến quả vị A-la-hán mà thôi chứ không hướng đến quả
vị Phật cứu độ cho muôn loài, vì các vị này chỉ ao ước
chứng được Dharmacaksu (Pháp nhãn) mà thôi, nên các vị
này là Hìnàdhimukti (nghĩa là khuynh hướng hạ liệt). Lý tưởng
tự giải thoát của các nhà Tiểu thừa đã bị tất cả học
phái Ðại thừa đả kích với những danh từ hết sức quyết
liệt như ích kỷ tâm linh (àdhyàtmika svàrthaparatva): Các
nhà Ðại thừa, không có thiết thực mấy đi nữa, cũng phải
được tán thán bởi tâm nguyện Paràrtha, nghĩa là hy sinh tự
lợi để phục vụ lợi tha hay đặt phần tự lợi (78) dưới
phần lợi tha. Tập Sùtràlankàra (79) dùng một ví dụ rất
quen thuộc để chứng minh mục đích cao đẹp của Ðại thừa.
Yàtha punyam prasavate
paresàm bhojanam dadat.
Na tu svayam sa bhunjànas tathà punyamathodayah
(Như công đức tôn
giáo được tác thành nhờ cho kẻ khác đồ ăn chớ không
phải nhờ ăn đồ ăn ấy, cũng vậy các nhà Ðại thừa hưởng
nhiều công đức hơn nhờ giúp ngư?i khác chứng Niết
bàn, chớ không phải chỉ lo Niết bàn cho chính mình như các
nhà Tiểu thừa).
Lý tưởng này của Ðại
thừa được tập Bhàgavata (80) đề cập đến khi Prahlàda
nói rằng:
Pràyena devamunayah
svavimuktikàmà
Maunam caranti vijane na paràrthanisthàt,
Naitàn vihàya krpanàn vimumuksa eko
Nànyam tvadasya saranam bhramato nupasye.
(Bạch Thế Tôn, nhiều
khi các vị ẩn sĩ muốn lo tự giác, theo hạnh im lặng
trong rừng sâu, không dấn thân lo đến lợi tha. Tôi không
muốn chỉ lo phần tự giác mà bỏ quên những người khác.
Tôi không tìm thấy cho tự ngã khắc khoải của tôi một
chỗ quy y nào khác nơi Ngài).
Lý tưởng của các
nhàÐại thừa chắc chắn rất cao thượng và có sức hấp
dẫn mọi người rất mạnh mẽ, nhưng con đường thực hành
để được giải thoát phải trải qua vô lượng vô số kiếp,
con đường ấy không thể hấp dẫn tất cả mọi người.
Các nhà Tiểu thừa
không phủ nhận sự phát nguyện thành Phật thật rất cao
thượng, nhưng các vị này nghĩ rằng đối với những người
có công đức và khả năng kém xa các vị Bồ-tát thời
khuyên họ cố gắng tinh tấn để thành Phật thật là vô
ích và không thiết thực. Lời buộc tội các vị Thanh văn
không có những hành động lợi tha thật không chính xác.
Câu kệ trong kinh Dhammapada (Pháp cú) (81):
Dhammadànam sabbadànam
jinàti
(Bố thí pháp thắng
hơn tất cả loại bố thí),
và lời dạy trong tập
Dìgha Nikàya và trong Vinaya: (82)
"Caratha, bhikkahve,
càrikam bahujanahitàya bahujanasukhàya lokànukampàya atthàya
hitàya sukhàya devamanussànam"
(Hãy đi, này các Tỷ
kheo, và truyền thuyết chánh pháp, vì lợi ích cho số đông,
vì hạnh phúc cho số đông, vì lòng thương tưởng cho đời,
vì lợi ích, vì hạnh phúc cho chư thiên và loài người).
Hai câu trên nêu rõ
ràng các nhà Tiểu thừa không phải ích kỷ như các nhà văn
Ðại thừa miêu tả. Ðiều mà các nhà Ðại thừa xem các vị
Tiểu thừa là ích kỷ là vì các nhà Tiểu thừa trước khi
nghĩ mình có khả năng giải thoát cho các người khác, chỉ
sống trong phòng tu của mình mà lo phần tự độ. Chỉ sau
khi chứng được chánh tri kiến, các vị này mới tự xem
là đủ khả năng để giúp đỡ người khác chứng được
trí tuệ tương tự. Nhưng trong khi các vị này đang còn
trong thời tu tập, nghĩa là trước khi chứng quả A-la-hán,
các vị này cũng đến thăm các nhà cư sĩ và giảng cho
chúng những nguyên tắc cơ bản của đạo Phật; và những
vị trưởng thượng cũng thâu nhận và dạy cho đệ tử tu
tập những nguyên tắc cao siêu hơn về tôn giáo. Ðời sống
của các Ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Ca Chiên Diên,
Ðại Ca Diếp và các vị khác đã nêu rõ hành động vị
tha (paràrthava) sau khi những vị này chứng quả A-la-hán.
Trong kinh Lohicca có nói rằng chánh pháp cần phải được
truyền bá, nếu không thì như vị vua tự thọ hưởng bao
nhiêu bổng lộc của quốc gia riêng cho mình (83).
Kinh Sùtràlankàra không
bỏ lỡ cơ hội này để chứng minh sự ích kỷ của các
nhà Tiểu thừa. Tập này nói rằng các hàng Thanh văn (Sràvaka)
không dạy tín đồ phải phục vụ kẻ khác (paràrtha) mà chỉ
dạy làm thế nào cho tự thân chứng được nirvid (nhàm
chán thế tục), viràga (vô tham) và vimukti (giải thoát). Tập
này kết luận rằng một giáo lý dạy ích kỷ không thể trở
thành lợi tha vì được dạy cho kẻ khác, vì giáo lý ấy
khuyến khích tự lợi, tự giải thoát. Do vậy, giáo lý ấy
là một yàna (thừa) ích kỷ (84).
Upadesa
(giảng dạy) và Prayoga (tinh tấn)
Như vậy tự nhiên
Upadesa và Prayoga tùy thuộc với Àsaya (khuynh hướng) (85). Một
nhà Tiểu thừa không cần phải phát triển Bodhicitta (Bồ đề
tâm) và cố gắng tu các hạnh Ba-la-mật. Các nhà Tiểu thừa
không cần như các vị Bồ-tát phát nguyện đương chịu sự
đau khổ vô lượng kiếp ở địa ngục hay ở Yamaloka, làm
con vật hay con trùng để đưa tất cả chúng sanh đ?n
nirupadhisesanirvànadhàtu (vô dư y Niết bàn) (86). Sự điều hòa
đời sống theo giới luật Pràtimoksa (giới bổn), sự thực
hành các bổn phận trong Bát chánh đạo và sự giác ngộ
lý Tứ đế và lý Duyên khởi là vừa đủ với các vị
này. Sự nhận thức thế giới không có tự ngã hay không
có gì thuộc tự ngã là vừa đủ và các vị này không cần
phải tìm hiểu thực hành tánh của Sùnyatà (chơn không),
chân lý tối hậu.
Upastambha
(huân tập công đức)
Muốn trở thành một vị
Bồ-tát, cần phải có đủ công đức trong những đời trước.
Trừ phi và cho đến khi những công đức ấy đạt đến mức
độ cần thiết do các nhà Ðại thừa đòi hỏi, một chúng
sanh không thể trở thành một vị Bồ-tát hay thu hoạch được
những lợi ích thiết thực của giáo lý Ðại thừa. Các
nhà Tiểu thừa có một quan điểm hoàn toàn khác hẳn. Theo
tập Puggala Pannatti, người nào phạm ngũ nghịch (ànantarika)
thời không thể nào giải thoát được (87), ngoài ra mọi người
khác đều có thể giác ngộ, thời gian dài ngắn tùy theo từng
người. Do vậy nên không có đòi hỏi upastambha chất chứa
công đức trong phương trình giải thoát của Tiểu thừa. Tất
cả mọi loại, trừ năm loại ngũ nghịch trên, đều có thể
giải thoát. Các nhà Tiểu thừa đạt mục đích của mình bằng
cách xa lánh các hoạt động thế tục, còn các nhà Ðại thừa
đạt mục đích trên bằng những hoạt động thế tục,
nhưng tâm trí luôn luôn không tham đắm thế sự.
Kàla
(thời gian)
Vì các nhà Tiểu thừa
không cần đến upastambha và vì àsaya của những vị này chỉ
là giải thoát chứ không phải là thần lực đặc biệt của
một đức Phật, nên thời gian (kàla) đòi hỏi bởi một
nhà Tiểu thừa để đạt mục đích tương đối ngắn hơn
thời gian của một vị Bồ-tát (88). Tập Sùtràlankàra gợi
ý rằng một nhà Tiểu thừa có thể đạt được mục đích
trong ba đời. Ðây nói đến sự tin tưởng của Tiểu thừa
cho rằng trải qua bảy đời, có thể đạt được mục tiêu,
năm trong bảy đời này phải trải qua trong thánh quảDự lưu
(Srotàpanna) (89). Tập Sùtràlankàra trong khi tính đến số tái
sinh để ra ngoài bốn lần tái sinh dự bị cho giai đoạn Dự
lưu cuối cùng. Cách tính này đôi khi cũng được một số
Tiểu thừa chấp nhận (90).
Sự
sai khác giữa Pratyekabuddha (Ðộc giác) với Sràvaka (Thanh văn)
và Samyaksambuddha (Chánh đẳng giác)
Dẫu cho các nhà
Pratyekabuddha luôn luôn được phân loại với các nhà Thanh văn
là Hìnàdhimukta (hạ liệt), các vị này được xem là trung
phẩm (91). Các nhà Ðại thừa là thượng phẩm, Uttama hay
Srestha. Tập Pundarika nêu rõ địa vị tương đối của những
vị này như sau: "Các vị Thanh văn là những vị nghe
theo lời dạy của các người khác (paraghosàsravànugama), tự
cố gắng để hiểu bốn sự thật và chứng Niết bàn cho
mình. Các vị Ðộc giác là những vị muốn tự kiềm chế,
muốn được an tịnh và trí tuệ nhưng không được sự giúp
đỡ của một vị tôn sư (anàcàryakam) và tự tìm Niết
bàn cho mình sau khi hiểu hetu (nhân) và pratyaya (duyên) nghĩa
là lý nhân duyên. Các vị Ðại thừa là những vị cố gắng
đạt được Phật trí mà không cần đến một vị tôn sư,
tìm kiếm Phật lực để cứu tất cả chúng sanh, được giải
thoát an vui (92).
Tập Dasabhùmikasùtra
đi sâu vào chi tiết hơn và phân biệt ba hạng trên như sau:
"Các vị Thanh văn là những vị đã thành tựu viên mãn
(paribhàvyamàna) mười thiện hạnh (Kusalakarmapatha) nhờ trí
tuệ của mình (prajnà), có một cìtta (tâm) chỉ có thể hiểu
được một phần sự thật, rất sợ hãi phải sinh trưởng
trong ba giới (dhàtu), tùy thuộc sự giáo huấn của người
khác và không thể có lòng đại bi (Mahàkarunà). Các vị Ðộc
giác là những vị thanh tịnh hơn, thể nhập sự thật không
cần sự giúp đỡ của người khác, có thể hiểu triệt để
lý nhân duyên, nhưng các vị này cũng không có lòng đại
bi. Các vị Ðại thừa hay Bồ-tát là những vị thanh tịnh
hơn nữa, đã thuần thục phương tiện thiện xảo (Upàyakausalya),
phát đại nguyện (mahàpranidhàna), diệt trừ mọi phiền
não, dùng Buddhajnàna (Phật trí) làm àlambana (y chỉ), tự
mình hoàn thiện trong các bhùmi (địa) và các hạnh Pàramita
(Ba-la-mật), đã chứng được tất cả 10 bala (Thập lực) và
mọi quyền lực thuộc Phật quả, và tâm Ðại bi được phát
huy triệt để (93)".
Tập Madhyamakàvatàra
và các tác phẩm Ðại thừa khác cũng phân biệt giữa Thanh
văn, Ðộc giác và Bồ-tát với những đặc điểm như trên
(94). Theo giáo sư Vallée Poussin, sự sai khác về vấn đề hiểu
biết lý nhân duyên giữa Thanh văn và Ðộc giác có tính
cách lý thuyết hơn là thực sự vì vấn đề này thuộc một
phần của sự thật thứ hai (Tập đế). Tập Abhidharmakosavyàkhyà
(Câu xá luận thích) giới thiệu sự sai khác một cách mới
mẻ hơn. Giáo sư Poussin tóm tắt như sau: "Vị A-la-hán,
sau khi diệt trừ lòng vị ngã khỏi những tâm sở tác
thành bản ngã vị kỷ của mình, bắt đầu chú tâm đến công
việc của các người khác, sự chú tâm này phát sinh từ
lòng từ bi và diệt tận mọi khổ đau, người bậc trung
(madhya), nghĩa là các vị Ðộc giác, chỉ mong sự giải
thoát, nghĩa là tận diệt mọi khổ đau, không phải hạnh
phúc trong đời sống luân hồi hiện tại, vì sự hạnh
phúc tạm bợ này là cội gốc của đau khổ. Vị thượng
phẩm (Sretha), nghĩa là vị Bồ-tát muốn đem hạnh phúc tạm
bợ (àbhyudayika) cho người khác và cả sự diệt tận đau
khổ nghĩa là hạnh phúc tối thượng (nihsreyasa-svabhàva);
hay vị này mong cầu người khác được hạnh phúc tối thượng
và hạnh phúc tạm bợ (sukham àbhyudayika-naihsreyasikam) và cho
mình sự diệt tận đau khổ nghĩa là Phật quả như là một
phương tiện để thực hiện hạnh lợi tha (95).
Tập Abhidharma-Kosa (Câu
xá) nói về tha tâm thông (para cittajnàna), tuyên bố rằng một
vị Thanh văn thường chỉ chứng được tha tâm thông khi
các vị này ở trong hai sát-na của darsanamarga (Kiến đạo),
nghĩa là duhkhe dharmajnànaksànti (khổ pháp trí nhẫn) và
duhkhe dharmajnàna (khổ pháp trí), còn hàng Ðộc giác có thể
biết thêm sát-na thứ tám tức là Samudaye anvayajnàna (tri
tùy sát tập hay tập loại trí) (96). Hàng Ðộc giác có thể
có một hay hai trí lực tương tự hơn một vị Thanh văn
nhưng quả vị (summun bonum) của cả hai đều giống nhau, đó
là lý do vì sao các nhà Ðại thừa xếp cả hai vị này vào
trong một loại tức là Tiểu thừa, các hàng Ðộc giác cũng
là hàng Tiểu thừa nhưng thuộc hạng trung phẩm.
Giáo sư Poussin, trong bài
về Ðộc giác (97) có nói lý do vì sao các hàng Ðộc giác
có mặt trong văn học Phật giáo. Theo giáo sư, đức Phật
không ưa gì lắm đời sống ẩn dật của những vị ẩn
sĩ, những vị này sống đầy dẫy trong thời đại của Ngài.
Nhưng Ngài nhận thấy rằng những vị ẩn sĩ này có tất cả
những đức tánh của một vị A-la-hán, nếu không phải là
nhiều hơn. Ðể thâu nhận những vị này vào trong giáo hội
Phật giáo, để đặt cho những vị này một vị trí trong
thế giới tâm linh của Phật giáo, quan niệm các vị Ðộc
giác được chấp nhận vào trong văn học Phật giáo. Những
vị này được xem là những Phật tử tân tòng nhưng không
thể chứng quả A-la-hán khi tôn giáo còn hoạt động; do vậy
các vị này tiếp tục tiến bước trong đời sống tu hành
trí đức và kết quả là các vị này do tự lực đã chứng
được sự thật như đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã chứng
(98). Vì đời sống cô độc của mình, vì không bao giờ có
vị tôn sư hay vị hướng dẫn (kalyànamitra), và rất chán
ghét sự tiếp xúc với người đời, các vị này không thể
phát triển năng lực diễn giảng, năng lực này các vị
A-la-hán có thể chứng được đôi phần.
Quan niệm các vị Ðộc
giác được nói đến nhiều trong văn học Pàli về sau hơn
là trong các tập Nikàya. Tập Milindapanha (99) so sánh những năng
lực của vị Ðộc giác với đức Phật và nêu rõ địa vị
trung dung của vị Ðộc giác giữa đức Phật và vị
A-la-hán. Tập Majjhima Nikàya và tập Lalitavistara nói đến các
vị Ðộc giác như những vị ẩn sĩ sống ngoài giáo hội
Phật giáo, không phải trong địa vị trung dung giữa vị
A-la-hán và đức Phật (100). Tập Puggalapannatti (101) nêu rõ
rằng cả đức Phật và các vị Ðộc giác chứng được sự
thật, không nhờ một ai chỉ giáo nhưng các vị Ðộc giác
không chứng được toàn tri và không nhiếp phục các quả vị
(phalas) (102). Các nhà Tiểu thừa không phủ nhận địa vị
tối thượng của đức Phật trên các vị A-la-hán và Ðộc
giác (103) về quyền lực khả năng, nhưng một đức Phật
chỉ ra đời sau rất nhiều kiếp (104), nên các vị này
không mấy chú tâm về năng lực của một đức Phật và vấn
đề chứng ngộ Phật quả. Tuy vậy, tập Milindapanha tả uy
lực đặc biệt của một đức Phật, với những danh từ
tương tự của các nhà Ðại thừa, nhưng tập này chỉ đề
cập đến đức Phật Thích Ca Mâu Ni và một số đức Phật
khác được các nhà Tiểu thừa nói đến chớ không phải
vô lượng vô số chư Phật của các nhà Ðại thừa.
Sai
biệt chủng tánh (Gotrabheda): Nguyên nhân chính về chí nguyện
sai khác giữa mọi người
Tập Sùtralankàra (105)
trả lời câu hỏi vì sao giữa những đệ tử của đức Phật
lại có những người có chí nguyện thượng, trung, hạ sai
khác nhau. Câu hỏi này đưa đến sự bàn luận về vấn đề
gotrabheda, sự sai khác về thứ hạng và sự nghiên cứu lời
tuyên bố trong tập Aksaràsisùtra. Tập này nói rằng vì những
phần tử tác thành một cá nhân sai khác nhau nên có vô lượng
dhàtu (giới) sai khác. Tập này chia chúng sanh thành ba loại:
Niyatagotra (định tánh), aniyatagotra (bất định tánh) và
agotra (vô tánh).
Hạng đầu gồm những
vị, nhờ công đức đời trước hay vì xu hướng nội tâm,
sau này sẽ trở thành Sràvakayànàbhisamayagotra (Thanh văn thừa
loại tánh), Pratyekabuddhayànà-bhisamayatotra (Ðộc giác thừa
loại tánh) hay Tathàgatayànà-bhisamayagotra (Như lai thừa loại
tánh). Hạng thứ hai gồm những vị còn ở lưng chừng và
có thể trở thành Tiểu thừa hay Ðại thừa. Hạng thứ ba
gồm tất cả chúng sanh còn lại, và hạng này lại còn chia
thành hai loại (I) những vị không thể nào chứng được Niết
bàn (atyantam), và (II) những vị hiện tại (tatkàla) chưa có
thể chứng Niết bàn. Trong những vị Nigatagotrasthas (định
tánh), chính những dhàtu (giới) quyết định về adhimukti
(phát nguyện), còn adhimukti quyết định pratipatti (quả chứng),
và chính tùy thuộc các bìja (chủng tử) mà kết quả trở
thành hìna (hạ), madhya (trung) và visista (thượng). Các hàng
Thanh văn thấp thua hàng Bồ-tát vì hàng Thanh văn không có
những công đức xuất chúng, cũng không có một loại công
đức nào, vì các hàng thanh văn thiếu năm sức mạnh (bala)
và sáu vaisàradyas (vô úy) (107). Tuy vậy các công đức của
các vị này không được vĩnh viễn trường tồn vì các vị
này chỉ mong cầu chứng được anupàdisega-nirvàna (vô dư y
Niết bàn). Các công đức lại không đưa đến những kết
quả to lớn vì các hàng Thanh văn không có phục vụ hoàn
toàn cho lợi ích của người khác (aparàrtnatvàt).
Tập Lankàvatàra (108) cũng
nói đến các gotra (tánh) và chia thành năm hạng người
(abhisamayagotra) (phân loại hạng người tùy theo kết quả
giác ngộ), nghĩa là Sràvakayànà- bhisamayatotra,
Pratyekabuddhàyànà-bhisamayatotra, Tathàgatayànà-bhisamayagotra
(109), Aniyatagotra (bất định tánh) và Agotra (vô tánh). Các
hàng Sràvakayànà-bhisamayagotra là những người mê say bởi lời
dạy về tính cách linh động của những phần tử tác
thành thân thể (skandhadhàtuyàyatanasvasàmànya-laksana) uẩn giới
xứ tự đồng tướng và cũng nhận thức được đặc tánh
của sự vật liên hệ đến lý Duyên khởi
(pratityasamutpàda-vinirbhàga-laksanaparicaye). Trong khi ở trong
bhùmi (địa) thứ năm hoặc thứ sáu, những vị này giải
thoát khỏi những đau ốm về tương lai, nhưng không khỏi
các vàsanà-klesa (phiền não tập khí) (110). Các vị này đạt
đến một địa vị không còn thối chuyển và do đó, tuyên
bố mình đã sống đời một vị thánh, chứng được tánh
vô ngã của cá nhân, đạt đến Niết bàn và không còn phải
luân hồi sanh tử.
Vị tác giả tập
Lankàvatàra ở đây nói thêm rằng có hạng Thanh văn tự cho
đã đạt đến Niết bàn nhờ chứng được tánh vô ngã của
cá nhân, và một vài vị cho rằng nhờ hiểu được lý
nhân duyên chi phối sự vật, nhưng sự thật không thể nào
có Niết bàn nếu không chứng được tánh vô ngã của sự
vật (dharmanairàtmya). Các vị này xem đó là cửa giải
thoát (nìryàna) nhưng sự thật không phải vậy và do đó
còn nắm giữ một phần trong nhiều tà kiến. Các vị
Pratyekabuddhayànàbhisamayagotras là những vị đã mê say khi
nghe đến các kinh nói đến sự giác ngộ đặc biệt của từng
cá nhân, không ưa thân cận với người khác, và rất thích
thú các thần thông. Các vị Tathàgatayànàbhisamayatora, theo tập
Lankàvatàra, có ba hạng: (I) những vị đã chứng ngộ tánh
vô ngã của những loại gọi là hữu tình, (II) những vị
cho rằng sự giác ngộ sự thật chỉ xảy ra trong tự thân,
và (III) những vị đã chứng được sự vĩ đại của Phật
sát (Buddhaksetra).
Các vị Aniyatagotra (bất
định tánh) là những vị theo một trong ba tánh kể trên khi
được nghe giải thích. Các vị này thật sự ở trong giai
đoạn dự bị. Khi Àlayavijnàna (A lại da thức) của những
vị này được gội sạch mọi klesa (phiền não) và Vàsanà
(tập khí); các vị này trở thành Thanh văn hay Bồ-tát sau
khi thọ hưởng hạnh phúc tu thiền nhờ chứng được tánh
vô ngã của sự vật. Các nhà Tiểu thừa cũng chấp nhận sự
phân loại này nhưng với một ý nghĩa sai biệt. Tập
Puggalapannatti và tập Kosa nói đến niyata và aniyatapuggala (Ðịnh
tánh và bất định tánh hữu tình), những theo hai tập này,
các hạng Niyata (định tánh) là hạng người vì phạm năm tội
ngũ nghịch nhất định phải có tà kiến hoặc những bậc
đã chứng một trong tám quả Thánh và nhất định sẽ đạt
đến Niết bàn, còn các loài hữu tình còn lại thuộc bất
định tánh, nghĩa là đời sống của các hạng này chưa
được quyết định (111).
Danh từ Gotrabhù (Chuyển
tánh) chiếm một địa vị trọng yếu trong phương thức giải
thoát của Tiểu thừa. Danh từ này chỉ cho một người lần
đầu tiên bước vào con đường dẫn đến Niết bàn sau khi
ra khỏi hàng ngũ phàm phu (puthujjana) (112). Sau khi tu trì phần
tâm linh, một người mới trở thành Gotrabhù, sau một
sát-na bước vào thánh đạo, nhận thức được khổ đế
thứ nhất trừ diệt các nghi vấn và sai lầm, thể nhận
đư?c Niết bàn và bắt đầu thi hành những bổn phận trong
Bát chánh đạo. Vị này trở thành một vị Arya (Thánh) và
đủ điều kiện để chứng được quả vị cao nhất trong
các bậc Thánh. Chính trong ý nghĩa này mà tập Satasàhasrikà
(thiên bách tụng) (113) cũng dùng danh từ Gotrabhùrastamaka
trong khi nói đến các thứ bậc tu hành, trong ấy các loài hữu
tình muốn đạt đến hạnh phúc hoàn toàn cần phải an
trú.
Tiểu
thừa bị Ðại thừa công kích
Nay rõ ràng các nhà Ðại
thừa xem các nhàTiểu thừa như các tôn giáo và triết gia
ngoại đ?o của các vị Brahmavàda (tin theo Phạm thiên) và
các vị Sàsvatavàda (thường kiến). Kinh Brahmajàlasutta (Phạm
võng kinh) tuyên bố một số người trở thành Brahmavàda hay
Sàsvatavàda, không phải vì tà kiến riêng nhưng bởi vì
chúng không có thể nghĩ gì cao hơn Phạm thiên hay xa hơn vài
ngàn đời. Chính đức Phật đã vượt qua giới hạn ấy và
đã tìm ra những khuyết điểm của chúng (114). Do vậy
chúng ta thấy có một sự phát triển tiếp tục về tư tưởng
và những tân tư tưởng gia, những nhà Ðại thừa đã xem tất
cả những lời tuyên bố gán cho đức Phật dưới một ánh
sáng hoàn toàn mới lạ. Một khi một tư tưởng giới cao
hơn đã đạt được, thời mọi lời tuyên bố tự nhiên
được giải thích từ tư tưởng giới cao ấy. Các nhà Ðại
thừa thương hại các nhà Tiểu thừa vì những hiểu lầm của
họ cũng như các nhà Tiểu thừa thương hại các nhà
Brahmavàda hay Sàsvatavàda.
Theo các nhà Tiểu thừa,
Niết bàn đánh dấu một địa vị cao hơn địa vị của Phạm
thiên (115). Còn theo các nhà Ðại thừa thời Niết bà chỉ
là một sự thử thách tạm thời, còn Niết bàn chân thật
thời cao thượng hơn trạng thái Niết bàn do các nhà Tiểu
thừa nhận thức, cho nên các nhà Tiểu thừa được các
nhà Ðại thừa thương hại vì quan niệm và lý tưởng thấp
kém của họ. Theo quan niệm của các nhà Ðại thừa, các vị
Tiểu thừa giống như những đứa trẻ chơi với các đồ
chơi nhưng không có thể nhận thức được sự thật. Tập
Kàsyaparivarta (116) nói rằng giống như những người con trai
của bà hoàng hậu với một người nghèo không được xem là
hoàng tử. Còn những người con trai của một vị vua với bà
hoàng hậu hay với một thị tỳ nào cũng được xem là
hoàng tử. Cũng vậy các nhà Tiểu thừa có thể là kết quả
cùng một pháp giới (117) như các nhà Ðại thừa nhưng không
có thể được xem là trưởng tử của đức Phật, giống
như con trai của hoàng hậu với một người nghèo không được
xem là hoàng tử.
Tập Prajnàpàramità cũng
lặp lại vấn đề này và nói rằng trí tuệ của một vị
đã hoàn thành Bát nhã Ba-la-mật không thể so sánh với trí
tuệ của một nhà Thanh văn đệ nhất. Tập Lalitavistara
(118), tập Kàsyapa parivarta (119) và các tập khác đều nhấn
mạnh về điểm một vị Bồ-tát phải phát triển Asprhà
(không ham muốn) đối với Tiểu thừa. Tập Bodhicaryàvatàra
(120) nghĩ rằng: tất cả công đức của các vị Thanh văn
không có thể sánh bằng những công đức của một vị Bồ-tát
đã phát Phật tâm. Còn tập Siksàsamuccaya (121) xem là một
mùlàpatti (tội căn bản) nếu một vị Bồ-tát hoặc giao
thiệp với một vị Thanh văn, vì như vậy sẽ làm trí tuệ
của vị này trở thành muội lược, hay giảng Ðại thừa
cho một người mà căn bản thiện pháp (kusalamùla) không đủ
để vị này có thể theo được giáo lý Ðại thừa (123)
và vị Bồ-tát này sẽ phạm một trọng tội nếu phát tâm
hướng đến Thanh văn địa hay Ðộc giác địa (123). Tập
Gandvyùha (124) kể một danh sách rất dài những khuyết điểm
của một vị Thanh văn so sánh với một vị Bồ-tát và nêu
rõ rằng các nhà Thanh văn không hiểu rõ được những hành
động của đức Phật ở tại Jetavana (Kỳ viên). Những
nguyên nhân đề cập đến là vì trí tuệ của một đức
Phật vượt ngoài tầm hiểu biết của các nhà Thanh văn.
Jnanacaksu (tuệ nhãn) của những vị này yếu ớt không thể
thấy được những hành động của đức Phật. Tập Prajnàpàramità
(125) và tập Siksàsamuccaya (126) xem các nhà Thanh văn như là
ác hữu khác với thiện hữu của những vị Bồ-tát vì
các nhà Thanh văn khuyên các vị Bồ-tát nên bỏ con đường
Ðại thừa, một con đường giải thoát rất khổ cực và
không tưởng, đòi hỏi một thời gian quá dài và khuyên
theo con đường giải thoát Tiểu thừa là một một con đường
thiết thực tốt đẹp hơn và đòi hỏi một thời gian ngắn
hơn nhiều. Tập Pundarika (Pháp hoa) (127) gọi các nhà Tiểu
thừa là Abhimànika (tự phụ) vì các vị này không tin các lời
tuyên bố của tập này.
Dù cho có sự cố gắng
để chỉ trích Tiểu thừa trong hầu hết các tác phẩm Ðại
thừa, các tập này không thể phủ nhận công trình của
các nhà Tiểu thừa trên con đường tu hành, nhất là sự tiến
triển đạo đức. Theo tập Pundarika (128) trong một
Buddhaksetra (Phật sát) có vô lượng vô số Thanh văn và những
vị này rất tinh tấn và giống như những hòn ngọc không
tì vết trong sự hộ trì giới luật. Sự khinh miệt dharma của
các nhà Thanh văn và các nhà Ðộc giác được xem như là một
tội căn bản (mùlàpatti) đối với một vị Bồ-tát (129).
Tập Siksàsamuccaya (130) và tập Bodhicaryàvatara (131) khuyên
các vị Bồ-tát phải kính trọng Thanh văn thừa và Ðại thừa
ngang nhau.
Tập Bodhisattvabhùmi
(132) xem là một tội phạm nếu một vị Bồ-tát nghĩ rằng
vị này không nên nghe, không nên học, không nên thực hành
những pháp liên hệ đến Thanh văn thừa. Chúng ta thường
thấy những vị Bồ-tát đến các vị Thanh văn (133) để
nghe thuyết pháp. Và điều rất kỳ dị là Subhùti (Tu Bồ
Ðề) lãnh trách nhiệm thuyết giảng triết lý Sùnyatà
(chân không) trong những tập Prajnàpà ramità. Như vậy rõ
ràng rằng trong những giai đoạn đầu tiên của Ðại thừa,
các nhà Thanh văn rất được kính trọng. Ðiểm này cũng rất
rõ ràng trong công thức đảnh lễ mở đầu cho những tác
phẩm Ðại thừa đầu tiên. Công thức này nói đến đảnh
lễ chư Phật, chư Bồ-tát và các vị Thanh văn nữa. Trong một
vài tác phẩm Ðại thừa về sau, công thức này được rút
ngắn đi. Các tập Satasàhasrikà, Saddharmapundarika và
Lalitavistara có công thức như sau: "Namah sarvatathàgata-
pratyekabuddhàryasràvakebhyo v.v...." Công thức này được
rút ngắn trong tập Siksàsamuccaya, Sùtràlankàra và tập
Mahàvyutpatti như sau: "Namah sarvabuddhabodhisattvebhyah".
Như vậy các tác phẩm
Ðại thừa đều công nhận sự tiến bộ của các nhà Thanh
văn trên con đường tu hành và đời sống đạo đức của
những vị này cũng được tán thán. Chỉ có lý tưởng của
vị Thanh văn và quan niệm kém siêu hình của những vị này
đối với sự vật không được các nhà Ðại thừa tán đồng
và do vậy những qui luật đao đức và quan điểm triết lý
của những vị này được các nhà Ðại thừa xem là thiếu
sót và nông cạn.
-ooOoo-
CHÚ
THÍCH CHƯƠNG HAI
1- Xem Vinaya, Mv; i.5. 17;
Mtu; III, tr.331, 345
2- Sogen trong quyển
Systems of Buddhistic thought (trang 7 v.v...), xem Sarvam anitiyam,
Sarvam anàtmam và Nirvànam sàntam như là ba nền tảng mà cả
Tiểu thừa và Ðại thừa dựa lên. Sự thật vô thường và
vô ngã không được quan điểm chân không và chân như của
Ðại thừa chấp nhận là sự thật tuyệt đối. Thật ra
Sarvam tathàtvam đã thay thế cả hai trong Ðại thừa.
3- M. Vr. Tr.521; Burnouf,
Intro, tr. 519.
4- Itiv, tr.37; Ud, tr.80.
5- Sata; tr. 120:
Nàmamàtram idam yaduta Buddha iti.
6- Lankà tr.19:
Alabdhàtmaka dharmàh katame yaduta Sasakharostra - vàjisana-
vandhyàputra prabhrtayo dharmàh.
7- Sata; trl118: rùpam
được xem ở đây nghĩa là dùng chữ nào thay cũng được.
Trong tập pàncavimsati. "Màyà" được dùng thế cho
Sùnyatà trong công thức giống như trên.
8- M. Vr, tr.248.
9- Sùtra. tr.76. Trong tập
Vijnaptimàtratà Sùnyatà cũng là bhùta-tathatà.
10- Xem, Dìgha I, tr.118;
Anesaki dùng chữ Tathàgato thay vì chữ "Buddha" thật
có ý nghĩa.
11- Lankà,
tr.96:Catustaya-vinirmuktà tathàgatànàm dharmadesanà
yadutaikatvànyatvobhayànubhayapaksa-vivarjità
nàstyasti-samàropàpavàdavinirumktà.
12- M. Vr; tr.446-447: 14 vấn
đề bất khả thuyết được chú giải.
13- Xem Lankà; tr.96.
14- M. Vr; chương I và
XXIV; xem infra. Chương III (d).
15- Xem chi tiết Chương
III (d).
16- Nàgàrjnuna cũng xem
Pratìtyasamutpàda như là Sùnyatà; xem M. Vr; tr.503, 542:yah
pratìtyasamutpàdah sùnyatàm pracaksmahe.
17- Majjhima, I, tr.191;
Samyutta, III. tr.120; Itiv; tr.92; Sad, San (J.P.T.S), 1890, tr.69;
Mil; tr.71; Dìgha, II, tr.154: Bodhic; tr.386; M Vr; tr.6, 160;
Sàlistambasùtra, tr.70.
18- Asta; tr.3; Panca;
tr.1; Bodhic; tr.430.
19- Xem Panca; tr.167a;
Bodhic; tr.431. Cần để ý rằng sự hoàn toàn trong
Prajnàpàramità có nghĩa là sự chứng ngộ được tuyệt đối
qua sự thấu hiểu tánh không của mọi vật.
20- Sad.P; tr.46.
21- Ibid. tr.143.
22- Sad. P; tr.41 và xem
Siksà; tr.95-96: "Ta chưa bao giờ thuyết chánh pháp trong
những hình thức phân biệt, một cho Thanh văn, một cho Ðộc
giác và một cho Bồ-tát".
23- Vallée Poussin trong bản
dịch Pháp ngữ tập Le Musé, VIII (N.S), tr.271: "Ce point
est enseigné par (Nàgàrjuna) notre maitre, quand il dit: "Le
Granđ Véhicule la destruction; c’est la même vacuité dans la sens
de destruction et de non-naissance".
24- Sùtrà; tr.68-70.
25- Cf. Kàs . P. tr.116,
80; Kàrikà (A.S.B. ms), tờ 2a Dharmadhàtor asambhedàt gotrabhedo
nayujate. Àdheyadharmabhedàt tu tad bhedah parigìyate.39.
26- Sùtrà; tr.69, v.54
27- Giáo sư Lévi sửa lại
bản chính "Anàtmanibaddhàsaya" thành "àtmani
bhddhàsaya". Xem bản dịch của Giáo sư, tr. 125 v.v...
28- Sùtrà; tr.70; tam
avasthàtrayastham samdhàyoktam Bhagavatà Srìmàlàsùøtre, sràvako
bhùtvà pratyekabuddho bhavati punas ca Buddha iti.
29- Lankà; tr.65, 243.
30- Lankà; tr.133:
Ekàyanamàrgàdhigamàvabodhah katamo yaduta gràhyagràhakavikalpa-
yathabhùtàvàsthànàd spravrtter vikalpasyaikayànàvabodhah. Cũng
xem trang 155.
31- Xem bài của ông về
Ðại thừa trong tập Eastern Buddhist, I,II, tr.1 -2.
32- Quan điểm của các
nhà học giả Nhật Bản lấy từ bài của ông Amstrong:
"Biện luận về nguồn gốc của Ðại thừa Phật
giáo" trong tập The Eastern Buddhist, IV, I.
33- Sùtrà; tr. 3, 4. Ðoạn
này được bản sớ giải Trung Hoa của tập Thành Duy Thức
để chứng tỏ sự chính xác của Ðại thừa.
34- Về bị chú vấn đề
Anàgatabhayas, xem bản dịch Pháp văn của ông Lévi, tập
Sùtrà; tr. 6, 7 v.v....
35- Bodhic; tr. 431: Yac ca
sùtré ‘ vatarati, vinaye ca samdrsyate, dharmatàm ca ca na
vilomayati, tad Buddhavacanam nànyad.
36- Xem quyển Early History, tr. 207, về một thảo
luận đầy đủ chi tiết của sự phân loại các Tỷ kheo
thuộc một học phái.
37- Suzuki, Outlines of
Buddhism, tr. 16.
38- Hiển nhiên ông
Kimura đã đề cập đến Chân đế và Tục đế.
39- Asta; tr.33.
40- Học phái thứ hai
này không được đề cập riêng biệt trong phân loại của
Thiên thai tôn, T. Richard, New Testament of Higher Buddhism, tr.41.
41- Xem T. Richard, tr.4;
ở đây chữ "Giáo lý" hay "Pháp" được dùng
thay cho danh từ "Phật giáo".
42- As. Res; XX, tr.399,
400.
43- Xem Tự phần Panca.
Về thời gian của tập Prajnàpàramità sớm nhất.
44- Sogen, Systems of
Buddhistic Thought, tr.l173.
45- Xem Eastern Buddhist,
IV.
46- So sánh Hardy, Manual
of Buddhism, tr.312.
Ngài Xá Lợi Phất hỏi
đức Phật rằng các hàng Thanh văn như mình có thể thành
Phật không, đức Phật trả lời không, nói rằng các hàng
Thanh văn phải thành tựu các hạnh Ba-la-mật.
47- Sad. P, tr.64-5.
48- Sad. P, tr.36, 38, 60,
61; Sata; tr.502.
49- Sad. P, tr.65, 144,
148, 150, 152, 201.
Ngài Xá Lợi Phất, sau
khi theo chánh pháp của vô lượng Phật, đảnh lễ các vị
này và thực hành hạnh Bồ-tát, sẽ thành đức Phật
Padmaprabhà, và ngự trị trên Phật sát tên là Viraja...
50- Sad. P, tr.100, 101.
51- Sad. P, tr.186 v.v...
52- Ibid, tr.188.
53- Majjhima, I, tr.160 -
175; Dìgha II, tr.36.v.v...
54- Xem chương III (d) về
Tục đế và Chân đế.
55- Majjhima,
Àsayànusayam viditvàdhammam deseti v.v...
56- Dìgha, I, tr.148;
Vinaya I, tr.15 .v.v...
57- Kalpakasàya,
Sattvakasàya, Klesakasàya, Drstikasàya Àyukasàya. Sad. P; tr.31,
43.v.v...
58- Sad. P; tr.48; Dìgha,
Brahmajàlasutta.
59- Theo Tiểu thừa: khổ,
tập, diệt, đạo là Sàmukkamsikà dhammadesanà (Xem Majjhima I,
tr.350), nhưng theo tập Sad. P; (tr.60) Buddhajnàna chính là
Sàmutkarsikì dharmadesanà.
60- Sad. P; tr.55 - 57, 60.
61- Ibid, tr.59: Bahùni
samdhàvacanchi coktam durbodhyam etam hi asiksitehi.
62- Ibid; tr.19, 31, 70.
63- Sata; tr.121 - 2.
64- Sad, tr.71.
65- Nên để ý sự tương
phản trong nguyên bản. Tập này nay công nhận các hàng Thanh
văn đầy đủ những đức tánh, chính những đức tánh này
mà các tác phẩm khác đã chỉ trích các hàng Thanh văn là
thiếu sót thua các vị Bồ-tát và không thể hiểu giáo lý
Ðại thừa.
66- Sad. P; tr.46.
67- Ibid; tr.124.
68- Ibid; tr.140.
69- Ibid; tr.55.
70- Thí dụ này cũng
được nói đến trong tập Lankà, tr.88.
71- Sad. P; tr.71 - 76.
72- Liệt kê xem Mvyut.7
- 9.
73- Sùtra; tr.171.
74- Trong tập Pug. P;
tr.26, danh từ Hìnàdhimutta chỉ cho một người bất thiện làm
các hành vi ác độc và phụng sự cho những hạng người
tương tự. Danh từ trái lại là Panìtadhimutta, nghĩa là một
người có đạo đức làm các thiện sự và phụng sự cho
những người tương tự.
75- Xem Mvyut; tr.52; Dasa;
tr.25.
76- Sùtra; tr.4.
77- Cf. Lal. Vis; P.34:
àsayao dharmàlokamukham Hìnayàna-sprhanatà-yai samvartate.
Adhyàsayo dharmàlokamukham
udàrabuddhadharmà-dyàlambanatàyaisamvartate.
78- Siksà; tr.17.
79- Sùtra; tr.52.
80- Bhàgavata VII, IX, 44
81- Dh. P; tr.354.
82- Dìgha, II tr.45.
83- Dìgha, I tr. 229
84- Sùtra; tr.4.
85- Siksa; tr.4: những ai
có Adhyàsaya thanh tịnh thực hành các hạnh Ba-la-mật; những
ai thực hành các hạnh Ba-la-mật được an trú trong Ðại thừa.
86- Panca; tr.81b.
87- Tuy vậy có một
vài trường hợp rải rác nói rằng các vị phạm ngũ nghịch
vẫn có thể giải thoát. So sánh tập Divyà; tr.261: kẻ giết
cha sẽ không được một vị Tiểu thừa cho thọ giới
nhưng được một vị Tỳ kheo thọ giới Bồ-tát cho phép thọ
giới. Siksa; tr.17-18 nói rằng không một ai phạm tội ngũ
nghịch có thể phát tâm hướng đến Thanh văn giác hay Ðộc
giác.
88- Xem Kosa, III, d - 94a;
89- Về các chi tiết
xem chương IV.
90- Sùtra, tr.4.
91- Sùtra; tr.4 và 168.
Sách Sad. P; tr.140.
92- Sad. P; tr.80.
93- Dasa; tr.25-26
94- M. Ava trong tập Le
Muséum (N.S) VIII, tr. 252.v.v...
95- E.R.E. II tr.740
96- Kosa Vii, 6.
97- E.R.E. X, tr.152-154.
98- E.R.E. X, tr.152
99- Mil; tr.160.
100- Majjhima III; tr.86.
101- Pul. P; tr.14 và 73.
102- So sánh Pug. P;
tr.70. Ðoạn này nói rằng Ngài Xá Lợi Phất, Mục kiền
Liên và các vị khác được xem là đã chứng sự thật từ
trước, chưa từng được nghe vàdiệt tận mọi khổ đau nhờ
chứng ngộ chánh pháp.
103- Xem Samuyutta III;
tr.65-66.
104- Dìgha II; tr.136 và
tr.2.
105- Sùtra; Chương III
106- Ibid trang 10 v.v...
107- Xem chú thích của
giáo sư Lévy về những chữ này trong bản dịch Sùtra,
tr.26-27 của ông.
108- Lanka; tr.63-65.
109- Ba loại này được
gọi là Niyata-gotra.
110- Vàsanà: những dấu
vết để lại trong tâm trí bởi các hành vị thiện hay ác,
những hành vi này tạo ra khổ hay lạc.
111- Pug. P; tr.13; Kosa,
III. 44c, tr.137-138.
112- Majjhima III; tr. 256.
113- Sata; tr.1263.
114- Dìgha I, tr.12 v.v...
II, tr.251.
115- Dìgha I, tr.223.
116- Kàs. P; tr.116 (80).
117- Cf. Sutra; tr.68.
118- Lal, Vis; tr.34.
119- Kàs. P; tr.50 và
115.
120- Boddhic, tr.18 và 48.
121- Siksa; tr.54 và 59.
122- Boddhic; tr.146 -147.
123- Siksa; tr.17 và 50
124- Gandavyùha; tr.9d.
125- Sata; tr.1185 v.v...
Kàs. P; tr.50.
126- Siksa; tr.54.
127- Sad. P; tr.43.
128- Ibid; tr.24, 282, 285,
320.
129- Siksa; tr.54 và 59.
Boddhic; tr.146 -147.
130- Siksa; tr.92. Boddhic;
tr.146.
131- Boddhic; tr.146.
132- Xem Revue de L’histoire
des Religions; 1909; tr.3.
133- Trong tập
Gandavyùba có nói đến Ngài Sudhanu đến yết kiến rất nhiều
vị Thanh văn để học những bổn phận của một vị Bồ-tát.
---o0o---
Mục
lục
|
1.1
|
1.2
|
2.1
|
2.2
|
3.1
|
3.2
|
3.3
|
3.4
|
3.5
|
4.1
|
4.2
|
5
---o0o---
|
Thư Mục Tác Giả |
---o0o---
Chân thành
cám ơn Đạo hữu Bình Anson đã gửi tặng phiên bản điện tử
(Quang Duc Website, tháng 5, 2002)
Trình bày: Nhị Tường
Cập
nhật : 01-05-2002