I.
PHÁP
Y CHỈ
Phần thứ
hai
thuyết
minh:
Lúc
bấy giờ,
có các vị Tỳ-kheo
mới thọ
giới, Hòa thượng
viên tịch,
không người dạy bảo,
cho nên không biết
giữ gìn oai
nghi... cho đến
giống như
Bà-la-môn nhóm họp.
Các Tỳ-kheo bạch Phật,
Phật cho phép
trường hợp như
vậy nên thỉnh
A-xà-lê, như
trong vấn
đề “Hòa thượng”
đã trình bày.
Thưa thỉnh như
sau:
“Xin Ðại
đức một
lòng nhớ
nghĩ!
Con Tỳ-kheo
tên là... nay cần
cầu
Ðại
đức làm người
y chỉ.
Xin Ðại
đức cho con
được y chỉ.
Con y chỉ
nơi
Ðại
đức
để sống.”
(thưa 3 lần).
Vị
được thỉnh
cầu nói:
“Ðược,
tôi cho ông nương
tựa,
ông chớ
buông lung.”
Trường
hợp vị
Tỳ-kheo mới
thọ giới
muốn
ở chỗ
nhàn tịnh, cho
phép y chỉ nơi
chỗ khác, nếu
trong ngày trở
về kịp.
Không nên sai người
nhận y chỉ
hay trao y chỉ
người khác.
Không nên không lựa
chọn người
thọ y chỉ,
hay (lựa chọn)
người cho y chỉ.
Bệnh
hay là trông nom bệnh
không y chỉ,
được
ở riêng.
Luật Tăng
kỳ nói rõ:
Thỉnh
y chỉ có 5
pháp:
1)
Quí mến.
2)
Cung kính.
3)
Biết xấu.
4)
Biết hổ
thẹn.
5)
Ưa sống với
nhau.
A-xà-lê có 4 hạng:
1)
Không cung cấp
lương thực
mà cũng không dạy
dỗ Chánh pháp.
Hạng người này không phiền
thưa, cứ
bỏ
đi.
2)
Có cung cấp lương
thực mà không dạy
dỗ Chánh pháp.
Hạng người này nên thưa
mà đi.
3)
Không cung cấp
lương thực
mà có dạy dỗ
giáo lý. Hạng
này tuy khổ, trọn
đời không nên
đi.
4)
Có cung cấp lương
thực mà cũng
có dạy dỗ
giáo lý. Hạng
này tuy xua đuổi,
trọn
đời không nên
đi.
Nếu
đệ tử không nghe lời
dạy bảo nên nói với
người trông coi
về giường
mền,
đừng cung cấp
giường mền,
nói với người
trị nhật,
không phân phối
phần
ăn. Nếu
người
đó hung ác có
thế lực,
có thể tạo
việc bất
lợi, Hòa thượng
nên tránh đi.
Thầy y chỉ
nên xếp y bát
ra ngoài cương
giới một
đêm, tức
là cắt
đứt sự
y chỉ với
người không
nghe lời dạy
bảo
ấy.
Nếu Hòa thượng,
A-xà-lê có lỗi,
đệ tử
nên can gián không nên dùng lời
thô mà khuyên can. Y như
pháp giáo giới,
nên nói lời nhã
nhặn
để thầy
đừng làm việc
ấy. Thầy
thuận nghe thì tốt,
nếu ngược
lại thầy
tạo thêm tội
lỗi chê trách
bác bỏ lời
khuyên can thì nên tránh xa. Nếu
là bậc A-xà-lê thì mình ôm y bát ra ngoài giới
ở một
đêm rồi
trở lại y chỉ
nơi vị khác... Nếu
người
ấy có thế lực
thì nên tránh xa họ
đi.
Trường hợp
y chỉ với
người có
đức hạnh mà vị
Hòa thượng
ấy mạng
chung hay thôi tu, hay bị
cử tội,
hay ra ngoài cương
giới ngủ, hoặc
đệ tử tự
ra ngoài cương
giới ngủ, như
vậy gọi là không y chỉ.
Nếu A-xà-lê mạng
chung, thôi tu, bị
cử tội,
ra ngoài cương
giới ngủ, hoặc
đệ tử ra ngoài giới
ngủ, cũng
vậy.
Nếu
đủ 5 hạ,
biết rõ pháp, biết
rõ luật thì
được phép lìa y
chỉ, gọi
là xả y chỉ.
Nếu Tỳ-kheo
không biết rõ
pháp, không biết
luật, không thể
tự lập, không thể
hướng dẫn
kẻ khác thì trọn
đời không
được ly y chỉ
để sống.
Nếu
đủ 10 hạ, biết
rõ pháp, biết
rõ luật, có khả năng
tự lập, có khả
năng dựng
lập cho kẻ
khác, Tỳ-kheo
như vậy
được nhận
người khác y chỉ.
Luật Ngũ
phần nói
rõ:
Cho phép không nhận y chỉ
cho đến sáu
đêm.
Ðệ tử
muốn
đến chỗ
khác, việc cần
yếu là phải
thưa với
thầy trước
khi đi hai
đến ba ngày. Vị
thầy nên trù
tính nơi chỗ
đệ tử
mình xin dơøi
đến
đó có người
để họ
y chỉ thì mới cho
đi.
Mỗi khi
đến trú xứ
nào, trước hết
phải lễ
Tháp, lễ Thượng
toạ. Kế
đó xin phòng
ở, vậy
sau mới cầu
y chỉ. Vị
được cầu
làm y chỉ nên hỏi: “Nhị
sư (Hòa thượng,
A-xà-lê) của
ông là ai? Trước
đây ông
ở
đâu? Ông thường tụng
kinh gì?” Nếu
người cầu y chỉ
trả lời
đúng pháp thì
nhận cho y chỉ.
Nếu trả
lời không
đúng pháp thì
nên nói rằng:
“Ông không biết
tôi, tôi không biết
ông, ông nên đến
người có sự
quen biết
để cầu
y chỉ.” Trường
hợp có sự
nghi ngờ, nên
nói chờ thời
gian. Thời gian
người
ấy chờ
cho đến 6
đêm, xem xét họ,
nếu hợp ý thì nên cho y chỉ.
Nếu không hợp
ý thì nên trả lời
như trên
đã trình bày.
Không nên y chỉ Tăng
hay Tháp mà nên y chỉ
với bậc
Thượng tọa,
Tỳ-kheo như
pháp, người có
khả năng
giáo giới.
Luật Thập
tụng nói
rõ:
Phải thành tựu
5 pháp, cùng 5 hạ
đầy
đủ thì khỏi
cần cầu
y chỉ. Năm
pháp ấy là:
1) Biết phạm.
2) Biết không
phạm.
3) Biết tội
nhẹ.
4) Biết tội
nặng.
5) Tụng Ba-la-đề-mộc-xoa,
học rộng,
khéo nói.
Trường
hợp thọ Tỳ-kheo
giới lâu năm
mà không biết 5
pháp trên thì trọn
đời nên y chỉ
với người khác.
Ðại
Tỳ-kheo cũng nên theo tiểu
Tỳ-kheo cầu
thọ y chỉ,
nếu mình chưa
đủ 5 pháp trên.
Trường hợp
này vẫn phải
thừa sự
cúng dường tiểu
Tỳ-kheo, trừ
vấn
đề lễ lạy.
Cho
phép năm, sáu
đêm không y chỉ
thì không phạm.
Nếu có vị
Y chỉ sư
tốt mà không y
chỉ dù chỉ
một
đêm vẫn phạm
Ðột-kiết-la,
thậm chí cũng
không được lấy
nước rửa
chân của Tăng
để dùng.
Trường
hợp gặp
lúc đói khát,
có thể
được thì hằng
ngày đến thăm Hòa thượng
và cho phép ở lại
đó, nếu
không thể
được thì năm
ngày đến một lần.
Trường hợp
mỗi năm
ngày không đến
được thì lúc Bố-tát
cần
đến. Nếu
Bố-tát không theå
đến
được cho
đến xa hai
do-tuần rưỡi,
đến ngày Tự
tứ cũng
nên đến thăm Hòa thượng.
Bộ Căn
bản ni-đà-na
nói rõ:
Chưa
đủ 5 hạ,
tuy thành tựu 5
pháp, cho đến
khéo biết rõ Tam tạng,
Tam minh chứng
đủ, trừ hết
3 cấu, nhưng
cũng phải
y chỉ. Nếu
đủ 5 hạ,
cho lìa y chỉ
để du hóa, nhưng
đến bất cứ
chỗ nào cũng
phải y chỉ.
Nếu có tâm cầu
Y chỉ sư
thì được ly y chỉ
năm
đêm. Nếu
không có tâm cầu
Y chỉ sư
thì lìa y chỉ một
đêm cũng
không được.
Trường hợp
không có y chỉ
mà ở trong chúng Tăng
thọ dụng
ẩm thực...
đều chẳng hợp
lệ. Cho
đến trong vòng
10 hạ
đều như
vậy.
Bộ Bách nhất
yết-ma nói
rõ:
Cho
dù đã thọ
Tỳ-kheo,
đến 60 tuổi
hạ, và 80 tuổi
đời, mà
đối với
kinh Biệt giải
thoát chưa
từng
đọc tụng, không rõ nghĩa
nó, thì cũng phải
y chỉ nơi
bậc Trưởng
lão. Trường hợp không có vị
Trưởng lão thì
y chỉ nơi
vị niên thiếu
Tỳ-kheo cũng
được. Trường
hợp như
vậy chỉ
trừ lễ
bái, còn bao nhiêu việc
khác cần phải
phục vụ
như trò
đối với thầy.
Hạng người
này cần
được gọi
là Tỳ-kheo già
mà là trẻ vậy.
Bộ Tạp
sự nói rằng:
Có
duyên sự cần
phải tạm
đi xa nhưng
chắc chắn
sẽ trở về
lại, nên tâm niệm
nương theo cựu
sư (thầy cũ)
khỏi phiền
phải thọ
y chỉ lại.
Người
y chỉ, người dạy
dỗ
đọc tụng
đều phải
cung phụng hầu
hạ. Trường
hợp hai vị
đều lâm bệnh,
nếu có khả
năng thì chăm
sóc cả hai. Nếu
không có khả năng
thì cung phụng
vị y chỉ.
Nếu không có thầy
dạy dỗ
đọc tụng
thì tùy đó có
thể tạm
ở
được. Nhưng
nếu không có vị
y chỉ sư
mà tạm
ở là không hợp
lệ. Có một
vị Bí-sô,
ở một
trú xứ, làm y
chỉ cho nhiều môn nhơn.
Nhưng khi vị
Bí-sô ấy mạng
chung, không có người
để y chỉ. Phật
dạy: “Tìm một
vị có
đức, nên cung cấp
phòng ở tốt,
miễn các công
tác, cung phụng
hầu hạ,
ngọa cụ
vật dụng
không thiếu thốn cái chi, tất
cả
đều
đầy
đủ. Nếu không có vị
ấy thì không
được
ở nơi
đó
đến kỳ
Bố-tát thứ
hai”.
Lại
có trường hợp tiền
an cư, vị
y chỉ viên tịch,
Phật bảo
phải cầu
y chỉ sư
giống như
trường hợp trên. Nếu
không có vị nào
thì nên đến trú
xứ khác cầu
vị Y chỉ
sư, rồi
thọ hậu
an cư.
Có
trường hợp
hậu an cư,
thầy qua
đời, Phật
bảo trong thời
gian tháng mưa
kiểm tra lẫn
nhau, nhắc nhở
lẫn nhau, cẩn
thận cùng nhau
sống. Qua tháng
mưa rồi,
có người y chỉ,
và cung cấp
đầy
đủ tất cả
như trước
đã trình bày.
Trường hợp
không có thì không được
quá lần Trưởng
tịnh thứ
hai.
Có
thể
đến các trú xứ
khác cần cầu
Y chỉ sư.
Nếu Bổn
sư viên tịch
v.v... đều cũng
như trước
mà giải quyết.
Kinh Tỳ-ni mẫu
nói rõ:
Thọ
y chỉ rồi,
xin phép ra ngoài giới
bảy ngày,
đủ bảy
ngày trở lại
chùa, không mất
y chỉ.
II.
TƯ
CÁCH ÔNG THẦY
Phần thứ
hai
nói rõ:
Tôn
giả Hòa-tiên mới
vừa 2 tuổi
hạ, dẫn một
người
đệ tử
1 tuổi hạ,
đến chỗ
đức Thế
Tôn. Ðức Thế
Tôn tuy biết mà
vẫn chỉ
nơi người
đệ tử
hỏi:
-
Ðây là vị Tỳ-kheo
nào?
Tôn
giả Hòa-tiên thưa:
- Ðệ
tử của
con.
Ðức
phật hỏi
Tôn giả
Hòa-tiên:
-
Hiện ông bao
nhiêu tuổi (hạ)?
Tôn
giả Hòa Tiên thưa:
-
Con 2 tuổi.
Ðức
Phật lại
hỏi:
- Ðệ
tử ông bao
nhiêu tuổi?
Tôn
giả Hòa-tiên thưa:
- Ðệ
tử con 1 tuổi.
Lúc
bấy giờ,
đức Thế
Tôn bằng mọi cách quở
trách:
-
Việc làm của
ông là quấy,
không phải oai
nghi, không phải
pháp của Sa-môn, không phải
tịnh hạnh,
không phải hạnh
tùy thuận. Ông
làm việc không
nên làm. Này ông Hòa-tiên! Ông chưa
hết bú sữa mà nhận
dạy dỗ cho người
khác, làm sao ông dạy
được.
Từ
nay cho phép Tỳ-kheo
nào đủ 10 hạ, có trí tuệ
mới trao truyền
giới Cụ
túc cho người,
cho người y chỉ. Cần
thi hành pháp Hòa thươïng,
A-xà-lê như
sau:
Nếu
chúng Tăng vì
người
đệ tử
mình tác Yết-ma,
tác ha trách, tác tẫn,
tác y chỉ, tác
Yết-ma không cho
đến nhà bạch
y, tác bất kiến tội
cử, bất sám hối
cử, bất xả
ác kiến cử
thì Hòa thượng
như pháp liệu
lý, hoặc giả
bằng cách nào
để cho chúng Tăng
đừng tác pháp Yết-ma
cho đệ tử.
Trường hợp
chúng Tăng tác pháp, bằng
cách làm sao khiến
cho hợp pháp và
như pháp mà liệu
lý, dạy bảo
đệ tử mình thuận
tùng đối với
Tăng, không
trái nghịch, cầu
mong trừ tội
lỗi
để Tăng
sớm giải
pháp Yết-ma.
Nếu
đệ tử
phạm Tăng
tàn, Hòa thượng
nên như pháp liệu
lý, hoặc nên áp
dụng Ba-lợi-bà-sa, hoặc
nên áp dụng Bổn
nhật trị,
hoặc nên áp dụng
Ma-na-đỏa, hoặc
nên xuất tội
đều tùy theo
đó mà áp dụng.
Lại
nữa, nếu
đệ tử
lâm bệnh, Hòa
thượng nên chăm
sóc hoặc sai bảo
người chăm
sóc, cho đến
lành bệnh hay mạng chung.
Nếu
đệ tử
không vui ở chỗ
này tu hành, thì hoặc
tự
đưa
đi chỗ
khác, hoặc bảo
người khác
đưa
đi.
Nếu
đệ tử
có chỗ nghi ngờ
nên dùng pháp, dùng luật,
như lời
Phật dạy,
như pháp giải
trừ.
Bộ Yết-ma
ngài Ðàm-đế soạn
tập
nói rõ:
-
PHÁP: Chỉ
có 5 món viễn
ly hành:
1) Xuất ly phi
thế pháp.
2) Việc
độ phi thọ
pháp.
3) Vô dục phi hữu
dục.
4) Vô kết phi hữu
kết.
5) Bất thân cận
sanh tử phi
thân cận.
-
LUẬT:
Tức là 5 món xuất
yếu hành:
1) Thiểu dục phi đa dục.
2) Tri túc phi vô yểm.
3) Dị hộ phi nan hộ.
4) Dị dưỡng phi nan dưỡng.
5) Trí tuệ phi ngu si.
-
PHẬT
SỞ
GIÁO: Tưùc
là 5 món giáo giới
hành:
1) Hữu tội giả chế.
2) Vô tội giả thính.
3) Nhược chế, nhược thính, pháp hữu giảm khuyết giả như pháp cử chi.
4) Số số vi phạm chiết phục dữ niệm.
5) Chơn thật công đức, ái niệm xưng tán.
(Tạm
dịch:
Pháp là những
gì hướng dẫn
chúng ta ra khỏi
đời
đau khổ,
vượt lên trên vấn
đề chấp thọ,
không ái dục,
không bị buộc
ràng.
Luật
là phương pháp
để ra khỏi
luân hồi: phải
thiểu dục,
tri túc, yểm
ly, phòng hộ,
phương tiện
sống hết
sức
đơn giản
và dễ dàng, cần
có trí tuệ
để tuyển trạch.
Những
điều
Phật dạy:
Việc sai quấy
thì cấm, việc
có ích không tổn
hại thì cho
làm. Cấm làm mà
làm thì phạm,
cho làm mà không làm là phạm,
‘chỉ mà tác là phạm,
tác mà chỉ là
phạm’. Kẻ phạm
thường xuyên phải
bắt buộc
nhiếp niệm. Công
đức thật
sự thì khen ngợi).
Trường
hợp
đệ tử
mình sanh ác kiến,
phải dạy
bảo họ bỏ
ác kiến, trụ
nơi thiệân
kiến, phải dùng pháp và y thực
nhiếp hộ
họ, dạy
họ tăng
giới, tăng
tâm, tăng huệ.
Dạy họ học
hỏi tụng kinh. Phải
giải quyết
vấn
đề y thực,
ngoạ cụ,
y dược cho họ
theo khả năng
của mình.
Có
5 phương pháp
để khiển
trách đệ tử:
1)
Bảo họ
đi
đi (đi
đâu thì
đi).
2)
Ông đừng vào
phòng tôi.
3)
Ông đừng hầu
hạ tôi nữa.
4)
Ông đừng
đến chỗ
tôi.
5)
Tôi không nói với
ông nữa
đâu.
(Nếu
là bậc A-xà-lê
thì điều
4 đổi lại
là: Ông đừng y chỉ
nơi tôi nữa).
Ðệ
tử có 5 việc nên quở
trách:
1) Không biết xấu.
2) Không biết hổ
thẹn.
3) Không thọ giáo.
4) Mất
oai nghi.
5) Không cung kính.
Laïi có 5 việc
cần quở trách:
1) Không biết xấu.
2) Không biết hổ
thẹn.
3) Nói không nghe tức
không nghe lời
dạy.
4) Ưa
làm bạn với
kẻ dữ.
5) Ưa
đến nhà dâm nữ.
Lại
ưa
đến nhà phụ
nữ, nhà con gái
chưa có chồng, nhà huỳnh
môn, tịnh xá Tỳ-kheo-ni,
tịnh xá Thức-xoa, Sa-di-ni,
ưa
đến những
chỗ mại
dâm. Những việc
như vậy
cần quở
trách.
-
Không nên quở
trách luôn luôn.
-
Không nên an cư
xong quở trách.
-
Khi bệnh không
nên quở trách.
-
Không nên quở
trách khi vắng
mặt.
-
Không nên không nói rõ tội
mà quở trách.
-
Quở trách rồi
không nên liền
nhận sự
cung cấp hay
sai khiến.
Không nên cho y chỉ.
-
Cho phép người
khác hướng dẫn
họ, vì hai thầy,
như pháp sám hối
để
đem lại sự
hòa hợp.
-
Không nên dẫn dụ
đệ tử
người khác về
nuôi.
-
Trường hợp
hai thầy của
họ phá giới
v.v... làm như
vậy với
ý nghĩ: Dẫn
đệ tử họ
đi
để
đem lại
pháp Sa-môn được
tăng ích, tức
là kỉnh giác
hai thầy của
họ... thì
được.
- Ðệ
tử sám hối
đúng pháp, thầy
nên chấp nhận.
- Ðệ
tử xin phép hai
thầy
đi xa, nên hỏi
đi có việc gì? Ai là bạn,
đến chỗ
nào? Có vấn
đề nào xét thấy
không tốt thì
nên ngăn ngừa
đừng cho
đi.
Phần thứ
tư
nói rằng:
Không được nuôi
hai Sa-di. Trường
hợp nếu
có khả năng
dạy dỗ,
giữ giới,
tăng tâm, tăng
huệ, tăng
học vấn,
phúng tụng thì
cho phép nuôi.
Luật Tăng
kỳ nói rằng:
Không được nghĩ
rằng nuôi Ðiệu
để nó phục vụ
cho mình. Nên nghĩ
rằng mình
độ họ
để họ nhờ
mình mà tu các thieän pháp,
đắc thành
đạo quả.
Không thể hàng
phục
được mình, mà
đòi hàng phục
người là
điều
không có được.
Không thể
điều
phục
được mình mà
đòi
điều phục
người; không thể
tự
độ mà
đòi
độ tha, mình chưa
giải thoát mà
muốn giải thoát cho người
khác. Tất cả
những việc
này đều không
có được.
Phải
thành tựu 10
pháp sau đây mới cho
độ người
xuất gia thọ Cụ
túc giới:
1)
Giữ giới.
2)
Học nhiều
Luận (thông suốt
luận).
3)
Học nhiều
Luật (thông suốt
luật).
4)
Học giới
điều.
5)
Học thiền
định.
6)
Học trí tuệ.
7)
Có thể xuất
tội, có khả
năng dạy người
xuất tội.
8)
Có khả năng
chăm sóc bệnh,
có khả năng
dạy người
chăm sóc bệnh.
9)
Ðệ tử
gặp khó khăn,
có khả năng
giải quyết
vấn
đề khó khăn
đó mau chóng,
và có khả năng
khiến người
giải thoát mau
chóng.
10)
Ðủ 10 hạ.
Vừa
đủ 10 hạ
mà biết 2 bộ
luật cũng
được
độ người. Nhận
cho người y chỉ
cũng vậy.
Không nên nuôi nhiều
Sa-di. Chỉ nên
nuôi nhiều lắm
là ba Sa-di mà thôi. Trường
hợp vị Tỳ-kheo
có đức lớn,
nhiều người
tôn trọng xin
tu, thì nên nói với
một vị
Tôn túc khác rằng:
“Tôi biết có người chỉ
muốn sống
gần bên thầy
để tập kinh pháp, hầu
tăng trưởng
đạo nghiệp”.
Rồi mới tự
mình dạy dỗ
họ.
Bộ Luật
nhiếp nói:
Ðủ
10 hạ,
ở vào vị
trí bậc thầy, nhưng
phải thành tựu
5 pháp:
1)
Biết có phạm
tội.
2)
Biết không phạm
tội.
3)
Biết phạm
nhẹ.
4)
Biết phạm
nặng.
5)
Ðối với
kinh Biệt giải
thoát phải
thấu hiểu
thâm nghĩa,
đối với các học
xứ nên hiểu
rõ duyên khởi
kiết giới,
tùy khai như thế
nào? Nếu gặp
nạn duyên khác
biết vận
dụng. Thường
tụng Giới
bổn, có thể
giải quyết
lòng nghi của
người khác. Hiểu
nhiều về
giới luật;
mình, người
đều
được lợi.
Oai nghi, hành pháp không hề
trái phạm. Ðầy
đủ
đức
độ như
vậy, gọi
là Thân giáo sư,
chỉ nhờ
vị Thân giáo sư
mới có khả
năng dạy pháp xuất
ly. Tuy là Tỳ-kheo,
nhưng
đối với
các học xứ
không biết giới
nào trọng, giới
nào khinh, thì dầu
60 tuổi hạ,
vẫn phải
y chỉ nơi
vị minh
đức mà sống. Nếu
vị minh
đức
đó còn nhỏ,
chỉ trừ
lễ bái, còn bao
nhiêu việc khác
đều phải
phục dịch,
trường hợp
này gọi là Lão
thiểu Tỳ-kheo
không được
cho người khác
xuất gia, và thọ
giới Cụ
túc vậy.
Thà
là làm tên đồ tể
tạo nghiệp
sát hại, chứ
đừng cho người
xuất gia thọ Tỳ-kheo
rồi buông trôi
không dạy dỗ,
khiến Chánh
pháp của Ta sớm hoại
diệt.
Trường
hợp
đáng quở
trách lại không
quở trách, không
đáng quở
trách lại quở trách. Trường
hợp nên tha thứ
lại không tha
thứ, không nên
tha thứ lại tha thứ
đều mắc tội
ác.
Nếu
người
đã thọ
giới cận
viên (Tỳ-kheo)
không hành pháp cung kính, không nghe lời
dạy dỗ, nên cho họ
sáu vật (ba y,
bát, ngọa cụ,
đãy lọc nước)
rồi
đuổi,
bảo họ
đi chỗ
khác. Nếu là cầu tịch
(Sa-di) cho họ
hai y (nội y và
y vai trái) cũng
đuổi,
bảo họ
đi
đâu thì
đi.
Trường
hợp cha mẹ có lòng tin,
đem
đứa con nhỏ
đến cho Bí-sô
thì Bí-sô nên nhận.
Sau đó, nếu
họ
đòi thì trả
lại cho họ.
Trường hợp họ
lấy tiền,
nhiều ít, tùy theo
đó mà
đưa cho họ,
không phạm. Ðứa
trẻ này
ở bên Bí-sô,
Bí-sô dùng mảnh
cà-sa quấn nơi
cổ nó, tùy thời
nuôi dạy nó. Sau khi nó lớn
khôn, cha mẹ nó
nghĩ việc
trả
ơn
đem phẩm
vật cúng dường, tùy ý nên nhận.
Luật Ngũ
phần nói rằng
:
Khi
độ người
nên hỏi: “Ông vì cái gì xin xuất gia?” Nếu
họ nói là: Vì cơm
áo, thì không nên độ.
Nếu họ
nói: Vì cầu
pháp lành, nhàm chán sanh, tử,
lão, bệnh,
ưu bi khổ
não, thì nên độ.
Bộ Căn
bản tạp
sự nói:
Muốn
cho người xuất gia, trước
phải sắm
sửa 6 vật,
ba y, phu cụ,
bát và đãy lọc
nước.
Bộ Ni-đà-na
nói:
Muốn
độ Sa-di cũng cho bình bát và bát nhỏ, chén
đầy
đủ, không
được thiếu thốn.
Kinh Tỳ-ni mẫu
nói rằng:
Truyền giao giới
Cụ túc rồi,
thời gian một năm,
dạy dỗ tất
cả những việc
làm của vị
Tỳ-kheo. Sau
đó, có người
cầu xin thọ
giới Cụ
túc thì nên trao truyền.
Chưa
đủ năm
thì không nên chấp
thuận trao truyền.
Sau khi ông Sa-di thọ
Ðại giới rồi
được nhận
độ một
Sa-di khác. Pháp y chỉ,
cũng sau một
năm lại
được nhận
người khác y chỉ.
Không được thọ
một lúc hai người
y chỉ.
Luật Thiện
kiến nói:
Danh từ Hòa thượng
theo đời Hán dịch
nghĩa là: Biết
có tội, biết
không có tội
thì gọi là Hòa
thượng.
Luận Tát-bà-đa
nói rằng:
Khi
truyền trao giới
pháp, trước
đó phải
thuyết pháp, hướng dẫn
tâm họ lãnh hội
rõ ràng, khiến
cho họ
đối với
tất cả
chúng sanh, khởi
tâm bi mẫn. Khi
họ
đã
được tâm tăng
thượng thì
được giới
tăng thượng.
(Việc
làm này ‘việc
khai đạo giới
tử’ nên thực
hiện trước
khi đăng
đàn, khéo léo
khai thị, chủ
yếu là cho họ
lãnh hội rõ
ràng. Ðâu được
phép sau khi chư
Tăng ‘Thập
sư’ tập
hợp, sắp
tác pháp Yết-ma,
khi đó mới
đem ra tuyên
đọc dài dòng văn
tự? Ðại chúng ngồi
lâu thì mỏi mệt,
giới tử mọp
lạy thì mờ
mịt không hiểu
gì, trở thành
vô nghĩa).
Bộ Nam hải
ký qui nói:
Người
cư sĩ
đến chỗ
ở của
Bí-sô, chuyên tụng
kinh Phật, cạo bỏ
râu tóc, mặc áo
nâu sồng, gọi là
đồng tử.
Hoặc tìm cầu ngoại
điển, không có tâm xuất
ly, gọi là học
sinh. Hai hạng
người này
đều phải
tự túc, nếu thọ
dụng của
thường trụ,
Thánh giáo hoàn toàn cấm
ngăn. Nếu có công lao với
chúng Tăng thì
theo công lao có thể
thọ dụng
vậy. Hoặc
bữa cơm
thường hay là
thí chủ có tâm
dự
định trước
thì thọ dụng
không can gì. Chùa Tăng
bên Tây quốc,
phần nhiều học
sinh đến chư
Tăng học
tập ngoại
điển; một
là để chư
Tăng sai bảo
lặt vặt,
hai là dạy họ
phát khởi lòng tốt,
có lợi mình, lợi
người thì nuôi dưỡng
không sao. Một
bát cơm khất thực,
theo lý thì chẳng
nhọc nhằn, nếu
họ có phục
vụ chút ít thì
cũng là
điều
cần thiết.
Bảo họ
đưa một cây tăm
xỉa răng mà cho họ
ăn uống, trong lúc
đúng thời,
thì không làm hại
đến
đạo từ bi vậy.
Kinh Bồ-tát thiện
giới nói rằng:
Từ
những kẻ
Chiên-đà-la cho
đến hạng
đồ tể,
tuy làm nghiệp
ác, nhưng không
phá hoại Chánh
pháp Như Lai,
thì không hẳn sẽ
đọa vào trong
đường ác. Nhưng
làm thầy mà không thể
dạy bảo la rầy
đệ tử, thì
đó là phá pháp
của Phật,
chắc chắn
đọa vào
địa ngục.
Kinh Ưu-bà-tắc
giới nói rằng:
Thà
thọ ác giới,
trong một ngày mà
đoạn
vô lượng mạng
căn, chứ
nhất quyết
không nuôi dưỡng
đệ tử
tệ ác, không thể
điều
phục. Vì sao vậy?
Bởi ác luật
nghi chỉ
đem lại
sự tác hại
cho thân mình thôi, còn nuôi
đệ tử
tệ ác, không thể
dạy dỗ thì làm cho vô lượng
chúng sanh tạo
ác. Chúng có thể
hủy báng vô lượng
pháp tốt
đẹp huyền diệu,
và phá hòa hợp
Tăng, khiến cho nhiều
chúng sanh tác ngũ
vô gián tội.
Cho nên tai hại
hơn ác luật
nghi là vậy.
III.
PHÁP
ÐỆ TỬ THỜ THẦY
Phần
thứ ba
(luật Tứ
phần)
nói rằng:
Hòa
thượng: Là vị
thầy từ
nơi ngài mà chúng ta nhận
được giới.
Ðồng
đẳng Hòa thượng: Là những
vị thầy, phần
lớn
đã
đủ 10 tuổi
hạ.
A-xà-lê có 5 hạng:
1)
Xuất gia
A-xà-lê, là vị
thầy chúng ta nương
vào để
được xuất
gia.
2)
Thọ giới
(Yết-ma)
A-xà-lê, là vị
thầy tác pháp Yết-ma. khi thọ giới.
3)
Giáo thọ
A-xà-lê, là vị
thầy dạy
dỗ oai nghi giới
hạnh.
4) Thọ kinh
A-xà-lê, là vị
Thầy từ
nơi ngài ta học
kinh, thuyết
nghĩa.
5) Y chỉ
A-xà-lê, là vị
thầy từ
nơi ngài chúng
ta nương vào
để sống
đời
đạo hạnh, cho
đến một
đêm.
Những vị
A-xà-lê như vậy
phần nhiều
đã trên 5 tuổi
hạ.
Phần thứ
hai
thuyết
minh:
Trường
hợp Tăng
vì thầy mình
tác pháp Yết-ma...
đệ tử
nên như pháp liệu
lý, khiến cho Thầy
thuận tùng
đối với Tăng,
mong cầu trừ
hết tội,
mau giải pháp Yết-ma.
Trường
hợp thầy phạm
Tăng tàn, hoặc
bệnh, hoặc
không muốn
ở nơi
trú xứ này, hoặc có việc
nghi ngờ, tất
cả
đều như
trong pháp làmtThầy
đã nói. Trường
hợp Thầy sanh ác kiến,
nên khuyên từ bỏ.
Nên dùng hai việc
(pháp và thực)
để nhiếp
hộ, cũng
như trong pháp
làm thầy
đã nói.
Ðệ
tử không thưa
với thầy,
không được vào
xóm, không được
vào nhà người
khác, không được
theo các Tỳ-kheo
khác, hoặc làm
bạn với
các Tỳ-kheo
khác, không được
cho, không được
nhận, không
được giúp
đỡ các việc,
không được nhận
sự giúp
đỡ mọi
việc của
người khác. Không
được cùng người
khác cạo tóc,
không được nhờ người
khác cạo tóc.
Không được vào
trong nhà tắm,
không được lau chùi xoa thân cho người, không
được nhận
sự lau chùi xoa
thân của người khác. Không
được ban ngày
đến nơi
phòng khác của
trú xứ, không
được
đến nơi gò mả,
không được ra
ngoài cương giới, không
được
đi phương khác.
Mỗi
sáng sớm nên
vào phòng thầy
thưa hỏi
nghĩa kinh,
đổ bỏ
đồ tiểu tiện.
Ðến giờ
rửa tay phải
thưa thầy và
đưa bột
đậu, tro...
để thầy
rửa. Nếu có khẩu
phần của
thầy nên nhận.
Tăng có lợi
dưỡng gì về
phần thầy, nên nhận.
Nên
thưa thầy:
- Cần vào thôn (khất
thực) không? Nếu
thầy nói: - Không cần.
Nên thưa thầy:
- Nhận
đồ
ăn
ở
đâu? Nếu
thầy cho biết nhận
chỗ nào thì
đến nơi
đó nhận.
Nếu
thầy cần
vào thôn, nên rửa
tay sạch lấy y An-đà-hội,
giây lưng, Tăng-kỳ-chi,
y Uất-đa-la-tăng,
từ trên sào tre giũ
sạch, trao cho
thầy, nên vắt Tăng-già-lê
nơi vai. Kế
đến lấy
bình bát, lấy
đãy
đựng bát, lấy
áo choàng (phú kiên) trao cho thầy.
Lại lấy
vật rửa chân, áo lông dùng
để nằm,
trao cho thầy.
Khi thầy xuất
hành nên xách guốc
dép đi
đường
đến cho thầy.
Khi ra khỏi
phòng phải ngó lại
xem cửa
đóng chưa, nên vặn
thử, có chắc
không. Nếu không chắc
phải
đóng lại,
nên cất chìa
khóa nơi kín
đáo.
Khi
đi,
thầy
đi
trước. Trên
đường
gặp người
quen, nên khéo nói, khéo nhiếp
niệm. Khi
đi
nên tránh đường
người
đi, nếu muốn
vào thôn, nên đứng
bên đường
để bát xuống
một bên, lấy
Tăng-già-lê
trao cho thầy.
Nếu ngoài thôn
có quán khách, quán bán, nơi
chế tạo
sản xuất...
nên cầm guốc
dép đi
đường gởi vào trong
đó. Nên thưa
thầy: - Con
được phép cùng
đi với
thầy không? Nếu thầy
nói: - Ðược.
Mình nên đi
theo. Nếu Thầy
nói: - Không cần
đi theo...
đợi nơi
nào... thì đợi
nơi chỗ thầy
chỉ
định. Khi ra khỏi
thôn nên lấy lại
guốc dép,
để bát nơi
bên đường nhận lại
Tăng-già-lê, vắt
nơi vai. Khi
đến chỗ
thầy dùng cơm,
nên quét sạch nơi
đó, trải
tọa cụ,
sửa soạn
bình tịnh thủy,
đồ
để tắm,
đồ
đựng vật
thực. Lại
an trí ghế ngồi
tắm,
đá rửa
chân, khăn lau
chân... Nếu thấy thầy
đến liền
đứng dậy
nghinh đón, rước bình bát nơi
tay thầy
để chỗ cẩn
thận, xếp
Tăng-già-lê,
đừng
để dơ
nhớp, nếu
có dơ nhớp
phải giặt
tẩy. Thầy
rửa chân rồi, phải
đổ bỏ nước
dơ nơi chậu,
đem
đá rửa
chân, lấy khăn
lau chân để lại
chỗ cũ. Kế
đó mình rửa
tay cho sạch rồi trao nước
sạch cho thầy
rửa tay. Mình
có thức
ăn gì
đem dâng lên thầy.
Thưa rằng:
- Ðây là thức
ăn phần
của con, mời thầy
dùng. Thầy cần
gì nên đáp
ứng. Thầy
dùng cơm nên
đứng hầu,
cung cấp những
gì thầy cần.
Nếu giờ
ngọ gần
qua, nên cùng thầy
dùng một lượt.
Thầy dùng xong
nên rước bát nơi tay thầy,
dâng nước súc
miệng cho thầy, mình
ăn xong,
đồ
ăn còn dư nên cho người
hay cho phi nhơn,
hoặc
đổ trên
đất chỗ
không có cỏ, hoặc
đổ trong nước,
chỗ không có
trùng. Rửa sạch
những
đồ
đựng thức
ăn,
để lại
chỗ cũ,
xếp tọa cụ,
dẹp
đồ rửa
chân, bình nước
sạch, bình súc
miệng
để lại
chỗ cũ,
quét sạch
đất chỗ vừa
ăn. Kế
đó vào phòng thầy,
nếu thấy dơ
thì quét, giường
dây, đồ trải
đất,
để y lại
chỗ cũ.
Sau khi lau quét xong,
đất bụi
quét phòng thầy...
khi đổ, cần
để ý xem nếu
có kim, chỉ,
dao nhỏ, cho
đến một,
hai viên thuốc
cũng lượm
để chỗ
dễ trông thấy,
cho người chủ
của vật
ấy thấy,
nhận lại.
Lại phải
nhìn lên trên cái giá y, cái móc áo, hay là nơi
phòng có chỗ
nào hư hoại
hang ổ,
ổ chuột, chỗ
nào cần trét
thì trét, chỗ
nào cần nện
thì nện, chỗ
nào cần làm cho bằng
thì làm cho bằng,
làm thế nào cho
hết sức
sạch sẽ.
Nếu cái ghế
ngồi không tề chỉnh,
phải sửa
lại cho tề
chỉnh, nếu vốn
đã tề chỉnh
thì nên như cũ
mà sắp xếp
vật nào chỗ
ấy
đâu
đó
đàng hoàng. Trước
sân đất bụi liền
nên quét dọn.
Bình nước rửa hết
rồi nên múc
bình nước sạch khác
để lại
chỗ cũ.
Nước uống,
nước nhà tắm
đều như
vậy. Thầy
cần tắm
nên đến nhà tắm
xem coi, cần
lau thì lau, cần
quét thì quét, cần
thay nước thì thay, cần
chẻ củi thì chẻ,
cần nấu nước
tắm thì nấu.
Những gì cần
khi tắm nên sửa
soạn
đầy
đủ. Nên thưa
thầy trước
khi nấu nước,
nấu xong nên thưa
để thầy biết.
Nếu thầy
ốm yếu,
cần
đỡ vào nhà tắm
thì đỡ. Thầy cần
xoa, kỳ, chà lưng,
thì xoa kỳ, chà
lưng, nhưng
phải
đứng sau lưng
thầy. Nếu
cần nhờ
người chà lưng hay chà lưng
cho người khác,
cần phải thưa
với thầy.
Thầy tắm
xong mình rửa sạch
sẽ. Nếu
thầy
ốm yếu
vì già cần dìu
ra khỏi nhà tắm, về
lại phòng xong,
mình nên trở lại
nhà tắm, xem khắp
mọi chỗ,
cái gì cần xếp
lại chỗ
cũ thì xếp.
Mỗi ngày nên ba
lần, mai, trưa, chiều
đến thăm
hỏi thầy.
Nên vì thầy phục vụ
hai việc nhọc
cho thầy. Không neân từ
chối. Hai việc
đó là: Sửa
chữa phòng
ốc và giặt
vá y áo.
Những gì thầy
dạy như pháp
đều phải
phụng hành
không được từ chối
những
điều
sai bảo, nếu
có. Khi bị la rầy, quở
trách rồi nên
đến thầy xin sám hối.
Phương thức
sám hối: mặc y trống
vai bên hữu,
không mang guốc,
quỳ gối,
chắp tay thưa
rằng:
- Thưa thầy!
Nay con xin sám hối,
con không dám tái phạm.
Trường hợp
thầy cho sám hối
thì tốt; nếu
không cho sám hối,
cần phải nhỏ
nhẹ, tùy thuận
khéo léo tìm cách trình bày vấn
đề phạm
tội.
Có 5 việc phi
pháp của thầy,
đệ tử
nên sám hối mà
đi.
Nên trình bày 5 việc
ấy với
thầy là:
1) Con sống như
pháp, thầy
không biết.
2) Con sống
không như pháp,
thầy cũng
không biết.
3) Con phạm tội,
thầy không quở trách dạy
dỗ.
4) Con phạm tội,
thầy cũng
không biết.
5) Con phạm tội
mà sám hối, thầy cũng
không biết.
Bộ Căn
bản tạp sự
thuyết
minh:
Có
người nương
tựa nơi
thầy, xuất
gia trong giáo pháp của
Phật, cạo
bỏ râu tóc, mặc
áo pháp của Phật, tâm hồn
trong trắng
đầy
đủ lòng tin, gọi
là xuất gia như pháp. Người
ấy
đối với
thầy, cho
đến trọn
đời tứ
sự cúng dường,
cũng chưa
có thể trả
ơn hết
được.
Bộ Luật
nhiếp nói rằng:
Trường
hợp cha mẹ và hai thầy
(Hòa thượng,
A-xà-lê), bốn hạng
người này có
phá giới, vẫn nên cúng dường,
không nên khinh mạn.
Luật Thiện
kiến thuyết minh:
Người
có trí tuệ, khi
đến nơi
vị Túc
đức (đức cao vọng
trọng), cần
tránh sáu pháp không nên phạm,
sau đó mới
ngồi:
1)
Quá cách xa.
2)
Quá áp gần.
3)
Trên đầu gió.
4)
Chỗ cao hơn.
5)
Sát trước mặt.
6)
Ở sau lưng.
Trường
hợp
đệ tử
đi theo hầu
thầy, giữa
đường gặp
thuyết pháp, vì
ham nghe pháp suốt
đêm,
đến tướng ban ngày hôm sau xuất hiện,
thì không phạm
tội lìa thầy. Vì không quyết
tâm xa lìa thầy
vậy.
GIẢI THÍCH:
Hỏi:
Trong 5 hạng
A-xà-lê, 4 hạng
quyết
định là bậc
Thượng tọa, chỉ
có hạng dạy
bảo
đọc tụng, hoặc
có thể là bậc
Hạ tọa.
Như vậy
vấn
đề hầu
hạ, cung phụng
nên như thế
nào?
Ðáp: Chỉ
trừ vấn
đề lễ
bái, còn tất cả
đều như
pháp phụng sự thầy.
Hỏi:
Tỳ-kheo
ăn dư, nên cho người
hay phi nhơn,
hoặc
đổ nơi
đất sạch, cho các chim chóc, hoặc là
đổ trong nước
thí cho loài cá trạch.
Nay tại sao nói
nên đổ trong nước không có trùng?
Ðáp: Trong luật
Tăng kỳ
nói: “Trùng không phải
là loài cá trạch
mà là một loại
ở dưới
nước rất là nhỏ.
Vì loài ấy quá
nhỏ nên sợ
trong đồ
ăn có chất muối
và nhơ bẩn,
khiến cho tổn
đến sinh mạng
của chúng nó.”
IV.
PHÁP THƯỢNG TỌA
Luận Tỳ-bà-sa
thuyết
minh:
Có
3 hạng Thượng
tọa:
1)
Sanh niên Thượng
tọa, giới
lạp tối
cao.
2)
Thế tục
Thượng tọa,
bậc
đại phước
đại huệ,
tuy tuổi chỉ
20, nên cùng nhau suy tôn lên bậc
Thượng tọa.
3)
Pháp tánh Thượng
tọa, tức
bậc A-la-hán.
Âm
tiếng Phạn
gọi là Tất-thế-na,
Hoa dịch là Thượng
tọa, cũng
gọi là Thượng
sĩ. Còn hạng
người không tự
lợi mà cũng
không lợi tha gọi
là Hạ sĩ.
Chỉ có tự
lợi gọi là Trung sĩ.
Cả hai
đều lợi gọi
là Thượng sĩ.
GIẢI THÍCH:
Hỏi:
Kẻ Tỳ-kheo
mới học,
dầu thông kinh,
luận, chưa thuộc
luật pháp, cần
phải y chỉ
5 hạ. Dầu
là
bậc
đại phước,
đại huệ,
tại sao suy tôn
lên bậc Thượng
tọa, mà không y
chỉ 5 hạ
ư?
Ðáp: Suy tôn lên bậc
Thượng tọa
trong vấn
đề giảng kinh, giảng
luận, mở
mang phước nghiệp,
chứ
chẳng phải
lìa y chỉ.
Kinh Tỳ-ni mẫu
thuyết
minh:
Từ
không hạ
đến 9 hạ
gọi là Hạ tọa.
Từ 10
đến 19 hạ gọi
là Trung tọa. Từ
20 đến 49 hạ
gọi là Thượng
tọa. Từ
50 trở lên gọi
là kỳ cựu
Trưởng túc.
Phần
thứ tư
(luật
Tứ phần)
nói:
Phật
dạy các Thầy Tỳ-kheo:
Trường hợp
có những vị
Thượng tọa
đã không học
giới, cũng không khen ngợi
giới, mà có các
Tỳ-kheo vui học
giới,
ưa khen ngợi
giới, cũng không lúc nào Thượng
tọa
đó khuyên lơn
khen ngợi các Tỳ-kheo
ấy. Hạng
Thượng tọa
như vậy
không nên gần gũi,
không nên học
theo nếp sống
của Thượng
tọa
đó. Nếu
học theo nếp
sống như
vậy thì thọ
khổ nhiều
đời.
Luật Thập
tụng thuyết
minh:
Có
5 pháp làm cho Chánh pháp diệt
vong, mai một:
1) Không ưa
thích cảnh niết-bàn
(Vô dục).
2) Ðộn căn.
3) Ðọc tụng
mà không lãnh thọ
một cách chơn
chánh, cũng
không khiến người khác hiểu
rõ.
4) Không có khả
năng khiến
cho người lãnh
thọ không có oai nghi cung kính, không có thuyết
pháp, không có khả
năng dạy
dỗ như
pháp.
5) Ðấu tranh với
nhau, không ở nơi
A-lan-nhã,
cũng không ái
kính người
ở A-lan-nhã.
Trái với 5 pháp
trên thì Chánh pháp không diệt
vong, không mai một.
Lại
có 5 pháp làm cho Chánh pháp diệt
vong, mai một:
1)
Không dạy theo
Chánh pháp mà dạy
theo
phi pháp.
2)
Không theo pháp nhẫn
mà theo pháp không
nhẫn.
3)
Không cung kính Thượng
tọa, không có
oai nghi.
4)
Thượng tọa không dùng Chánh pháp dạy dỗ.
5)
Khi Thượng tọa nói pháp thì sầu
não, làm cho
hậu sanh không
được thọ học
Tam tạng. Sau
khi mạng chung
Tỳ-kheo phóng dật,
học tập phi pháp, mất
các pháp lành.
Trái với 5 pháp
trên thì Chánh pháp không diệt
vong, không mai một.
Lại
có 7 pháp làm cho Chánh pháp diệt
vong, mai một:
1)
Không chánh tín.
2)
Lười biếng.
3)
Không biết xấu.
4)
Không biết hổ
thẹn.
5)
Dễ quên.
6)
Không định.
7)
Ít trí tuệ.
Thời
kỳ Chánh pháp
diệt rồi,
thời kỳ
Tượng pháp xuất
hiện 5 phi
pháp:
1)
Có hạng Tỳ-kheo,
tâm hồn có
được một
chút định, bèn
nói rằng mình
được Thánh pháp.
2)
Hàng cư sĩ thì
được sanh lên
cõi trời, còn
hàng xuất gia lại
đọa vào trong
đường dữ.
3)
Có người từ
bỏ
đời sống thế
tục
để xuất
gia mà
lại phá giới.
4)
Có trường hợp
người phá giới
lại có nhiều
người
ủng hộ,
kẻ trì giới
lại không ai
giúp đỡ.
5)
Người tu hành bị
mạ nhục,
cho đến bậc A-la-
hán cũng bị
mạ nhục.
Phật
bảo ngài
Ưu-ba-ly: Sau này có 5 việc
đáng sợ,
nhưng hiện tại
thì chưa xảy
ra, ông nên biết
để tìm cách
tiêu diệt:
1) Có hàng Tỳ-kheo
không tu thân, không tu giới
không tu tâm, không tu trí, mà
độ người
xuất gia thọ giới.
Họ không có khả
năng dạy
chúng tu thân, giới,
tâm, trí. Ðó là hạng
người
đáng sợ
thứ nhất.
2) và 3) Có hàng Tỳ-kheo không tu thân, giới, tâm, trí mà cho người
khác y chỉ. Họ
nuôi Sa-di không có khả
năng dạy
chúng tu thân, giới,
tâm, trí. Ðó là hạng
người
đáng sợ
thứ hai, thứ
ba.
4) Có hàng Tỳ-kheo
không tu thân, giới,
tâm, trí mà cho người
tịnh nhơn, Sa-di, cùng
ở gần,
không biết ba tướng: Cuốc
đất,
đốn cây, dùng nước
có trùng để tưới
rửa. Ðó là hạng
người
đáng sợ thứ
tư.
5) Có hàng Tỳ-kheo
không tu thân, giới,
tâm, trí cùng nhau tụng
Tu-đa-la, Tỳ-ni, A-tỳ-đàm,
đem trước
sau vô giữa,
đem giữa làm trước
sau, trước mắt
không thấy
được bạch
pháp, phạm hay
là không phạm.
Ðó là hạng người
đáng sợ
thứ năm.
Lại có 5 việc
đáng sợ, hiện
tại chưa
có, đời sau mới
có, nên biết
để khéo léo tìm
cách tiêu diệt:
1) Tỳ-kheo
đời tương lai không tu thân, giới, tâm, trí, không
ưa thích cảnh
niết-bàn (vô dục),
căn
độn, tuy tụng
cú nghĩa mà
không lãnh thọ
một cách chơn
chánh. Ðó là điều
thứ nhất
đáng sợ.
2) Có hạng Tỳ-kheo
không tu thân, giới,
tâm, trí, cho Ni cùng
ở gần,
hoặc phạm
việc “tày trời”,
xả giới hoàn tục.
Ðó là điều
đáng sợ
thứ hai.
3) Có hạng Tỳ-kheo
không tu thân, giới,
tâm, trí những
gì đức Như
Lai dạy, như
Tu-đa-la thậm
thâm, Không, Vô tướng,
Vô nguyện, 12
nhân duyên, các pháp thâm yếu,
không khả năng
tin ưa thọ
trì, dù có thọ
trì nhưng không có khả
năng thông lợi.
Khi cần nói hay dạy
dỗ thì không có
tâm lân mẫn,
không có tâm ái lạc,
ưa sáng tác văn
tụng, làm
đẹp chương
cú, ưa pháp thế
tục, muốn
cái muốn của
đời, khi nói
pháp thế tục,
có lòng tin ưa,
có lòng thích muốn.
Cho nên những
pháp đức Như
Lai đã nói ra
như Tu-đa-la thậm
thâm, Không, Vô tướng,
Vô nguyện, 12
nhân duyên, các pháp thâm yếu,
đều bị tiêu diệt.
Ðó là điều
đáng sợ
thứ ba.
4
và 5) Có hàng Tỳ-kheo
không tu thân, giới,
tâm, trí, vì vấn
đề
ăn mặc
bỏ chốn
A-lan-nhã, bỏ
đời sống dưới
gốc cây trong rừng
vào xóm làng. Vì vấn
đề
ăn mặc, mà tìm cầu
khắp nơi,
khi đã tìm cầu
thì nhiễu loạn.
Ðó là hạng
đáng sợ
thứ tư
và thứ năm.
(Pháp
môn đáng sợ
này là trách nhiệm
của người
lớn tuổi,
nên ghi chép ra đây
để nhắc
nhở cảnh
giác vậy).
V.
PHÁP ÐỒNG HỌC
Phần thứ
tư
thuyết
minh:
Tỳ-kheo
có 5 pháp, không nên kết
làm bạn thân.
1)
Người
ưa
đấu tranh.
2)
Người
ưa tác nghiệp.
3)
Ưa cãi lộn cho hơn
người.
4)
Ưa ngao du
đây
đó.
5)
Không vì người
nói pháp, không dạy
điều
hay
lẽ
phải.
Lại
có 5 pháp không nên làm bạn
cùng đi:
1)
Ưa
đi trước
quá xa.
2)
Ưa
đi sau quá xa.
3)
Ưa nhại theo lời
nói của
đoán nhơn.
4)
Không phân biệt
lời lành lời
dữ, không khen
lời
lành, lại khen
lời dữ.
5)
Ðược lợi dưỡng
như pháp, không
vì người kia thọ
đúng thời.
Bộ Căn
bản tạp
sự nói:
Ngài A-nan bạch
Phật: - Người
Thiện tri thức
chỉ có nửa
phạm hạnh
phải không? Phật
dạy ngài A-nan:
- Bậc Thiện
tri thức là toàn phạm
hạnh chưù
không phải nửa
phạm hạnh.
Luật Tăng
kỳ thuyết minh:
Tỳ-kheo
có 10 việc làm
cho người không
ưa thích:
1)
Không cùng nhau gần
gũi.
2)
Coi nhẹ việc
gần gũi.
3)
Vì lợi mà gần gũi.
4)
Người
đáng
ưa lại không
ưa.
5)
Người không
đáng
ưa lại
ưa.
6)
Nói thật lại
không ưa tin.
7)
Ưa dự
vào việc người.
8)
Thật không oai
đức, lại muốn
thụ hưởng.
9)
Ưa giấu việc
riêng.
10)
Nhiều ham
muốn.
Vị Tỳ-kheo
ở nơi
A-lan-nhã không nên khinh vị
Tỳ-kheo
ở nơi
tụ lạc, nói: “Ngài
ở
đây nếm
đủ mùi vị,
đâu thiếu thứ
gì” Mà nên khen rằng:
“Ngài ở tụ
lạc
để thuyết
pháp giáo hóa, bảo
vệ Chánh pháp,
thay thế cho
chúng tôi”.
Vị
Tỳ-kheo
ở nơi
tụ lạc không nên khinh chê vị Tỳ-kheo
ở nơi A-lan-nhã, nói: “Ngài
ở nơi
A-lan-nhã này, hy vọng
danh lợi, các
loài cầm thú cũng
ở nơi
A-lan-nhã này. Ngài chỉ
sống cho qua
ngày đoạn
tháng mà thôi!” Mà nên khen rằng:
“Ngài tránh xa tụ
lạc, nhàn tịnh
tư duy, tôn
sùng thượng
nghiệp. Ðây là việc
khó làm. Ngài ở
nơi
đây
để chấm dứt
vọng tâm. Không
có tranh luận
cùng nhau giành phần
hơn”.
VI.
PHÁP LỄ KÍNH
Luật Nhiếp
thuyết
minh:
Có
4 hạng người
nên lễ:
1)
Ðức Như Lai, tất
cả người, trời,
đều nên hết
lòng kính lễ.
2)
Người xuất gia không lễ
người thế
tục. Người
này đáng
được kính lễ.
3) Nên kính lễ vị
thọ cận
viên trước, trừ
cận
viên Ni.
4) Người chưa
thọ cận
viên nên lễ người
cận viên.
Có
10 hạng người
không nên lễ: 4
hạng người
hành biệt trụ
– Người thọ
học pháp – 3 hạng
người bị
xả trí (bị
gạt sang một
bên) – Các cư sĩ
– Người chưa
cận viên.
Nghi lễ kính có
2 cách khác nhau:
1) Năm vóc gieo
sát đất.
2) Ðầu mặt sát chân.
Miệng
nói: - Bạn-đệ
畔睇 (Bạn-đệ là danh từ
chí kính bên Tây Trúc, chưa
thấy phiên dịch.
Có thể là
“Bàn-na-mị” hoặc
là “Bàn-đàm”
nói sai ra là “Hòa nam”, dịch
là: Tôi lễ lạy).
Nếu
biết thân người khác có uế
trược mà lễ
kính, hoặc thân mình có uế
trược mà lễ
kính người
đều mắc
tội ác tác.
Có hai thứ uế
trược:
1) Ăn xong chưa
súc miệng.
2) Ðại tiểu tiện
xong chưa rửa
sạch.
Lễ bái nơi
chỗ tối,
không nên lễ
sát đất. Miệng nói: - Bạn-đệ.
Nghĩa là hết
lòng cung kính.
Phần thứ
tư (luật
Tứ phần)
thuyết minh:
Có
10 oai nghi của
Tỳ-kheo không
nên lễ: - Ðại tiện
– Tiểu tiện
– Chưa mặc
đồ – Ðang cạo
tóc – Khi nói pháp – Lúc xỉa
răng – Lúc súc
miệng – Lúc uống
– Lúc ăn cơm
– Lúc nhai trái cây.
Bộ Căn
bản tạp sự
nói:
Không nên mặc một
y mà lễ người,
cũng không nên
mặc một
y mà nhận người
lễ.
VII.
PHÁP
HIẾU KÍNH CHA MẸ
Luật Ngũ
phần thuyết
minh:
Ngài Tất-lăng-già-bà-ta,
cha mẹ bần
cùng, muốn lấy
tấm y
để cúng dường
cha mẹ mà không dám. Ngài
đem vấn
đề aáy bạch
với Phật.
Phật dạy:
-
Này các Tỳ-kheo!
Nếu có người
tròn 100 năm,
vai mặt cõng cha, vai trái cõng mẹ. Cha mẹ
cả
đại lẫn
tiểu tiện
luôn ở trên vai, dùng tất
cả món
ăn mặc
cao đẹp nhất
để cúng dường.
Hiếu
đễ như
thế cũng
vẫn không thể
trả
ơn cha mẹ
được, dù chỉ
nói đến công
ơn trong chốc
lát. Từ nay cho
phép các thầy Tỳ-kheo,
hết lòng suốt
đời cúng dường
cha mẹ. Nếu
không cúng dường
thì mắc tội
rất nặng.
Bộ Căn
bản ni-đà-na
nói rằng:
Cha
mẹ
đối với con, hay làm những
việc khó nhọc,
gánh vác việc
khổ. Giả
như xuất
gia, đối với
cha mẹ, nên phải
cung cấp. Chỉ
trừ y và bát,
còn bao nhiêu vật
khác có thể
cung phụng. Nếu
không có vật
khác, có thể
đến nhà thí chủ,
tùy theo đó mà
cầu xin. Nếu
trường hợp
xin mà khó được,
nên dùng những
vật thường
nhận lãnh
được nơi Tăng,
nên dùng phần
ăn mà Tăng chia cho mình, giảm
lấy phân nửa
để mà cứu
giúp cung phụng
cha mẹ. Hoặc
là phần
ăn do khất thực
mà được, truất
lấy một
nửa của
mình để mà cung
phụng cha mẹ.
VIII.
PHÁP
AN CƯ
Không nên suốt
năm
đi du hóa trong
nhân gian. Cho phép 3 tháng mùa hạ
phải an cư.
Thưa với
vị y chỉ
của ta, nơi
an cư như
sau:
- Trưởng
lão một
lòng nghĩ!
Tôi là Tỳ-kheo...
nương
nơi
tụ
lạc
tên là... hoặc
Già-lam tên là... hoặc
phòng nhà số... ba tháng trước mùa hạ
an cư.
Phòng xá nếu
có hư
xin
được
sửa
chữa.
(Thưa
như vậy 3 lần
thì thành lễ an
cư).
Pháp hậu an cư
cũng như
vậy, chỉ
đổi chữ
“trước” thành
chữ “sau” mà
thôi. Nếu không
có người Y chỉ thì tâm niệm
an cư. Vì vấn
đề an cư
mà đến, liền thành an cư.
Ðã
vào an cư rồi,
khách Tỳ-kheo
đến, không nên
dời chỗ,
cũng không nên
bỏ
đi.
Nếu
muốn an cư, trước
hết tự mình
đến, xem phòng
xá, ngọa cụ,
sau đó mới
thọ an cư.
Nên
Bạch nhị
yết-ma
để sai người
phân phối phòng xá, ngọa
cụ. Vị
được sai, nên
tính bao nhiêu Tỳ-kheo,
bao nhiêu phòng, bao nhiêu ngọa
cụ, cho
đến có bao
nhiêu vị có phước
đức nhiều,
ít v.v... đâu
đó xong. Ðến
trước bậc Thượng
tọa thưa:
“Thưa
Ðại
đức
Thượng
tọa,
hiện
có bao nhiêu phòng xá, bao nhiêu ngọa
cụ
như
vậy,
Thượng
tọa
cần
nhận
phòng nào, ngọa cụ
nào, xin tùy ý nhận.”
(Phân phối
Thượng tọa
xong, thứ
đến Trung tọa,
lần lượt
đến Hạ tọa).
Nhận
phòng rồi, tùy
theo khả năng
mà sửa chữa,
bài trí, trang hoàng.
Không nên phân chia bằng
cách tập trung
Tăng vào mộ chỗ.
Muốn
an cư chỗ
nào thì trước
tiên phải làm dấu, sau khi
đi phải
xóa mà đi.
Không nên dời
giường, nệm, ngọa
cụ của phòng này sang phòng khác. Nếu
cần, phải
báo cáo với vị
cựu trú Tỳ-kheo,
sau đó mới
dời. Trước
khi đi phải
hoàn lại chỗ
cũ. Nếu
phòng xá bị hư
hoại, nên dời
đến phòng khác,
sửa chữa
xong hoàn lại
như cũ.
Ðối với các chùa khác cũng
vậy. Nếu
có loại ngọa
cụ không cố
định, cho
đến gậy,
quạt... trong phòng nào không có thì phân phối.
Trường hợp
dư thì phân phối
lại từ
Thượng tọa
lần xuống.
An
cư có tiền
an cư, hậu
an cư. Dù tiền
hay hậu, cũng
phải
đủ 3 tháng mới
được. Hậu
an cư cũng
cho phép thọ Tự
tứ. Cho phép nhận
phẩm vật
cúng dường, cho
phép nhận ngọa cụ...
tín thí cúng trong mùa an cư.
Không nên chưa
đủ 3 tháng mà
tính một tuổi, phải
đợi
đủ 3 tháng mới
được.
Không được an cư
nơi
đất trống,
cho phép an cư
dưới gốc
cây. An cư
trong một căn
phòng nhỏ, an cư
trong hang núi, an cư
trong tàng bóng mát của
cây.
Trong khi an cư,
nếu có việc
cần như
pháp, cho phép xin đi
bảy ngày. Ðủ
bảy ngày phải trở
về. Trường
hợp bảy
ngày mà công việc
chưa xong thì
phải Bạch
nhị yết-ma, xin phép
đi quá bảy
ngày, hoặc nửa
tháng, hay một
tháng rồi về
lại.
Trường
hợp có mạng nạn,
phạm hạnh
nạn thì tránh
đi. Nếu
có trường hợp bị
phá Tăng thì
nên tránh đi. Nếu vì ngăn
chặn việc
phá Tăng thì nên
đi. Nếu
vì vấn
đề hòa hợp
Tăng của trú xứ
thì nên đi.
Thọ
pháp bảy ngày
ra khỏi giới, có nạn
lưu lại, không trở
về kịp, không mất
hạ.
Tiền
an cư
ở trú xứ
này, nghe trú xứ
kia được nhiều
lợi dưỡng, liền
đến trú xứ
kia thì không được
dựa vào trú xứ
trước mà tính
tuổi hạ,
trái với vấn
đề cơ
bản thì mắc
tội. Hoặc
không có việc
như pháp mà
đi, hoặc
thọ pháp bảy ngày ra ngoài giới
mà quá bảy ngày
trái với vấn
đề cơ bản
thì mắc tội.
Trong vòng bảy
ngày về kịp
thì vô tội. Cuối
hạ, thọ
pháp ra ngoài giới
bảy ngày, trở
lại, hay không
trở lại
thì không có tội.
Hậu an cư cũng
như vậy.
Nhận
sự mời
an cư của
người khác, có mạng
nạn, phạm
hạnh nạn,
nên đến nói cho
Ðàn-việt biết
để dời
đi. Ðàn-việt
đồng ý thì tốt,
nếu không
đồng ý cũng
đi.
Phần thứ
tư (luật
Tứ phần)
thuyết minh:
Nếu
an cư
ở trú xứ
này, nghe Tăng
ở trú xứ
kia được nhiều y vật,
bèn bỏ trú xứ
này đến trú xứ
kia, liền mất
pháp an cư nơi
trú xứ này.
Ở nơi
trú xứ kia một
thời gian ngắn
rồi trở
lại trú xứ
này, lại mất
pháp an cư nơi
trú xứ kia.
Luật Tăng
kỳ thuyết minh:
Nếu
trên đường hành
đạo, ngày an cư
đến mà chưa
đến trú xứ,
nên ở bên
đường, hoặc
nơi gốc cây, hoặc
nơi xe, nên thọ
an cư. Ðến
khi minh tướng
xuất hiện mới
đến trú xứ.
Ðến ngày hậu
an cư, mặc
áo trống vai,
quỳ gối,
chắp tay, thưa:
-
Trưởng lão
ức niệm, tôi Tỳ-kheo
tên... tại Tăng-già-lam
này, xin vũ an
cư 3 tháng sau (nói 3 lần).
(Tháng mùa Hạ cũng
gọi là thời
kỳ mưa, nên gọi
là vũ an cư
vậy).
Nếu
Tỳ-kheo hành
đạo, mà không
thọ tiền
an cư, thì mắc
tội Việt
tỳ-ni. Khi
đến trú xứ,
mà không thọ hậu
an cư mắc
hai tội Việt
tỳ-ni. Người
như vậy
là người phá an
cư, không
được nhận
y dâng cúng trong kỳ
an cư của
Tăng.
Mùa
Xuân và mùa Ðông, sau khi phân phối
phòng xá, có Thượng
tọa
đến, theo thứ
tự mà sắp xếp
lại
để
ở. Nhưng
sau khi đã vào
an cư, phân phối
phòng xá xong rồi,
có Thượng tọa
đến, không nên
thay đổi những
vị
đã phân phối,
có nghĩa là nếu cần,
vẫn không theo
thứ tự
mà sắp xếp.
Nếu khi an cư
mà đuổi người
khác ra khỏi
phòng là phạm tội
Việt tỳ-ni.
Không cho phép, không cùng nhau nói chuyện (cùng im lặng).
Muốn tạo
phương tiện
để bớt mất
thì giờ và nhiều
chuyện có thể
xảy ra thì
trong vòng nửa
tháng cho phép không nói chuyện
với nhau. Nhưng
đến ngày Bố-tát phải
nói chuyện với
nhau, trao đổi
lẫn nhau, cầu
nguyện chúc tụng
cho nhau. Qua ngày Bố-tát
rồi, trở
lại như
trước.
Luật Ngũ
phần nói:
Cho
phép an cư chỗ
vừa
đủ ngồi
kiết già và
đủ chỗ
để y bát mà mưa
không dột tới.
Không có việc
gì thì nên tiền
an cư. Có việc thì cho phép hậu
an cư.
Muốn
an cư, trước hết
phải tính toán,
nơi
đó có nạn
hay không nạn.
Có
một thầy
Tỳ-kheo an cư,
cho đến
đồ
ăn tồi (thô thực)
cũng không
đủ no. Phật cho phép gặp
trường hợp
này, phá an cư
không có tội.
Trường hợp
gặp phạm
hạnh nạn,
mạng nạn, cuõng như
vậy.
Luật Thập
tụng nói:
Vị
Thượng tọa hậu
an cư không nên
dùng phòng xá, ngọa
cụ của
vị Thượng tọa
tiền an cư.
Nếu vị
Thượng tọa
tiền an cư
có hai phần ngọa
cụ thì nên phân
phối cho vị Thượng
tọa hậu an cư
một phần.
Pháp xin ra ngoài đại
giới trong vòng
bảy ngày thì
đối với vị
trong 5 chúng mà xin (thọ)
không được tâm
niệm xin (thọ), trừ
trường hợp
Tỳ-kheo
ở nơi A-lan-nhã một
mình.
Thuyền neo trên
dòng nước, trôi
lên, trôi xuống,
không được an cư
trên đó, nếu
cột chặt
không di chuyển
thì được.
Nếu
muốn an cư, trước
hết phải
tìm xem trú xứ
đó có an
ổn hay không,
có bạn
đồng hành tốt
hay không? Vấn
đề tọa
thiền, thuyết pháp,
ăn uống,
thuốc men
v.v... có đáp
ứng không? Sau
đó mới
an cư. Nếu
không có nhân duyên như
Phật
đã cho phép thì
không được phép
ra ngoài giới
ngủ, cho
đến một
đêm.
Thọ
Á pháp (tức
pháp câm),
phạm
Thâu-lan-giá. Không nói chuyện
với nhau là
pháp của ngoại
đạo vậy.
Bộ Căn
bản yết-ma
thuyết
minh:
Có
duyên sự xin
đi một
ngày cho đến bảy
ngày, có thể thưa
một người,
nếu quá bảy
ngày, cho đến
40 ngày, nên xin giữa
Tăng, quá 40
ngày thì mất hạ.
Nếu có nạn
duyên thì không gọi
là mất hạ.
GIẢI THÍCH:
Hỏi:
Hậu an cư
chưa
đủ ba tháng,
không được tính
tuổi hạ.
Thọ pháp ra
ngoài giới bảy
ngày, lưu nạn,
không trở lại
mới gọi là không mất
hạ. Nay có người
không thọ an cư, hoặc
chú tâm phá hạ
như vậy
có thể tính tuổi
hạ không? Nếu
không tính tuổi
hạ thì người
thọ giới
trước, người
thọ giới
sau, tránh được
sự bất
ổn không? Hơn
nữa, luật
Tăng kỳ
nói: “Ðến
ngày tiền an cư
mà không thọ an
cư thì phạm một
tội Việt
tỳ-ni”. Các bộ
khác thì không đề
cập
đến (tức
là không kết tội
này). Nay dựa
vào bộ nào?
Ðáp: Kiết
hạ an cư
là vấn
đề chính yếu
của Tỳ-kheo,
nếu
trái luật chế
thì mất lợi
ích rất nhiều.
Trường hợp
có duyên sự thì
cho phép kiết hậu
an cư. Không có
duyên sự thì phải thọ
tiền an cư.
Luật Tăng
kỳ kiết tội
là để trừng
trị các tội
mạt pháp, thật
ra cùng với các
bộ khác, không mâu thuẫn
nhau mấy. Song,
nói là mất hạ
là chỉ không
được nhận y dâng cúng trong mùa an cư, và không làm người
giữ y công
đức. Hơn nữa,
không đủ 10 hạ
thì không được
làm Hòa thượng
v.v... chứ
không phải người
thọ giới
trước, theo trật
tự, nay lại
phải thối
lui khiến thành
người nhỏ vậy.
Trong truyện ký
quy nơi mục
đầu
đã nói rõ vấn
đề này.
IX.
PHÁP TỰ TỨ
Có
chúng Tỳ-kheo
ở nơi cư
trú khác, cùng nhau kiết
hạ an cư, lập
quy chế với
nhau không nói chuyện,
không lễ bái, không hỏi
han nhau. Ai ưng
khất thực lúc nào tùy ý mình, hoặc trước
hoặc sau. Cần
việc gì thì dùng tay làm dấu chứ
không nói. Không nói chuyện
với nhau như
vậy cho nên
trong 3 tháng an cư
được an
ổn. An cư
xong, họ
đến chỗ Phật,
Phật hỏi
thăm và an
ủi xong. Họ
trình với Phật về
vấn
đề nội
quy mà họ
đã cùng nhau thực
hiện. Phật
dạy:
- Các ông là bọn người
ngu si, tự cho
đó là
điều
hay mà thật sự
là vô cùng dở.
Các ông là bọn
người ngu si
ở với
nhau, giống như oan gia, giống
như những
con dê trắng. Bằng nhiều
caùch Ta đã dạy
các ông rằng:
“Các vị Tỳ-kheo
nên cùng dạy dỗ
nhau, cùng chuyện
trò với nhau, giúp nhau giác ngộ.” Các ông là bọn
người ngu si,
đồng như ngoại
đạo, chấp
nhận phụng
hành pháp câm (không nói với
nhau).
Lúc bấy giờ,
Lục quần Tỳ-kheo
nghe vậy, bèn cử
tội các vị
Tỳ-kheo thanh tịnh.
Phật dạy:
“Nếu muốn
cử tội
một Tỳ-kheo
nào trước hết
phải cầu
thính (xin ý kiến,
xin phép trước)”.
Lục quần Tỳ-kheo
cơ hiềm các Tỳ-kheo
thanh tịnh, thường
đến cầu
thính hàng thanh tịnh
Tỳ-kheo
để cử
tội.
Phật dạy:
phải
đuû 5 pháp mới
được cầu thính:
1)
Cử tội
đúng thời
chứ không phải phi thời.
2)
Ðúng sự thật
chứ không phải
ngụy.
3)
Ðem lại lợi
ích chứ không phải
vô ích.
4)
Nói lời nhã nhặn
chứ không thô lỗ.
5)
Với tất
cả từ
tâm chứ không
vì sân hận.
Hàng Lục quần
Tỳ-kheo bản
chất không có
đủ 5 pháp trên,
các vị Tỳ-kheo
khác thì đủ. Tỳ-kheo
đủ 5 pháp
đến cầu
thính thì Lục
quần không cho (bất
thính – không đồng
ý cử).
Phật
dạy:
- Từ
nay, an cư xong
nên Tự tứ.
Lễ Tự tứ
khỏi phải
cầu thính. Tại
sao vậy? Tự tứ
tức là thính.
Không nên Tự tứ
tập thể
đồng loạt,
mà là từng người
một Tự
tứ. Không nên Tự
tứ theo ý của
mình, nên Tự tứ
theo thứ tự,
bắt
đầu từ Thượng
tọa trở
xuống. Cho phép
sai người nhận
Tự tứ.
Người nhận Tự
tứ phải
đủ 5
đức: không ái,
không sân, không sợ,
không si, biết
người Tự
tứ hay chưa
Tự tứ.
Bạch
nhị yết-ma
để sai người
nhận Tự
tứ như
sau:
“Xin Ðại
đức Tăng
lắng nghe! Nếu thời gian thích
hợp
đối với
Tăng, Tăng sai Tỳ-kheo
tên... làm người
nhận Tự
tứ. Ðây là lời tác bạch”.
Vị
Yết-ma, theo
nghi thức mà
tác pháp Yết-ma.
Không nên ngồi
trên tòa mà Tự
tứ. Bậc
Thượng tọa
lìa khỏi tòa, cùng quỳ,
tất cả Tăng
phải lìa khỏi
tòa cùng quỳ
để Tự
tứ. Tự
tứ rồi ngồi
lại vị trí cũ.
Nên Tự tứ
một cách rõ
ràng, Tự tứ
một cách thong
thả, nói 3 lần
Tự tứ.
Mặc áo trống
vai bên mặt, quỳ
gối, chắp
tay, thưa rằng:
“Ðại
đức, hôm nay chúng Tăng Tự tứ.
Tôi Tỳ-kheo
tên là... cũng
Tự tứ.
Nếu có tội
được
thấy,
được
nghe hay
được
nghi, Ðại
đức (Trưởng lão), thương
xót chỉ
bảo tôi. Nếu tôi thấy
có tội,
sẽ như
pháp sám hối”.
(nói 3 lần).
Vị
được sai làm người
nhận Tự
tứ nên tác bạch
như sau, rồi
mới nhận
người Tự
tứ:
“Xin Ðại
đức Tăng
lắng nghe! Hôm nay chúng Tăng
Tự tứ.
Nếu thời gian thích
hợp
đối với
Tăng, Tăng chấp
thuận, hòa hợp Tự
tứ. Ðây là lời tác bạch.”
Không nên phi pháp biệt
chúng, phi pháp hòa hợp,
pháp biệt chúng
Tự tứ,
nên như pháp
hòa hợp mà Tự tứ.
Cho
phép Tự tứ
tại nhà thuyết
giới.
Trường
hợp trên
đường
đi, gặp
ngày Tự tứ,
tất cả chúng nên hòa hợp
để cùng nhau Tự
tứ thì tốt,
bằng không hòa
hợp
được toàn
chúng, thì những
người thân hậu (bạn)
đồng ý với
nhau, nên di chuyển
đến một
chỗ khác, kiết tiểu
giới
để Tự
tứ. Tự tứ
xong nên giải
giới rồi
mới
đi.
Trường
hợp Tỳ-kheo
ở một mình,
đến ngày Tự
tứ
đến nơi
chỗ thuyết giới,
lau quét, cho đến
sửa soạn
đầy
đủ hành Xá-la
舍羅 (kiểm
Tăng số
bằng cách phát thẻ
để
đếm số
người) rồi
đợi khách Tỳ-kheo
đến. Nếu số
lượng năm
người trở
lên thì sai người
nhận Tự
tứ. Nếu bốn
người trở
xuống, cùng
nhau đối thú Tự
tứ. Văn
bạch
đối thú Tự
tưù như sau:
“Hôm nay, chúng Tăng
Tự tứ,
tôi Tỳ-kheo
tên... cũng
thanh tịnh
Tự tứ.”
(nói như
vậy 3 lần.
Nếu không có người
đến thì nên tâm
niệm, miệng
cũng nói như
trên 3 lần.)
Có
việc dặn
dò người khác, người
nhận sự
dặn dò nếu
có việc thì
chuyển sự
dặn dò
đó cho người khác. Việc
rồi nên tự
trở lại.
Trường
hợp có 8 nạn hay các duyên sự
khác đột khởi,
nên Tự tứ
lược. Tự
tứ lược
bằng cách nói 2
lần hay một lần
thay vì nói 3 lần.
Hoặc cùng nhau
(tập thể
đồng loạt)
nói 3 lần, nói
2 lần, hay nói một
lần. Hoặc
giả vừa
nói vừa giải
tán, tùy theo nạn
sự
đến gần hay xa.
Trường
hợp gặp
ngày Tự tứ,
mà có việc gây tụng
xảy ra, hoặc
có thể bị
phá Tăng, không
nên Tự tứ
liền mà nên
hoãn lại thời gian, chờ
sự
ổn
định.
Nếu
người ngăn cản
sự Tự tứ
mà ba nghiệp
không thanh tịnh
v.v... thì áp dụng
như trong mục
Bố-tát
đã trình bày.
Trường hợp bịnh
cũng vậy.
Trường
hợp chúng Tỳ-kheo cảm
thấy sự
tu hành được thoải
mái, có chiều hướng
tăng thượng
chứng quả,
sợ Tự
tứ hôm nay (Rằm
tháng Bảy Âm lịch)
thì không được
hưởng niềm
vui ấy, nên tác
bạch Tăng thêm thời
gian Tự tứ,
để
đến
đúng 4 tháng (Rằm
tháng Tám Âm lịch)
sẽ Tự
tứ.
Hoặc
có Tỳ-kheo
ở trú xứ
khác, không hòa hợp,
muốn
đến Tự
tứ nơi
trú xứ này,
đều như trong mục
Bố-tát
đã nói. Theo
tinh thần của
luật Thập
tụng thì
đến tháng Tám
mà khách Tỳ-kheo
vẫn không chịu
đi, thì không
nên Tự tứ
mà phải bỏ
đi, chứ
đừng nên dùng lời
đấu tranh lẫn nhau.
Không nên ở trước
Tỳ-kheo-ni và trước
người chưa
thọ Ðại
giới tác Yết-ma
Tự tứ.
Không nên Tự tứ
rồi lại
thuyết giới. Tự
tứ tức là thuyết
giới vậy.
Luật Thập
tụng thuyết
minh:
Tự
tứ rồi
nên đến trước
Thượng tọa
xướng rằng:
“Tăng
chúng một lòng
Tự tứ
xong.”
Luật Tăng
kỳ nói:
Nếu
trong chúng an cư
có một người tiền
an cư,
đến Rằm tháng Bảy,
cả chúng nên
đồng với vị
tiền an cư
mà Tự tứ.
Tự tứ rồi
phải
ở cho
đến Rằm
tháng Tám mới
ra hạ. Nếu
tất cả
đều hậu
an cư thì tất cả
nên để Rằm
tháng Tám mới Tự
tứ. Trường
hợp có các Tỳ-kheo
an cư nơi
xóm làng, nghe ngày Tự
tứ trong thành
phố, có nhiều
vật phẩm
cúng dường, ban
đêm lại
có thuyết pháp,
chúng muốn
đến
đó, thì nên Tự
tứ ngày 14 rồi
(mới)
được
đi.
Vấn
đề người nhận
Tự tứ thì nên sai một
hay hai người
chứ không
được sai nhiều.
Nếu sai hai người
nhận Tự
tứ thì một
người
đến nhận
Tự tứ
nơi Thượng
tọa, một
người
đến trước vị
thứ tọa. Thượng
tọa nói rồi,
thứ tọa
mới nói (Tự
tứ), như
vậy lần
lượt cho
đến hết. Hễ
đến phiên mình
thì phải Tự
tứ, không nên
đợi Taêng xong,
sau đó mới
Tự tứ.
Luật Ngũ
phần thuyết minh:
Cho
phép tám vị Thượng
tọa, Tự tứ
từng vị
một. Còn các vị
dưới
đồng tuổi
hạ thì cùng Tự
tứ một
lần 3 người.
Kinh Tỳ-ni mẫu
thuyết
minh:
Trong chúng nếu
có người không
thanh tịnh thì
nên đình chỉ, không nên Tự
tứ. Nên tác
pháp đình chỉ Yết-ma
Tự tứ. Nên xét vấn
đề không thanh
tịnh
đó, nếu
thuộc về
trọng tội
thì đuổi
ra, nếu nhẹ
thì khiến cho sám hối,
sau đó mới
Tự tứ.
Nếu người
không thanh tịnh
ấy
ỷ mình thông
minh, đa trí,
hay ỷ có nhiều
đồ chúng, hoặc
sức mạnh
của quốc
vương
đại thần,
không thể
đuổi
ra được, nên chờ
đến hậu Tự
tứ (Rằm tháng Tám Âm lịch).
Hậu Tự tứ
đến mà người
ấy vẫn
không chịu
đi, chúng Tăng
có thể ra ngoài
giới mà Tự tứ,
được gọi
là thanh tịnh vậy.
Bộ Nam hải
ký quy nói:
Âm
tiếng Phạn
là Bát-thích-bà-thích-noa, dịch
là tùy ý. Tức
là tùy theo ý của
người khác,
ở trong ba việc
thấy, nghe,
nghi, dựa vào
nhận xét của
mình nêu lên. Có nghĩa
là nói lên điều
lầm lỗi
để trừ
tội khiên của
mình. Cựu dịch
là Tự tứ,
theo nghĩa mà phiên dịch
vậy.
Nghi lễ diễn
tiến như sau:
-
Người biệt trụ.