ÐẠI THỪA VÀ SỰ
LIÊN HỆ VỚI TIỂU THỪA
Nguyên tác: Nalinaksha Dutt
HT.
Thích Minh Châu dịch,
Ấn hành 1971 (tái bản 1999)
---o0o---
QUAN
NIỆM KÀYA KHI ÐẠI THỪA MỚI ÐƯỢC THÀNH HÌNH
Các nhà Ðại thừa
thâu nhận quan niệm Nirmànakàya của phái Ðại chúng bộ
vào lý thuyết Trikàya của mình, thêm vào Sambhogakàya (thọ
dụng thân) và Dharmakàya (pháp thân). Sambhogakàya gần giống
với quan điểm của Ðại chúng bộ về đức Phật siêu
nhân và Dharmakàya là một quan niệm triết lý mới của các
nhà Ðại thừa.
Hình như những quan niệm
Kàya mới này không được hoan nghênh cho lắm, khi Ðại thừa
mới được thành hình. Tập Saddharmapundarìkà và
Suvarnaprabhàsa cố gắng xóa nhòa trong tâm trí mọi người hình
ảnh đời sống lịch sử của đức Thích Ca Mâu Ni. Trong tập
Pundarikà chúng ta thấy Ngài Maitreya (Di Lặc) đóng vai trò một
người đa nghi và hỏi vì sao đức Phật có thể, trong thời
gian ngắn ngủi 40 năm sau khi giác ngộ ở Gayà, thành tựu
vô lượng vô số phận sự của một đức Như Lai và dắt
dẫn được vô số Bồ-tát thành tựu Phật quả. Thật giống
như sự mâu thuẫn một người 25 tuổi lại có thể xem những
người 100 tuổi là con của mình và những người ấy gọi
mình là cha. Cũng mâu thuẫn khi đức Phật chỉ các vị Bồ-tát
trải hằng triệu năm đang cứu độ chúng sanh là đệ tử
của Ngài. Ngài Maitreya nói thêm, trong tâm trí các vị Bồ-tát
mới trở thành Ðại thừa sẽ có sự nghi ngờ như vậy, nên
đức Như Lai cần phải giải thích sự mâu thuẫn đó để
giúp Phật giáo được phát triển. Rồi đức Phật ba lần
bảo thính chúng tin theo lời dạy của mình và nói rằng:
"Ðừng xem đức
Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni mới từ giã gia đình và chứng Bồ
đề ở Gayà, ta đã chứng Bồ đề vô lượng vô số kiếp
về trước và từ đấy đang tiếp tục giảng dạy chánh
pháp. Những điều ta nói về các đức Như Lai quá khứ
Ngài Nhiên Ðăng v.v... và sự nhập Niết bàn của các
Ngài đều do tự ta đặt ra, những điều ấy chỉ là những
xảo phương tiện để ta thuyết pháp. Những điều ta nói
khi ta còn trẻ, mới sanh, xuất gia và chứng Bồ đề là
để thuyết phục một hạng người về giá trị của tôn
giáo và sự lợi ích của tôn giáo ấy. Nhưng những điều
ta nói không phải không đúng sự thật vì các đức Như
Lai biết sự thật về ba giới, các đức Như Lai biết rằng
ba giới là không sanh, không diệt, không tạo tác, không bị
tạo tác, không hiện hữu, không không hiện hữu; không phải
là một, không phải là khác, không phải là chân chánh,
không phải là không chân chánh. Tất cả những điều các
đức Như Lai nói đều đúng sự thật. Nhưng vì loài người
không có chánh tri kiến nên hiểu sai lạc. Dù ta không chứng
Niết bàn ta nói ta đã chứng Niết bàn. Vì muốn mọi người
tìm hiểu khiến mọi người muốn được thấy đức Phật
nên ta nói sự xuất hiện đức Phật là một sự kiện hết
sức hi hữu, ta hóa hiện Niết bàn nhưng không bao giờ nhập
Niết bàn. Loài người vì tri kiến lệch lạc không thể
thấy chân ngã của ta và chỉ biết chăm chú đảnh lễ xá
lợi của ta. Nhưng điều này cũng có một kết quả tốt
đẹp vì nhờ vậy chúng trở thành chân chánh và từ bỏ
dục lạc. Nhờ những vị này, ta tạo thành giáo hội
Thanh văn, hiện ra ở núi Linh Thứu và giải thích cho
chúng như thế nào ta chứng được vô thượng Bồ đề".
Trong tập Suvarnaprabhàsa
(49), Ruciraketu (Diệu Tràng) và Bà-la-môn Kaundilya (?) đóng
vai trò những người đa nghi. Ruciraketu tìm hiểu tại sao đức
Phật Thích Ca Mâu Ni đã làm biết bao nhiêu thiện sự mà chỉ
sống được 80 năm. Còn Kaundilya tìm cầu một xá lợi đức
Phật nhỏ bằng hột cải để lễ bái và nhờ vậy được
sanh lên thiên giới. Ruciraketu được chư Phật trong tất cả
thế giới trả lời rằng các Ngài không biết có một người
nào hay một vị thiên thần nào có thể tính được thọ mạng
đức Phật Thích Ca Mâu Ni là bao nhiêu năm. Các đức Phật
nói có thể đếm được những giọt nước trong biển cả,
nhưng không có thể xác nhận thọ mạng đức Thích Ca Mâu
Ni. Bà-la-môn Kaundilya giả vờ ngu si được Litsaviku màra trả
lời rằng thật là ngu xuẩn nếu mong cây gioi sanh ra trái dừa.
Cũng vậy, thật là ngu xuẩn nếu mong xá lợi từ Buddhakàya
(Phật thân). Ðức Như Lai không sanh, luôn luôn thường hằng
và không thể quan niệm. Loài người chỉ có thể thấy được
hóa thân mà thôi, làm sao một thân không có xương, không
có máu lại có thể có xá lợi? Các đức Phật chỉ có
Dharmakàya mà thôi và chỉ có Dharmadhàtu (Pháp giới) mà
thôi.
NIRMÀNAKAYA
(Hóa thân)
Một mặt các tập Ðại
thừa cố gắng nêu rõ các nhà Tiểu thừa là sai lầm khi
các vị này tin đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một người bàng
xương bằng thịt và có để lại các xá lợi. Mặt khác
các tập Ðại thừa này giới thiệu hai quan điểm Nirmanakàya
(hóa thân) và Buddhakàya (Phật thân). Những tập này xem tất
cả những gì đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã làm đều làm với
thân giả tạo của Buddhakàya, một hình ảnh hóa trang để
theo tập thế gian (Lokànuvartana), để khiến mọi người tin
tưởng sự chứng đạt Phật quả là một việc không phải
không làm được vì các đức Phật đều chứng được kriyànusthànajnàna
(Thành sở tác trí) (50). Các vị này có thể hiện hóa thân
nào cũng được để độ thoát các loài hữu tình. Quan điểm
về Nirmànakàya của các nhà Ðại thừa trên căn bản giống
quan điểm các nhà Ðại chúng bộ.
Các tập Prajnàpàramita
nói đến Nirmànakàya hay Rùpakàya (sắc thân) một cách rất
đặc biệt. Tập Pancavimsati nói rằng một vị Bồ-tát sau
khi thành tựu các pháp cần thiết và thực hành Bát nhã
Ba-la-mật sẽ chứng được chánh đẳng giác. Rồi vị này
giúp đỡ cho các loài hữu tình trong mười phương thế giới
(lokadhàtu), trong tất cả thời với nirmànamegha (hóa vân) như
vậy gọi là Nairmànikà-kàya (Hóa thân) (51). Từ những tài
liệu Trung Hoa, chúng ta được biết Ngài Nàgàrjuna trong tập
sớ giải Bát nhã Ba-la-mật gọi là
Mahàprajnàpàramità-sàstra, nói đến hai kàya: Rùpakàya là
thân do cha mẹ sanh, đầy đủ những đức tánh của loài hữu
tình và chịu sự chi phối của con người nhu nhược. Thân
này sinh ở Kosala (Kiều Tất La), còn Dharmakàya được sanh
ở Ràjagrha (Vương xá). Thân vật chất này cần thiết cho sự
thật thế gian. Vì muốn giải thoát các loài hữu tình, đức
Phật hiện nhiều thân khác nhau, chỗ đản sanh và phương
pháp giải thoát khác nhau. Sự giải thích về Rùpa và
Dharmakàya này được hai tập chữ Hán Parinirvànasùtra (Giải
thâm mật kinh) (52) noi theo. Một vài tập Yogàcàra giúp
chúng ta biết quan điểm Nirmànakàya của các nhà Duy thức học
như sau:
1/- Tập Sùtràlankàra
(53) giải thích Nirmànakàya như những hình dáng đức Phật
ứng dụng để giúp đỡ các loài hữu tình trong nhiều giới
khác nhau. Phần nhiều danh từ này chỉ cho thân người đức
Phật khi Ngài phải học tập các văn vũ nghệ cần thiết
cho một người ở đời, sống đời sống một người có
gia đình rồi xuất gia và cuối cùng chứng Niết bàn, sau
khi sống đời sống của một vị tu sĩ.
2/- Tập Vijnaptimàtratàsiddhi
cho chúng ta biết Nirmànakàya là dành cho các vị Thanh văn,
Ðộc giác, phàm phu và các vị Bồ-tát chưa chứng được một
trong mười địa. Thân này có thể hiện ra trong tất cả quốc
độ thanh tịnh hay không thanh tịnh. Các tập sớ giải Trung
Hoa về Thành duy thức nói đến những phương tiện đức Phật
dùng để hiện hóa thân mình hay thân người khác, hay tiếng
nói của người khác và tâm của mình, hay tâm của người
khác tùy theo mục đích và trường hợp. Không những Ngài
có thể hóa thân Ngài thành thân Thích Ca Mâu Ni hay hóa Ngài
Xá Lợi Phất thành một người thiếu nữ, mà Ngài có thể
tạo ra một thân hiển hóa hoàn hoàn mới, lẽ dĩ nhiên
không phải là một loài hữu tình linh động và có suy tư.
Nhiều khi Ngài dùng tiếng nói của Brahmà, hay nhờ miệng của
Ngài Xá Lợi Phất và Tu Bồ Ðề để giải bày tư tưởng
của mình. Ðây là nguyên nhân tại sao Ngài Xá Lợi Phất
hay Tu Bồ Ðề giải thích một vài giáo lý Ðại thừa rất
mầu nhiệm mà tự các ngài không thể hiểu thấu (54).
Phương pháp thứ ba để
Ngài thay đổi giọng nói của Ngài là tạo ra những tiếng
nói ở trên hư không. Tư tưởng của Ngài là xuất thế và
vô lậu. Ngài có thể tạo ra trong tâm trí Ngài những tư
tưởng gì Ngài thích. Sự thật Ngài đã xuất hiện trong
hóa thân Thích Ca Mâu Ni với một tâm trí thích hợp với thế
gian pháp. Ngài cũng có thể bắt buộc người khác có tư
tưởng giống mình.
3/- Tập
Abhisamayàlankàrakarikà tuyên bố rằng có bốn loại thân, chỉ
có Svàbhavikakàya (tự tánh thân) là thật, còn ba thân khác
tức Dharmakàya (= Svasambhogakàya: tự thọ dụng thân),
Sambhogakàya (=Parasambhogakàya: tha thọ dụng thân) và
Nirmànakàya là thuộc về tục đế, nghĩa là không chân thật;
những thân này dùng cho các đức Phật, các vị Bồ-tát và
các vị Thanh văn. Như vậy Nirmànakàya dành cho các hàng
Thanh văn và cho các vị Bồ-tát chưa chứng được một
trong mười địa. Tập này tả Nirmànakàya như là một thân
không rời khỏi thân chân thật và những hành động tạo
ra bởi thân này không thể tách rời khỏi thân. Những hành
động này phải được xem là Asamsàra (siêu thế, không thuộc
thế gian), rồi tập này tiếp tục trình bày37 hành động
thanh tịnh do Nirmànakàya tạo tác và những hành động này
chính là hành động của Dharmakàya. 37 hành động như được
tập này giải thích là 37 tầng bậc mà một Nirmànakàya phải
đi ngang qua sau khi phát sanh. Những hành động ấy như sau:
(I) Không quan tâm đến
cõi thiện hay cõi ác; nghĩa là có thể sanh ra như một loài
vật, loài người hay thiên thần tùy theo sự nhu cầu, như
vậy gọi là Gatiprasama
(II) Sangrahavastu: Thực
hành bốn nhiếp pháp;
(III) Tự trau dồi kiến
thức về những vấn đề tương phản thiện và ác nhờ
Srutramayi (văn sanh huệ) hay những loại trí tuệ khác và
áp dụng sở học để phục vụ mọi loài, tự mình hoàn
toàn vô tư, nghĩa là không có Anunaya (tùy tham), như một
nhà phù thủy đối với những vật mình hiển hóa.
(IV) Thực hành sáu
Ba-la-mật theo nguyên tắc ba vật đều thanh tịnh
(Trimadala-parisuddha: Tam quyến thuộc thanh tịnh);
(V) Tự mình làm và
khuyến khích người khác làm mười thiện nghiệp và như
vậy an trú mọi người trên con đường hướng đến Phật
quả;
(VI) Tinh tấn để chứng ngộ tánh vô sanh của
sự vật.
(VII) Hiểu được tánh
bất nhị của sự vật và tánh chất trùng trùng điệp
điệp của Pháp giới v.v... cho đến khi chứng được Như
Lai địa, sau khi nhận chân được vô phân biệt tánh giữa
các pháp hữu vi và các pháp vô vi (55).
Tóm lại tập Kàrikà
muốn nói rằng đời sống của một vị Bồ-tát trải qua
vô lượng, vô số sanh tử chỉ là hóa thân; hóa thân này
không ra ngoài pháp thân vì theo triết học Ðại thừa, mọi
pháp hữu vi đều không phải một, không phải khác với
pháp giới.
4/- Tập Lankavatàra giải
thích sự liên lạc giữa Nirmànakàya và Dharmakàya giống như
tập Karikà. Tập Lankavatàra tuyên bố các hóa Phật không do
nghiệp tạo ra; Ðức Phật không phải ở trong nghiệp cũng
như không phải ở ngoài nghiệp (sarve hi nirmitabuddha na karma
prabhavà na tesu tathàgato na cànyatra tebhyas tathàgatah) (56). Chỉ
khi nào các Phật tử nhận thức đươc thế giới hiện hữu
không có đời sống riêng ngoại tâm (citta), khi ấy các Phật
tử mớichứng được hóa thân thoát khỏi Kriyà (nghiệp)
và sanrskàra (hành) và chứng được các pháp bala (lực),
abhijnà (thắng trí), và Vasità (tự tại) (57). Như tập Thành
duy thức, tập này nói các đức Như Lai tạo ra hóa thân để
thực hành những bổn phận của một đức Như Lai, tập này
có cho biết thêm các Vajrapàni (thần kim cang) đứng hầu các
vị hóa Phật chớ không hầu các đức Phật chân thực và
bổn phận của một đức Phật như vậy là để diễn giảng
và giải thích những vấn đề như bố thí, trì giới, thiền,
định, tâm, tuệ, trí, uẩn giới, xứ, giải thoát và thức
(58).
SAMBHOGAKÀYA
(Thọ dụng thân)
Chúng ta đã thấy,
Rùpakàya hay Nirmànakàya là dùng cho các vị Thanh văn, Ðộc
giác, phàm phu và các vị Bồ-tát chưa chứng được một
trong mười địa, cho nên một kàya khác phải tạo nên, một
kàya hết sức tế nhị hơn cho tất cả các vị Bồ-tát.
Thân ấy gọi là Parasambhogakàya (Tha thọ dụng thân), khác với
Svasambhogakàya (Tự thọ dụng thân), một thân tế nhị tương
tự, chỉ có đức Phật mới nhận thức được. Chính Tha
th? dung thân này đóng vai trò vị giảng sư trong nhiều kinh
Ðại thừa khác, phần lớn giảng tại Linh Thứu
(Grdhrakùta), chỗ độc nhất trong ba giới được xem là
thanh tịnh và thích hợp cho sự xuất hiện một
Sambhogakàya, hay tại thế giới cực lạc hay một trong thiên
giới.
Từ cách diễn tả sự
xuất hiện của đức Phật và cách thức Ngài diễn giảng
các kinh điển, ta thấy các nhà Ðại thừa chưa có thể
quên được hay vượt lên trên quan điểm nhân tánh của
các nhà Tiểu thừa. Các nhà Ðại thừa vẫn đặt đức Phật
Thích Ca Mâu Ni vào địa vị một đức Phật ngự trị trên
thế giới và tất cả các vị Bồ-tát, Thanh văn và cư sĩ
trong mười phương thế giới đều đến để chiêm ngưỡng
với bông và hương, để nghe đức Phật giảng kinh Prajnàpàramita,
Saddharmapundarìka và Gandavyùha.
Những vị Bồ-tát này
lại có những đức Phật mà các vị chiêm ngưỡng, những
vị này theo siêu hình học Ðại thừa, cũng đồng một pháp
thân như đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Những vị Bồ-tát này
đến, hoặc do các đức Phật của mình gởi đến, với những
lời chúc tụng và với bông hoa để tỏ sự cung kính hiến
dâng lên đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Quốc độ của đức Phật
này là Sahà Lokadhàtu (Ta bà thế giới); nhiều khi chính các
đức Phật tự thân hành đến nghe đức Phật Thích Ca Mâu
Ni thuyết pháp và đạo tràng của chư Phật, chư vị Bồ-tát
đông cho đến nỗi cõi Ta bà thế giới cần phải gỡ sạch
tất cả biển lớn, núi, sông, biển nhỏ và thành phố
cùng cả chư thiên loài người và các loài hữu tình khác.
Như trong các tác phẩm Tiểu thừa, chúng ta đọc thấy các
vị tu sĩ đến yết kiến đức Phật có một hay hai Sa di
đi hầu, nên chúng ta cũng đọc trong tập Daddharma-Pundarìka
vì thiếu chỗ nên vô số đức Phật không có thể đem theo
trên hai vị Bồ-tát để làm những người hầu cận (59).
Nay chúng ta cố gắng
tìm hiểu quan điểm kàya về đức Phật của các nhà Ðại
thừa như thế nào. Theo tập Satasàhasrikà và
Pancavimsatisàhasrikà, thân này là một thân hết sức sáng suốt
vô số hào quang phát xuất từ mỗi lỗ chân lông chiếu
sáng hằng hà sa số thế giới. Khi thân này le lưỡi, vô số
hào quang phát xuất từ lưỡi này và trên mỗi hào quang có
hoa sen ngàn cánh, trên mỗi hoa sen có ngồi một đức Như
Lai Vigraha (hóa Phật), một hình ảnh của đức Như Lai, một
loại hóa thân và đang diễn giảng cho chư vị Bồ-tát, các
vị cư sĩ, các vị tu sĩ và những người khác. Chánh pháp
được diễn giảng đây là sáu Ba-la-mật. Sau khi nhập thiền
định Simhavikìdita samàdhi (= Sư tử Uy thiền định), thân
Ngài chiếu sáng tam thiên đại thiên thế giới (
trisàhasramahàsahasralokadhàtù) như mặt trời sáng hay mặt trăng
rằm chiếu khắp thế giới. Rồi đức Phật nêu rõ
Prakrtyàtmabhava (tự tánh thân) cho toàn thể thế giới, các
chư thiền và các loài người của bốn cõi như Diêm phù đề
v.v... thấy tự tánh thân này và nghĩ đức Như Lai đang ngồi
trước mặt mình và thuyết pháp. Từ nơi thân này phát xuất
những hào quang, nhờ những hào quang này mà tất cả các
loài hữu tình trong thập phương thế giới thấy đức Phật
Thích Ca Mâu Ni giảng Prajnàpàramita cho đại chúng Tỳ kheo,
đại chúng Bồ-tát.
Dù cho quan điểm một
thân đức Phật phóng hào quang được nói đến trong tập
Prajnàpàramita, danh từ Sambhogakàya chưa đuợc các tập này
biết đến. Những tập này thường dùng danh từ
Prakrtyàtmabhàva (tự tánh thân) hay Àsecanaka àtmabhàva (thân
chiếu tỏa cùng khắp). Sự thật tập Astasàhasrikà không biết
đến Prakrtyàtmabhàva hay Àsècanaka-àtmabhàva, như vậy chứng
tỏ tập này sớm hơn các tập Bát nhã Ba-la-mật khác. Tập
này chỉ nói đến Rùpakàya và Dharmakàya và đoạn diễn tả
rất dài dòng về Phật thân trong các tập Sata và
Pancavimsati-sàhasrikà như là tự phần cho hai tập sách trên,
đoạn này không tìm thấy trong tập Astasàhasrikà. Chỉ có
trong đoạn kiết tập lại của tập Pancavimsati mà danh từ
Sàmbhogikàkàya (thọ dụng thân) được giới thiệu như là
một đề tài được đem ra bàn luận (60). Sambhogakàya được
diễn tả như sau: Các chư vị Bồ-tát sau khi chứng quả Bồ
đề nhờ Bát nhã Ba-la-mật, dùng một thân đầy đủ 32 tướng
chính và 80 tướng phụ với mục đích thuyết pháp Ðại thừa
cho hàng Bồ-tát và cũng để làm khởi dậy trong tâm trí những
vị này lòng hoan hỷ, thích thú đối với diệu pháp.
Tập Prajnàpàramità
nguyên thủy xem thân có hào quang này là một hóa thân và như
vậy được gồm trong Rùpakàya và nghĩ không cần giới thiệu
một thân thứ ba là Sàmbhogikakàya.
Theo thuyết hai thân của
tập Prajnàpàramità, Nàgàrjuna cũng không nói đến hay có lẽ
không biết đến thân thứ ba, Sàmbhogika. Cả hai vị tiến sĩ
Akanuma và Masuda không thể tìm vết tích quan điểm Sambhogakàya
trong tập Mahàprajnàpàramitàsàstra của Nàgàrjuna. Tiến sĩ
Akanuma cũng không tin thuyết Tây Tạng cho rằng chính Ngài
Nàgàrjuna đã viết bài "Tôn kính tam thân (Trikàya)"
(61). Nếu chúng ta tìm hiểu các bài kệ của Nàgàrjuna nói
về Tathàgatakàya (Như lai thân) (62), chúng ta thấy rõ rằng
Ngài Long Thọ chỉ muốn giải thích chân thân (tức là Pháp
thân hay Tự tánh thân) mà thôi. Ðối với Ngài, sự phân biệt
giữa Sambhogakàya và Rùpakàya không quan trọng vì cả hai đều
không thật.
Như vậy chúng ta thấy
cho đến thời Nàgàrjuna, quan điểm Sambhgakàya (Thọ dụng
thân) không được phân biệt khác với Rùpa (sắc) hay
Nirmànakàya (Hóa thân). Tập Lankàvatàra lần đầu tiên giới
thiệu quan điểm này với chúng ta và gọi là Nisyanda hay
Dharmatà-nisyanda-Buddha (Ðẳng lưu hay Pháp tánh đẳng lưu Phật),
và hình như danh từ Sambhogakàya chưa được biết đến. Chúng
ta đã thấy trong các tập Tiểu thừa, thân thể diệu hảo
của đức Phật, với các tướng chính và tướng phụ của
bậc đại nhân, được xem là do vô lượng thiện nghiệp Ngài
đã làm trong những đời trước. Chữ Hán dịch Sambhogakàya
là Báo thân, báo nghĩa là kết quả, cũng nêu rõ chữ
Sambhoga chỉ có nghĩa là vipàka (dị thục quả) hay nisyanda (đẳng
lưu). Các nhà hậu Duy thức gọi là Parasambhogakàya (Tha thọ
dụng thân) đã phân biệt với Svasambhoga (Tự thọ dụng
thân). Dù cho tập Astsàhasrikà không phân biệt Sambhogakàya với
Nirmànakàya (Hóa thân), tập ấy có nói đến thân thù thắng
của đức Phật do kết quả nhiều đời nhiều kiếp của
Ngài trong các đời trước (63). Tập Lankavatàra dùng danh từ
vipàkaja (dị thục sanh) hay vipàkastha và như vậy đóng vai
trò giai đoạn chuyển tiếp từ quan điểm Tiểu thừa về
Vipàkaja-kàya (Dị thục sanh thân) đến quan điểm
Parasambhogakàya (Tha thọ dụng thân) của Ðại thừa.
Tập Lànkàvatàra nói rằng
bổn phận của Nisyanda-Buddha (Ðẳng lưu Phật) là dạy
Parikalpita (Biến kế sở chấp tánh) và Paratantra (Y tha khởi
tánh) của sự vật cho những người tự dệt một màn lưới
tâm tư bao phủ mình, không biết đến tánh giả tạm của vạn
hữu (64). Ðó cũng là trách nhiệm của đức Phật Thích Ca
Mâu Ni ở Ta bà thế giới (Sahàlokadhàtu), khi Ngài gỉang
giáo lý Prajnàpàramità hay Saddharmapundarìka (65).
Tập Sùtràlankàra cũng
không phân biệt Thọ dụng thân thành Tự thọ dụng thân
và Tha thọ dụng thân. Tập này nói rằng với thân này các
đức Phật thọ hưởng các pháp (Dharma) và thân này sai
khác tùy theo quốc độ, với hàm ý rằng mỗi một quốc độ,
một đức Phật có một Sambhogakàya khác nhau, khác với Thọ
dụng thân của các đức Phật khác tại các Phật sai khác
(66).
Tập Suvarnaprabhàsa và
tập Abhisamayàlankàrakàrikà cho chúng ta biết Sambhogakàya là
một thân rất tế nhị, gồm có tướng tốt của bậc đại
nhân và được đức Phật dùng để giảng những sự thật
siêu hình và cao hơn cho những vị Bồ-tát cao đẳng. Tập
Suvarnaprabhàsa (67) cũng không nói đến hai loại Sambhogakàya,
như được tìm thấy trong tập Siddhi.
Tập Siddhi nói có hai
Thọ dụng thân gọi là Tha thọ dụng thân và Tự thọ dụng
thân. Tha thọ dụng thân được chư vị Bồ-tát thấy, còn
Tự thọ dụng thân được chư Phật ở các quốc độ khác
nhau thấy, chớ không phải các vị Bồ-tát. Còn về vấn đề
hào quang, vô lượng và vô số tánh, thời không có gì khác
giữa hai thân này. Cả hai thân đều có sắc, hình
(varna-rùpa-samsthàva) và tiếng (sabda). Vì các đức Phật đã
chứng được bình đẳng tánh trí, nên thân là vô lậu
(anàsrava). Thân này chỉ hiện ra tại một tịnh độ như
Sukhàvatìvyùha (Cực lạc thế giới) hay Grdhrakùtà (Linh Thứu).
Sự sai khác giữa Tha thọ dụng thân và Tự thọ dụng thân
là Tha thọ dụng thân có tướng tốt của bậc đại nhân,
còn Tự thọ dụng thân thời không có. Còn tâm (citta) của
Tha thọ dụng thân thời không thật như tâm của Hóa thân;
còn tâm của Tự thọ dụng thân là thật. Ngoài ra, tâm này
chứng được bốn trí: àdarsajnàna (Ðại viên kính trí)
(68), Samatà-jnàna (Bình đẳng tánh trí), Pratyaveksanà-jnàna
(Diệu quan sát trí) và Krtyà, nusthàna-jnàna (Thành sở tác
trí). Rùpa (sắc) của hai Thọ dụng thân hết sức tế vi
và vô lượng vô biên, tuy vậy vẫn là sapratigha (hữu đối).
Nhưng thân tế vi của vô số Phật là tương nhập.
Bản đúc kết lại của
tập Pancavimsati nói đến Thọ dụng thân, nhưng khác với
Kàrikà, không phân biệt Dharmakàya (hay Tự thọ dụng thân)
với Parasambhogakàya (Tha thọ dụng thân), nguyên nhân chính
là vì trong nguyên bản Pancavimsati, cũng như trong các tập
Prajnàpàramità khác, chỉ có quan điểm hai thân, không phải
ba hay bốn thân. Sự thật, tập Kàrikà ủng hộ tập Siddhi
trong quan điểm về thân, nhưng chỉ dùng danh từ sai khác.
Quan điểm Tự thọ dụng thân nêu rõ xu hướng của phái
Duy thức muốn nói đến một cái gì như Isvara (Tự tại) của
tập Upanisad (Áo nghĩa thư), sau cái hiện tượng vũ trụ.
Dharmakàya (Pháp thân) tương đương với quan điểm Tuyệt đối
phi nhân của tập Vedanta, vị Phạm thiên. Sambhogakàya tương
đương với Isvara khi Phạm thiên có tên và hình thức.
Chúng ta cần phải để
ý, mỗi một đức Phật đều có Sambhogakàya của mình. Nhưng
tất cả các đức Phật đều chỉ có một Dharmakàya. Tập
Lankàvatara cũng gợi ý đến quan điểm này. Tập này nói rằng
Abhàva (vô tánh) không phải là Như Lai vì Như Lai được diễn
tả là bất sanh bất diệt nên tự nó cũng có ý nghĩa. Rồi
tập này chú thích về Dharmakàya do ý sanh
(manomaya-dharmakàya), thân này các người không phải Phật tử,
các hàng Thanh văn, Ðộc giác, cho đến các vị Bồ-tát ở
một trong bảy địa đầu tiên cũng không thể thấy được.
Như những tên khác nhau của một vật hay của một người,
ví dụ hasta, karapàni hay Indra Sakra, Purandara, chỉ cho những
phương tiện sai khác của một vật.
Cũng vậy những tên
sai khác của đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở tại Ta bà thế
giới như những tên: Svàyambhuva, Nàyaka, Vrsabha, Visnu, Isvara,
Pradhàna, Kapila, Soma, Bhàskara, Ràma, Vyàsa, Sùnyatà, Tathatà,
Bhùtakoti, Nirvàna, Sarvajna v.v... chỉ cho những phương diện
sai khác của đức Phật Thích Ca Mâu Ni (69). Loài người bị
chi phối bởi những quan niệm về hai cực đoan hiện hữu
hay không hiện hữu (dvayàntapatitayà) nên không biết được
đức Phật như một phản ánh của mặt trăng trên nước,
không hiện ra cũng như không biến đi. Ðoạn này rõ ràng gợi
ý pháp thân do ý sanh có mặt trong Ta bà thế giới lại giống
như Tự thọ dụng thân của tập Siddhi và
Àsecanaka-àtma-bhàva hay Prakrtyàtmabhàva của các tập
Prajnapàramità và tương đương với quan điểm Isvara của tập
Upanisad.
DHARMAKÀYA
(Pháp thân)
Ba thân từ trước đã
đề cập đến, thuộc về Tục đế tùy theo thế tục và hữu
hạn và do vậy các nhà Ðại thừa đầu tiên kể cả
Nàgàrjuna xem như là Rùpakàya hay Nirmànakàya. Cái thân độc
nhất chân thật của đức Phật là sự thật như các nhà
Ðại thừa quan niệm và không khác với những sự vật hay
các loài hữu tình trong vũ trụ (70). Dù sự cố gắng để
định nghĩa thân này với những chữ và những danh từ thường
dùng không thể nào chính xác và có thể bị hiểu lầm,
các tập Ðại thừa cũng cố gắng dùng văn tự để gợi lên
một vài ý niệm về thân này. Tập Kàrikà và tập Siddhi gọi
thân này là svabhàvika hay Svàbhàvakàya (tự tánh thân). Theo
hai tập ấy, thân này là vô lượng và vô số. Thân này đầy
khắp vũ trụ, là căn bản cho Thọ dụng thân và hóa thân,
không có tướng tốt gì (tướng tốt vị đại nhân) và vô
hý luận tướng (Nisprapanca). Thân này có những công đức
(guna) thường còn, chân thật và vô lượng, không có tâm,
không có sắc và cũng không khác tâm và sắc, chỉ có một
và một Dharmakàya mà thôi.
Các đức Phật có thể
có Thọ dụng thân riêng, nhưng các đức Phật chỉ có một
Dharmakàya mà thôi. Thân này chỉ có thể tự chứng, chớ
không có thể diễn tả, vì không khác như sự cố gắng của
một người mù để diễn tả mặt trời mà mình không bao
giờ thấy. Thường người ta hỏi rằng quan niệm Dharmakàya
có thể tìm thấy trong những tập prajnàpàramità hay những
tác phẩm của Nàgàrjuna không, hoặc các tập
Prajnàpàramità và Nàgàrjuna công nhận một sự thật như vậy,
hay diễn giải một lý thuyết phủ định thuần túy và
hoàn toàn. Nói một cách khác, có phải mục đích của những
tập Prajnàpàramità và Nàgàrjuna là để nêu rõ những sự
mâu thuẫn của thế giới này và kiến thức thế tục và
tránh không tuyên bố về vấn đề sự thật hay chân lý.
Tập Astasàhasrika và
các tập Bát nhã Ba-la-mật khác, dù vẫn cương quyết phủ
nhận các lời tuyên bố về sự thật, không bao giờ xác nhận
rằng Tathàta hay Sùnyatà hay Dharmakàya trong nghĩa chân thật
của chúng là không hiện hữu. Những lời tuyên bố như
tathatàvikàrà nirvikàvàvikalpà, nirvikalpà (chân như là không
thay đổi, không biến chuyển, thoát ngoài các vọng tưởng
và phân biệt), nêu rõ một quan điểm tích cực về sự thật
hơn là một quan điểm thuần túy tiêu cực. Về vấn đề
Dharmakàya, tập Astàsàhasrika cũng có lời tuyên bố tương tự;
tập này nói rằng những ai biết được các pháp hiện hữu
trong giới này hay được đức Như Lai diễn giảng, không thực
sự hiện hữu như vật ở trong mộng và không tìm hiểu đức
Như Lai từ đâu đến và sẽ đi đâu, người ấy sẽ chứng
được Tathàgata nhờ Dharmatà, Buddhakàya mà người ta nói đến,
khởi lên do nhân và duyên như tiếng thổi sáo; thật sự
thân này không có xuất hiện hay biến mất. Những ai chạy
theo hình sắc và giọng nói của Như Lai, và quan niệm về sự
xuất hiện và biến mất của Như Lai sẽ rất xa sự thật
(71). Những lời tuyên bố thêm về vấn đề sự thật chỉ
có thể là hý luận (Prapanca).
Khi tập Astasàhasrika
xác nhận rằng đức Như Lai không hiện hữu, tập này nói
đến đức Như Lai do một người đọc các tập Ðại thừa
quan niệm. Cho đến các vị Bồ-tát trừ phi và cho đến khi
chứng được địa thứ mười, không thể thoát ra ngoài
quan điểm về Như Lai thân, dù cho quan điểm ấy tế vi như
thế nào (tự thọ dụng thân). Những vị ấy vẫn đang còn
mê mờ và chính sự mê mờ này mà các tập Prajnàpàramità
cố gắng diệt trừ khi tuyên bố rằng không có Tathàgata
(Như Lai). Ngài Long thọ khi phủ nhận sự hiện hữu của
cái gọi là Tathàgata không làm gì hơn điều mà những tập
Prajnàpàramita cố gắng thiết lập. Quan điểm của Ngài là
nếu sự liên tục của đời sống bhavasantati được công
nhận, thời sự hiện hữu của Như Lai cũng phải được công
nhận vì Như Lai đại diện cho giai đoạn cuối cùng của
bhavasantati; Như Lai là giai đoạn cuối cùng mà một chúng
sanh đạt đến sau một chuỗi dài đời sống. Theo Chân đế
thời không có bhavasantati nên không có tathagata- một hữu
tình được xem là trở thành đức Như Lai sau khi thực hành
Ðại từ bi và các đức tánh khác, và nhờ đó được giác
ngộ hoàn toàn. Nếu Như Lai thật sự hiện hữu thời Ngài
sẽ giống như năm uẩn hay khác với năm uẩn hay các uẩn sẽ
ở trong Ngài hay Ngài ở trong các uẩn, nhưng vì Ngài không
phải là một trong những pháp ấy và những pháp ấy không
phải là Ngài cho nên Ngài không có hiện hữu thực sự. Với
những lý luận như vậy và những lý luận tương tự, Nàgàrjuna
xác nhận là không có tathàgata. Với sự phủ nhận này,
Ngài chỉ xác nhận rằng đức Như Lai, trạng thái cuối
cùng của bhavasantati, không có hiện hữu.
Candrakìrti (Nguyệt xứng),
để ủng hộ lý luận của Nàgàrjuna, có nêu lên một đoạn
trong tập Astasàhasrika(trang 479). Trong đoạn này đức Phật
và pháp của Ngài đã được ví dụ là Mayà (giả tạo) hay
Svapna (mộng huyễn), nhưng rồi Ngài nói "Chúng tôi
không xác nhận sự không hiện hữu của Như Lai dưới mọi
hình thức vì như vậy chúng tôi phạm lỗi Apavàda (phủ nhận).
Nhưng vì muốn diễn tả Như Lai bằng những phương tiện tục
đế (vyavahàra-satya) và bởi dùng những phương tiện samàropa,
chúng tôi nói rằng Tathàgata là không, hay không phải không,
hay không và không không, hay là cũng không phải không và
không không (tứ cú). Và những ai cố gắng chứng được
Như Lai chân thật bằng cách dùng những lời tuyên bố khẳng
định hay phủ định đều không bao giờ biết đến Ngài.
Candrakirti, để ủng hộ quan điểm này, có đề cập đến
những câu kệ trong kinh Kim Cang. Câu này tập Astasàhasrika cũng
nói đến: "Nhược nhĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu
ngã, thị nhơn hành tà đạo, bất năng kiến Như Lai".
Dharmato buddhà
drastavyà dharmakàya hi nàyakàh.
Dharmatà càpy avijneyà nà sà sakyà vijànitum.
(Một đức Phật cần
phải được xem trong nghĩa dharmatà (pháp tánh) vì các vị
lãnh đạo loài người chỉ có pháp thân mà thôi. Pháp
tánh này không thể biết đến, cũng vậy đức Như Lai)
Nàgàrjuna kết luận sự
nhận xét của Ngài về tathàgatakàya bằng cách xem tathàgata
giống với Jagat (thế gian), hay thiên nhiên và tuyên bố rằng
tathàgata mà loài người hay các vị Bồ-tát quan niệm chỉ
là một bimba (ảo ảnh) của các thiện pháp chớ không phải
tathàta hay tathàgata chân thật. Một nhà biện luận như Nàgàrjuna
không thể đi xa hơn để xác chứng sự thật, chỉ có cách
phủ nhận sự hiện hữu của các sự vật không thật có,
kể cả cái gọi là tathàgata, mà Ngài hướng đến sự thật
tathàgatakàya, dharmakàya chân thật.
Quan điểm về Dharmakàya
được các nhà Duy thức học đặc biệt chú ý. Tập
Lankàvatàra khi diễn tả dharmakàya nói rằng đức Phật không
có sở y (Niràlamba) và vượt ngoài sự nhận thức của năm
căn, các bằng chứng và dấu hiệu và như vậy vượt ngoài
vòng nhận thức của hàng Thanh văn, Ðộc giác hay các vị
không phải Ðại thừa. Thân này chỉ có thể tự chứng ở
tự thân mình. Tập Sùtràlankàra goiï là Svàbhàvika
Dharmakàya (tự tánh pháp thân), đồng nhất cho tất cả đức
Phật rất tế vi, không thể hiểu thấu và thường hằng. Tập
Trimsikà giải thích dharmakàya như là một sở y, được thay
đổi (asraya đây chỉ cho àlayavjnàna = a lại gia thức), sự
thay đổi được thành hình nhờ trí và sự diệt trừ phiền
não chướng và sở tri chướng. Bài Àloka về tập
Abhisamayàlankàrakàrikà cũng giải thích Dharmakàya một cách
tương tự. Theo tập này, có hai loại Dharmakàya, một là
các pháp Bồ đề phận và các pháp khác, những pháp này
thanh tịnh và tạo tác ra trí tuệ thanh tịnh
(nisprapancajnànàtmakà); hai là àsraya được thay đổi của
những pháp ấy và được gọi là Svadhàvakàya (Tự tánh
thân). Giáo sư Stcherbatsky giúp chúng ta với những tin tức gần
như tương tự mà chúng ta tìm thấy trong tập Àloka, nhưng từ
tài liệu nào thì giáo sư không cho biết. Giáo sư nói rằng:
"theo các nhà Tiền duy thức, Dharmakàya được chia thành
Svabhàvakàya (Tự tánh thân) và Jnànakàya (Trí thân); Thân đầu
là tánh chất thường còn (nitya) của vũ trụ; thân thứ hai
là vô thường thay đổi ( anitya). Rõ ràng giáo sư hiểu Jnànakàya
như là Dharmakàya, gồm có các pháp Bồ đề phận và các
pháp khác của tập Àloka. Còn Svabhàvakàya la Nityakàya, thân
thường hằng như giáo sư đề cập, cũng được tập
Suvarnaprabhàsa và các tập khác xác nhận (72).
Các nhà sớ giải Trung
Hoa về tập Siddhi nói rằng Dharmakàya là nguyên tắc siêu
hình của citta và rùpa chân thực của Như Lai. Dharmakàya là
tánh chân thực của vạn pháp và có thể xem giống như
Tathatà, Dharmadhàtu hay Tathàgatagarba (Như Lai tạng).
Mục đích của các vị
Bồ-tát là chứng ngộ Dharmakàya. Mỗi loại hữu tình đều
có Dharmakàya hay Dharmakàya gồm tất cả các loại hữu tình
trong vũ trụ, nhưng vì bị vô minh che lấp nên không nhận
chân được sự kiện ấy. Mục đích của vị Bồ-tát là
diệt trừ vô minh này và chứng đạt sự kiện là mình với
Dharmakàya là một. Ðoạn Àloka về tập kàrikà để những
thứ bậc môt vị Bồ-tát phải trải qua và nêu rõ rằng thứ
bậc cuối cùng là chứng được Dharmakàya. Sau khi chứng
được, thật rất dễ dàng cho vị Bồ-tát hiện hạnh bốn
thân nào cũng được. Trong tập Lankàvatàra, chúng ta để ý
rằng Mahàmati tha thiết muốn biết làm thế nào vị Bồ-tát,
sau khi thực hành mười địa, có thể chứng được Như Lai
thân hay Pháp thân và đi đến một trong Phật sát hay thiên
giới nào.
Tập Lankàvatàra cũng
diễn tả với mầu sắc linh động trạng thái chứng được
Pháp thân. Vị Bồ-tát khi chứng được Mahàdharmamegha (Ðại
pháp vân) trong địa thứ chín, được trang hoàng với nhiều
châu báu và ngồi trên một hoa sen trong lâu đài châu báu,
xung quanh có nhiều vị Bồ-tát cùng một đẳng cấp cùng ngồi.
Ở đây vị này hiểu được tánh vô thường của sự vật,
và được Vajrapàni (Thần kim cang) quán đảnh cho thành con của
đức Phật. Rồi vị Bồ-tát vượt ra ngoài địa giới của
hàng Buddhasuta nhờ tự chứng Pháp không và đối diện với
Dharmakàya (73). Tập Trimsikà nói rằng, như giải thoát thân
(Vimuktikàya) là mục đích của các vị A-la-hán, Pháp thân
là mục đích của các vị Bồ-tát. Tập này nêu rằng các
vị A-la-hán, nhờ diệt trừ phiền não chướng, chứng được
một thân thanh tịnh. Cũng vậy đức Phật, nhờ diệt trừ
được phiền não chướng và sở tri chướng, chứng được
Pháp thân (74).
-ooOoo-
CHÚ
THÍCH CHƯƠNG BA, Mục Ba Thân
1 - Sad. P; tr.89-92.
2 - Tam minh trong bản liệt
kê liên hệ đến ba trong sáu thắng trí, nghĩa là
Pubbenivàsà-nussatinànam, Sattànam catùpatàte nànam, và
Àsavànam khaye nànam. Xem Dìgha, III tr. 220. Ba thắng trí còn lại
là: Dibbasota, Dibbacakkhu và Paracittavijànanam.
3 - CF. Mil; tr.134-135
4 - Xem cách giải nghĩa
ở tập Siksà; tr.212; Kosa, I. 6, 39; II, 53, 250, 266; Dh.s; tr.63.
5 - Tập Sad. P;
tr.133-137.
6 - Sùtrà; tr.45, 188.
7 - Ðoạn này choán nhiều
chỗ trong tập Nikàyas, xem Dìgha, I, tr.87-88; cf. Lal,Vis; tr.3;
Sad. P; tr.144; 376.
8 - Cả trong các tác phẩm
Ðại thừa, thí dụ trong tập Dasa; cũng tuyên bố rằng một
vị Bồ-tát có thể trở thành một Ðại phạm thiên trong
địa thứ chín nếu vị này muốn thế.
9 - Majjhima, III, tr.8.
10 - Dìgha. II; tr.154;
Mil; tr.99.
11 - Majjhima, Gopaka-
Moggallàna Sutta (số 108). Cf. Saddhamma Sangaha (J.P.T.S; 1890), chương
X, tr.65: Ðức Phật nói: "84.000 pháp môn đã được ta
giảng dạy trong 45 năm. Chỉ riêng mình ta tịch diệt, trong
khi còn có 84.000 pháp môn, chúng như 84.000 đức Phật
(Buddha-sadisa) sẽ khuyến dạy ngươi".
12 - Samyutta, III; tr.120;
Majjhima, I, tr.190-191: Yo pattccasamuppàdam passati so
dhammampassati, yo dhammam passati so paticcasamuppàdam passati. Các
tài liệu tham khảo khác: xem bài của giáo sư Ballee Poussin:
"Notes sur les Corps du Buddha" trong tập Le Muséon, 1913,
tr.259-290. So sánh các chú thích trong các tác phẩm Pàli sau
này.
- Saddhamma Sangaha
(J.P.T.S; 1890), tr.61: Yo me passati saddhammam so mam passati
Vakkali. Apassmàno saddhammam mam passe pi na passati.
- Milinda, tr.71:
Yodhammam passati so bhagavantam passati dhammo hi mahàraja
bhagavatà desito ti.
- Ibid; tr.73:
Dhammakàyena pana kho mahàràja sakkà bhagavà nidassetum, dhammo
hi mahàràja bhagavatà desito ti.
13 - Anguttara, II, tr.38.
14 - Giáo sư Masson-
Ourel viết trong bài "Les Trois Corps du Bouddha". J.S;
1913, tr.581ff.
15 - Xem Kosa II, 10 (cũng
cần tham chiếu trong các tập Nikàyas),
16 - Kvu; XVII, 1: Những
nhà Vetulyakas (Ðại thừa) dựa vào đoạn văn nêu trên nói
rằng: "thật không đúng nếu nói rằng đức Phật cao cả
sống trong thế giới của loài người". Những nhà Thượng
tọa bộ đã không đồng ý với các vị này. Ngài
Buddhaghosa cũng nêu rõ cách thức phải giải thích đoạn này.
17 - Xem Sad. San.
(J.P.T.S; 1890 0; tr.69: Sambuddhànam dve kàyà rùpakàyo Sirìdharo,
Yo tehi desito dhammo dhammakàyo ti vuccati.
18 - Năm uẩn được đề
cập ở đây là: giới, định, tuệ, giải thoát và giải
thoát tri kiến. Xem Mil; tr.98.
19 - Vis. M; tr.234;
Jàtaka; I, tr.84: Rùpakàyasirì.
20 - Attha; tr.16.
21 - Xem quyển Bouddhisme
của giáo sư Vallee Poussin, tr.232f.
22 - Dr. Chizen Akanuma
(Eastern Buddhist, II, tr.7) trích vài đoạn các tập Anguttara
và Samyukta Àgamas Hán văn và nêu rõ rằng Dharmakàya của đức
Phật có nghĩa là sự tập nhóm các Pháp (lời dạy của
Ngài).
23 - Divyà; tr.19.
24 - Ibid; tr.360.
25 - Ibid; tr.560.
---o0o---
Mục
lục
|
1.1
|
1.2
|
2.1
|
2.2
|
3.1
|
3.2
|
3.3
|
3.4
|
3.5
|
4.1
|
4.2
|
5
---o0o---
|
Thư Mục Tác Giả |
---o0o---
Chân thành
cám ơn Đạo hữu Bình Anson đã gửi tặng phiên bản điện tử
(Quang Duc Website, tháng 5, 2002)
Trình bày: Nhị Tường
Cập
nhật : 01-05-2002