ÐẠI THỪA VÀ SỰ
LIÊN HỆ VỚI TIỂU THỪA
Nguyên tác: Nalinaksha Dutt
HT.
Thích Minh Châu dịch,
Ấn hành 1971 (tái bản 1999)
---o0o---
THỜI
KỲ THỨ BA
(100 trước Công nguyên đến
300 sau Công nguyên):
NHỮNG BƯỚC ÐẦU CỦA ÐẠI THỪA
Trước khi xác định
khoảng thời gian Ðại thừa được xuất hiện, chúng ta cần
phải nhận thức rõ những đặc tính của Ðại thừa sai
khác với Tiểu thừa. Nói một cách tổng quát, Ðại thừa
được liên hệ tương quan với:
- Quan niệm Bồ-tát
- Sự thực hành các hạnh Ba-la-mật
- Sự phát triển Phật tâm
- Mười tầng bậc (bhùmi = địa) của sự tu hành chứng
quả
- Mục đích Phật quả
- Quan điểm về Trikàya (Ba thân) và
- Quan điểm về Pháp không (Dharmasùnyatà) và Dharmasamatà
hay Tathatà (Chơn như).
Các nhà Ðại thừa tự
xem mình rất đặc biệt vì đã cố gắng diệt trừ cả hai
phiền não chướng và sở tri chướng, nhờ chứng cả nhân
không và pháp không. Tiểu thừa chỉ chứng được nhân
không, chỉ trừ diệt được phiền não chướng. Như vậy các
vị Tiểu thừa chỉ giải thoát khỏi các phiền não và
bình đẳng với các vị Ðại thừa trên phương diện này,
nhưng thiếu chơn trí như Ðại thừa quan niệm nghĩa là
Pháp không, vì không diệt trừ được sở tri chướng. Tuy vậy,
các nhà Tiểu thừa không công nhận sự thấp kém về phương
diện Jnàna (Trí) vì quan niệm rằng sự diệt trừ Avidyà
(Vô minh) hay sự chứng đạt chơn trí là phương diện độc
nhất để giải thoát và các vị A-la-hán cũng chứng ngộ
chơn trí này như các đức Phật. Các vị A-la-hán được các
tập Pàli nói đến là chứng được Chánh đẳng giác. Tuy vậy
các vị này cũng công nhận chư Phật vì công đức vị trí
đặc biệt (gotra = giòng tộc) chứng được một số khả
năng và thần lực, kể cả toàn tri, vượt trên khả năng các
vị A-la-hán. Ðây là vị trí tương đối giữa các vị Tiểu
thừa và Ðại thừa.
Nếu chúng ta tìm hiểu
các giai đoạn phát triển của Tiểu thừa, chúng ta không khỏi
nhận xét môt vài đặc tính riêng biệt của Ðại thừa đã
được đề cập trong những giai đoạn cuối cùng của Tiểu
thừa, nghĩa là:
- quan niệm về Bồ-tát;
- sự thực hành các hạnh Ba-la-mật;
- sự phát triển Phật tâm;
- mục đích Phật quả; và
- quan niệm hai thân tức là Rùpa (hay Nìrmàna), Kàya (Sắc
thân hay hóa thân) và Dharmakàya (Pháp thân). Quan điểm sau
khác hẳn với quan điểm Ðại thừa (77).
Như vậy, muốn chắc
chắn về thời đại xuất hiện của Ðại thừa chúng ta cần
phải tìm đến thời gian khi quan niệm Pháp không và Pháp
thân được giới thiệu lần đầu tiên.
BÁN
ÐẠI THỪA
Với sự nhận xét con
đường phát triển trong giai đoạn trước, chúng ta thấy
rõ các nhà Tiểu thừa hoặc muốn phổ thông hóa đạo Phật
hay để hàng cư sĩ chú tâm vào nhiều hơn nữa, và chấp nhận
giáo lý của mình, quan niệm Bồ-tát và sự thực hành các
hạng Ba-la-mật. Mục đích này được thực hiện nhờ sự
xuất hiện một văn học mới, văn học Jàtaka và Avadàna.
Vì Jàtaka chỉ nói đến tiền thân đức Phật, chúng ta phải
tìm trong tác phẩm Avadànas, về sự xuất hiện của quan niệm
Bồ-tát và sự giới thiệu một lý tưởng cho hàng cư sĩ.
Mục tiêu của Avadàna là nêu rõ như thế nào các tín đồ
hy sinh tất cả, cho đến đời sống của mình, để thực
hiện các hạnh Ba-la-mật, không phải vì những khoái lạc
thế tục hay chư thiên mà chỉ cốt chứng được chánh
giác với mục đích cứu chúng sanh thoát khỏi đau khổ
(78).
Tập Divyànadàna, như
đã thấy, nói đến sự phát nguyện thành Phật. Cũng vậy,
chúng ta đọc trong tập Mahàvastu (79) về các tín đồ phát
Phật tâm và phát nguyện thành Phật, với cử chỉ giản dị,
lễ bái các tháp hay cúng dường phẩm vật cho các tháp. Về
phái Nhất thế hữu bô, luận tác củaVasumitra nói đến (1)
sự đồng đẳng về sự giải thoát của đức Phật, Thanh
văn và Duyên giác Phật; (2) về ba Thừa (Yàna); và (3) về Bồ-tát
vẫn còn giữ địa vị phàm phu Prthagjana cho đến khi bước
vào Samyaktvaniyàma (con đường đưa đ?n Chánh trí (80). Tập
Mahàvastu cũng nói đến sự có mặt của ba Thừa (81) và những
con đường, những phương pháp mà một vị Bồ-tát phải
theo. Tập này nói đến bốn Caryà của vị Bồ-tát và 10
Bhùmis (địa), nhưng quan niệm về Bhùmi, như sẽ nói đến
sau (82) rất ít có liên hệ đến 10 Bhùmi của tập
Dasabhùmikasùtra, trừ hai địa vị đầu. Lẽ dĩ nhiên,
chúng ta có thể xem quan điểm về Bhùmi của phái
Lokottaravàda là hột giống cho sự phát triển về sau của
quan điểm Ðại thừa.
Như vậy, các tập
Avadàna, một sáng tác của Nhất thế hữu bộ, nêu rõ một
giai đoạn phát triển mới trong Bồ-tát thừa thuộc Tiểu
thừa. Phái Lokottaravàda của Ðại chúng bộ còn phát triển
hơn Nhất thế hữu bộ với sự định nghĩa của bốn Caryàs,
nghĩa là Prakrticaryà (Tự tánh hạnh), Pranidhànacaryà (Nguyện
hạnh), Anulomacaryà (Thuận thứ hạnh) và Anivartanacaryà (Bất
thối hạnh) (83). Caryà đầu nói đến những thực hành sơ
bộ của vị Bồ-tát khi còn là Prthagjana (Phàm phu), Caryà thứ
hai nói đến sự phát triển của Bồ đề tâm, Caryà thứ
ba, sự tiến bộ thứ lớp của vị Bồ-tát cho đến địa
thứ sáu và Caryà thứ tư nói đến sự thực hành bốn
bhùmis cuối. Từ đây một vị Bồ-tát không còn thối lui
và cuối cùng chứng Bồ đề quả. Như vậy, sự chứng quả
Bồ đề được xem là một trong những mục đích của Tiểu
thừa. Do lý do này, chúng ta thấy tập Kosa bàn đến 34 sát-na
cần thiết để chứng Bồ đề (84) và những vấn đề khác
liên hệ đến Phật quả, và những tác phẩm Tiểu thừa
(85) nói đến một vài hạnh Bồ-tát và những danh từ triết
học như sùnyatà (không), dharmadhàtu (pháp giới), dharmakàya
(pháp thân), tathàtvà (chơn như) dù không bao hàm ý nghĩa Ðại
thừa gì.
Với những sự kiện
này, chúng ta có thể chấp nhận rằng, trước khi Ðại thừa
xuất hiện với sự giải thích mới mẻ về những lời Phật
dạy, đưa đến một nghĩa mới về sùnyatà, đã có một Bồ-tát
thừathuộc Tiểu thừa và thừa này có thể được gọi là
bán Ðại thừa hay Ðại thừa sơ sanh. Bán Ðại thừa này
chỉ nói đến 6 hạnh Ba-la-mật và những thần lực, trí lực
đặc biệt của chư Phật. Bán Ðại thừa này chưa biết đến
Advaya Advaidhìkàra (Thực bất nhị bất sở khả nhị),
Dharmasùnyata (pháp không) hay Tathatà (chơn như). Sáu hạnh
Ba-la-mật thuộc Tiểu thừa giới cũng được đề cập đến
trong tập Dasabhùmikasùtra (86). Trong kinh này cũng như trong các
tác phẩm khác nói đến các Bhùmi. 10 Bhùmi được chia làm
hai phần, 6 Bhùmi đầu đưa vị Bồ-tát chứng được
Pudgalasùnyatà (nhân không) hay nói một cách khác, chân lý như
các vị Tiểu thừa quan niệm, và bốn Bhùmi sau cùng đưa đến
sự chứng ngộ Dharmasùnyatà (pháp không), chân lý như các vị
Ðại thừa quan niệm. Như vậy, những giai đoạn thực sự
Ðại thừa bắt đầu từ Ðịa thứ bảy. Nhưng tập Dasabhùmikasùtra
cho chúng ta biết rằng 6 Ba-la-mật được một vị Bồ-tát
hoàn thành trong sáu Bhùmi đầu. Như vậy, chỉ một sự thực
hành 6 hạnh Ba-la-mật không làm một người trở thành Ðại
thừa, nhưng chúng ta phải công nhận rằng Ðại thừa dựa
trên 6 hạnh Ba-la-mật làm chân đứng về phương diện thực
hành. Như tập Prajnàpàramità đã nói, đức Phật thuyết pháp
liên hệ đến 6 Ba-la-mật (87) và tập Madhyamakàvatàra nói rằng
Ðại thừa không những chỉ dạy sùnyatà mà còn dạy
pàramita và bhùmi v.v... (88).
Cuối cùng, quan niệm về
nirnimitta (vô tướng) và nihsvabhàva (vô tánh) nêu rõ những
đặc tánh của một vị Bồ-tát chứng đạt được trong bốn
bhùmi cuối cùng (89), hai quan niệm này không được tác giả
tập Mahàvastu biết đến, vì vị này không thể kể được
những đức tánh chứng ngộ trong bốn bhumi cuối. Như vậy,
chúng ta có thể kết luận rằng đạo Phật bước vào giai
đoạn bán Ðại thừa rất sớm, nếu không phải trong thời
vua A-dục, ít nhất cũng liền sau triều đại của Vua này.
Ngày
giờ tập Prajnàpàramità được
biên soạn
Quan niệm mới Ðại thừa
về sunyatà được giảng lần đầu tiên trong tập
Prajnapàramità và do đó, chúng ta phải cố gắng xác định
ngày đầu tiên Prajnàpàramità được ra đời. Có truyền
thuyết Tây Tạng cho rằng chi nhánh Pùrvasaila và Aparasaila
có tập Prajanàpàramità viết bằng tiếng Pràkrit (90). Rất
tiếc không có tài liệu nào thêm nữa về vấn đề này.
Tàranàtha cho chúng ta biết, liền sau khi triều đại vua Mahàpadma
Nanda, một vị vua tên là Candragupta sống ở Odivissa (Orissa)
(91). Manjuri đến tại nhà vua này dưới hình thức một vị
Tỳ kheo và giảng dạy giáo lý Ðại thừa. Phái Sautràntika
xác định lời dạy ấy là tập Astasàhasrikà
Prajnàpàramita, còn học phái Tantra cho là tập Tattvasangraha
(92). Chúng ta có thể bỏ qua một bên truyền thuyết của học
phái Tantra vì những tài liệu trong tập Tattvasangraha, và
chú trọng đến truyền thuyết Sautràntika cho rằng tập
Astasàhasrikà là tác phẩm sớm nhất chứa đựng giáo lý Ðại
thừa. Nếu chúng ta so sánh nội dung ba tập Astasàhasrikà,
Pancavimsatisàhasrikà và tập Satasàhasrikà, chúng ta sẽ thầy
rằng tập Astasàhasrikà là tập sớm nhất trong cả ba tập
và được biên soạn vào khoảng thế kỷ thứ nhất trước
Công nguyên.
Những
tài liệu địa
dư về nguồn gốc Ðại thừa
Không chú trọng đến
triều đại các vua chúa và các tài liệu khác do Tàranàtha
đề cập tới, chúng ta có thể, với sự dè dặt cần thiết,
sử dụng một vài lời tuyên bố của vị này về sự phát
triển trong lịch sử của tôn giáo, sự phân phối địa dư
của các học phái và sự thừa kế các tổ sư tại nhiều
trung tâm sai khác. Tàranàtha nói rằng, theo một truyền thuyết
500 vị Bồ-tát (93) tham dự kỳ kiết tập Jalandhara của
Kanishka và trong thời gian này, Ðại thừa xuất hiện và
được các vị tu sĩ đã chứng được Anutpattikadharmaksànti
(vô sanh pháp nhẫn) (94) thuyết giảng. Giáo điều này là một
đặc tính của các nhà Ðại thừa và có thể là một sự
phát triển của thuyết Anutpadajnàna (vô sanh trí) Tiểu thừa
(bất sanh của các lậu hoặc, không còn sanh tử luân hồi),
và Ksayajnàna (lậu tận trí) (95) nhưng ở đây không có một
ý nghĩa Ðại thừa gì cả. Nói đến sự xuất hiện của môt
hạng tu sĩ gọi là Bồ-tát trong thời kỳ kiết tập
Kanishka cũng có ý nghĩa, vì chúng ta đọc trong tập Divyàvadàna
sự hiện hữu của một loại tu sĩ gọi là Bodhisattvajàtika
với gợi ý hạng tu sĩ này không được các nhà Tiểu thừa
tán thành cho lắm (96).
Tàranàtha nói lên sự
khó khăn của mình khi xác nhận sự hiện hữu của một loại
tu sĩ gọi là Bồ-tát tại kỳ kiết tập Kanishka. Ngài cho
chúng ta biết thêm, khoảng thời đại vua Kanishka, Bà-la-môn
Kulika xứ Sauràstra mời Sthavira (thượng tọa) và A-la-hán
Nanda, sinh trưởng ở Anga và hiểu giáo lý Ðại thừa, đến
giảng giáo lý mới (97). Chúng ta để ý đến danh từ
Sthavira và Arahanta, hai danh từ này chứng tỏ Nanda là một
tu sĩ Tiểu thừa và hiểu giáo lý Ðại thừa. Tàranàtha
nói đến các tu sĩ chứng được Anutpattikadharmaksànti (vô
sanh pháp nhẫn), diễn giảng Ðại thừa; như vậy là có một
hạng tu sĩ Tiểu thừa thuyết pháp truyền bá giáo lý Ðại
thừa (98). Sự liên hệ giữa Odivisa với sự khởi nguyên của
Ðại thừa và vị tu sĩ Nanda với Anga khiến chúng ta phải
tìm nguồn gốc của Ðại thừa tại một chỗ nào về phương
Ðông. Một đoạn được tìm thấy trong mọi tập
Prajnàpàramita một phần nào đã ủng hộ lời tuyên bố của
Tàranàtha. Ðoạn này nói rằng giáo lý Ðại thừa phát sanh
về phía Nam (Daksinàpàtha), đi qua các xứ phía Ðông
(Vartanyàm) (99) và thịnh hành phía Bắc. Như vậy, lời tuyên
bố này của các tập Prajnàpàramita được viết lên khi tập
này đang được biên soạn ở phương Bắc, sau khi Ðại thừa
đã được truyền bá mạnh ở nơi đây.
Chúng ta có thể xác chứng
lời tuyên bố này với truyền thuyết Tây Tạng nói đến sự
có mặt của tập Prajnàpàramita bằng thổ ngữ Pràkrit, thuộc
các học phái Saila, trung tâm của những học phái này thuộc
Nam Ấn (quận Guntur). Rất có thể, tập Prajnàpàramita này
hàm chứa những hột giống giáo lý Ðại thừa. Rồi địa
điểm được thay đổi qua phương Ðông như Tàranàtha đã
đề cập đến ở trên. Ở đây, cũng cần ghi thêm, Nalanda
là một trung tâm sớm nhất, là kho tàng chứa giữ giáo lý
Ðại thừa và sau này trở thành căn cứ điểm của Nàgàrjuna.
Như vậy, rất có thể Ðại thừa sinh trưởng ở phương
Nam khoảng thời gian trước Kanishka, trở thành một hình thức
Phật giáo được công nhận dưới thời đại Vua này, nghĩa
là bắt đầu kỷ nguyên khi đặt được trọng tâm ở phương
Ðông, rồi từ từ truyền bá lên phương Bắc để được
phát triển rực rỡ huy hoàng dưới sự lãnh đạo của Nàgàrjuna.
Ở phương Nam, Ðại thừa
tiếp tục được hưng thịnh , vì trong tập Gandavyùha có
nói đến Manjusrì bắt đầu từ Jatavana (Kỳ viên) để đi
trong xứ Daksinàpatha, đến tại Màladhvajavyùha caitya, tại
thành phố lớn Dhanyàkara (100), tại đây có rất nhiều tín
đồ. Ở đây Manjusrì thuyết pháp khiến cho Sudhanu, con một
vị chủ ngân hàng rất giàu, phát Bồ đề tâm và dạy
Sudhanu đi đến Sugrìvaparvata trong xứ Ràmavartta (cũng trong
Daksinàpatha) để học Samanta bhadra bodhisattvacaryà (Phổ hiền
Bồ-tát đại nguyện). Sudhanu du hành trải qua nhiều xứ để
tìm chân lý và cuối cùng đến tại Dvàravatì. Sau khi đã học
tất cả những gì có thể học được ở Nam Ấn, Sudhanu
đi đến Kapilavastu và du hành qua nhiều nước (101) ở
phương Bắc. Cũng trong tập Manjusrimùlakalpa (102),
Dhànyakataka, Srìparvata và một số địa điểm khác ở
Daksinàpatha được đề cập đến và nêu rõ đạo Phật
được hưng thịnh tại những chỗ này. Nàgàrjuna sanh ở
Vidarbha (Berar), cũng trú ở phía Nam và sống những ngày cuối
cùng ở Srìparvata (hiện tại là Srìsailam) (103). Ariyadeva
(Thánh thiên) cũng từ Nam Ấn đến, Nàga một đệ tử khác
của Nàgàrjuna cũng vậy.
Như vậy hình như Nam
Ấn không những chỉ là chỗ sinh trưởng của Ðại thừa
mà cũng là chỗ sinh trưởng của nhiều nhân vật quan trọng
đã tác thành Ðại thừa được địa vị hiện có vào thế
kỷ thứ hai và thứ ba sau Công nguyên. Niên đại của
Àryadeva và Nàga được ghi vào khoảng đầu thế kỷ thứ
ba (200 - 225) và Nàgàrjuna sống trước khoảng vài mươi năm
(104). Sự huy hoàng của Nàgàrjuna với hệ thống triết lý
của Ngài làm lu mờ hình ảnh vĩ đại của Maitreya, vị sáng
lập truyền thống của học phái Yogàcàra cho đến thời đại
Asanga (Vô trước), vị này đặt các tác phẩm của Maitreya
lên hàng đầu và dành cho hệ thống triết học này một địa
vị rất cao quý.
Nội
dung các tác phẩm Ðại thừa sớm nhất
Hai thế kỷ đầu sau Công
nguyên chứng kiến sự xung đột giữa Ðại thừa và Tiểu
thừa và sự hệ thống hóa giáo lý Ðại thừa. Các tác phẩm
diễn tả (lẽ dĩ nhiên có thiên lệch) sự xung đột này
là Prajnàpàramita, sadharmapundarikà, Lankàvatara,
Dasabhùmikasùtrà và Gandavyùha rất có thể là sản phẩm của
thời đại này, nhưng cũng chưa có những bằng chứng cụ
thể về những ngày nhất định khi các tập này được sáng
tác. Một bằng chứng độc nhất là triều đại các tác phẩm
này được dịch ra chữ Hán, nhưng đây chỉ là giới hạn
thời gian cuối cùng của các tập này mà thôi. Vì không có
những tài liệu cụ thể về giới hạn thời gian sớm nhất,
chúng ta phải để ý đến tính chất nội dung những tập
này, nêu rõ thời gian khi các nhà Ðại thừa đang cố gắng
phủ nhận giá trị của những nhà Tiểu thừa.
Tập Prajnàpàramita đầy
những danh từ chuyên môn và hành văn Tiểu thừa với mục
đích nêu rõ lập trường không vững mạnh của Tiểu thừa,
như thế nào các nhà Tiểu thừa bị mê lầm bởi những ảo
ảnh thiển cận của tôn giáo và sự thấp kém về giác ngộ
của hàng Tiểu thừa, so sánh với trí tuệ của vị Bồ-tát
thực hành Bát nhã ba la mật. Tập Sadharmapundarika tự nhận
lấy trách nhiệm nêu rõ sự thiển cận của trí giác Tiểu
thừa, tuy vậy cũng vẫn có thể tiến trên con đường tu hành
và cuối cùng theo Ðại thừa để chứng ngộ chân lý. Tập
Gandavyùha cố gắng diễn tả sự phấn đấu lớn lao của một
Bồ-tát, sự phấn đấu vượt ngoài khả năng của một vị
Tiểu thừa để học Samantabhadrabodhi-sattvacaryà; Sudhanu yết
kiến nhiều vị Bồ-tát, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc,
Ưu bà di, mỗi vị tinh thông một phần nào trong hạnh nguyện
Phổ hiền và học những hạnh nguyện từ những vị ấy. Tập
Dasabhùmikasùtra, như đề sách nêu rõ, nói đến những
phương pháp thực hành liên hệ đến các bhùmi, những giai
đoạn tuần tự của một vị Bồ-tát tiến đến Thánh quả.
Tập này cũng không bao giờ bỏ lỡ cơ hội để công kích
các vị Tiểu thừa và nêu rõ bốn Bhùmi cuối cùng hoàn
toàn vượt ngoài khả năng của các vị Thanh văn. Tập Lankàvatàra,
một trong những tập của loại này được dịch ra Hán văn,
có trình bày hệ thống tư tưởng của phái Yogàcàrà sớm
nhất, và luôn luôn nhắc đi nhắc lại cũng một đề tài
nghĩa là các nhà Tiểu thừa chỉ để ý đến Svasàmànyalaksana
(tính cách đặc biệt và phát sanh của sự vật) và không
biết đến sự không hiện hữu của các pháp.
Các tác phẩm Ðại thừa
tiếp theo là những tác phẩm của Nàgàrjuna, Asanga,
Àryadeva, Vasubandhu v.v... Dù cho mục đích của những bài kệ
của Nàgàrjuna là để nêu rõ sự hiện hữu tương đối của
các pháp và chân lý chỉ có thể tự mình tự giác chứng với
mình, Ngài cũng đề cập đến những giáo lý chính của học
phái Tiểu thừa và nêu rõ sự rỗng tuếch của chúng, đứng
trên lập trường mới được Ngài xây dựng lên. Asanga, tuy
thuộc thời đại về sau nhiều, cũng không để giáo lý Tiểu
thừa được nằm yên. Trong tập Sùtràlankàra, Ngài nêu lên
địa vị thấp kém của các vị Tiểu thừa về khả năng tâm
linh và sự bất lực của chúng để chứng ngộ sự thật.
Vasubandhu cũng vậy, trong tập Vijnaptimàtratàsiddhi (Thành duy
thức), nêu thẳng như thế nào các nhà Tiểu thừa vẫn bị
chi phối bởi những tà kiến, và mục đích của Ðại thừa
là diệt trừ hoàn toàn những tà kiến này. Như vậy chúng
ta thấy rằng, dù phần lớn các tài liệu được nói đến
thuộc về thời đại sau thời đại được đề cập, chúng
cũng giúp chúng ta được nhiều tài liệu nêu rõ sự tranh
chấp ảnh hưởng giữa Tiểu thừa và Ðại thừa.
Tuy vậy một đặc tính
của những lời công kích trong những tập này chống các
nhà Tiểu thừa là chúng không cố ý xuyên tạc vị trí của
các nhà Tiểu thừa để đem phần thắng cho các nhà Ðại
thừa. Các lời tuyên bố trong các tập này về các nhàTiểu
thừa được minh chứng bởi các tập Tiểu thừa sớm nhất
và muộn nhất. Như vậy, không những không xuyên tạc vị
trí của các nhà Tiểu thừa, những tập này soi sáng rất
nhiều về giáo lý Tiểu thừa. Các vị Ðại thừa thấy
khuyết điểm của các nhà Tiểu thừa, không phải vì những
vị này hiểu lầm lời Phật dạy, nhưng những vị này xem
là chân lý những gì các nhà Ðại thừa chưa xem là chân
lý tuyệt đối. Trong chương tiếp, chúng tôi sẽ đề cập
đến sự đánh giá các nhà Tiểu thừa bởi các nhà Ðại
thừa và những lý do ẩn nấp dưới sự đánh giá như vậy.
-ooOoo-
CHÚ
THÍCH CHƯƠNG MỘT
1- Không phải tất cả
bài kinh của tất cả Nikàyas, vì nhiều kinh được đem vô
về sau. Tập Khuddaka Nikàya (Tiểu bộ kinh) gồm một số ít
kinh nguyên thủy nhưng nhiều kinh thuộc giai đoạn sau. Tập
Divyàvadàna luôn luôn nói đến bốn Àgama (A hàm), nghĩa là
chỉ có bốn tập Àgama được công nhận khi tập
Divyàvadàna được tập thành. Xem Divyà. Trang 17, 253, 333.
Giáo sư Bhapat và Winternitz đều công nhận các tập Nikàyas
gồm nhiều thành phần lẫn lộn thuộc nhiều thời đại khác
nhau.
2- Sanskrit: Mahàvastu,
Lalitavistara, Divyàvadàna, Avadànasataka, Asokàvadàna, Tiểu luận
của Vasumitra về các Tông phái, những đoạn Sanskrit tìm
được ở phía Ðông Turkestan và các miền phụ cận.
Pàli: Kathàvatthu,
Milindapanha, các tập biên niên sử Tích Lan, Nikàyasangraha.
3- Theravàda: Suttapitaka
= Dìghanikàya, Majjhimanikàya, Anguttaranikàya, Samyuttanikàya và
Khuddakanikàya, Sarvàstivàda: Dìrghàgama, Madhya-màgama,
Ekottaràgama và Samyuktàgama.
4- Theravàda:
Vinayapitaka, Pàtimokkha, Mahàvagga, Cullavagga, Suttavibhanga và
Parivàra. Sarvàstivàda: Vinayapitaka = Vinayavastu,
Pràtimoksa-sùtra, Vinayavibhàga, Vinayaksudrakavastu và
Vinaya-uttaragrantha.
5- Theravàda: Abhidhamma:
Dhammasangani, Vibhanga, Dhàtukathà, Puggalapannatti, Kathàvatthu,
Yamaka và Patthàna.
Sarvàstivada: Abhidharma:
Sangìtiparyàya, Dhàtu-kàya, Prajnaptisàra, Dharmaskandha,
Vijnànakàya và Prakaranapàda.
Các chi tiết, xem quyển
Early History, trang 277 v.v...
6- Nghĩa là trong giai
đoạn thứ nhất.
7- Muốn so sánh các bản
Sanskrit mảy mún của A hàm Nhất thế hữu bộ với các tập
Pàli Nikàya, xem Hoernle Manuscript Remains trang 30 v.v... Muốn đối
chiếu tập Pràtimokkha của Nhất thế hữu bộ với tập
Pàtimkkha, Thượng tọa bộ, xem J. A., 1913, cũng xem Levi, J. A
1912 Oldenberg Z.D.M.C, tập Iii, Watanabe Tables of Problems in the
Samyukta àgama and Samyutta Nikàya (Tokyo, 1926).
8-Xem J.P.T.S., 1904 - 5,
trang 60 v.v...
9- Một bằng chứng sự
trưởng thành về sau của văn học Abhidhamma là truyền thuyết
chính thống (Athha, trang 28 -32) cho rằng đức Phật không giảng
toàn bộ Abhihamma mà chỉ giảng những Matikà (toát yếu). Những
toát yếu này sau được Ngài Xá Lợi Phất giảng rộng ra
và thừa truyền ngang qua các đệ tử cho đến Revata. Bằng
chứng này quan trọng vì do chính Ngài Buddhaghosa nói ra. Ngài
là một vị tin tưởng mọi lời ghi trong kinh đều là Phật
ngôn. Ðại chúng bộ xem Abhidhamma là không thuộc chính tạng.
Xem Early History trang 235. Trong tập Kosavyàkhyà (trang 12),
Abhidhamma được xem là do đức Phật giảng từng phần.
10- Xem Speyer, tự phần
cho tập AVA.S, trang V, VI.
11- Attha, trang 26.
Sabbampi sagàthakam suttam Geyyanti veditabbam.
12- Tattha, trang 26. Sabbe
pi acchariyabbhutadhamma patisamyuttà Suttantà Abhutadhammanti
veditabbam. Kinh Acchariyab-bhutadhammasutta (Majjhima III, trang 118
v.v...) có thể xem thuộc loại Abbhutadhamma. Cũng xem Mtu III,
tr. 200.
13- Như đã làm trong
Attha, tr. 27 -28.
14- Kinh
Mahakaccànabhddekarattasutta (Majjhima III, số 133) là một ví dụ
điển hình về một bài kinh có cả gàthà và Veyyàkaranà.
Kinh Mahàkammavibhangasutta (Majjhima III, số 136) là một loại
Veyyàkaranà. Ngài Buddhaghosa chứng minh tập Kathàvatthu cũng là
Phật ngôn như kinh Madhupindika và các kinh khác do Ananda,
Mahàkaccàna và các đại đức khác giảng. Ngài biện minh rằng
đức Phật chỉ giảng Màtikà (toát yếu) rồi được gọi
là Phật ngôn. Theo tôi, những loại kinh như vậy có thể
phân loại vào Veyyàkaranà. Xem Attha, tr. 5.
15- Phái Ðại chúng bộ
bác bỏ Abhidhamma và Jàtaka không thuộc vào kinh điển Phật
giáo. Hãy so sánh với truyền thuyết Yogàcàra cho rằng trong
đoạn đầu đời Ngài, đức Phật giảng bốn Àgamas,
Dharmanusmrtyupasthàna, Lalitavistara, Karmasataka, và Avadànasataka,
Wassiljew, Buddhimus, tr. 352. Theo phái Nhất thế hữu bộ, mỗi
tập Abhidharma đều có một tác giả.
16- Kosa VI, 29b. Giáo sư
La Vallee Poussin khiến tôi chú ý đến sự kiện là 12 bộ
kinh được tập Vyàkhyà của Yasomitra đề cập đến, chứ
không phải chính bộ Kosa.
17- Mtu I, tr. 2, 4.
18- Panca, tr. 17.
19- Xem Speyer s In tro. To
the Ava. S . Pàli có tập Apadàna nói đến tiền thân các vị
A-la-hán.
20- Về 12 bộ kinh, xem
Nanjo s Catologue, số 1199 (Taisho, tập 31, tr. 586).
21- Xem tự phần của
tôi cho tập Panca.
22- Sự vắng mặt của
các Pàrami trong Dasuttara và Sangìtisuttanta của tập Dìgha rất
có ý nghĩa.
Danh từ Pàramippatto
(Majjhima III, trang 28) được dùng với ý nghĩa toàn thiện hơn
là ý nghĩa các hạnh Ba-la-mật.
23- Divyà. Tr.95, 127,
490; Lal. Vis. Tr.345, 474; Sata. Tr.242.
24- Dasa, tr.63, 72, 81,
94. Cf Mvyut - 34.
25- Xem đoạn sau,
chương IV, về 4 loại phát nguyện, xem Mvyut., 80 và P.I.S.
Dict Adhitthàna trong tập Mahavamsa, chương XVII, S1.46.
26- Divyà., tr, 226, 271,
368, 469, 476, 478, 495, 569.
27- Như Cunningham,
Oldenberg, Barua, Charpentier.
28- Xem các chi tiết,
Early History., tr. 92, 137 v.v..., 155, 169 v.v... Dr. E. Thomas, Lief
of the Buddha, bản đồ.
29- Dìgha II, tr. 167, As.
Res. XX, tr. 316.
30- Dìgha II, tr. 167.
31- Mv., I, tr. 197; Jàt.
I 49. Divyà, tr. 21.
32- Mv., I, tr. 197.
33- Muốn xác nhận giới
vức Majjhima Janapada xem S.M. Majundar s Intro. to Cunningham s
Geography, tr. XLiii.
34- Divyà, tr. 21:
Pundravardhana phía Ðông; Saràvatì phía Nam; Sthùnopasthùnaka
bràhmanagràmas phía Tây; và Usìragiri phía Bắc.
35-Watters Yuan Chuang I,
tr.308.
36-Tàra., tr. 10, 13.
37- Cv., XII, i, tr. 7. Xem
Ind. Ant. 1908, Councils ...; Pag Sam Jon Zang, tr. VIII; về truyền
thuyết Mahisàsaka, xem biệt chú của Wassiljew trong the App. To
Tàra. Tr. 289 - 290/
38- Theo Cv. (XII, 21). Vị
này đã thọ đại giới 120 năm, tức là ít nhất già hơn
140 tuổi. Pag Sam Jon Zang (tr. 81) nói đến vị này tham dự kỳ
kiết tập thứ 2, được đặt dưới sự bảo trợ của Mahàpadma
Nanda.
39- Chi tiết xem I.A.
1908.
40- I.A. 1908, tr. 4
v.v...; 89 v.v...
41- Tàranàtha (tr.44)
nói đến Sthavira Vatsa đã đem vào thuyết Hữu ngã luận.
Tàranàtha thêm rằng Dhitika, nối nghiệp Upagupta, triệu tập
một kỳ kiết tập tại tu viện Puskarinì để trừ Hữu ngã
luận của Vatsa và thành công, giáo hóa được các đồ đệ
của Vatsa và cuối cùng cả Vatsa nữa. Sự tích này rõ ràng
nói đến Vàtsìputrìyas hay Vajjiputtaka, từ chi nhánh này khởi
lên chi nhánh Sàmmitiyàs được thịnh hành dưới thời đại
Harsavardhana. Xem Early History, tr. 297 v.v...
42- Majjhima, Sutta 108;
cũng xem Dutt, Early Buddhist Monachism, tr. 141.
43- Attha, tr. 32,
Àcariyaparamparà. Sàriputta, Bhaddaji, Sobhito, Piyajàli, Piyapàlo,
Piyadassì, Kosiyaputto, Siggavo, Sandeho, Moggaliputto Visudatto
Dhammiyo Dàsako, Somako, Revato (rồi ở Tích Lan) Mahindo, Iddhiyo,
Bhaddanàmo và Sambalo.
44- Tàra, tr. 9.
45- Cần phải chú ý rằng
sự thọ giới của Mahinda có liên quan đến tên Majjhantika
(rất có thể vị sư danh tiếng ở Kashmir) và Mahàdeva, vị
truyền bá đạo Phật ở Mahisamandala với Moggaliputta. Cũng
xem Early History., tr. 260.v.v...
46- Mahàvamsa, tr. 54.
47- Truyền thuyết Nhất
thế hữu bộ cho rằng Madhyàntikà truyền bá đạo Phật
phương Bắc và Mahàvamsa chép rằng Majjhantika được gửi
đi để giáo hóa Kashmir và Gandhàra.
48- Waddell trong J.A.S.B.
1897, pt, i, tr. 76. Proc. A.S.B., 1899, tr. 70. Smith, Early History of
India, 4th ed, tr. 199.
49- Mahàvamsa, tr. 94.
Sàsanavamsa, tr. 10. Các chi tiết, xem Smith, Asoka (3rd
ed), tr. 44. Bhandarkar, Asoka, tr. 159 v.v...
50- Ep. Ind, IX, tr. 139,
141, 146.
51- Ibid, XI, tr, 211, về
các địa điểm khác của Ðại chúng bộ, xem Early History.,
tr. 241 v.v...
52- Burgess, Amaravati và
Jaggayapeta stupas, tr. 100.
53- Annual report of S.I.
Epigraphy, 1924, tr. 97; 1926, tr. 70, 6203; 1927, tr. 42 cũng xem
I.H.Q.V, tr.794 -6.
54- Burgess (như số 52),
tr. 6; Tàra, tr. 73, 81.
55- Mil, tr. 8, 16.
56- Tàra, tr. 23. Mọi
truyền thuyết Nhất thế hưữ bộ, Trung Hoa và Tây Tạng đều
ghi rõ Dhitika kế vị Upagupta.
57- Schiefner gợi ý là
Minàra = Menander và Imhasa = Hermaios, xem Tàra, tr. 23 -24.
58- Có nói đến đạo
Phật được truyền bá đến Tích Lan. Krsna được xem là
có đến viếng thăm chỗ này. Tàra, tr. 44.
59- Kàla được gọi là
Krsnavarna theo truyền thuyết Trung Hoa, xem Samyuktavastu II, tr.
95b; Tàra, tr. 47. Khó mà chấp nhận lời tuyên bố của
Tàranàtha cho rằng Sadarsana và Asoka chết cùng một lúc.
60- Tàra, tr. 50.
61- E.R.E. s.v. Docetism.
62- Huber truy nguyên 18
Avadànas của Divyàvadàna trong luật tạng Nhất thế hữu bộ
chữ Hán (B.E.F.E.O. V, tr. I -37). Cũng xem Levi, T oung Pao, Ser-II
(1907), Như vậy rất có thể tập Divyàvadàna thuộc Nhất thế
hữu bộ.
63- Trong luận tác
Vasumitra cũng như trong tập Kathàvatthu có chép rằng phái Nhất
thế hữu bộ xem các vị A-la-hán có thể bị rời khỏi quả
vị A-la-hán. Phái Thượng tọa bộ không công nhận điểm này
và xem các vị A-la-hán cũng thanh tịnh như đức Phật. Phái
Ðại chúng bộ cũng không đồng ý với Nhất thế hữu bộ.
Xem Masuda, Origin, tr. 27, Kvu, i, 2.
64- Divyà, tr. 226,
271.v.v... Luận tác của Vasumitra có nói rằng phái Nhất thế
hữu bộ biết đến ba thừa. Ngày giờ kiết tập của
Divyàvadàna có thể chậm nhưng tập này có chứa nhiều
Avadàna rất xưa. Như vậy, phái Nhất thế hữu bộ xem Phật
quả là một mục đích cố gắng đạt đến như hai quả vị
khác.
65- Xem đoạn sau
chương III (b) giáo lý Kàya.
66- Lal Vist, tr. 419,
Divyà, tr. 367. Xem Kosa VI, tr. 163 và VII, tr. 31, tại đây
Sùnya được giải thích với nghĩa vô ngã.
67- Cần để ý rằng
Nàgàrjuna và các nhà Ðại thừa sớm nhất phần lớn chống
đối lý thuyết thực tại luận của Nhất thế hữu bộ.
68- Xem đoạn sau, chương III (Dasabhumikasutra).
69- Tàra, tr. 58.
70- Masuda I, 31, Prajnà
và về Prayaga, xem Mtu, I, tr. 270. Trong suốt tập Mtu, Niết
bàn được xem là tịnh lạc. Ðại thừa không chấp nhận
khổ lạc gì cả.
71- Kvu, XV, 6.
72- Points of Controvesy
XV, 6
73- Nghĩa là vị đã chứng
nhập Darsanamàrga.
74- Masuda op cit. 1, 5,
40. Ðây chống lại quan điểm Ðại thừa xem lời dạy của
đức Phật có hai nghĩa Nìtàrtha và Neyyàrttha và cũng chống
đối với Nhất thế hưữ bộ.
75- Cf Mtu I, tr. 263, Ðức
Phật hiện ra khắp nơi. Trong các tập Nikàyas có nói đến
"Ekopi hut và bahudhà hoti". Dìgha I, tr. 78. Trong tập
Lalitavistara (tr. 100), vị Bồ-tát hiện ra trong tất cả nhà
do các Sàkya cúng dường.
76- Nhất thế hữu bộ
xem sự giải thoát của Thanh văn, Duyên giác và chư Phật giống
nhau. Masuda, tr. 49. Mahìsàsaka cũng đồng một quan điểm
(Masuda, tr. 62). Dharmagupta trái lại không đồng ý về điểm
này. Tập Sùtràlankàra cho rằng, về giải thoát, đức Phật
và hàng Thanh văn bình đẳng. Ðây cũng là ý kiến của các
luận Yogàcàra.
77- Trong tập Mtu, danh từ
Sambhogakàya không nói đến, nhưng sự diễn tả thân của đức
Phật nhiều khi cho chúng ta hiểu theo quan niệm này.
78- Divyà, tr. 473.
79- Mtu, tr. 364-365-367.
Bodhàya cittam nametvà. Tr. 375-477. Bodhim atulyam sprsati.
80- Masuda, tr. 49. Ðức
Phật và hai Thừa không có sai khác về giải thoát (Vimukti):
con đường (Màrga) của ba Thừa lại khác nhau. Ðoạn này
không có trong truyền thuyết Tây Tạng.
81- Mtu II, tr. 362.
82- Xem sau, chương IV.
83- Mtu I, tr. 46. Lal,
Vis, tr. 35.
84- Kosa II, 44, VI, 21
a-b.
85- Mtu, II, tr. 357: Sùnyatam
Sàntam bhàventi. Samyutta II, tr. 267; III, 167.
86- Xem sau, chương IV.
87- Panca, tr. 7,: Satpàramitàpratisamyuktàm-
dharmadesanàm Karoti.
88- M. Ava (Le Muséon,
VIII, tr. 271). En effet, La doctrine du grand véhicule Nagasamala
enseigne pas non seulement le néant des éléments, mais encore les
terres des Boddhisattvas, les vertus transcendantes (Pàramità), les
résolutions (pranidhàna), la grande compassion etc., mais encore
Papplication du mérite à illumination, les 2 équipements de mérite
et de savoir et la nature incompré hensible du dharma (acintya -
dharmatà).
89- Xem đoạn trước.
90- Vassiljew, Buddhismus,
tr. 291, nói đến tập Tây Tạng Siddhànta.
91- Tàra, tr. 58, Pag sam
Jon Zang, tr. 82 cũng nói Ðại thừa Phật giáo bắt đầu ở
Odivisa, sau thời đại vua Mahàpadma Nanda không bao lâu.
92- Mới in theo bộ
Gaekwad oriental series.
93- Asvaghosa được gọi
là vị Bồ-tát trong tập Samyuktaratna- Pitakasùtra chữ Hán (số
1329, tập VI, xem Takakusu, Itsing, tr. 1 IX, cf De groot, Le code du
Mahayàna en Chine, tr. 8: Hai hay ba ngày sau lễ thọ Ðại giới
theo Pràtimksa, các tu sĩ lại thọ một giới đặc biệt theo
giới Bràhamjàlasùtra (Phạm võng kinh) và trở thành vị Bồ-tát.
Xem chương V.
94- Tàra, tr. 61. Lankà
tr. 81; Asta, tr. 331: Anutpàdajnànakasàntiko boddhisattavà. Xem
sau, chương III.
95- Xem Kosa, VI, 17, 71.
Ksayajnàna với Anutpàdajnàna tác thành Bodhi, cũng xem Kosa VI,
50, VII, I, 46, 7.
96- Divyà, tr. 261.
97- Tàra, tr. 62.
98- Có thể chăng,
Asvaghosa, tác giả tập Buddhacarita thuộc loại Tu sĩ Tiểu thừa
này?
99- Asta, tr. 225. Về
Vartanyàm, xem Trikàndasesa 2 hàng 12.
100- Rất có thể đồng
với Dhànyakataka
101- Những xứ phương
Bắc được Ngài đến thăm là Bodhimada và Kapilavastu.
102-... trang 88.
103- Tên của Nàgàrjuna
có liên hệ mật thiết với Dhàyakataka, gần đấy có
Srìparvata và Nàgàrjunikunda.
104- Giáo sư Walleser cho
rằng khoảng đầu thế kỷ thứ hai. Nàgàjuna, Asvaghosa và
Àryadeva được xem là đồng thời với Kàniska trong tập I-
tsing, tr. Ivii.
---o0o---
Mục
lục
|
1.1
|
1.2
|
2.1
|
2.2
|
3.1
|
3.2
|
3.3
|
3.4
|
3.5
|
4.1
|
4.2
|
5
---o0o---
|
Thư Mục Tác Giả |
---o0o---
Chân thành
cám ơn Đạo hữu Bình Anson đã gửi tặng phiên bản điện tử
(Quang Duc Website, tháng 5, 2002)
Trình bày: Nhị Tường
Cập
nhật : 01-05-2002