TRÙNG TRỊ TỲ NI
SỰ NGHĨA TẬP YẾU
CỔ
NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích
Việt
dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH
Nhuận văn
và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
---o0o---
TẬP I
QUYỂN THỨ 3
THỨ HAI: GIỚI
TRỘM
Ðây là
tánh tội. Ðại
thừa
đồng chế.
Trường
hợp
được phép làm, như
trong Giới bổn
của Bồ-tát
đã nói
đầy
đủ.
Hỏi:
- Ðại
thừa gặp
trường hợp
được phép làm, thì
vấn
đề sát sanh,
ăn trộm,
dâm dục, nói láo,
đối với
giới Bồ-tát,
không những không
trái phạm mà còn
được nhiều
công đức,
đối với giới
Tỳ-kheo có trái phạm
không?
Ðáp:
- Xuất
gia đối với
giới dâm thì Ðại
thừa, Tiểu
thừa
đều cấm;
ba giới sát, trộm
và vọng thì Ðại
thừa khai mở
cho, Tiểu thừa
thì ngăn cấm.
Nếu quả
thật vì lòng từ
bi, cứu vật
thì đối với
giới Bồ-tát
tuy không trái phạm,
nhưng
đối với
pháp của Tỳ-kheo
vẫn phải
y luật kiết
tội. Luận
rằng: Nơi
thâm tâm của Bồ-tát
còn muốn thay thế
cho tất cả
chúng sanh, nhận lấy
cái khổ nơi
địa ngục,
đâu không thể
nhận lấy
cái khổ do sự
trị phạt
của Tăng?
Thảng như
tự xưng
là Ðại sĩ,
mà không tuân hành quy chế
của Tăng
thì đã chẳng
phải là Tỳ-kheo
mà cũng chẳng
phải là Bồ-tát.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, nơi làng xóm, hoặc
nơi rừng
vắng, lấy
vật không cho với
tâm trộm cắp;
tùy theo sự lấy
vật không cho
ấy mà vua hay Ðại
thần của
vua, hoặc bắt,
hoặc giết,
hoặc trói, hoặc
đuổi
khỏi nước,
hoặc khiển
trách: “Ngươi là kẻ
trộm, ngươi
là kẻ ngu, ngươi
là kẻ không biết
gì.” Tỳ-kheo
ấy là kẻ
Ba-la-di không được sống
chung.
NGUYÊN DO:
Ðức
Phật du hóa nơi thành La-duyệt,
trong núi Kỳ-xà-quật.
Lúc bấy giờ,
trong thành có một
vị Tỳ-kheo,
con của người
thợ
đồ sứ,
tên là Ðàn-ni-ca, cất
một thảo
am nơi chỗ rừng
vắng. Vị
Tỳ-kheo
ấy
đi vào trong thôn khất
thực, trẻ
nhỏ quơ
củi dỡ
thảo am
ấy
đem về
chụm.
Sau đó, vị
Tỳ-kheo kia trộn
đất làm thành một
ngôi nhà bằng
đất, lấy
củi và phân bò nung chín. Ngôi nhà
ấy sắc
đỏ như lửa.
Phật cấm
không cho làm nhà hoàn toàn bằng
gạch màu sắc
đỏ. Nếu làm, phạm
tội Ðột-kiết-la.
Ðức Phật ra lệnh
cho các Tỳ-kheo
đến
đập phá ngôi nhà
ấy. Tỳ-kheo
Ðàn-ni-ca lại lừa
dối nói với
người giữ
cây gỗ của
nước Ma-kiệt-đà
để lấy
gỗ quý lưu
trữ của vua Bình-sa. Ðại
thần tâu với
vua, vua nghĩ:
Không nên vì một ít
tài vật mà dứt
mạng sống
của người
xuất gia, chỉ
quở trách rồi
đuổi
đi. Các quan thì
không bằng lòng,
cư sĩ
thì cơ hiềm.
Hàng Tỳ-kheo thiểu
dục, nhân
đây bạch Phật,
Phật quở
trách rồi kiết
giới.
GIẢI THÍCH:
Tùy bất
dữ thủ
pháp (tùy theo pháp không cho mà lấy),
tức là tùy theo
pháp tắc của
nhà vua quy định lấy
vật không cho, xử
trị như
thế nào. Pháp của
nhà vua lúc bấy giờ là: Nếu
lấy năm tiền,
hay lấy vật
trị giá
đủ năm
tiền thì bị tội
tử hình.
Luật
Thập tụng nói:
Một
đồng trị giá bằng
một phần
mười sáu của
đồng tiền.
Luật
nhiếp nói:
Năm
ma-sái, một ma-sái
có 80 bối xỉ.
TƯỚNG TRẠNG
CỦA TỘI
Lấy
rời khỏi chỗ
thì phạm tội
Ba-la-di. Chuẩn bị
để lấy mà chưa
được, phạm
tội Thâu-lan-giá, lấy
gần năm
tiền phạm
Thâu-lan-giá, lấy
không được phạm
Ðột-kiết-la.
Dạy người
lấy, dạy
người tìm,
đồng như
trước. Phương tiện
dạy người
tìm năm tiền
trở lên, nhưng
người
được dạy,
lấy vật
khác, hay lấy chỗ
khác, người lấy
phạm Ba-la-di, còn
người dạy phạm
Thâu-lan-giá. Nếu
người
được dạy
không có tâm trộm cắp
mà lấy
được trên năm tiền
thì người lấy
không có tội, người dạy
phạm Ba-la-di. Nếu
người
được dạy
với tâm
ăn trộm,
lấy
được năm
tiền trở lên thì phạm
Ba-la-di, còn người
dạy không phạm bổn
tội.
Vật
có chủ hay tưởng là có chủ,
không cho mà lấy năm
tiền trở
lên, phạm Ba-la-di. Gần
năm tiền
trở xuống,
phạm Thâu-lan-giá.
Nghi là có chủ, lấy
năm tiền
trở lên thì phạm
Thâu-lan-giá. (Nếu
theo bộ Căn
bản thì cũng
phạm tội
Ba-la-di). Gần năm
tiền trở
xuống phạm
Ðột-kiết-la
(dựa vào bộ
Căn bản
thì cũng phạm Thâu-lan-giá). Không có chủ, tưởng
là có chủ và nghi
là có chủ mà lấy năm
tiền trở
lên thì phạm
Thâu-lan-giá, gần năm
tiền trở
xuống phạm
Ðột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni
phạm Ba-la-di. Ba
chúng nhỏ phạm
Ðột-kiết-la,
diệt tẫn.
Trường hợp
không phạm là: tưởng
là cho, tưởng của
mình, tưởng là phấn
tảo (vất
bỏ), nghĩ
rằng tạm lấy,
ý tưởng là của
người thân hữu,
và lúc đầu chưa
chế giới
v.v.... thì không phạm.
(Phần thứ
ba
nói: Ý tưởng thân hậu
‘bạn thân’ có bảy
yếu tố
để tạo
thành người bạn
thân đem lại
lợi ích và lòng từ
mẫn. Bảy
pháp là:
- Vật
khó cho có thể cho.
- Việc
khó làm có thể làm.
- Việc
khó nhẫn có thể
nhẫn.
- Việc
bí mật nói cho
nhau.
-
Không bươi móc
nhau.
- Gặp
khổ không bỏ
nhau.
-
Nghèo nàn không khinh dể.)
Căn
bản tạp sự
nói:
Phàm là
người thân hữu,
là người có thể giao phó
đời mình cho họ.
Người
ấy có 5 yếu
tố:
- Có lòng thương
yêu nhau.
- Càng gần càng vừa
lòng.
- Tôn trọng lẫn
nhau
- Xa lâu nhớ nhau.
- Bạn dùng vật
của mình, lòng sanh
vui mừng.
Phần thứ
tư
nói:
Với
tâm trộm cắp,
vì người,
đem
vật phải
chịu thuế
của họ
qua khỏi cửa
ải quan thuế,
trị giá
đủ
năm tiền,
phạm Ba-la-di. Nhiều
Tỳ-kheo bảo
một người
lấy vật
của kẻ
khác, lấy
được
năm tiền,
nhưng tất
cả mỗi
người
đều
phạm tội
Ba-la-di. (Vì dùng tâm trộm
cắp lấy
vật của
người
đủ
5 tiền, lìa khỏi
chỗ cũ).
Ðối với
địa phương
kia, vật
được
trị giá là 5 tiền,
nhưng
đến
địa phương
này trị giá dưới
5 tiền vẫn
phạm tội
Ba-la-di. Ðối với
địa phương
kia vật
được
trị giá dưới
5 tiền, nhưng
đến
địa
phương này trị
giá trên 5 tiền, phạm Thâu-lan-giá. Biết
người
đó
với tâm trộm
cắp, sai mình lấy
vật của
người, trước
đó thì chấp
thuận, nhưng
sau
ăn năn
không thực hiện,
thì phạm Ðột-kiết-la. Muốn
ăn trộm
áo của người,
nhưng nhầm
lấy áo của
mình, thì phạm Thâu-lan-giá. Kẻ trộm
kia lấy vật,
mình cưỡng
đoạt lấy
vật của
kẻ trộm
đó, phạm
Ba-la-di. Lấy lần
trước, lấy
lần sau khác nhau
cộng
lại
đủ
5 tiền, phạm
Ba-la-di.
Ăn trộm
đất, nước,
trái cây, rau cải v.v... tính
đủ 5 tiền,
hoặc mình tự
thọ dụng,
hoặc khiến
cho nó bị tổn
giảm, tất
cả
đều
phạm Ba-la-di.
Trường hợp,
người Ðàn-việt có hai
đứa bé
khôn ngoan dạn dĩ,
một hôm, ngài Tất-lăng-già-bà-ta
đến,
đứa bé liền
đến ôm chân, chạy
quanh mừng giỡn.
Sau đó, kẻ
trộm bắt
đem
đi, cha mẹ
nó đến nơi Tôn giả
khóc kể, nghĩ
rằng Tôn giả
bắt con họ. Tôn giả
dùng Thiên nhãn thấy
em bé trong thuyền
của bọn
giặc. Tôn giả
liền dùng thần
thông bắt
đem về
cho cha mẹ nó. Các
Tỳ-kheo cơ
hiềm Tôn giả
về vấn
đề này. Phật
hỏi Tôn giả
dùng tâm gì để bắt
em bé. Tôn giả trả
lời: Dùng lòng từ
bi chứ không có tâm
trộm cắp.
Phật dạy:
Không phạm tội.
Luật Tăng
kỳ nói:
Trường hợp
Tỳ-kheo trên
đường
đi, bị bọn
cướp cướp
đoạt,
hoặc bọn
cướp ít, Tỳ-kheo
nhiều, hoặc
bọn giặc
giấu vật
vừa cướp
được
đến chỗ
khác. Vị Tỳ-kheo
này nếu chưa
nghĩ là vật
của mình
đã mất,
rồi
đoạt
lấy lại, thì không tội.
Nếu
đã nghĩ
vật của mình
đã mất
rồi
đoạt
lấy lại,
thì thành bọn giặc, cướp
của bọn giặc.
Lại nữa, hoặc
bọn giặc
thuận
đường
đi, gần
đến xóm làng, sắp
sửa
đem vật
ra chia, Tỳ-kheo
theo xin lại
được thì không tội.
Hoặc dùng thế lực
khủng bố
khiến cho giặc
trả lại cũng
không tội. Hoặc
báo cáo cho người
chủ tụ
lạc, dùng phương
tiện dụ
dỗ, khiến
cho giặc trả
lại, không tội.
Nếu biết
làm như vậy
họ sẽ
giết, sẽ
trói thì không nên báo cáo. Trường
hợp Tỳ-kheo làm vị
Ma-ma-đề (tức
chủ chùa). Tháp (chùa) không có tài sản,
chúng Tăng có tài sản,
bèn nghĩ rằng:
Sở dĩ
trời, người
cúng dường chúng Tăng
đều nhờ
ơn của
Phật, cúng dường Phật
tức là cúng dường
chúng Tăng, bèn
đem của
Tăng tu bổ
Tháp. Vị Ma-ma-đề
này mắc tội
Ba-la-di.
Trường
hợp Tháp có tài vật,
chúng Tăng không có tài
vật,
bèn nghĩ rằng:
Cúng dường Tăng,
Phật cũng
có trong
đó, liền
đem vật
của Tháp cúng dường
cho Tăng. Vị
Ma-ma-đề sử
dụng như
vậy mắc
tội Ba-la-di.
Trường hợp
Tháp không có tài vật,
Tăng có tài vật,
được như
pháp tạm mượn
để dùng, nhưng
cần phải
ghi chép phân minh rằng:
“Khi nào mượn dùng,
khi nào sẽ trả lại”.
Nếu Tăng không có tài vật,
Tháp có tài vật cũng
như vậy.
Khi giao nhận
để mượn
dùng, phải tuyên
đọc văn kiện
rõ ràng trước
chúng, giao nhận
phân minh. Nếu
không tuyên đọc văn kiện
thì phạm tội
Việt tỳ-ni.
Trường
hợp hai Tỳ-kheo có chung tài vật
cần chia, một
trong hai Tỳ-kheo
đó có tâm trộm
cắp lấy hết
về cho mình, trừ
phân nửa của
họ ra, còn phân nửa
của vị
kia, nếu
đủ 5 tiền
thì phạm Ba-la-di.
Nếu người kia
đồng ý cho lấy
thì không tội. Nếu cùng nhau hứa
hẹn
được vật
cùng chia, khi được
vật lại
nói: Mỗi người
đều có lộc
riêng, thì phân nửa
phần trong
đó,
đủ 5 tiền
phạm Ba-la-di. khi nghĩ
như vậy nhưng
vật còn
để nơi
nhà thí chủ thì phạm
Thâu-lan-giá, biết
có thí chủ mà nghĩ như
vậy, mắt
tội Việt
tỳ-ni. Hai Tỳ-kheo phấn
tảo
ước hẹn với
nhau cũng vậy.
Tỳ-kheo coi ngó vật
của Tăng,
cần biết
có vật nên cho, có vật
không nên cho. Thế
nào là nên cho? Vật
có thể làm tổn giảm,
vật có lợi
ích thì nên cho. Sao gọi
là tổn
giảm? Như
có giặc
đến chùa,
đòi hỏi
thức
ăn, thức
uống nếu
không cho thì có thể
bị
đốt chùa, cướp
của, không cho sợ
bị tổn hại,
nên tùy theo đó ít
nhiều cần
phải cho. Tại
sao gọi là có lợi
ích? – Ðối với
thợ nề,
thợ
đào
đất, thợ
vẽ họa
đồ và những
người coi sóc công việc
sửa chữa
phòng ốc của
Tăng thì nên cho bữa
ăn trước,
bữa
ăn sau, dầu
thoa mình và nước uống phi thời
v.v... Nếu vua và
các người có thế lực
lớn nên cho vật
thực, thức
ăn, thức
uống gọi
là có ích thì nên cho.
Có Tỳ-kheo y bát bị
mất, nếu chưa
nghĩ rằng
mình đã mất,
sau biết chỗ,
nên đến
đó tìm cách lấy
lại, nếu
đã nghĩ
rằng mình mất, sau biết
chỗ,
đến tìm cách lấy
lại mắc tội
Việt tỳ-ni,
nếu trước
đã nghĩ
rằng: Sau
đó nếu
biết chỗ
sẽ
đến tìm cách lấy
lại, sau
đó tìm cách lấy
lại
được, như
vậy thì không tội.
Có hai Tỳ-kheo hứa
hẹn nhau: Sẽ
cùng nhau thọ kinh,
sẽ cùng nhau tụng
kinh, sau đó không
thọ kinh, không tụng
kinh, mắc tội
Việt tỳ-ni.
Luật
Căn bản nói:
Khởi
tâm trộm cắp,
chuẩn bị
phương tiện,
mắc tội
ác tác (tức Ðột-kiết-la),
đụng
đến vật
đó phạm
tội Tốt-thổ-la-để-dã (tức
Thâu-lan-giá), đem
khỏi chỗ cũ,
đủ 5 tiền,
phạm Ba-la-thị-ca
(Ba-la-di), không đủ
5 tiền, mắc thô tội
(cũng là
Thâu-lan-giá). Nếu
là vật thuộc
về vật của
súc sanh, chạm
đến vật
đó, phạm
ác tác, rời khỏi chỗ,
đủ 5 tiền,
mắc thô tội,
không đủ 5 tiền,
mắc tội
ác tác.
Luật
nhiếp nói:
Người
thợ săn,
đuổi con vật
chạy vào chùa, dù bị
thương hay không bị
thương, không trả
con vật
ấy lại
cho thợ săn,
không phạm. Nếu
con vật bị
bắn, chạy
vào chùa chết liền, nên trả
lại cho họ.
Nếu
đồng tâm cùng với
giặc, chỉ nơi
chỗ cho họ,
sau đó nhận
phần chia, tùy theo
số lượng
nhận
được mà mắc
tội.
Hỏi:
- Ðây cùng với
dạy người
lấy, có gì sai khác. Thảng
như không nhaän phần,
có phạm tội
chăng?
Ðáp:
- Dạy
người vì mình lấy,
khi vật
ấy lìa khỏi chỗ,
liền thành tội
đối với
mình. Còn chỉ nơi
chốn cho giặc,
khi giặc cướp
được vật
ấy, chưa
chắc họ
đã cho mình, cho
nên phải tùy theo
khi nhận phần mà kết
tội. Song tuy không
nhận phần cũng
mắc tội (phương
tiện Thâu-lan-giá).
Nếu
sau sanh lòng hối hận,
đến nhà người
chủ có vật, báo cho họ
giữ gìn,
đừng
để vật
bị mất, dù bọn
giặc kia lấy
đươïc,
đều mắc tội
phương tiện;
sau tuy có nhận phần cũng
mắc tội Tốt-thổ-la.
Cùng với giặc
đồng
đi, muốn
làm việc trộm
cắp, nhưng
nửa
đường thối
lui, chỉ mắc
tội ác tác.
Ðồng
tâm làm giặc, vì giặc canh chừng,
khi chia vật, nhận
phần thì thành tội.
Vì sợ sệt
nên làm bạn chứ không có tâm cùng họ
trộm cắp,
tuy giặc lấy
được nhưng
Bí-sô không phạm tội.
Nếu
mang vật của
mình hoặc là vật
của người
khác mà nói với thuế quan là tôi muốn
khỏi thuế
thì mắc tội
Việt pháp. Dạy
người bị
thâu thuế
đi
đường khác, mắc
tội ác tác. Nếu
khởi ác tâm, chỉ
họ
đi
đường khác, mong
được khỏi
đóng thuế,
mắc tội
Tốt-thổ-la.
Nếu mang vật
của kẻ khác
đi qua chỗ
đóng thuế, không có tâm thủ
lợi thì mắc
thô tội. Chưa
đến chỗ
đóng thuế,
hoặc lấy
phân nửa, hay lấy
toàn phần mà chưa
qua khỏi, mắc
tội Tốt-thổ-la.
Nếu qua khỏi
chỗ
đóng thuế,
đủ số, mắc
bổn tội. Nếu
mang vật của
mình, đến chỗ
đóng thuế,
bảo kẻ
khác vượt qua, cũng mắc
bổn tội. Thật
là tài vật của
mình, quyết tâm hiến tặng
cha mẹ, anh v.v...
báo với người thâu thuế
rằng: Ðây không phải
vật của
tôi, xin ông miễn
thuế, hoặc
nương trên hư
không mà đi qua, hoặc
ngậm trong miệng,
hay gói trong áo, hoặc
tránh đường mà
đi,
đều mắc thô tội.
(Hỏi:
- Ðây cũng
đồng với
trường hợp
vì người
vượt qua, tại
sao không phạm bổn tội?
Ðáp: - Vì người
đem vật
vượt qua, lợi
ắt về
mình, nên kiết bổn tội.
Nay quyết tâm hiến
dâng nên không có cái tội
thủ lợi, chỉ
có cái lỗi trái phạm
thuế, nên chỉ
mắc thô tội).
Nếu
vì cha mẹ hay việc Tam bảo,
mang vật qua chỗ
quan thuế, nên vì người
thu thuế, nói các
pháp lành, khen ngợi
Tam bảo, trình bày
ân đức của cha mẹ,
họ không
đánh thuế thì không phạm.
Nếu họ vẫn
đòi thì nên
đưa.
AÊn trộm
đại lược có 5 loại:
1) Ðối
diện cuỡng
lấy.
2)
Chùng lén lấy.
3) Ðiều
lộng lấy.
4) Nhân
họ gởi
mà lấy.
5) Cho
rồi,
đoạt lấy
lại.
Năm
loại này
đều thuộc
về
ăn trộm.
Có người
đem vật
đến cúng, biết
rằng không có phần
mà nói trong đó có
phần của
tôi, mắc tội
Tốt-thổ-la.
Nếu nhận
phần
ấy, chuẩn
theo số lượng
nhận
được mà thành tội.
Không được mời mà
đến
ăn, mắc tội
ác tác.
Vì Bổn sư
đến chỗ
khác nhận tài vật,
không phạm.
Nếu khi lấy
phần của
người, phải
báo cho người biết, không nên không báo mà nhận phần
của người
khác.
Nếu vì người
bệnh,
định
đem tài vật
đến giúp, nghe người
đó qua
đời, vật
ấy trở
lại người
chủ. Nếu
đem
đến mà người
ấy còn sống,
sau đó mới
qua đời, thì thành
vật của
người chết.
Nếu giặc
trộm của
người vì bị
khủng bố
nên đem vật
ấy cho Bí-sô, không
nên nhận. Nếu
nghĩ rằng
sẽ trả lại
cho chủ của
vật thì nhận
không phạm. Nếu biết
đó là thủ
lãnh của giặc,
thì tùy ý nên nhận.
Nhận rồi
cắt rọc, nhuộm
cho hoại sắc
mới có thể
chứa cất.
Chủ của vật
đến
đòi, nên trả
lại.
Nếu móng ý muốn
trộm tài vật của
người, sau khi xúc
chạm vật
ấy, bèn
đến chủ xin, họ
thuận cho, khi nhận
được, thì tính từ
đó về
trước, mắc
thô tội. Ban
đầu mượn
dùng, sau muốn
không trả, kể
từ khi quyết
định không trả,
bèn mắc bổn
tội.
Nếu người
khác gởi vật,
khi khởi tâm trộm
cắp, mắc
tội Tốt-thổ-la,
sau đó dời
khỏi chỗ
cũ, mắc
bổn tội
(trộm). Nếu
trước dời
khỏi chỗ
cũ, sau khởi
tâm lấy luôn, cũng mắc
bổn tội.
Lừa
gạt bắt
con của người,
mê hoặc lấy
vật của người,
căn cứ theo số
lượng thành tội.
Những gì thuộc
về vật của
cờ bạc mà lấy,
đều mắc tội
ác tác. Ý định muốn
trộm lấy
vật kia, mà lầm
lấy vật
này đã trái với ý muốn
nên chỉ mắc
thô tội.
Nếu
bị mất
vật,
đã nghĩ
là mất rồi,
tức là thuộc
về của người
khác, cướp
đoạt
lại vật
ấy, căn
cứ theo số
lượng mà thành tội.
Cho nên, không nên vội
nghĩ là
đã mất
rồi.
Nếu
thấy giặc
đến, la hét khiến
cho nó đi. Nếu bắt
được giặc,
không nên đem nạp cho quan. Trước
hết phải
vì họ nói pháp, theo họ
xin lại những
vật họ
đã lấy, nếu
họ không chịu
cho thì nên trả
phân nửa tiền
hay là trả
đủ số
cho họ.
Người
đóng cửa chùa có 5 việc
cần lưu ý: khóa trên, khóa dưới,
hai khóa phụ và chốt
cửa phải
cẩn thận. Nếu
không đóng cửa,
giặc lẻn
vào lấy
đồ, dựa theo sự
việc
đó mà trị
giá bồi thường.
Nếu sơ
suất một
bộ phận
thì bồi hoàn một phần,
nếu sơ suất
hết thì bồi
hoàn hết.
Nếu
thí chủ có lòng tốt muốn
cúng dường cho trú
xứ này
để tạo
lập Tăng phòng, Bí-sô dùng ngân khoản
ấy vào vấn
đề vật
thực thì nên tính
theo giá hoàn trả lại
cho đủ.
Nếu
vì người bệnh muốn
chạy chữa
thuốc thang, nên hỏi
người bệnh
cần dùng thuốc
gì ở
đâu, theo lời
của bệnh nhân mà chạy
chữa.
Căn
bản mục-đắc-ca
nói:
Người
chủ thấy
khách đến, trước
hết nên hỏi
họ,
ở
đây có ai là bạn
của ông không? Có cần
dùng y bát không? Nếu
họ nói không cần
mà còn đem
đưa cho họ
thì phải bồi
lại
đúng như
giá của vật
ấy. Nếu
nói cần thì có mất khỏi
bồi thường.
Khách Tỳ-kheo
đến nơi phòng của
Tỳ-kheo khác, Nên hỏi
người chủ,
nếu có người
đến, cần
dùng y bát, có cung cấp
hay không; nếu người chủ
nói không cung cấp
mà tự lấy
cung cấp thì tính
theo giá cả bồi
hoàn. Nếu họ
nói cần cung cấp,
thì có mất, khỏi
phải bồi
thường.
Người
qua đường mượn áo
để thay, cho
đến khi chưa
thọ không nên không
đòi lại.
Nếu cố
ý không đòi lại
thì phải bồi
lại
đúng giá.
Luật Ngũ
phần nói:
Người ta chưa
đồng ý mà vội nghĩ
rằng họ
đã
đồng ý, lấy
y thực cho họ,
phạm Ðột-kiết-la.
Luật Thập
tụng nói:
Nếu vật
bị nước
trôi đến Tỳ-kheo
có tâm trộm cắp
lấy, khi lựa
chọn
để lấy,
phạm Thâu-lan-giá.
Nếu nắm
vật
ấy lại
không cho trôi, hoặc
để chìm dưới
đáy nước,
hoặc lấy
lên khỏi nơi,
trị giá 5 tiền
trở lên thì phạm
Ba-la-di.
Nếu
giúp lời
để
đoạt
đất
đai
của người,
đoạt
được thì phạm
Ba-la-di, không
đoạt
được phạm
Thâu-lan-giá.
Trộm Xá-lợi
của Phật, phạm
Thâu-lan-giá. Nếu lấy
với tâm tôn kính
thanh tịnh thì
không có tội. Trộm
kinh sách, tính theo giá mà phạm.
Trộm tư
cụ cúng dường
trong Chùa, Tháp, Tinh xá, nếu
có người bảo
vệ, tính theo giá
mà phạm tội.
Lấy
vật của
người nơi
Tây câu-da-ny
tùy theo giá trị nơi
đó mà phạm.
Nơi Phất-vu-đãi
cũng như
vậy. Lấy
vật nơi
Uất-đơn-việt
không phạm.
Ðàn-việt
thỉnh Tăng, chưa
đến phiên mình, tự
nói, tôi cần
đi dự,
phạm Ba-dật-đề.
Khi nhận
được thức
ăn, tùy theo
đó tính giá thành
phạm tội.
Phá tổ
chim, lấy tổ
chim, đều phạm
Ðột-kiết-la.
Vì lòng
lân mẫn giải
phóng súc sanh của
người nuôi, phạm
Ðột-kiết-la.
Ðoạt vật
của thần
tượng phạm
Thâu-lan-giá. Phá hoại
tất cả
vật săn
bắt với tâm vui thích, phạm
Thâu-lan-giá, với
tâm lân mẫn, phạm Ðột-kiết-la.
Luật
Thiện kiến
nói:
Nếu
nhận vật
của người
gởi, người
chủ vật
đến lấy,
mà nói rằng: Tôi
không nhận vật
của ông gởi,
phạm Ðột-kiết-la;
khiến cho người
chủ hồ nghi, phạm
Thâu-lan-giá. Người
chủ nói: Thế là vật
của tôi bị
mất rồi,
phạm Ba-la-di.
Nếu
kẻ trộm
lấy vật, Tỳ-kheo
dùng tâm trộm,
đoạt
lấy vật
ấy, vật
ấy lìa khỏi
thân kẻ trộm,
nếu người
ấy mạnh,
đoạt
vật
ấy lại mang
đi, Tỳ-kheo
tuy không được vật vẫn
phạm Ba-la-di, vì
do tâm trộm,
đoạt
lấy vật
và vật
đã lìa khỏi
chỗ cũ.
Nếu
Ðàn-việt cúng dường
cây ăn trái cho chúng Tăng
mà đem dùng vào việc
y phục hay thuốc
thang, chúng Tăng
không nhận
được phần
ăn
ấy, hoặc
dùng cây ăn trái
làm tứ sự
để bố thí, Tỳ-kheo
dùng tâm trộm cắp
nhận quá phần
ăn của mình, tùy theo giá trị nhiều
hay ít mà kết tội.
Nếu họ
làm phòng xá để bố
thí, chúng Tăng
đem làm vật
thực, phạm Thâu-lan-giá, nên trả
lại
đúng giá trị.
Nếu họ cúng y thì nên dùng cho vấn
đề y, nếu
gặp lúc
đói kém, chúng Tăng
Yết-ma hòa hợp
dùng vào việc
ăn uống,
không phạm. Dùng của thí may y làm phòng xá, dùng của
thí làm phòng xá để
sắm vật
thực cũng
như vậy. Trong chùa phòng xá nhiều, hư
nát, không có người
tu bổ, nên
để lại
những cái tốt,
bao nhiêu cái xấu hư
được dỡ
bán mua vật thực,
để bảo vệ
trú xứ.
THỨ BA: SÁT SANH
Ðây là
tánh tội, Ðại
thừa
đồng cấm.
Thanh văn
giết súc sanh phạm
Ba-dật-đề,
Ðại sĩ thì phạm
trọng. Thanh văn
đối với
cha mẹ, A-la-hán
thành tội nghịch. Ðại
sĩ
đối với
hai thầy (Hòa thượng,
A-xà-lê) cũng thành
tội nghịch.
Tội nghịch thì không cho phép sám hối. Trọng
tội tuy cho phép
sám hối, nhưng cốt
yếu là phải
thấy
được tướng
hảo.
Hỏi:
- Bậc
Ðại sĩ
giết súc sanh,
Nghĩa sớ kết
tội có hai cách, tại
sao nơi
đây chỉ
áp dụng một cách? Hơn
nữa hai thầy,
ân đức với
pháp đồng nhau, tại
sao Ðại sĩ
thành nghịch mà Tỳ-kheo
không gọi là nghịch?
Ðáp:
- Thọ
giới Bồ-tát,
chắc chắn
là có phát tâm Bồ-đề,
tự mình hiểu
rõ chúng sanh đồng
có Phật tánh, từ
bi ái mẫn như
thân mình, như con
mình, đâu có thể khinh thị
súc sanh, lại giết
hại, cho nên chỉ
áp dụng một trong hai cách mà thôi. AÂn
đối với pháp hai thầy,
thật không có sai
khác, song Tỳ-kheo
phạm giới sát,
đã thành biên tội,
không có cách nào được
cho thọ giới
lại; Bồ-tát
phạm giới
sát, cần phải
thấy
được tướng
hảo, mới cho thọ
giới lại.
Nếu giết
hai thầy, chắc
chắn trở
ngại giới
phẩm, do
đó gọi
là nghịch vậy.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, cố ý tự
tay mình làm dứt sanh mạng
người, hoặc
cầm dao
đưa người
khác dứt, hoặc
khen ngợi sự
chết, hoặc
khích lệ cho chết,
nói rằng: “Ôi, này bạn,
ích gì đời sống
xấu xa
đó. bạn
nên chết
đi tốt
hơn”. Hoặc
với tâm ý như
vậy, tư
duy như vậy,
bằng mọi
phương tiện,
khen ngợi sự
chết, khích lệ
cho chết. Người
kia nếu do thế
mà chết, Tỳ-kheo
ấy là kẻ
Ba-la-di, không được sống
chung.
NGUYÊN DO:
Ðức
Phật du hóa nơi
Tỳ-xá-ly, bên bờ
sông Di hầu, trong
giảng
đường, nói pháp
quán bất tịnh,
khen ngợi pháp quán
bất tịnh,
khen ngợi người
tư duy pháp quán bất
tịnh. Các Tỳ-kheo
nghe rồi, tu tập theo pháp quán bất
tịnh, lo ngại,
nhàm chán thân mạng,
tìm dao muốn tự
sát.
Khi
ấy, có Tỳ-kheo,
tự là Vật-lực-già
Nan-đề, cầm
con dao bén vào trong vườn
Bà-cầu. Có một
Tỳ-kheo nói với
Vật-lực
rằng: “Ðại
đức
đoạn mạng
tôi, tôi trả công bằng
y bát của tôi”. Vật-lực
nhận lời
và đoạn mạng
Tỳ-kheo
ấy. Hành
động xong,
đến nơi
sông, rửa dao, lòng
sanh hối hận.
Khi ấy, Thiên ma
đứng nơi sông, lại
khen ngợi hành
động aáy. Hối tâm của
Vật-lực liền
biến
mất, lại vào trong vườn,
giết các Tỳ-kheo,
cho đến 60 người. Thây chết
bỏ bừa bãi trong vườn,
cư sĩ kinh hoàng cơ
hiềm.
Khi
ấy,
đức Phật thấy
chúng bị giảm
thiểu, Ngài biết
mà cố hỏi.
Tôn giả A-nan trình bày
đầy
đủ mọi việc
lên đức Phật.
Phật bèn họp
chúng, nói pháp tam-muội
A-na-ban-na, rồi kiết
giới này.
Luật
Thiện kiến
nói:
Ðức
Như Lai dùng Thiên
nhãn thấy rõ xa xưa có 500 người
thợ săn, cùng nhau vào chỗ
trống vắng
giết một
bầy nai. Do hành
động
đó,
đọa vào ba
đường ác, chịu
các khổ não, trải
qua nhiều kiếp
mới ra khỏi.
Nhờ trước
đó có chút phước
lành, được sanh trong nhân gian, xuất gia làm
đạo. Quả
báo chưa hết
nên trong nửa tháng
lại cùng giết nhau, chư
Phật không thể
cứu
được. Trong 500 người
này, có những vị
đã chứng
các Thánh quả, sanh
tử có chừng
mức, ngoài ra người
phàm phu thì luân chuyển
không ngằn mé, cho nên
đức Như
Lai nói pháp quán bất
tịnh cho họ
nghe, khiến lìa ái
dục,
được sanh lên cõi
trời, vốn
không phải dạy
họ chết. Chỉ
vì biết trước
không thể dùng thần lực
cứu hộ, cho nên sau khi nói pháp quán bất
tịnh,
đức Như
Lai vào tịnh thất
nửa tháng, và chỉ
cho phép một vị
thị giả
đem thức
ăn
đến mà thôi. Do vậy,
đừng
để ai nói rằng:
Ðức Phật
là bậc Nhất
thiết trí mà không
thể chấm
dứt việc
các đệ tử
chém giết lẫn
nhau. Bởi vì sau khi nói bài pháp này,
đức Thế Tôn nhập
định, không một
ai được phép
đến.
Luận Tát-bà-đa
tỳ-bà-sa
đặt vấn
đề rằng:
Ðức Phật
là bậc Nhất
thiết trí, tại
sao dạy các Tỳ-kheo,
khiến cho họ phải
bị suy não như
vậy? Nếu
nói rằng Phật không biết,
thì không thể gọi
là bậc Nhất
thiết trí
được!
Ðáp:
- Ðức
Phật bình
đẳng dạy
cho tất cả.
Lúc bấy giờ
không phải chỉ
có 60 người thọ
pháp quán bất tịnh.
Giáo pháp của
đức Phật dạy
không hề có sự
thiên lệch, nhưng
chỉ có người
lãnh thọ,
được lợi
nhiều, ít có khác
nhau. Ðức Phật thật
thấu rõ, biết
căn nghiệp
của chúng sanh, trước
sau ắt phải
dùng nhân duyên pháp này, sau sẽ
được
đại lợi.
Sáu chục Tỳ-kheo
kia, có mặt lúc
Phaät Ca-diếp, thọ pháp quán bất
tịnh, mà không thể
chuyên tâm tu hành, phần
nhiều phạm
các ác hạnh, mạng
chung đọa vào
địa ngục.
Nay Phật ra
đời, tội
họ hết,
được sanh trong
nhân gian, sanh vào nhà hạ
tiện, xuất
gia vào đạo, do duyên trước
kia, nên thọ pháp
này. Sau khi mạng
chung, được sanh
lên cõi trời. Từ cõi trời
giáng xuống, theo
Phật nghe pháp thu
hoạch
được
đạo quả.
Do nhân duyên như vậy
nên biết Phật
không hề thiên lệch.
GIẢI THÍCH:
A-na-ban-na, Hoa dịch
là khiển lai khiển
khứ, tức
là 16 pháp môn
đắc thắng.
Bộ Pháp giới
thứ
đệ
sơ môn
nói rằng:
1. Biết hơi
thở vào.
2. Biết hơi
thở ra.
3. Biết hơi
thở dài ngắn.
4. Biết hơi
thở khắp
cả thân.
5. Trừ các
thân hành. Ðều thuộc về
Thân niệm
xứ quán.
6. Thọ hỷ.
7. Thọ lạc.
8. Thọ các
tâm hành. Ba pháp này thuộc
về Thọ
niệm xứ
quán.
9. Tâm tác hỷ.
10. Tâm tác nhiếp.
11. Tâm tác giải
thoát. Ba pháp này thuộc
về
Tâm niệm
xứ quán.
12. Quán vô thường.
13. Quán xuất
tán.
14. Quán ly dục.
15. Quán diệt.
16.
Quán khí xả (buông
xả). Năm pháp này thuộc
về Pháp niệm
xứ quán.
Hơn
nữa, biết hơi
thở vào, hơi
thở ra, chính là nương
nơi hơi thở
làm pháp môn, được
trụ nơi
thô tế và
định của dục
giới, thì biết
hơi thở
dài, hơi thở ngắn.
Nhập vào Vị
đáo
địa (Vị
đáo
định) thì biết
khắp cả
thân. Ðược Sơ
thiền thì trừ
thân hành, thọ hỷ,
thọ lạc,
thọ các tâm hành. Ðắc
Nhị thiền
thì tâm tác hỷ, tác
nhiếp. Ðắc Tam thiền
thì tâm tác giải
thoát. Ðắc Tứ
thiền thì quán vô
thường. Ðắc Không xứ
thì quán xuất tán.
Ðắc Thức xứ
thì quán ly dục.
Khi đắc Vô sở hữu
thì có thể quán diệt.
Khi đắc Phi hữu
tưởng, phi vô tưởng
thì quán khí xả.
Ðây cùng với
căn bản
Tứ thiền,
Tứ
định hình như
là đồng, nhưng
quán hạnh có khác. Người
tu hành nếu
ở trong mỗi
địa tu quán chiếu
rõ thì trong mỗi
địa,
điên
đảo không khởi,
tâm không nhiễm trước.
Tùy theo nhân duyên kia hội
đủ liền
ở nơi
đó phát chơn
Vô lậu, chứng
Tam thừa
đạo.
TƯỚNG TRẠNG
CỦA TỘI
Trong
đây tự
mình giết, dạy
người giết,
sai kẻ khác giết,
khuyên giết, phương
tiện giết,
tất cả
đều phạm
Ba-la-di tội. Ðối tượng
không chết phạm
Thâu-lan-giá. Ðối với
tám bộ chúng, súc
sanh, hiểu rõ tiếng nói, biến
hình, tìm cách giết,
giết
được phạm
Thâu-lan-giá, không chết
phạm Ðột-kiết-la.
Thật 1à người,
tưởng là thật
người, giết,
phạm Ba-la-di. Nghi
là người, phạm Thâu-lan-giá (Y theo luật Căn
bản cũng
phạm Ba-la-di). Người
mà tưởng không phải
người, không phải
người mà tưởng
là người, không phải
người, nghi, tưởng
không phải là người,
tất cả
đều phạm
Thâu-lan-giá. Tỳ-kheo-ni
phạm Ba-la-di, ba
chúng dưới phạm Ðột-kieát-la,
diệt tẫn.
Không phạm: Ngộ sát, không có tâm sát hại, trước
khi chưa chế
giới v.v...
Phần
thứ tư
nói:
Dùng phương
tiện làm
đọa thai của
kẻ khác phạm
Ba-la-di. Mẹ chết,
con sống, mẹ
chết không phạm,
chỉ mắc
tội Thâu-lan-giá.
Số
đông Tỳ-kheo sai một
người dứt
mạng kẻ
khác, tất cả
Tỳ-kheo
đều phạm Ba-la-di. Phương
tiện muốn
tự sát
Thâu-lan-giá.
Luật
Tăng kỳ
nói:
Khi
dùng phương tiện
muốn
tự sát mắc
tội Thâu-lan-giá, nếu
tự sát rồi
thì phạm tội
Ba-la-di. Dùng dao kê chỗ
ái, phạm
Thâu-lan-giá. Chỗ
ái là cách cốc
đạo mỗi
bên bốn ngón tay (cốc
đạo là hậu
môn).
Bộ
Căn bản ni-đà-na
nói:
Không
nên cắt cục
trĩ (bệnh
lòi trê).
Luật
Ngũ phần nói:
Sau khi
vào thai mẹ
đến ngày 49 gọi
là tợ nhơn,
quá thời gian
đó
đều gọi
là nhơn. Hoặc nhơn
hay tợ nhơn
mà giết mạng
ấy
đều phạm
Ba-la-di.
Nếu
viết thư khiến
kẻ khác giết,
mỗi chữ
phạm một
Thâu-lan-giá. Thư
ấy
đến nơi, người
ấy do
đó mà chết, phạm
Ba-la-di. Nếu dùng
lời nói tương tợ,
dạy người
kia giết người
đó nhân
đây mà chết, phạm
Ba-la-di.
Ðộc
tưởng là
độc phạm
Ðột-kiết-la.
Không độc tưởng là
độc,
độc tưởng là không
độc,
đều phạm
Thâu-lan-giá. Khi khởi
tâm giết hại
phạm Ðột-kiết-la. Khi khởi
phương tiện
giết hại
phạm Thâu-lan-giá,
đối tượng chết,
phạm Ba-la-di.
Có hai
Tỳ-kheo giận
nhau, sau đó cùng
đi một
đường, trên
đường
đánh nhau, một
người chết.
Phật nói: Không có tâm sát thì không phạm.
Vì giận trở
lại
đánh Tỳ-kheo
phạm Ba-dật-đề.
Từ nay không cho
phép giận nhau, chưa có sự
ăn năn tạ
tội, cùng
đi một
đường, nếu
phạm, mắc
tội Ðột-kiết-la.
Muốn
giết người kia, mà nhầm
giết người
này thì phạm
Thâu-lan-giá.
Luật
Thập tụng nói:
Nếu
vì giết người mà
đào hầm,
làm cùm, làm cung, bủa
lưới v.v... Người
ấy nhân
đây mà chết
phạm Ba-la-di. Nếu
không chết liền,
sau đó nhân vậy
mà chết, cũng
phạm Ba-la-di. Sau
đó, không nhân
đây mà chết, phạm
Thâu-lan-giá. Nếu
vì phi nhơn mà làm,
phi nhơn chết phạm
Thâu-lan-giá, người
chết, súc sanh chết
đều phạm
Ðột-kiết-la. (Nên nói: Người, súc sanh chết,
không có tội, vốn
không có tâm ác vậy,
chỉ
đối với
bên phi nhơn, nên mắc
tội phuơng
tiện). Nếu
vì súc sanh mà làm, súc sanh chết
phạm Ba-dật-đề,
nhơn, phi nhơn
chết thì phạm
Ðột-kiết-la
(cũng chỉ
theo bên súc sanh, kiết
tội phương
tiện). Nếu
không nhất
định vì một
loài nào làm, mà loài nào
đến, cũng
đều bị
chết, nếu
người chết
thì phạm Ba-la-di,
phi nhơn chết thì phạm
Thâu-lan-giá, súc sanh chết
thì phạm Ba-dật-đề,
tất cả không chết
thì phạm một
Thâu-lan-giá, và hai Ðột-kiết-la.
Tự
đoạn âm phạm
Thâu-lan-giá. Tự
đoạn
ngón tay phạm Ðột-kiết-la.
Giết
người biến
hóa phạm Thâu-lan-giá. Có tâm sát, nhưng
đánh người
không chết phạm Thâu-lan-giá. Chăm
sóc bệnh lâu ngày,
sanh tâm nhàm chán, để
tạo cho bệnh
nhơn chết,
phạm Thâu-lan-giá. Xúi giục
đi
đến nơi
thức
ăn có chất
độc, kẻ
ăn bị
chết, phạm
Thâu-lan-giá. Phá mụt
nhọt chưa chín, cho người
chết, phạm
Thâu-lan-giá. Phá mụt
nhọt
đã chín thì không tội.
Luận
Tát-bà-đa tỳ-bà-sa
nói:
Nếu
dùng ảnh hưởng
lời nói của
Tỳ-kheo, mà chinh
phục thống trị
một nước khác
để thu tài bảo
đều mắc hai tội
Ba-la-di là sát và đạo.
Ma-đắc-lặc-già
nói:
Muốn
giết phàm nhơn, nhầm
giết La-hán; muốn
giết La-hán nhầm
giết phàm nhơn;
muốn giết
cha, nhầm giết
mẹ, muốn
giết mẹ,
nhầm giết
cha, đều phạm
Thâu-lan-giá, không xếp
vào nghịch tội.
BIỆN MINH:
Hỏi:
- Thánh nhơn
xuất thế,
cha mẹ sanh thân
này, tuy là nhầm
sát, nhưng
đâu thoát khỏi
báo khổ trong ba
đường, làm sao thoát khỏi
sự cơ hiềm
của người
đời. Tuy
đối với
giới thân không hề
gì, nhưng có thể
an tâm tấn
đạo chăng?
Ðáp:
- Hai giới
sát và đạo, dựa
vào tâm để luận
tội, chứ
không dựa vào sự tướng,
nay đối với
đối tượng
muốn giết, sự
việc còn chưa
toại nguyện,
cho nên chỉ kết
tội phương
tiện, giết nhầm
chứ không cố
tâm để giết,
nên không mắc tội.
Bốn duyên
đã không hội
đủ thì giới thể
vẫn còn. Ðến
như
đối với
khổ báo trong ba
đường. Sự cơ
hiềm của
người
đời, tất
cả
đều thuộc
về giá tội, dĩ
nhiên là có, đâu có
thể dựa
vào đó mà gọi
là mất giới
được.
GIỚI THỨ
TƯ: ÐẠI
VỌNG NGỮ
Ðây là
tánh tội, Ðại
thừa
đồng cấm.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, thật sự
không chứng ngộ,
mà tự mình tuyên bố
rằng: “Tôi
đã chứng
đắc pháp của
bậc Thượng
nhơn; tôi
đã chứng
nhập pháp thù thắng
của Thánh trí. Tôi biết
như vậy.
Tôi thấy như
vậy”. Vị
ấy vào một
lúc khác, bị người
cật vấn,
hay không cật vấn,
muốn cho mình
được thanh tịnh,
nói như vầy:
“Tôi thật sự
không biết, không thấy,
nhưng
đã nói là có biết,
có thấy. Ðó là lời
nói hư dối”.
Ngoại trừ
Tăng thượng
mạn, Tỳ-kheo
ấy là Ba-la-di, không
được sống
chung.
NGUYÊN DO:
Ðức
Phật du hóa nơi thành Tỳ-xá-ly,
bên bờ sông Di hầu,
bấy giờ
gặp lúc mất
mùa, khất thực
rất khó khăn.
Bên sông Bà-cầu, có
các Tỳ-kheo
đến người
Cư sĩ, tự
nói mình được pháp
của bậc
Thượng nhơn
v.v... Các Cư sĩ
tin ưa cúng dường
nên không bị khổ
sở về vấn
đề
ăn uống.
An cư xong các Tỳ-kheo
đến yết
kiến
đức Thế
Tôn. Ngài hỏi thăm
và đề cập
đến vấn
đề
ấy, họ trình bày
đầy
đủ. Ðức Phật
nói: “Các ông là người
ngu si. Có chứng quả
thật còn không nên
đến người
nói, huống là không thật
có. Ở
đời có hai kẻ
giaëc: Một là thật
chẳng phải
tịnh hạnh
mà tự xưng
là tịnh hạnh.
Hai là vì bụng và
miệng nên không chơn
thật, chẳng
phải mình có, mà
ở trong
đại chúng, cố
ý vọng ngữ
nói mình chứng
đặng pháp của bậc
Thượng nhơn.
Trong hai kẻ giặc
này, hạng người
vì bụng và miệng
là kẻ giặc
đại tối
thượng (nguy hiểm
tai họa nhất)
vì trộm nhận
thức
ăn, thức
uống của người”.
Câu “trừ
Tăng thượng
mạn” trong luật
Tăng kỳ
nói:
Có hai
vị Tỳ-kheo
tu nơi A-luyện-nhã,
một trong hai vị,
tạm thời
thành tựu căn,
lực, giác,
đạo, tham sân không
phát khởi, nói với vị
Tỳ-kheo thứ
hai rằng: “Trưởng
lão, tôi chứng
đắc A-la-hán”. Sau
đó,
đi
đến trong xóm làng,
buông lung các căn,
lơ là tu tập nói với
người bạn
rằng: “Không chứng”.
Người bạn nói: “Trưởng
lão vọng xưng
chứng
đắc pháp của
bậc hơn
người, phạm
tội Ba-la-di”. Vị
Tỳ-kheo
ấy nói: “Tôi không phải
biết mà dối
nói, mà tôi tưởng
là thật vậy”.
Do nhân duyên ấy bạch
Phật, Phật
bảo:
“Ðây là
Tăng thượng
mạn. Tại
sao ở trong Chánh
pháp, bỏ nhà, ra khỏi
nhà, lại khởi
Tăng thượng
mạn? Ông nên trừ
Tăng thượng
mạn, có thể
chứng
được quả A-la-hán”.
Lúc
ấy, vị
Tỳ-kheo
đó quá xấu
hổ, liền
tinh tấn phương tiện,
tu tập chỉ
quán, trừ Tăng
thượng mạn,
đắc quả
A-la-hán.
BIỆN MINH:
Hỏi:
- Người
Tăng thượng
mạn chưa
được nói
được, chưa chứng
nói chứng, như
thiền thứ
tư, Tỳ-kheo vô văn,
tội cũng nặng
vậy. Tại
sao không kiết tội?
Ðáp:
- Trừ
Tăng thượng
mạn, nghĩa là người
đó không rõ pháp tướng,
cảm nhận
lầm
đặng một
ít nhẹ nhàng, tự
gọi là cứu
cánh, đó là
đúng như
lòng mà nói, nên không kết
tội vọng
ngữ (tâm khẩu
nhất như).
Bởi lẽ sau tỉnh
biết,
ăn năn
tội lỗi, tinh cần
tu tập, còn có thể
vào
đạo. Nếu bướng
bỉnh cố
ý tự phụ,
không hề cải
hối, mới
bị cái lỗi
vô văn. Không phải
như hạng
người
đại vọng ngữ,
tức thì mất
giới, quyết
định trầm
luân.
GIẢI THÍCH:
Nhân
pháp tức là nhân
ấm, nhân giới,
nhân nhập. Thượng
nhân phaùp, tức là
các pháp có khả năng
thành tựu, yếu
tố xuất ly sanh tử.
Tự ngôn, tức
là chính nơi mình.
Cho đến có
đắc, có quả.
Thánh trí tức là
pháp trí, tỷ trí
v.v... Kiến, tức là kiến
khổ, kiến
tập... Cho
đến tùy theo nghiệp
báo của chúng sanh, biết
đúng như
sự thật
vậy.
TƯỚNG TRẠNG
CỦA TỘI
Hư
dối không thật, chính mình
đến người
nói, hoặc sai người nói, hoặc
viết thư,
hoặc ra dấu
người kia biết,
phạm Ba-la-di, không biết,
phạm Thâu-lan-giá.
Yên tịnh,
khởi tưởng
không yên tịnh;
không yên tịnh khởi tươûng
yên tịnh, miệng
mình nói,
phạm Thâu-lan-giá.
Ðến quỷ,
súc sanh v.v... nói, nếu
nó biết, phạm
Thâu-lan-giá, không biết,
phạm Ðột-kiết-la.
Người, khởi
tưởng là người...
Sáu câu, chuẩn theo
đó mà biết
(theo bộ Căn
bản thì có hai
nặng bốn nhẹ).
Tỳ-kheo-ni phạm
Ba-la-di. Ba chúng dưới,
phạm Ðột-kiết-la,
diệt tẫn.
Không
phạm là
đến người nói: Căn,
lực, giác, ý, giải
thoát, tam-muội
chánh thọ các pháp, không nói mình chứng
được, cho
đến nói một
mình, nói trong mộng,
nói nhầm, trước
khi chưa chế
giới v.v...
Luật
Ngũ phần nói:
Thà nuốt
hòn đá
đốt nóng, uống
nước
đồng sôi, chứ
không dùng lời nói
hư vọng
mà ăn
đồ
ăn của
tín thí.
Trong
thế gian có 5 hạng
đại tặc:
1) Hạng
người làm chủ
trăm người,
ngàn người,
phá thành, phá làng xóm, hại
người lấy
của.
2) Hạng
ác Tỳ-kheo, dẫn
các Tỳ-kheo du hành
trong nhơn
gian, nói pháp tà mạng.
3) Hạng
ác Tỳ-kheo,
đối với pháp do
đức Phật
nói; mà xưng là do mình nói.
4) Hạng
ác Tỳ-kheo, không
tu phạm hạnh,
tự nói
là tôi tu phạm hạnh.
5) Hạng
ác Tỳ-kheo vì lợi
dưỡng, không hề
có
pháp hơn người
mà tự xưng
là chứng
đắc
pháp ấy.
Hạng
giặc thứ 5
đây là hạng
đại tặc lớn
nhất của
tất cả
thế gian, nhơn,
thiên, ma, phạm,
Sa-môn, Bà-la-môn.
Luật
ấy lại nói: Vì lợi
dưỡng, nhiều
cách khen ngợi giới,
định, tuệ,
giải thoát, giải
thoát tri kiến của
kẻ khác thành tựu,
với ý
đồ làm
đẹp cho chính mình,
phạm Thâu-lan-giá.
Vì lợi dưỡng,
đi,
đứng, nằm,
ngồi, nói năng
an tường, tỏ
ra rằng mình có tướng
mạo
đã chứng
được
đạo, muốn
cho người khác biết,
phạm Thâu-lan-giá.
Luật
Thập tụng nói:
Nếu
nói tôi là A-la-hán, cho
đến chứng
được niệm
A-na-ban-na mà không thật,
phạm
Ba-la-di. Nếu nói
tôi khéo trì giới,
dâm dục không khởi, mà không thật,
phạm Thâu-lan-giá.
Nếu nói trời
đến, cho
đến quỷ
La-sát đến, cùng nhau vấn
đáp, mà không thật,
phạm Ba-la-di. Nếu
nói gió lốc, thổ
quỷ
đi
đến chỗ
tôi, mà không thật,
phạm Thâu-lan-giá.
Có người
hỏi Tỳ-kheo
rằng: Ngài là bậc
A-la-hán phải
không? Nếu nín thinh, phạm
Thâu-lan-giá. Trường
hợp
đó nên nói: Tôi
không phải là
A-la-hán.
Tát-bà-đa tỳ-bà-sa
nói:
Không
có thọ trì
đọc tụng mà nói là tôi có thọ
trì đọc tụng,
đều phạm
Thâu-lan-giá.
Ma-đắc-lặc-già
nói:
Nếu
nói tôi không đọa
tam đồ, phạm Thâu-lan-giá. Nói tôi
đã lìa kiết
sử phiền
não phạm Ba-la-di. Ðến
người
điếc,
người câm, người
điếc
và câm hay là người
nhập
định mà nói, phạm
Thâu-lan-giá.
Nếu
hỏi: “Ðắc quả
không?” Trả lời:
“Ðắc quả”
mà chỉ trái (quả)
hiện
ở trong tay, phạm
Thâu-lan-giá.
Luật
Thiện kiến
nói:
Nếu
có Tỳ-kheo
ở A-luyện-nhã,
lập quy chế:
“Ai ngồi nơi
gốc cây này, ai
kinh hành nơi chỗ này, thì
đắc quả
A-la-hán, chúng ta nên dùng hương
hoa cúng dường”. Có
kẻ ác Tỳ-kheo
muốn
được sự
cúng dường này,
đến ngồi và
đi nơi
đó, phạm
Ba-la-di.
Nếu
có kẻ bạch
y cất chùa và nói:
“Ai vào trong chùa này là A-la-hán”. Có kẻ
ác Tỳ-kheo vào
trong chùa này, phạm
Ba-la-di.
Nếu
chúng Tăng lập quy chế:
trong ba tháng hạ
chớ nói với nhau, chớ
ngủ nghỉ,
chớ nhận
đồ cúng dường
của Ðàn-việt.
Như vậy là phi pháp chế,
không tuân theo, không phạm.
BIỆN MINH:
Hỏi:
- Trong kinh có pháp tu: Nhất
hạnh tam-muội,
chỉ ngồi
không nằm. Thường
hành tam-muội,
không ngồi, không nằm. Lại
nữa, trong pháp chế
của pháp sám hối,
chuyên chú không nói tạp,
kể cả
việc giao tiếp
hỏi han. Tiên Ðức
cũng có vị trọn
đời không ra khỏi
núi, cùng với luật Thiện
kiến trái nhau,
làm thế nào hội
thông được?
Ðáp:
- Y theo Ðại
thừa giáo, như
pháp tấn tu, chắc
chắn không gọi
là phạm luật.
Ngoài luật nghi của
đức Phật
cộng thêm sự tinh tấn,
nay tách rời ra thì
gọi là phi pháp. Dựa
vào nghĩa
để hội
thông thì thật
không trái phạm.
Nay tế nhị
để giải thích, nhất
hạnh tam-muội
v.v... đều tự
mình thệ tinh tấn
tu hành, không bị lệ
thuộc vào
điều
ước trong Tăng.
Pháp sám hối tuy ngăn cấm
nói tạp, nhưng
cũng chẳng
phải thọ
hành pháp câm (á pháp). Ðộc
cư nhàn tịnh,
suốt
đời dứt
sạch mọi
tiếp xúc với
người
đời;
đó là
điều
cao đẹp, là
điều
rất cần,
đại chúng không thể
cùng nhau phụng
hành sao?
CHỨNG MINH:
Kinh Ðại bát-niết-bàn
nói:
Tất cả
chúng sanh tuy có tánh Phật,
nhưng cần
phải giữ
giới, vậy
sau mới
thấy. Nhân
thấy tánh Phật
thì thành quả vị
Vô thượng Chánh
đẳng Chaùnh giác. Nếu
có người nói: Phật
nói tất cả
chúng sanh đều có
tánh Phật, vì phiền não che lấp,
không biết không thấy;
Bởi vậy
cho nên cần phải
siêng tu phương tiện,
đoạn
sạch phiền
não. Người nào nói
vậy nên biết họ
không phạm tứ
trọng.
Nếu có người
nói: Tôi đã thành tựu
quả vị
Vô thượng Chánh
đaúng Chánh giác. Tại
sao vậy? Do có Phật
tánh vậy. Có tánh
Phật, quyết
định sẽ
thành quả vị
Vô thuợng Chánh
đẳng Chánh giác. Do
nhân duyên ấy nên
biết tôi nay
đã thành tựu
quả vị
Bồ-đề. Nên biết
người nói như
vậy tức
là phạm tội
Ba-la-di. Tại sao vậy?
Tuy có tánh Phật,
do chưa tu tập
các thiện phương
tiện cho nên chưa
thấy. Do chưa
thấy, nên không thể
nói thành tựu quả
vị Vô thượng
Chánh đẳng Chánh
giác.
C. HỎI ÐỂ KẾT THÚC
Các
Ðại
đức, tôi
đã tụng
xong bốn pháp Ba-la-di, Tỳ-kheo
nào phạm bất
cứ một
pháp nào không còn được sống
chung với các Tỳ-kheo.
cũng như
trước kia, sau khi phạm
cũng vậy.
Tỳ-kheo
ấy là kẻ
Ba-la-di, không được sống
chung.
Nay
hỏi, các Ðại
đức trong
đây có thanh tịnh
không? (3 lần). Các Ðại
đức trong
đây thanh tịnh
vì im lặng. Việc
ấy tôi ghi nhận
như vậy.
GIẢI THÍCH:
Luật
nhiếp nói:
Trước
kia là người thế tục,
không được dự
phần vào nếp
sống của Tỳ-kheo;
sau khi phạm giới
rồi, cùng với
người thế tục
trước kia, bản
thể không khác, cho nên nói rằng: Như
trước kia, sau khi
phạm cũng
vậy.
CHỨNG MINH:
Phần thứ
tư
nói:
Người chết có 5
điều
bất hảo:
1)
Không sạch.
2) Hôi
thối.
3) Có sự
sợ sệt
nhờm gớm.
4) Khiến
cho người sanh sợ
sệt nhờm
gớm,
ác quỷ lại
ưa thích.
5) Bị
để chỗ
ở của
ác thú, phi nhơn.
Người phạm
giới cũng
như vậy:
1) Thân
khẩu ý nghiệp
bất tịnh.
2) Tiếng
xấu
đồn khắp
nơi.
3) Các
Tỳ-kheo tốt
sợ, tránh xa.
4) Các
thiện Tỳ-kheo
thấy sanh ác tâm và
nghĩ: Tại
sao ta lại thấy
kẻ ác như
thế này?
5) Cùng
với người
bất thiện
chung ở.
Phá giới có 5
điều
lỗi lầm
và nguy hại:
1)
Tự mình hại mình.
2)
Bị người
trí chê trách.
3)
Tiếng xấu
đồn khắp.
4)
Khi lâm chung sanh hối
hận.
5)
Lúc chết
đọa vào
địa ngục.
Lại có 5 việc
nữa:
1)
Vật chưa
được thì không
được.
2)
Vật
đã
được thì không bảo
vệ
được.
3)
Ở trong chúng bị
hổ thẹn.
4)
Tiếng ác rao khắp
trong xứ.
5)
Chết
đọa vào
đường ác.
Có 5 pháp gọi là
đại tặc,
tạo
đại tội
suốt
đời nhưng
không hề bị
hệ phược. 5 pháp
ấy là:
1) Chỗ
ở không nhất
định, có bạn
ưa thích.
2) Nhiều
đao trượng.
3) Giàu
có nhiều tài bảo,
nếu bị bắt
lo lót liền.
4) Bạn
bè là những người
có quyền thế
lớn như
vua hay đại thần, nếu
bị bắt thì
được bảo
hộ.
5) Làm
giặc
ở phương xa rồi
trở về.
Tỳ-kheo phá giới
cũng có 5 pháp tạo
nhiều tội
lỗi, nhưng
không bị người
cử tội sớm
vì:
1) Chỗ
ở không nhất
định, có nhiều
bè đảng.
2) Học
nhiều, có khả
năng ghi nhớ,
nói lúc nào cũng
hay, có văn, có nghĩa. Luôn luôn tịnh
hạnh, nhưng
không thể tư
duy với tâm lành
để thâm nhập Chánh kiến.
3) Thường
được tứ
sự cúng dường,
khi bị cử
tội thì lo lót.
4) Có
thân hậu (bạn)
là cấp bậc
lớn, hoặc
Thượng tọa
hay thứ tọa,
bị cử
tội
được họ
bảo hộ.
5)
Ở chỗ
đồng trống,
tới lui nhà giàu,
tìm cầu lợi
dưỡng.
Ðấy
là 5 pháp đồng với kẻ
đại tặc kia.
Luật
Thiện kiến
nói:
Ðã làm
tất cả
các việc ác thì không ai không biết. Khi mới
làm thì thần hộ
thân thấy biết,
kế
đó Thiên, nhơn
có trí tha tâm biết;
hạng người như
vậy trời
thần
đều thấy
biết. Cho nên quả
quyết rằng:
Lần lượt tiếp
nối nhau, truyền
đến cõi Phạm
thiên, an trí nơi
cõi Vô sắc, mọi
người
đều biết hết.
Tát-bà-đa tỳ-bà-sa
nói:
Ban
đầu phạm
một giới,
đã hủy
phá cái đồ
đựng
đạo (Ðạo
khí), gọi là
Ba-la-di. Sau đó giết người,
mắc tội Ðột-kiết-la.
Thật sự
là tội nặng,
nhưng không gọi
là Ba-la-di, vì không còn cái
đồ
đựng
đạo
để phá vậy.
Kinh
Ưu-bà-tắc
ngũ giới tướng
nói:
Phật
bảo Tỳ-kheo:
Như Lai có hai
thân: Sanh thân, Giới
thân.
Nếu
Thiện nam tử vì Sanh thân của
Ta, xây Tháp bằng bảy
báu, cao đến cõi trời Phạm
thiên. Nếu có người
làm sứt mẻ
thì tội
đó còn có thể
ăn năn
được, nhưng
nếu làm sứt
mẻ Giới
thân của Ta thì tội
đó vô lượng.
Phần
thứ nhất
nói về bốn
pháp khí đã xong.
II. MƯỜI BA PHÁP TĂNG
TÀN
Cũng
chia làm ba: Nêu chung, kê riêng giới
tướng, hỏi
để kết
thúc.
A. NÊU CHUNG:
Thưa
các Ðại
đức,
đây là mười
ba pháp Tăng-già-bà-thi-sa, xuất
từ Giới
kinh, nửa tháng tụng
một lần.
GIẢI THÍCH:
Luật
Thập tụng nói:
Tăng-già-bà-thi-sa
là tội thuộc
về Tăng,
chỉ có Tăng mới
cứu
được. Trước
chúng Tăng
ăn năn
tội lỗi thì tội
mới tiêu trừ,
nên gọi là Tăng-già-bà-thi-sa.
Luật
Căn bản nói:
Chữ
Tăng-già
ở
đây có nghĩa
là người phạm tội
này phải nương
theo Tăng-già
để hành pháp sám,
và y nơi Tăng-già
mà xuất tội.
Chữ Bà-thi-sa có
nghĩa là còn hy vọng
cứu
được. Nếu
phạm một
trong bốn trọng
giới thì không thể
cứu
được, không
được sống
chung. Còn 13 pháp này, nếu
phạm, còn có thể
cứu sống
được, cho nên gọi
là Tăng tàn.
Luật
nhiếp nói:
Do vâng
theo lời dạy
của chúng nên tội
có thể trừ
diệt.
Kinh
Tỳ-ni mẫu
nói:
Như
người bị kẻ
khác chặt yết
hầu chưa
đứt, gọi
là tàn (còn sống
sót). Như hai người cùng vào trận
chiến, một
người bị
giết chết
liền, người
thứ hai bị
người giết
nhưng mạng sống
còn thoi thóp chưa
chết hẳn.
Nếu gặp
được thầy
hay thuốc tốt
có thể chữa
lành. Nếu không có thầy
hay thuốc tốt
thì không thể chữa
được. Người
phạm Tăng
tàn cũng như
vậy. Ðứng
về lý thì có thể
sám hối
được, nếu
có chúng Tăng thanh
tịnh hướng
dẫn
đúng như
pháp để sám hối
trừ tội
thì tội này có thể
trừ. Nếu
không có đại chúng
thanh tịnh thì
không thể trừ
tội
được, nên gọi
là Tăng tàn.
B. LIỆT KÊ 13 GIỚI TƯỚNG
Từ giới
thứ nhất
“Lộng âm xuất
tinh” cho đến giới thứ
13 “không bỏ ác kiến”.
1. GIỚI CỐ
Ý LÀM XUẤT TINH
Ðại thừa
đồng cấm.
Kinh Phạm võng nói:
Thà lấy búa bén chặt
phá thân này chứ suốt
đời không dùng tâm
phá giới tham
đắm
ưa
đụng chạm
để tạo
tội.
Kinh Bồ-tát giới
bổn nói:
Khởi tâm ngũ
cái, không mở bày sự hiểu
biết, gọi
là phạm nhiều
điều tội
lỗi, tức
là khởi tâm nhiễm
ô, phạm tội
vậy.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, cố ý làm xuất
tinh, trừ chiêm bao, Tăng-già-bà-thi-sa.
NGUYÊN DO:
Ông Ca-lưu-đà-di
ý muốn về
dâm dục hừng
hẫy, nhan sắc
tiều tụy,
thân thể
ốm gầy.
Thời gian khác,
theo ý niệm nhớ tưởng,
lộng âm cho xuất
tinh, các căn tươi
vui, nhan sắc sáng
sủa. Tỳ-kheo quen thân hỏi
biết việc
này, bạch Phật,
kiết giới.
Khi ấy, có một
Tỳ-kheo, ngủ nghỉ
ý loạn, trong mộng
xuất tinh, nghi là phạm
giới này. Phật
dạy: Không phạm.
Song khi ngủ loạn
ý có 5 điều
lỗi:
- Ác mộng.
- Chư
thiên không hộ.
- Tâm
không vào trong pháp.
- Không
tư duy tướng của
ánh sáng.
- Trong
mộng bị xuất
tinh.
Ngủ
nghỉ với
ý nghĩ tốt,
có năm công
đức ngược
lại với
5 điều trên.
TƯỚNG TRẠNG
CỦA TỘI
Lộng
âm mà tinh xuất thì
phạm Tăng
tàn, tinh không xuất
phạm Thâu-lan-giá.
Dạy
Tỳ-kheo khác lộng
âm mà tinh xuất, phạm Thâu-lan-giá, không xuất
tinh phạm Ðột-kiết-la. Dạy
người khác lộng
âm mà tinh xuất hay
không xuất
đều phạm
Ðột-kiết-la.
Tỳ-kheo-ni phạm
Ba-dật-đề.
Ba chúng dưới phạm
Ðột-kiết-la.
Phần
thứ tư
nói:
Nếu
người nữ
nắm phía trước
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo
động thân, xuất
đồ bất
tịnh, phạm
Tăng tàn; không
động thân, mà xuất
bất tịnh,
phạm Ðột-kiết-la.
Nắm phía sau cũng
vậy. Khi nắm
chân đảnh lễ
cũng vậy.
Nếu dùng nam căn
để chỗ ngược
nước hay thuận
nước, hoặc
nước nhỏ giọt,
hay ngược gió, thuận
gió; hoặc dùng
miệng mút,
hay trong không trung nhớ
tưởng, thân
động, xuất bất
tịnh, tất
cả
đều phạm
Tăng tàn.
Luật Căn bản
nói:
Thà dùng tay cầm
con rắn
độc
đáng ghê gớm,
chứ không dùng tâm nhiễm
ô tự tay cầm
lấy sanh chi, dùng
tâm nhiễm ô nhìn
ngó sanh chi để mắc
tội ác tác.
Luật Ngũ
phần nói:
Ngủ với
tâm tán loạn, mắc
tội Ðột-kiết-la.
Nhớ
đến việc
hành dâm, phạm Ðột-kiết-la.
Kinh
Ðại niết-bàn
nói:
Ðối
với sự dâm dục
nên sanh ý tưởng
hôi thúi, cho đến
không thể sanh một ý tưởng
về tịnh. Nếu
hành dâm trong mộng,
lúc tỉnh dậy phải
sanh tâm hối hận.
2. GIỚI XÚC CHẠM
THAÂN NGƯỜI NỮ
Ðại thừa
đồng cấm.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, do dục tâm dồn
nén xúc chạm thân người
nữ, hoặc
nắm tay, hoặc
nắm tóc, hoặc
xúc chạm bất
cứ một
thân phần nào, Tăng-già-bà-thi-sa.
NGUYÊN DO:
Ca-lưu-đà-di
nhân Phật chế giới
không được lộng
âm xuất tinh, lại
rình chờ phụ
nữ
đến phòng rờ,
hôn môi má. Người
nào ưa, thì vui thích với
việc làm
ấy,
kẻ
không
ưa, thì giận
dữ mắng
chửi, và nói lại
với các Tỳ-kheo,
các Tỳ-kheo bạch
Phật kiết
giới.
TƯỚNG
TẠNG
CỦA
TỘI
Rờ
mó người
nữ, một
lần rờ
mó, một tội
Tăng tàn. Rờ
mó quỷ nữ
và súc sanh nữ, loài có thể
biến hình, phạm
Thâu-lan-giá, không thể
biến hình, phạm
Ðột-kiết-la.
Nếu
người
nữ làm lễ,
nắm chân, khởi
cảm giác vui
động
thân, phạm Tăng
tàn; không
động thân, phạm
Ðột-kiết-la.
Nếu
với
dục tâm chạm
y bát v.v... cho
đến tự
chạm thân mình, tất
cả
đều
phạm Ðột-kiết-la.
Tỳ-kheo-ni
phạm
Ba-la-di. Ba chúng dưới phạm
Ðột-kiết-la.
Không phạm là xúc chạm
nhau khi nhận
đồ
vật, hoặc
xúc chạm khi cởi
(trói) nhau, khuyên giải
v.v...
Phần
thứ tư
nói:
Khởi
ý tưởng
nữ cùng với
thân người nam chạm
nhau, khởi ý tưởng
nam cùng với thân người
nữ chạm
nhau,
đều phạm
Thâu-lan-giá. Người nữ
này, tưởng là bao nhiêu người
nữ khác; bao nhiêu người
nữ khác, tưởng
là người nữ
này, thân chạm nhau
đều
phạm Tăng
tàn. Cùng với thân người
nữ chết
mà chưa hư
hoại chạm
nhau, phạm Tăng
tàn. Nếu xúc chạm
thân hư hoại
phân nửa, hay phần
nhiều hư
hoại, phạm
Thâu-lan-giá. Tùy theo nữ
nhơn chạm
vào thân phần nào mà Tỳ-kheo
khởi
động
dục tâm, phạm
Thâu-lan-giá. Nữ
nhơn
bị nước
cuốn trôi, với
ý niệm từ
tâm cứu vớt
va chạm mà không thọ
lạc, không phạm.
Luật
Tăng kỳ
nói:
Khi Tỳ-kheo
ngồi, có người
nữ lễ
dưới chân, nếu
khởi dục
tâm, nên trụ nơi
chánh thaân, phải
bảo
người nữ
rằng: Cách ra một
chút
để lễ.
Nếu người
nữ quá giàu lòng tin,
đột ngột
đến
lễ trực
tiếp nơi
chân, nên tự cắn
cái luỡi khiến
cho
đau khỏi
biết sự
va chạm mịn
màng của người
nữ.
Nếu
người nữ
đến Tỳ-kheo
xin nuớc, không nên tự
tay mình cầm gáo múc nước
xối tay người
nữ, mà nên dùng
đồ
đựng
để
mà cho. Nếu không có
đồ
đựng thì bảo
tịnh nhơn
cho. Nếu không có tịnh
nhơn thì cầm
gáo
để trên giường
hay trên ghế bảo
họ tự
lấy.
Nếu
người nữ
bị nước
cuốn trôi cầu
cứu, Tỳ-kheo
khởi ý tưởng
như
đất,
nắm tay vớt
lên, không phạm. Hay là trao cây
tre, cây gỗ, sợi
dây cho họ
nắm kéo lên, không phạm.
Hoặc nói: “Tôi biết
cô tuy khổ nhưng
do số mạng
đã
định
trước.” thì không phạm.
Luật
Căn bản
nói:
Phàm chạm
thân người nữ,
đối tượng
có thể hành dâm, trường
hợp không có y ngăn
cách, phạm Tăng
tàn. Có y, phạm thô tội.
Trường hợp
không thể hành dâm, không có y, phạm thô tội;
có y, phạm ác tác.
Nếu
xúc chạm người nam và huỳnh
môn có thể hành
dâm, không có y, phạm
thô tội; có y, phạm
ác tác. Không thể
hành dâm có y, không y, đều
mắc tội
ác tác.
Nếu
xúc chạm bàng sanh,
có thể, không thể hành dâm
đều mắc
tội ác tác.
Nếu
thấy người nữ
bị nước cuốn
trôi, hoặc tự
thắt cổ,
hay uống thuốc
độc v.v... khi cần
cứu tế,
xúc chạm
đều không phạm.
Luật
Thập tụng nói:
Người
nữ vì dục tâm rờ
chạm Tỳ-kheo
không có y, Tỳ-kheo
có dục tâm
động thân, cảm
thọ sự
trơn mịn,
phạm Tăng
tàn. Tỳ-kheo có y
phạm Thâu-lan-giá.
Nếu vì cứu nạn
lửa, nạn
nước, nạn
đao, nạn
ác trùng, nạn ác quỷ,
nạn từ
trên cao rớt xuống, tất
cả
đều không phạm.
Hoặc không có nhiễm
tâm, chạm nhầm,
đều không phạm.
Người
nữ bị
nước cuốn
trôi, nên cứu, lúc
đó tuy khởi
dục tâm, chỉ
nắm một
chỗ
đừng thả,
khi lôi đến bờ mới
thả ra, nắm
lại thì mắc
tội.
Hoặc người
nữ
được thêu hay vẽ
trên giấy, hay người
nữ bằng
gỗ, cố ý xúc chạm
phạm Ðột-kiết-la.
Luật Thiện
kiến nói:
Người nữ
đánh Tỳ-kheo,
Tỳ-kheo vì dục
tâm vui nhận, phạm
Ðột-kiết-la.
Nếu người
nữ có sức
lực nắm
Tỳ-kheo, hay nhiều
người nữ
cùng nắm, không thọ
lạc không phạm.
Kinh Giới nhân
duyên nói:
A-nan bị Ma-đăng-già dùng chú thuật
mê hoặc, không phạm
tội.
BIỆN MINH:
Hỏi:
- Căn
cứ theo luật
Tăng kỳ,
nếu không thể
khởi ý tưởng
là đất và cũng không có tre, cây, dây v.v...
để có thể trao cho họ
nắm thì nên
để tùy theo số
kiếp của
họ. Còn trong luật Thập
tụng thì nói
tuy có khởi dâm tâm
cũng cho phép cứu
họ. Vậy
nên theo bên nào?
Ðáp:
- Tăng
kỳ thì chú trọng
vấn
đề
đề phòng tội
lỗi. Còn Thập
tụng thì cần
gấp chỗ
cứu người.
Nay nên tự xét: Như
tập nhiễm
quá mạnh, nên theo
sự chế
cấm của luật
Tăng kỳ.
Nếu lòng từ
quả thật
là nổi bật,
mới áp dụng
theo sự quyền
chế của luật
Thập tụng.
3. GIỚI NÓI THÔ ÁC
Ðây là
tánh tội. Ðại
thừa
đồng cấm.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, do dục tâm dồn
nén, nói lời thô tục
về dâm dục
với người
nữ, tùy theo lời
nói thô tục về
dâm dục, Tăng-già-bà-thi-sa.
NGUYÊN DO:
Duyên
khởi cũng
do Ca-lưu-đà-di
nên Phật chế
giới này.
GIẢI THÍCH:
Thô ác
tức là phi phạm
hạnh. Lời nói dâm dục
tức là khen ngợi
“hai đường” tốt
xấu... hoặc
tự mình tìm cầu,
hoặc dạy
người khác tìm cầu,
hoặc hỏi,
hoặc
đáp, hoặc
nói, hoặc dạy
người, hoặc
mắng.
TƯỚNG TRẠNG
CỦA TỘI
Nói một
cách rõ ràng từ mỗi
câu phạm một
Tăng tàn, không rõ
ràng phạm
Thâu-lan-giá. Hoặc
gởi thư,
hoặc sai sứ hay ra dấu,
khiến cho người
nữ kia biết,
phạm Tăng
tàn; không biết, phạm Thâu-lan-giá. Nói các bộ phận
khác tốt xấu,
phạm Thâu-lan-giá. Ðối
với người
nữ hai căn,
phi nhơn vaø loại
nữ súc sanh có thể
biến hình mà nói,
phạm Thâu-lan-giá.
Loại
ấy không hiểu
biết, phạm Ðột-kiết-la.
Ðối với
loài nữ súc sanh
không thể biến
hình và người nam
mà nói, tất cả
phạm Ðột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni
phạm Thâu-lan-giá.
Ba chúng dưới phạm
Ðột-kiết-la.
Trường
hợp vì người
nữ nói pháp quán bất
tịnh, hoặc
nói Tỳ-ni, khi nói pháp có
đề cập
đến, cùng những
việc nói trong mộng,
nói nhầm v.v... thì không phạm.
Phần thứ
tư
nói:
Nữ tưởng
là nam, nam tưởng
là nữ mà nói lời thô ác, phạm
Thâu-lan-giá. Người
nữ này mà tác tưởng
là người nữ
khác, người nữ
khác tác tưởng là
người nữ
này, phạm Tăng
tàn.
Tánh ưa nói lời thô ác mà không có tâm dục, phạm
Ðột-kiết-la.
Luật Thập
tụng nói:
Nếu người
nữ
đối trước
Tỳ-kheo nói lời
thô ác mà Tỳ-kheo
tùy thuận theo tâm
họ, nói ra bằng lời
ít hay nhiều tùy
theo đó, mỗi lời
nói phạm mỗi
tội Tăng
tàn.
4. GIỚI TỰ
KHEN MÌNH, ÐÒI CUNG PHỤNG DỤC
LẠC
Ðại
thừa
đồng cấm.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, do dục
tâm dồn
nén, đối
trước
người
nữ,
tự
khen thân mình: “Này cô! Tôi tu phạm
hạnh,
trì giới
tinh tấn,
tu tập
pháp thiện.
Nên đem
pháp dâm dục
ấy cung phụng
tôi, sự
cung phụng
ấy là bậc
nhất”,
Tăng-già-bà-thi-sa.
NGUYÊN DO:
Như
giới trước,
cũng do Ca-lưu-đà-di nên Phật
chế giới
này.
GIẢI THÍCH:
Khen thân tức
là khen thân mình
đoan
chánh, nhan sắc tốt
đẹp, giòng dõi v.v... Phạm
hạnh
tức là siêng tu, lìa
xa uế
trược. Giữ
giới tức
là thọ trì học
xứ không khiếm
khuyết, không lủng
chảy, không nhiễm
ô. Thiện pháp tức
là
ưa thích
ở
chỗ nhàn tịnh,
sống theo 12 hạnh
Ðầu-đà,
học nhiều
hay nói pháp, giữ
luật,
ngồi thiền
v.v...
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Tùy theo sự
khen ngợi nhiều
hay ít, nói một cách rõ ràng, mỗi
lần là một
Tăng tàn. Nói không
rõ ràng, phạm Thâu-lan-giá. Loài nữ
súc sanh và quỷ, biết,
không biết, tưởng,
nghi v.v... cũng
đồng như trước.
Tỳ-kheo-ni v.v...
đồng như trước.
5. GIỚI
LÀM MAI MỐI
Ðây thuộc
về giá tội.
Ðại thừa
đồng cấm.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào qua lại
người
này người
kia làm mai mối,
đem ý người
nam nói với
người
nữ,
đem ý người
nữ
nói với
người
nam, hoặc
để thành việc
vợ
chồng,
hoặc
để cho tư
thông dù chỉ
trong chốc
lát, Tăng-già-bà-thi-sa.
NGUYÊN DO:
Tỳ-kheo
Ca-la, biết
rành về pháp thế
tục, khi ông làm mai
mối
cho các nam nữ thành chồng
vợ,
được
việc thì họ
cúng dường khen ngợi,
không hài lòng thì họ
oán trách cơ hiềm,
cho nên
đức Phật
chế giới
này.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Tùy theo làm mai mối
nhiều hay ít, mỗi
trường hợp
là phạm một
Tăng tàn. Nhận
lời
đến
bên kia nói, không trở
lại báo cáo, phạm
Thâu-lan-giá. Không nhận
lời,
đến
bên kia nói, trở
lại
báo cáo, phạm Thâu-lan-giá. Nhận
lời, không
đến
bên kia nói, không trở
lại báo cáo, phạm
Ðột-kiết-la.
Không nhận lời,
đến bên kia nói,
không trở
lại báo cáo, phạm
Ðột-kiết-la.
Các loại nữ
súc sanh, quỷ, biết,
không biết, tưởng,
nghi v.v...
đồng
như trước.
Cầm thơ
của người
đi, không xem coi,
hoặc
vì người bạch
y làm các loại sứ
giả,
đều
phạm Ðột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni
phạm Tăng
tàn. Ba chúng dưới phạm
Ðột-kiết-la.
Những
trường hợp
sau
đây không phạm:
Vì hòa hiệp
sự biệt
ly, vì cha mẹ bệnh,
vì bị giam cầm
trong ngục tù, vì người
Ưu-bà-tắc
tín tâm bệnh và bị
giam cầm trong ngục
tù, vì Tam bảo, vì Tỳ-kheo
bệnh v.v...
Xem thơ
và cầm
đi
thì không phạm.
Luật
Tăng kỳ
nói:
Trường
hợp người
nam có nhiều vợ
đối xử
không bình
đẳng, Tỳ-kheo
khuyên bảo người
nam
ấy
đối
xử cho bình
đẳng.
Người nam
ấy
trả lời:
sẽ như
lời thầy
khuyên bảo; Khi
ấy,
Tỳ-kheo nọ
mắc tội
Thâu-lan-giá. Nếu
vợ
chồng cãi lộn,
Tỳ-kheo khuyên dụ
cho họ hòa hợp
thì mắc tội
Thâu-lan-giá.
Trường hợp
vợ chồng
kia không hòa hợp,
đối với việc
Phật, việc
Tăng có sự
sơ suất,
vì việc phước
thiện khuyên bảo
họ hòa hợp
thì không tội. Trường
hợp người
phụ nữ
bỏ về
lại nhà cha mẹ
họ, khuyên bảo
họ sớm
về lại
nhà chồng, mắc
tội Thâu-lan-giá.
Có người
nuôi nhiều ngựa
mà không có giống
đực tốt, nhờ
Tỳ-kheo
điềm chỉ
cho nhà nào có giống
ngựa
tốt
để
lấy giống,
Tỳ-kheo chỉ
điểm
mắc tội
Thâu-lan-giá.
Hai Tỳ-kheo,
một người
có con trai, một
người
có con gái, cùng nhau làm sui gia, cả
hai
đều mắc
tội Tăng
tàn.
Luật
Thập tụng
nói:
Việc
mai mối
đã xong, Tỳ-kheo
sau
đó
đến
trợ giúp, mắc
Thâu-lan-giá.
Căn
bản
nói:
Nếu
Tỳ-kheo
đến nhà thí chủ,
nói: Người con gái này
đã trưởng thành sao không
gả
lấy chồng,
người con trai này
đã lớn sao không lấy
vợ.
Hoặc
nói: Người
con gái này sao không
đến
nhà chồng, người
con trai này sao không
đến
nhà vợ,
đều
mắc tội
ác tác.
Kinh Giới
nhân duyên nói:
Thả
đực, thả nái cho súc sanh,
phạm
Tăng-già-bà-thi-sa.
BIỆN
MINH:
Hỏi:
-
Các bộ
khác, mai mối súc sanh không kết
vào tội này, trong kinh
Giới
nhân duyên thì thả
đực thả nái cho súc sanh
đều kết tội
Tăng tàn. Tại
sao vậy?
Ðáp:
-
Chỉ
làm mai mối thì
động
cơ
đưa
đến dâm dục
còn xa, cho nên phi nhơn
và súc sanh, theo thứ
tự
dần dần
hàng phục, còn thả
đực thả
nái thì mắt mình nhìn vào việc
phi pháp, cho nên tuy là súc sanh, cũng
kết bổn
tội vậy.
(Thời
nay, trong Tùng lâm nuôi cả
gà heo không biết
đực cái một
cách chung lộn, tội
đâu
có thể nói hết!)
TRÙNG TRỊ
TỲ-NI
SỰ
NGHĨA
TẬP
YẾU
HẾT QUYỂN
THỨ BA
Thổ
quỉ
土鬼: Thập
tụng luật 2, tr. 12c17, Ðại
231435: Phần cước
chú “quỉ 鬼”=
“khối
塊”. Vậy
có thể dịch:
nói, “Ngay cả
gió lốc (toàn phong),
đất khối
lăn
đến chỗ
tôi”. Nếu không
thật thì Tỳ-kheo
phạm
Thâu-lan-giá.
--- o0o ---
Mục
Lục |
01
|
02
| 03
|
04
|
05
|
06
|
07
|
08
|
09
|
10
11
|
12
|
13
|
14
|
15
|
16
|
17
|
18
|
19
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-6-2007