TRÙNG TRỊ TỲ NI
SỰ NGHĨA TẬP YẾU
CỔ
NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích
Việt
dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH
Nhuận văn
và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
---o0o---
TẬP I
QUYỂN THỨ 5
3. GIỚI
CHỨA
Y QUÁ MỘT
THÁNG
Ðại
thừa
vì chúng thì không phạm,
tự làm cho mình cũng
phạm.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, y đã
xong, Ca-thi-na y
đã
xả,
nếu
Tỳ-kheo
được
vải
phi thời,
cần
thì nhận;
nhận
xong nhanh chóng may thành y,
đủ
thì tốt,
không đủ
thì được
phép chứa
1 tháng vì
đợi
cho đủ;
nếu
chứa
quá hạn,
Ni-tát-kỳ
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Có Tỳ-kheo,
y Tăng-già-lê bị
hư rách, trong 10
ngày không thể may xong, sợ
phạm giới
trước. Ðồng
bạn bạch
với Phật,
nhân
ấy Phật
cho phép cất chứa
cho
đến khi may xong
đầy
đủ. Lục
quần có y phấn
tảo và các loại
y khác, cùng loại
vải
không
đủ, nên lấy
một phần
trong y phấn tảo
giặt nhuộm,
may phủ lên bốn
góc
để tác tịnh,
đem y
ấy
gởi cho các Tỳ-kheo
thân hữu rồi
đi du hành trong nhơn
gian.
Lâu ngày không thấy trở
lại, người
nhận gởi
đem phơi.
Các Tỳ-kheo thấy
hỏi, biết
sự việc,
bạch Phật,
kiết giới.
GIẢI THÍCH:
Thời
của y: tức
là không có lễ thọ
y Ca-thi-na thì sau ngày Tự
tứ một
tháng, nếu có lễ
thọ y Ca-thi-na thì
sau ngày Tự tứ
năm
tháng. Không phải
thời
của y tức
là quá thời hạn
này.
TƯỚNG
TRẠNG CỦA
TỘI
Trong 10 ngày,
đồng
loại của
y
đủ nên cắt
may thành y liền,
hoặc
tịnh thí, hoặc
sai cho người. Không làm như
vậy,
đến
ngày thứ 11, mặt
trời xuất
hiện, tùy theo số
lượng y nhiều
ít, mắc tội
Xả
đọa.
Nếu
đồng
loại của
y không
đủ
đến
ngày thứ 11,
đồng
loại của
y
đủ, nên phải
cắt may như
trước. Không làm như
vậy, qua ngày thứ
12, khi mặt trời
xuất hiện,
tùy theo y nhiều
ít mắc
tội Xả
đọa. Cho
đến
ngày thứ 29 cũng
vậy. Nếu
đến ngày thứ
30,
đủ hay không
đủ,
đồng hay không
đồng, ngày
ấy cũng
phải cắt
may cho xong. Không vậy
qua
đến ngày thứ
31, khi mặt trời
xuất hiện
đều mắc
tội Xả
đọa. Tỳ-kheo-ni
phạm Xả
đọa.
Luật
Thiện kiến
nói:
Nếu
ngày 29, y trông mong được
tốt mịn,
còn y trước thô. Y trước
nên thuyết tịnh,
y mới
được
đó,
được
phép
để lại
một tháng, vì chờ
đủ cùng loại
mịn. Nếu
y mong
được thô,
được
phép
đình lại
một tháng. Như
vậy triển
chuyển
tùy theo sở
thích, mong muốn cùng loại,
nhưng
đừng
để quá một
tháng.
4. GIỚI
LẤY Y CỦA
NI KHÔNG PHẢI BÀ CON
Ðây thuộc
về giá tội.
Ðại thừa
không luận là bà con hay
không phải
bà con, chỉ quán sát nên nhận
hay không nên nhận.
Song
ở
vào
đời mạt
pháp cần tránh sự
tị hiềm.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, thọ
nhận
y từ
Tỳ-kheo-ni
không phải
thân quyến,
trừ
đổi
chác, Ni-tát-kỳ
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Có một
Tỳ-kheo mặc
y Tăng-già-lê cũ
rách, Tỳ-kheo-ni Liên Hoa Sắc
thấy vậy,
phát lòng từ mẫn,
liền cởi
chiếc y quý giá
đang
mặc
đổi
lấy cái y cũ
rách
đó. Sau
đó
mặc y cũ
rách này
đeán yết
kiến Phật.
Phật dạy:
Không nên như vậy,
cho phép cô chứa
đủ 5 y
lành lẽ
bền chắc,
ngoài ra mới tùy ý cho kẻ
khác. Taïi sao vậy?
Phụ
nữ mặc
y phục lành lẽ
còn không coi
được, huống
là y rách. Phật
liền
tập chúng kiết
giới. Sau
đó
các Tỳ-kheo
đều
cẩn thận
lo sợ, không dám nhận
lấy y của
Tỳ-kheo-ni bà con. Phật
dạy: Nếu
là bà con, nhưng phải
biết
được
họ có khả
năng hay không khả
năng, có nên nhận
hay không nên nhận,
thì cho phép.
Lại
nữa, trong Kỳ-hoàn,
hai bộ Tăng
được dâng y chia
nhau, Tỳ-kheo
nhận lộn
y của Tỳ-kheo-ni,
Tỳ-kheo-ni nhận
lộn y của
Tỳ-kheo. Ni
đem
đến trong Tăng-già-lam
để
đổi,
Tỳ-kheo lại
bạch Thế
Tôn, mới cho phép trao
đổi.
GIẢI THÍCH:
Bà con là cha mẹ,
bà con cho
đến bảy
đời gọi
là thân lý. Ðổi chác là lấy
y
đổi y, lấy
y
đổi phi y, hoặc
lấy phi y
đổi
y, như dao, chỉ,
ống dựng
kim cho
đến một
hoàn thuốc v.v...
TƯỚNG
TRẠNG CỦA
TỘI
Bốn
chúng mắc tội
Ðột-kiết-la.
(Sa-di lấy
y của Tỳ-kheo-ni,
Thức-xoa-ma-na và Sa-di-ni không phải là bà con
đều mắc
tội Ðột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni,
Thức-xoa-ma-na, Sa-di ni lấy y của
Tỳ-kheo, Sa-di không
phải là bà con cũng
đều phạm
Ðột-kiết-la).
Không phạm:
là vì Tăng vì Phật
mà lấy.
Luật
Ngũ
phần
nói:
Ðến Thức-xoa-ma-na và Sa-di ni không phải
bà con mà lấy
y
đều
mắc
tội
Ðột-kiết-la.
Nếu
người
bà con phạm
giới,
tà kiến,
mà
đến họ
lấy
y, mắc
tội
Ðột-kiết-la.
Luật
Căn bản
nói:
Không phải
là bà con, tưởng không phải
là bà con, hoặc sanh nghi
đều
phạm Xả
đọa. Bà con tưởng
không phải là bà con, hoặc
nghi mắc tội
ác tác.
Không phạm:
Nếu Ni
đem
y
đến cúng cho Tăng
hoặc vì thuyết
pháp cho nên cúng; hoặc
vì khi thọ Cụ
túc cho nên cúng, hoặc
thấy
bị giặc
cướp cho nên cúng, hoặc
ni nhiều lợi
dưỡng
đem
y vật
đến
chỗ Tỳ-kheo,
để dưới
đất cầu
thọ nhận,
để
đó
rồi
đi,
nhận không phạm.
Luận
Tát-bà-đa nói:
Lấy
y
đúng
lượng mắc
Xả
đọa,
lấy y không
đúng
lượng, các vật
v.v... mắc Ðột-kiết-la.
5. GIỚI
SAI NI KHÔNG PHẢI
BÀ CON GIẶT
Y
Ðại
thừa
đồng học.
Mạt pháp rất
nên lưu ý giới
này.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, khiến
Tỳ-kheo-ni
không phải
thân quyến
giặt
y, hoặc
nhuộm,
hoặc
đập,
Ni-tát-kỳ
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Ca-lưu-đà-di
cùng với Tỳ-kheo-ni
Thâu-lan-nan-đà
để lộ hình mà ngồi,
nhìn nhau với tâm dục,
nên xuất thứ
bất tịnh,
nhớp y An-đà-hội. Ni ngỏ
ý
đem giặt,
rồi lấy
thứ bất
tịnh
để
vào miệng và
đường
tiểu tiện.
Sau
đó có thai, các Ni gạn
hỏi biết
việc
đó,
bạch với
các Tỳ-kheo, nhờ
bạch lại
Thế Tôn,
đức
Phật quở
trách và kiết giới.
Lúc
ấy
các Tỳ-kheo
đều
sợ cẩn
thận không dám bảo
Ni bà con giặt, nhuộm,
đập y cũ.
Phật lại
thêm câu “phi thân lý” (không phải
bà con).
GIẢI THÍCH:
Y cũ
là y kể
cả chỉ
mới mặc
một lần.
Luật
Thiện kiến
nói:
Ðược
phép bảo người
con gái xuất gia, cho
đến
người cháu gái giặt;
không
được bảo
người
đàn
bà có chồng rồi
xuất gia, và người
đàn bà nhỏ
tuổi không phải
bà con giặt.
TƯỚNG
TRẠNG CỦA
TỘI
Giặt,
nhuộm,
đập,
mỗi việc
một tội
đọa. (Y thì chỉ
xả một
lần tức
là tịnh, tội
đọa thì có ba, phải
sám hối). Bảo
họ giặt,
nhuộm,
đập
mà họ không giặt,
nhuộm,
đập
thì mỗi việc
một Ðột-kiết-la. Bảo
Thức-xoa-ma-na,
Sa-di-ni không phải bà con, thì phạm
Ðột-kiết-la.
Bảo Ni không phải
bà con giặt, nhuộm,
đập y mới
phạm Ðột-kiết-la; bốn
chúng dưới phạm
Ðột-kiết-la.
Luật Tăng
kỳ
nói:
Nếu
vì hai thầy (Hòa thượng,
A-xà-lê)
đem y bảo
Ni giặt phạm
tội Việt
tỳ-ni. Vì tháp, Tăng
bảo Ni giặt,
nhuộm,
đập
không tội.
Luật Thập
tụng
nói:
Trước
tự giặt
sơ, bảo
giặt kỹ
lại
đều
phạm Ðột-kiết-la.
Luận
Tát-bà-đa nói:
Giới
này y
đúng lượng
hay không
đúng lượng
tất cả
đều phạm.
Luật
Ma-đắc-lặc-già
nói:
Bảo
Ni không phải bà con giặt
Ni-sư-đàn,
phạm Xả
đọa, giặt
gối, mền
v.v... phạm Ðột-kiết-la.
PHỤ:
Luật
nhiếp
nói:
Y giặt
sạch
sẽ có 5
điều lợi:
- Trừ mùi hôi thối.
- Rận rệp
không sanh.
- Thân không ngứa ngáy.
- Nhuộm
dễ
ăn
màu.
- Có khả
năng dùng
được
lâu.
Ngược lại,
không giặt sạch
sẽ y áo có 5
điều tổn
thất. Mặc
áo nhiễm sắc
cũng có 5
điều lợi:
-
Thuận với
hình nghi của Thánh.
-
Khiến cho xa lìa ngạo
mạn.
-
Khó bám bụi bặm.
-
Không sanh rận rệp.
-
Cảm giác mềm
mại, dễ
bảo vệ.
Lâu quá không giặt
có 5
điều
tổn thất:
-
Mau rách.
-
Khó chịu.
-
Bực bội.
-
Nhọc mệt.
-
Ngăn cách thiện
tâm.
Mặc
y màu
đẹp cũng
có 5
điều
tổn thất:
-
Nuôi lớn
lòng kiêu mạn buông lung, làm
cho người
ghét.
-
Khiến
cho người khác biết
dáng
điệu
đẹp
đẽ.
-
Nhọc
nhằn mới
tìm
được.
-
Có khả
năng trở
ngại việc
lành.
-
Y thường
nhuộm mau rách.
Ðập
nhiều cũng
có 5
điều
tổn thất
như trên.
6. GIỚI
XIN Y NƠI NGƯỜI
KHÔNG PHẢI BÀ CON
Ðại
thừa
vì chúng sanh nên không
đồng
học, song phải
tính xem thí chủ
kham hay không kham (có khả năng
hay không).
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, xin y từ
cư
sĩ
hay vợ
cư
sĩ
không phải
thân quyến,
Ni-tát-kỳ
Ba-dật-đề,
trừ
trường
hợp
đặc
biệt.
Trường
hợp
đặc
biệt
là nếu
Tỳ-kheo
y bị
cướp,
y bị
mất,
y bị
cháy, y bị
nước
cuốn.
Ðây gọi
là trường
hợp
đặc
biệt.
NGUYÊN DO:
Thành Xá-vệ
có một Trưởng
giả
đến
xem cây cảnh trong vườn,
quay xe trở lại
tịnh xá Kỳ-hoàn
gặp Bạt-nan-đà Thích tử,
lễ kính xin nghe
pháp. Bạt-nan-đà nói pháp khai
hóa, Trưởng
giả sanh lòng hoan hỷ,
bèn hỏi: “Ngài cần
gì?” Tôn giả nói: “Không cần
gì”. Trưởng giả
cố hỏi.
Ðược trả
lời: “Thôi! Thôi!
Ðiều
tôi muốn ông không thể
cho
được.” Trưởng
giả tha thiết
hỏi.” Bạt-nan-đà trả
lời: “Có thể
cho tôi chiếc áo ông
đang
mặc?” Khi
ấy,
Trưởng giả
chỉ mặc
một chiếc
áo lụa trắng,
dài rộng, quý giá, nên Trưởng
giả nói: “Sáng mai
đến nhà tôi, tôi sẽ
trao cho.” Bạt-nan-đà
cố
đòi
mãi. Trưởng giả
mặc dù trong lòng
không vui, nhưng vẫn
cởi áo trao cho. Sau
đó, lên xe, mặc một
chiếc áo lót vào thành.
Người
giữ cửa
thành nghi là bị
giặc
cướp. Trưởng
giả nói rõ vấn
đề. Nhân
đây
cư sĩ
cơ hiềm,
cho nên Phật chế
giới cấm
này. Từ
đó
các Tỳ-kheo cẩn
thận sợ
không dám
đến bà con xin y,
nên
đức
Phật lại
thêm câu “phi thân lý” (không phải
bà con).
Sau
đó,
ở nước Câu-tát-la có
chúng Tỳ-kheo,
an cư xong, thọ
trì y bát,
đến nơi
Thế Tôn. Vì ban ngày
trời
nắng nóng không thể
đi, nên
đi
ban
đêm lạc
đường, và bị
bọn cướp
lột cả
y áo. Ðến nơi,
trần truồng
đứng ngoài cửa
Kỳ-hoàn, các Tỳ-kheo
nghi là phái Ni-kiền-tử, báo cáo với
ngài
Ưu-ba-ly. Ngài hỏi,
biết rõ vấn
đề nên liền
tạm mượn
y cho các vị
đó
mặc
để
đến yết
kiến
đức
Phật. Phật
an
ủi hỏi,
được trình bày rõ
nguyên nhân. Phật bèn chế
cấm: Lõa hình mà
đi phạm Ðột-kiết-la.
Lúc bấy
giờ, nên dùng lá cây,
cỏ
mềm
để
che hình.
Nên
đến chùa gần
nhất, nơi
đó có y dư
nên mượn mặc.
Nếu không có thì biết
Tỳ-kheo bạn
có y dư nên mượn
mặc. Nếu
Tỳ-kheo bạn
không có, nên hỏi
trong Tăng,
có loại y nào nên chia. Nếu
có nên chia cho. Nếu
không, nên hỏi có ngọa
cụ không? Nếu
có nên chia cho, nếu
không chia, nên tự mở
kho xem, nếu có mền,
đồ trải
đất, áo mỏng,
áo lót, nên trích ra
để
may y che thân, rồi
ra ngoài xin y.
Khi
ấy,
các Tỳ-kheo
không dám
đem
vật
của trú xứ
này
đến
trú xứ khác. Phật
nói: “Ðược phép”. Người
kia khi
được y khác rồi,
y của Tăng
không
đem trả
lại chỗ
cũ. Phật
nói: “Không nên làm như
vậy. Nếu
được y khác rồi
nên giặt, nhuộm,
vá lại
tử
tế,
để
lại chỗ
cũ. Nếu
không làm như vậy,
như pháp trị”.
Khi
ấy,
có Tỳ-kheo
y bị
đoạt, bị
cháy, bị trôi, cẩn
thận sợ
không dám
đến xin y nơi
người không phải
bà con. Phật nói: “Cho phép”.
Phật
kiết giới
này lại.
TƯỚNG TRẠNG
CỦA TỘI
Tỳ-kheo-ni
phạm
Xả-đọa,
ba chúng dưới phạm
Ðột-kiết-la.
Không phạm:
hoặc vì người
khác xin, người khác vì mình
xin, không xin mà
được v.v...
Luật
Tăng kỳ
nói:
Nếu
tự
xin cho mình, bảo
người
xin, khởi ý tưởng
nóng lạnh mà xin, thuyết
pháp
để xin nếu
được
đều
phạm Xả
đọa. Nếu
xin
đãy lọc
nước, giẻ
để vá y, vật
trùm
đầu, khăn
che ghẻ, áo lót, một
điều
trong y,
đều không phạm.
Nếu xin vì hai thầy,
mắc tội
Việt tỳ-ni.
Xin vì tháp, Tăng
thì không phạm.
Luật Căn
bản
nói:
Khi xin, mắc tội
ác tác,
được
y vật, hoặc
trị giá, hoặc
màu sắc, hoặc
số lượng,
tương
ưng
với mức
lượng cần
xin, phạm Xả
đọa, không tương
ưng thì không phạm.
Tỳ-bà-sa
nói:
Hai người cùng xin một
cái y, phạm Ðột-kiết-la. Vì người
xin, phạm Ðột-kiết-la. Ðặng
y
đúng lượng
phạm Xả
đọa, không
đúng
lượng của
y phạm Ðột-kiết-la. Ðến
bà con nghèo thiếu
xin, phạm
Ðột-kiết-la. Cho ít lại
đòi nhiều
phạm Ðột-kiết-la. Nếu
không phải bà con, trước
xin cúng y, sau nghèo thiếu
không cúng
được mà theo
đòi,
phạm Ðột-kiết-la. Xin cho người
cũng phạm
Ðột-kiết-la.
Ma-đắc-lặc-già
nói:
Ðến
xin y loài phi nhơn,
súc sanh, chư thiên thì không phạm.
BIỆN
MINH:
Hỏi:
-
Luật Tứ
phần
nói vì người khác xin không
phạm.
Luật Tăng
kỳ và Tát-bà-đa
đều kết
tội Ðột-kieát-la.
Vậy nên theo bên nào?
Ðáp:
-
Thấy
người khác nghèo khổ
mà sanh lòng từ mẫn,
Tứ phần
cho phép làm việc
đó
không có lỗi. Lợi
dụng cái muốn
của người
khác mà vì mình tác phương
tiện, Bà-sa sở
dĩ kết
thành tội,
định
đoạt
vấn
đề
này là dựa vào tâm
để
bàn luận. (Tát-bà-đa
có thể là Tỳ-bà-sa).
7. GIỚI
NHẬN
Y NHIỀU
Ðây thuộc
về giá tội,
Ðại thừa
vì chúng sanh không
đồng học,
tùy theo sự bố
thí nên thọ nhận.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, y bị
mất,
y bị
cướp,
y bị
cháy, y bị
nước
cuốn.
Nếu
có cư
sĩ
hay vợ
cư
sĩ
không phải
thân quyến
đem
cho nhiều
y, yêu cầu
tùy ý nhận.
Tỳ-kheo
ấy
nên biết
đủ
để
nhận
y; nếu
nhận
quá, Ni-tát-kỳ
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Chúng Tỳ-kheo
gặp giặc
mất y,
đi
đến Kỳ-hoàn,
có
Ưu-bà-tắc
đem nhiều
y tốt
đến,
thỉnh các Tỳ-kheo
tùy ý nhận. Tỳ-kheo
có 3 y, nói rằng:
“Không nhận”.
Lục
quần nói: Tại
sao không nhận rồi
cho chúng tôi, hay là cho người
khác. Các Tỳ-kheo bèn nhận
rồi cho họ.
Các vị thiểu
dục hiềm
trách, bạch Phật
nên chế cấm.
GIẢI THÍCH:
Nếu
mất một
y, không nên nhận.
Nếu
mất hai y còn một
y, mà y
ấy hoặc
hai lớp, ba lớp,
bốn lớp
nên chia ra làm các loại
y. Nếu ba y
đều
mất, nên nhận
vừa
đủ.
Tri túc có hai loại:
Một
là tùy theo cư sĩ
cúng mà nhận (không nên
đòi
hỏi nhiều).
Hai là
đủ ba y (ngoài ba y không
được
nhận nhiều).
Nếu
cư
sĩ thỉnh
tùy ý, cúng nhiều
y, hoặc
vải mịn,
hoặc vải
mỏng, hoặc
vải không bền
chắc, nên may thành
hai lớp,
ba lớp, bốn
lớp. Phải
may chừa
đường
viền. Trên vai nên lót
miếng
vải
để
ngăn mồ
hôi. Nên may cái móc
để cột
dây (may khâu hoàn). Nếu
còn dư, nói với
cư sĩ:
“Vải cắt
còn dư này, làm gì?”. Nếu
Ðàn-việt nói: “Tôi không
phải
cúng do việc mất
y, mà tự tôi muốn
cúng cho Ðại
đức”.
Vị kia nếu
muốn nhận
thì nhận.
TƯỚNG
TRẠNG CỦA
TỘI
Tỳ-kheo-ni
phạm
Xả
đoïa,
ba chúng dưới phạm
Ðột-kiết-la.
8. GIỚI
CẦU ÐƯỢC
Y TỐT ÐẸP
HƠN
Ðại
thừa
đồng chế,
tức là ác cầu
đa cầu.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, có cư
sĩ
hay vợ
cư
sĩ
vì Tỳ-kheo
để
dành tiền
sắm
y, nghĩ
rằng:
“Mua y như
thế
cho Tỳ-kheo
có tên như
thế”.
Tỳ-kheo
ấy
trước
không được
yêu cầu
tùy ý mà
đi
đến
nhà cư
sĩ,
nói như
vầy:
“Lành thay cư
sĩ.
Nếu
vì tôi mua y như
vậy
như
vậy”.
Vì muốn
đẹp,
nếu
nhận
y, Ni-tát-kỳ
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Có một
Tỳ-kheo vào trong
thành khất
thực,
đến
nhà cư sĩ,
nghe vợ chồng
cư sĩ
cùng bàn: “Sẽ sắm
y quý giá cho Bạt-nan-đà”.
Vị
ấy
về báo với
Bạt-nan-đà,
Bạt-nan-đà
hỏi, biết
địa chỉ,
sáng ngày
đến
đó
nói rằng: “Nếu
muốn cho tôi y, nên
may rộng
lớn, tốt
đẹp, chắc
bền như
vậy,
đúng
là thứ y tôi thọ
trì”. Do
đó, cư
sĩ cơ
hiềm nên Phật
chế cấm.
Sau
đó,
có cư sĩ
tự ý thưa
rằng: “Ðại
đức cần
loại y nào?” Tỳ-kheo
trong ý nghi ngờ,
không dám trả lời.
Lại
có cư sĩ
muốn sắm
y quý giá, nhưng Tỳ-kheo
tri túc muốn
không nhận
y như vậy,
nhưng trong ý cũng
nghi, không dám từ
chối.
Phật dạy:
Trước
đó
có thưa thỉnh
tùy ý thì không phạm.
GIẢI THÍCH:
Mong cầu
có hai loại:
- Một
là mong cầu về
giá trị, cho
đến
chỉ thêm một
đồng tiền
nhỏ.
- Hai là cầu y, cho
đến
chỉ thêm một
sợi chỉ.
TƯỚNG
TRẠNG CỦA
TỘI
Mong cầu mà
được,
phạm Xả
đọa; không
được,
phạm Ðột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni
phạm Xả
đọa. Ba chúng dưới
phạm Ðột-kiết-la.
Không phạm: Vì người
khác mong cầu v.v...
Luật
Ngũ phần
nói:
Nếu
đến bà con
đòi
hỏi thứ
tốt, phạm
Ðột-kiết-la.
Luật
nhiếp
nói:
Ðến
loại
trời... xin, hoặc
xin tơ lụa
dư và miếng
lụa nhỏ,
không phạm.
9. GIỚI
ÐÒI CHUNG NHAU SẮM
Y
Nguyên do, phạm,
không phạm v.v...
đồng như giới
trước.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, có hai nhà cư
sĩ
hay vợ
cư
sĩ
để
dành tiền
sắm
y cho Tỳ-kheo,
đều
nghĩ
rằng:
“Mang tiền
sắm
y như
thế,
để
mua y như
thế,
cho Tỳ-kheo
có tên như
thế”.
Tỳ-kheo
ấy
trước
chưa
nhận
được
sự
tự
ý yêu cầu
của
hai nhà cư
sĩ,
mà đi
đến
nhà hai cư
sĩ,
nói như
vầy:
“Lành thay dành số
tiền
may y như
thế
cho tôi, hãy chung lại
làm một
y”.
Vì muốn
đẹp,
nếu
nhận
được
y, Ni-tát-kỳ
Ba-dật-đề.
10. GIỚI
ÐÒI Y QUÁ SÁU LẦN
Ðây thuộc
về giá tội,
đại thừa
đồng học.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, hoặc
vua hoặc
đại
thần,
hoặc
Bà-la-môn, hoặc
cư
sĩ
hay vợ
cư
sĩ,
sai sứ
giả
mang tiền
đến
Tỳ-kheo,
bảo
rằng:
“Hãy mang số
tiền
sắm
y như
thế
cho Tỳ-kheo
có tên như
thế”.
Người
sứ
giả
ấy
đến
chỗ
Tỳ-kheo,
nói với
Tỳ-kheo
rằng:
“Ðại
đức,
nay tiền
sắm
y nầy
được
gởi
đến
ngài, ngài hãy nhận”.
Tỳ-kheo
ấy
nên nói với
sứ
giả
rằng:
“Tôi không
được
phép nhận
tiền
may y này. Khi nào cần
y hợp
thời
và thanh tịnh,
tôi sẽ
nhận”.
Người
sứ
giả
này có thể
hỏi
Tỳ-kheo
rằng:
“Ðại
đức
có người
chấp
sự
không? Tỳ-kheo
cần
y nên nói: “Có”. Và chỉ
một
tịnh
nhơn
Tăng-già
lam, hoaëc một
Ưu-bà-tắc,
nói rằng:
“Ðó là người
chấp
sự
của
Tỳ-kheo,
thường
chấp
sự
cho Tỳ-kheo”.
Bấy
giờ
sứ
giả
đi
đến
chỗ
người
chấp
sự,
trao số
tiền
sắm
y, rồi
trở
laïi chỗ
Tỳ-kheo,
nói như
vầy:
“Ðại
đức,
tôi đã
trao tiền
sắm
y cho người
chấp
sự
mà ngài chỉ.
Ðại
đức,
khi nào cần
hãy đến
người
ấy
sẽ
được
y”.
Tỳ-kheo
khi cần
y sẽ
đến
chỗ
người
chấp
sự,
hoặc
hai lần,
hoặc
ba lần,
khiến
cho họ
nhớ
lại,
bằng
cách nói rằng:
“Tôi cần
y”. Hoặc
hai lần,
hoặc
ba lần
như
vậy,
khiến
cho họ
nhớ
lại.
Nếu
nhận
được
y thì tốt,
bằng
không thì bốn
lần,
năm
lần,
sáu lần
đứng
im lặng
trước
người
ấy.
Nếu
bốn
lần,
năm
lần,
sáu lần
đứng
im lặng
trước
người
ấy
mà được
y thì tốt,
bằng
không được
y mà cố
cầu
quá giới
hạn
ấy,
nếu
được
y, Ni-tát-kỳ
Ba-dật-đề.
Nếu
không được
y, tự
mình hoặc
sai người
đến
chỗ
người
xuất
tiền
sắm
y, nói rằng:
“Ngài trước
kia sai người
cầm
tiền
sắm
y cho Tỳ-kheo
tên như
vậy.
Tỳ-kheo
ấy
cuối
cùng không
được
y. Ngài hãy lấy
lại,
đừng
để
mất”.
Như
vậy
là hợp
thức.
NGUYÊN DO:
Thành La-duyệt,
một
đại
thần sai sứ
giả cầm
số tiền
may y cúng cho Bạt-nan-đà.
Bạt-nan-đà
dẫn người
sứ
ấy
vào thành,
đem số
tiền may y giao cho
ông Trưởng
giả quen thân cất
giữ. Sau
đó
một thời
gian,
đại thần
hỏi người
sứ rằng:
“Ngài Bạt-nan-đà
có mặc y
ấy
hay không?” Sứ giả
trả lời:
“Không mặc”. Ðại
thần liền
sai sứ
đòi
lại số
tiền may y. Bạt-nan-đà vội
vã
đến nhà Trưởng
giả
đòi
y. Lúc bấy giờ,
trong thành có cuộc
họp
các Trưởng giả.
Trước
đó
có quy chế ai không
đến
họp phaït 500 tiền.
Trưởng giả
nói: “Ðại
đức
đợi một
chút chờ tôi dự
đại hội
về.” Bạt-nan-đà không chịu.
Trưởng giả
vì vậy mà phải
may y cho xong, khi may y xong thì
đại
hội
đã
giải tán, nên bị
phạt 500 tiền.
Các cư sĩ
biết, cùng nhau cơ
hiềm, nên Phật
chế cấm
giới này.
GIẢI THÍCH:
Luật
Tăng kỳ
nói:
Ba phen
đến
đòi, sáu phen nín
thinh
đứng,
hoặc hoãn hay gấp.
Thế nào gọi
là hoãn gấp? Nếu
khi
đến
đòi
mà người
ấy
nói: “Tôn giả sau một
tháng trở lại”.
Tỳ-kheo mãn 1 tháng
trở
lại
đòi.
Họ lại
nói: “Một tháng nữa
sẽ trở
lại”, Vẫn
chờ
đủ
1 tháng lại
đòi.
Họ lại
nói: “Sau một tháng nữa”.
Lại tới
đủ 1 tháng nữa
đến
đòi.
Quá 3 tháng rồi
không
được
đến
đòi
nữa,
đó
gọi là hoãn. Nếu
họ nói: Nửa
tháng, 10 ngày, cho
đến trong giây lát thì quá ba giây lát không
được lại
đòi nữa,
đó gọi
là gấp. Sáu phen
đến
đứng nín thinh cũng
vậy. Quá 6 tháng hay
quá 6 giây lát rồi, không
được
lại
đứng
nữa. Nếu
khi
đến nói với
người chủ
của vật,
họ nói: Trước
đây tôi cúng cho Tỳ-kheo,
tùy phương tiện
đến nhận.
Lúc bấy giờ
được phép như
trước, ba phen
đến
đòi, sáu phen
đến
đứng nín thinh.
Luật
Thiện kiến
nói:
Nếu
không mở
miệng
đòi
thì
được phép 12 lần
đòi bằng
cách
đến
đứng
nín thinh. Nếu một
lần
đòi
bằng cách nói thì trừ
hai lần
đứng
nín thinh, hai lần
đòi bằng cách nói, thì trừ
bốn lần
đứng nín thinh; cho
đến 6 lần nói thì trừ
12 lần nín thinh.
TƯỚNG
TRẠNG CỦA
TỘI
Tỳ-kheo-ni
phạm
Xả-đọa.
Ba chúng sau phạm
Ðột-kiết-la.
Luật
Thập tụng
nói:
Khi Tỳ-kheo
này
đã nói với
người chủ
cúng tiền sắm
y rồi, thì lúc nào có
nhân duyên
đến chỗ
người chấp
sự, nếu
họ hỏi:
“Ðến có việc
gì?” Trả
lời: “Tôi có việc
khác nên
đến”. Nếu
họ nói: “Ðem y này về”.
Trả lời:
“Tôi
đã nói với
người chủ
y, ông tự
đến
đó
để
giải quyết”.
Nếu họ
bảo: “Ngài cứ
đem về,
tôi sẽ trình bày với
người chủ
y”. Lúc bấy giờ
nhận y
đem
về không phạm.
Luật
Căn bản
nói:
Nếu
Tỳ-kheo
bảo sứ
giả báo rồi,
người chấp
sự kia
đến,
nói: “Thánh giả
có theå nhận y này”. Nên trả
lời: “Y này tôi
đã xả rồi,
ông nên trả lại
cho người cúng y”. Trả
lời như
vậy là tốt.
Nếu lấy
y thì phạm Xả
đọa. Nếu
người chấp
sự nói: “Thánh giả
có thể nhận
y này, người thí chủ
kia cùng tôi giải
quyết
rõ ràng, khiến cho họ
vui lòng”. Trường hợp
như vậy
lấy y về
không phạm”.
11. GIỚI
MAY NGỌA CỤ
BẰNG TƠ
TẰM
Ðại
thừa
vì chúng sanh cho nên
được
phép chứa song không nên tự
thọ dụng.
Tri môn cảnh huấn
nói:
Kinh
Ương-quật dạy:
Vật thuộc
về tơ,
lụa, da, lần
lượt khỏi
tay người sát sanh,
đem
cúng cho người trì giới,
không nên nhận, là pháp của
người Tỳ-kheo.
Nếu nhận,
thì không phải lòng từ.
Ngài Nam Nhạc và ngài Ðạo
Hưu không mặc
đồ tơ
lụa tốt,
mà chỉ bận
vải thô sơ
xấu xí. Cho nên ngài
Nam Sơn
Luật sư
nói: Phật pháp
đến
phương Ðông mới
độ 600 năm,
mà chỉ còn hạnh
từ của
ngài Hành Nhạc (Hành Sơn
Nam Nhạc) là khả
dĩ làm nơi
quy ngưỡng mà thôi.
Hỏi:
-
Ðã không cho mặc
tơ lụa
mà lại cho dùng
lông cừu
v.v... cả hai loại
đều thuộc
về thân phận
của
chúng sanh, tại
sao một bên cho phép, một
bên ngăn cấm?
Ðáp:
-
Tơ
lụa và lông tuy
đều là thân phận của
chúng sanh, nhưng
khi luộc
kén chỉ vì lấy
tơ, còn khi giết
cừu dê, không phải
mục
đích
để lấy
lông. Hơn nữa,
dùng tơ làm ngọa
cụ thì phải
mất nhiều
mạng sống
mà dùng lông thì sanh mạng
tốn ít. Các học
xứ, giới
điều
này
đặt nặng
ở chỗ
vận dụng
tuần tự
về nhơn
tình, chứ không phải
đoạn
tuyệt một
cách gấp gáp
được
vậy.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, trộn
tơ
tằm
làm ngọa
cụ
mới,
Ni-tát-kỳ
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Lục
quần
Tỳ-kheo làm ngọa
cụ mới
bằng các loại
tơ tằm.
Ðến các nhà nuôi tằm
xin tơ, họ
bảo: “Chờ
tằm chín”. Lục
quần
đứng
một bên
đợi,
xem họ kéo tơ,
nghe tiếng nhộng
kêu, các cư sĩ
cơ hiềm,
nên chế cấm.
Luật
Căn bản
nói:
Ngoại
đạo cơ hiềm
khinh rẻ, nói thế
này, phải giết
nhiều loại
hữu tình, làm sao gọi
là
ăn mặc
hợp lẽ!
Vì
để cho bọn
trọc
đầu
này, mà phải dứt
nhiều sanh mạng.
Ðức Phật
nghe
được nên chế
cấm.
GIẢI THÍCH:
Tạp
loại
tức laø gồm
cả: Các loại
lông mịn, kiếp
bối, câu-giá-la, cỏ
nhũ diệp,
sô-ma,
hoặc
gai...
Luật
Tăng kỳ
nói:
Kiều-xa-da
có hai loại:
một là sanh, hai là
tác. Sanh là loại tơ
nhỏ
mịn, tác là loại
tơ kéo sợi.
TƯỚNG
TRẠNG CỦA
TỘI
Tự
mình làm, dạy người
khác làm mà thành,
đều phạm
Xả
đọa;
không thành, thì phạm
Ðột-kiết-la. Mình vì người
khác làm, thành hay không thành
đều
phạm Ðột-kiết-la. Xả
loại này là dùng rìu,
búa chặt
nhỏ nhồi
với bùn trét nơi
vách hay dưới
đất.
Bốn chúng dưới
phạm Ðột-kiết-la.
Không phạm là nếu
nhận
được
mà
đã thành rồi,
đem chặt
nhỏ hòa với
bùn
đất trét nơi
vách
đất.
Luật Tăng
kỳ
nói:
Nếu
dùng trong ba y; hoặc
đường dọc,
đường
ngang; hoặc chính giữa
hay một bên; hoặc
giây
ở giữa
hay viền; hoặc
may ép lá hẹ; hay chằm
vá mà thành,
đều phạm
Xả
đọa;
thọ dụng
thì phạm tội
Việt tỳ-ni.
Nên xả trong Tăng.
Tăng không nên trả
lại cũng
không nên dùng vào việc
khác. Ðược phép trải
dưới
đất
và làm rèm treo. (Hai giới
đều
đồng
như vậy).
Luật Ngũ
phần
nói:
Nên xả cho Tăng,
không nên xả cho người
khác. Tăng dùng trải
dưới
đất
hay trên sàng. Ngoài ra tất
cả Tăng,
tùy thứ tự
ngồi nằm.
Tuy mình không làm không dạy
người khác làm, nhưng
người khác cúng mà nhận
cũng phạm
Xả
đọa.
BIỆN
MINH:
Vấn
đề xả
nơi
đây
được y cứ
vào luật Ngũ
phần,
đại ý chúng Tăng
được quyền
chứa, không
đươc
chứa riêng. Như
vậy cùng với
lời dạy
trong Ðại thừa
phù hợp.
12. GIỚI
MAY NGỌA CỤ
MÀU ÐEN
Ðại
thừa
đồng
học. Nghĩa
cũng như
trước.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, làm ngọa
cụ
mới
bằng
lông dê toàn
đen, Ni-tát-kỳ
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Các Lê-xa Tử
ở nơi
Tỳ-xá-ly, hầu
hết làm nghề
mãi dâm, dùng toàn lông dê
đen
may
đồ mặc
để
đi
ban
đêm khỏi
ai thấy. Lục
quần baét chước
như vậy.
Lê-xa nói: Chúng tôi vì dâm dục,
các ông mặc như
vậy mục
đích
để
làm gì? Tỳ-kheo bạch
Phật, nên chế
cấm.
GIẢI THÍCH:
Toàn màu
đen
tức là hoặc
lông dê
đen, hoặc
nhuộm thành màu
đen.
TƯỚNG
TRẠNG CỦA
TỘI
Phạm
nhẹ,
nặng
đồng
như giới
trước. Bốn
chúng
dưới
phạm Ðột-kiết-la.
Không phạm:
làm gối hay những
đồ dùng lặt
vặt.
Luật
Ngũ phần
nói:
Nên xả
cho Tăng, Tăng
dùng trải
trên giường,
không
được trải
trên
đất. Ngoài ra như
trước
đã
nói.
Luật
Thập tụng
nói:
Không phạm:
Vì Tháp, vì Tăng,
mà làm.
13. GIỚI
LÀM NGỌA CỤ
KHÔNG CÓ MÀU SẮC TẠP
Ðại
thừa
đồng học.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, làm ngọa
cụ
mới,
phải
dùng hai phần
lông dê toàn
đen,
phần
thứ
ba trắng,
phần
thứ
tư
xám. Nếu
Tỳ-kheo
không dùng hai phần
đen,
phần
thứ
ba trắng,
phần
thứ
tư
xám, làm ngọa
cụ
mới,
Ni-tát-kỳ
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Lục
quần may tọa
cụ toàn màu trắng,
cư sĩ
cơ hiềm
rằng giống
như vua, hoặc
đại thần,
cho nên Phật chế
cấm.
GIẢI THÍCH:
Màu xám: là màu lông nơi
đầu, nơi
tai, nơi chân,
hoặc
các màu xám nơi chỗ
khác. Nếu làm cái ngọa
cụ
40 bát-la
thì 20 bát-la lông màu
đen,
10 bát-la lông màu trắng,
10 bát-la lông màu xám. Nếu
làm cái ngọa cụ
30 hay 20 bát-la, dựa
theo trên maø tính. (Luật Thập
tụng
nói: Một bát-la là 4 lượng
vậy).
TƯỚNG TRẠNG
CỦA TỘI
Phạm
nhẹ,
nặng
đồng
như giới
trước. Bốn
chúng dưới phạm
Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Nếu nhận
được vật
đã làm thành thì cắt
rọc phá hoại,
hoặc may gối,
làm
đồ dùng lặt
vặt...
Luật
Thập tụng
nói:
Dùng màu
đen
nhiều hơn
cho
đến một
lượng, phạm
Xả
đọa.
Dùng màu trắng nhiều
hơn cho
đến
một lượng,
phạm Ðột-kiết-la. Dùng màu xám
ít hơn
cho
đến moät lượng
phạm Xả
đọa.
Luật
nhiếp
nói:
Hoặc
màu
đen
dễ có
đuợc, các màu khác khó
tìm thì số lượng tăng
giảm
đều
không phạm.
14. GIỚI
DÙNG NGỌA CỤ
KHÔNG ÐỦ SÁU NĂM
Ðại
thừa
đồng học.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, làm ngọa
cụ
mới
phải
trì cho
đến sáu năm.
Nếu
dưới
sáu năm,
không xả
mà làm thêm cái mới,
trừ
Tăng
Yết-ma,
Ni-tát-kỳ
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Lục
quần
chê ngọa cụ
hoặc nặng,
hoặc nhẹ,
hoặc dày hay mỏng,
không xả cái cũ,
lại sắm
cái mới, chứa
để rất
nhiều, cho nên Phật
chế cấm.
Sau
đó có một
Tỳ-kheo mắc
bệnh khô da ghẻ
chốc, cần
đi du hành trong
nhơn
gian mà các ngọa cụ
bằng
phấn tảo
quá nặng, không thể
mang theo
được. Các Tỳ-kheo
bạch Phật,
Phật cho phép Tăng
Bạch nhị
yết-ma cho vị
Tỳ-kheo
ấy.
TƯỚNG TRẠNG
CỦA TỘI
Phạm
nặng, nhẹ
đồng như
giới trước.
Bốn chúng dưới
phạm Ðột-kiết-la.
Luật
Tăng kỳ
nói:
Giữa
Tăng
xả rồi,
Tăng không nên trả
lại. Tăng
được thọ
dụng, chỉ
không
được làm áo lót mà
thôi. (Giới
sau cũng vậy).
15. GIỚI KHÔNG MAY MỘT
MIẾNG CŨ
TRÊN TỌA CỤ
MỚI
Ðại
thừa
đồng học.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, làm tọa
cụ
mới,
phải
lấy
một
miếng
của
cái cũ
vuông vức
một
gang tay Phật,
đắp
lên tọa
cụ
mới,
để
cho hoại
sắc.
Nếu
Tỳ-kheo
làm tọa
cụ
mới
không lấy
một
miếng
của
cái cũ
vuông vức
một
gang tay
đắp lên tọa
cụ
mới
để
cho hoại
sắc,
Ni-tát-kỳ
Ba-dật-đề.
(Ngoài ra, trong 4 bộ
đều nói một
gang tay của Phật).
NGUYÊN DO:
Ðức
Phật
ở nơi
vườn Cấp
Cô Ðộc sai người
đi nhận
thức
ăn.
Thường pháp của
chư Phật
là, sau khi các Tỳ-kheo
đi thọ thỉnh,
Phật
đi
khắp các phòng, thấy
tọa cụ
cũ
bỏ bừa
bãi khắp nơi.
Phật bèn bảo
các Tỳ-kheo khi may tọa
cụ mới,
phải lấy
một miếng
vải của
tọa cụ
cũ, dọc
ngang bằng một
gang tay may lên trên
để
cho hoại sắc.
Lục quần
không y lời Phật
dạy nên Phật
chế ra giới
này.
Luật
Tăng kỳ
nói:
Thế
Tôn vì 5 việc lợi
ích cho nên mỗi 5 ngày một
lần
đến
xem xét phòng chư
Tăng:
1) Thanh văn
đệ tử
có
đắm vào việc
hữu vi?
2) Có
đắm
vào ngôn luận thế
tục?
3) Có
đắm
vào ngủ nghỉ,
trở ngại
việc hành
đạo?
4) Xem có Tỳ-kheo
nào bệnh chăng?
(Tỳ-kheo bệnh có người
chăm sóc chăng?)
5) Vì Tỳ-kheo
nhỏ tuổi
mới xuất
gia, thấy oai nghi tường
tự của
đức Như
Lai khởi tâm hoan hỷ.
GIẢI THÍCH:
Luật
Ngũ phần
nói:
Một
gang tay của Phật
vuông vức hai thước.
Phá hư cái sắc
đẹp: tức
là tùy yù phủ lên trên cái mới
ấy.
Luật
Căn bản
nói:
Làm hoại
sắc: là muốn
cho nó
được bền
chắc vậy.
TƯỚNG
TRẠNG CỦA
TỘI
Bốn
chúng dưới phạm
Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Tự mình không có cái
cũ,
được vật
đã thành, người
khác vì mình làm, làm toàn
đồ
cũ.
Luật
Thập tụng
nói:
Nếu
làm giảm bớt,
cho
đến nửa
tấc, phạm
Ðột-kiết-la.
PHỤ:
Luật
nhiếp
nói:
Ni-sư-đãn-nanên
làm hai lớp,
chồng làm ba phân, cắt
đứt may thành lá,
cùng
đồng
với lá của
y.
Luật
Thập tụng
nói:
Không nên thọ
Ni-sư-đàn
một lớp.
Không nên lìa Ni-sư-đàn
mà ngủ.
16. GIỚI
CẦM
LÔNG DÊ ÐI ÐƯỜNG
XA
Ðại thừa
đồng học.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, khi
đi
đường
được lông dê, nếu
cần
dùng không có người
mang,
được phép tự
mang
đi cho
đến ba do-tuần.
Nếu
không có người
mang, tự
mình mang
đi quá ba do-tuần,
Ni-tát-kỳ
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Bạt-nan-đà
trên
đường
đi,
được nhiều
lông dê, xâu trên
đầu gậy,
quảy
đi
trên
đường. cư
sĩ hiềm
trách cho là kẻ
buôn bán lông dê, cho nên chế cấm.
TƯỚNG TRẠNG
CỦA TỘI
Tự
mình cầm
đi quá ba do-tuần
phạm Xả
đọa; bảo
kẻ khác cầm
thì không phạm. Nếu
giữa
đường
tiếp tay cầm,
mắc tội
Ðột-kiết-la;
khiến bốn
chúng dưới cầm
quá ba-do tuần phạm
Ðột-kiết-la.
Trừ lông dê, cầm
các vật khác như
Câu-giá-la (y, vải)...
đi
quá ba do-tuần phạm
Ðột-kiết-la.
Nếu quảy
các vật khaùc trên
đầu
gậy mà
đi
cũng phạm
Ðột-kiết-la.
Bốn chúng dưới
phạm Ðột-kiết-la.
Luật
Ngũ phần
nói:
Nên bảo
tịnh nhơn
gánh.
Nếu không có tịnh
nhơn thì cho phép tự
mình cầm chứ
không
được gánh trên vai,
đội trên
đầu, mang nơi
lưng. Trái phạm,
mắc tội
Ðột-kiết-la.
Tát-bà-đa
ma-đắc-lặc-già
nói:
Trên không trung cầm
lông dê
đi hay là
đưa
cho kẻ biến
hóa cầm
đi
đều phạm
Ðột-kiết-la.
PHỤ:
Luật
nhiếp
nói:
Các Tỳ-kheo
không nên gánh vác việc
gì.
17. GIỚI
SAI NI NHUỘM
LÔNG DÊ
Ðại
thừa
đồng
học.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, sai Tỳ-kheo-ni
không phải
thân quyến,
giặt,
nhuộm
hay chải
lông dê, Ni-tát-kỳ
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Lục
quần,
sai Tỳ-kheo-ni Ðại
Ái Ðạo giặt,
nhuộm,
đập
lông dê; nhuộm xong nhớp
tay,
đến yết
kiến Ðức
Thế Tôn. Thế
Tôn hỏi biết
việc
ấy,
khiển trách lục
quần, kiết
giới. Sau
đó
các Tỳ-kheo cẩn
thận sợ
không dám bảo
Ni có bà con giặt, nhuộm,
đập. Ðức
Phật lại
khai cho.
TƯỚNG
TRẠNG CỦA
TỘI
Giặt,
nhuộm,
đaäp mỗi
cái
đều một
tội Xả
đọa. (tức
là một Xả,
ba Ðọa như
đã nói trước).
Sai người giặt
mà họ không giặt
v.v... mỗi cái
đều
một Ðột-kiết-la. Sai không phải
bà con, hai chúng nữ
khác, Ðột-kiết-la
Luận
Tát-bà-đa nói:
Sai giặt,
nhuộm vật
của Tăng
phạm Ðột-kiết-la.
18. GIỚI
NHẬN VÀNG BẠC
Ðây là giá tội.
Ðại thừa
vì chúng sanh cho phép nhận,
song phaûi giao cho tịnh
nhơn cất
giữ; trường
hợp không có tịnh
nhơn, tâm không tham
đắm, cũng
được
phép tự cầm.
Nếu chứa
cất với
tham tâm của mình, tức
là
đa dục,
không tri túc. gọi
là nhiễm
ô, phạm. Cho nên bộ
Cảnh huấn
nói:
-
Ruộng,
nhà vườn, cây.
-
Gieo trồng
cây cối.
-
Chứa
để lúa gạo.
-
Nuôi dưỡng
tôi tớ.
-
Chăn
nuôi súc vật.
-
Tiền
bạc vật
quý.
-
Mền,
dạ, lu, vạc.
-
Voi, vàng, giường
đẹp và các vật
trọng.
Tám thứ
này kinh, luận và luật
đều liệt
vào một loại
rõ ràng tội lỗi
không nên chứa giữ.
Lại
trong kinh luật nói:
Nếu
chứa
giữ thì không phải
đệ tử
của Ta. Vì tám món
này, làm cho lòng tham lớn mạnh,
phá hư
đạo
nghiệp, nhơ
nhớp phạm
hạnh,
đưa
đến kết
quả xấu
nhơ. Cho nên gọi
là không sạch vậy.
Kinh Niết-bàn
nói:
Nếu
các
đệ
tử, không có ai giúp
đỡ thời buổi
đói khổ,
miếng
ăn
khó
được. Vì muốn
hộ trì, kiến
lập Chánh pháp, Ta
cho phép
đệ
tử thọ
nhận vàng bạc,
xe ngựa, ruộng
nhà, lúa gạo,
đổi
chác vật cần
dùng. Tuy cho phép chứa
giữ các vật
như vậy,
nhưng cốt
yếu là phải
tịnh thí cho người
Ðàn-việt giàu lòng tin.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, tự
tay cầm
tiền,
hoặc
vàng, bạc,
hoặc
bảo
người
cầm,
hoặc
để
xuống
đất
mà nhận,
Ni-tát-kỳ
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Tại
thành La-duyệt có vị
đại thần
thân thiện với
Bạt-nan-đà.
Một bữa
nọ, vị
đại thần
nhận
được
nhiều thịt
heo, bảo người
vợ
để
phần cho Bạt-nan-đà. Khi
ấy,
trong thành nhân ngày tiết
hội, có ban nhạc
giúp vui, suốt
đêm
không ngủ. Con của
vị
đại
thần
đói,
hỏi mẹ
còn thịt không, mẹ
nó bảo: “Chỉ
còn phần của
Bạt-nan-đà”.
Ðứa nhỏ
liền lấy
5 tiền
đưa
cho meï nó và nói: “Mẹ
đem tiền
này mua thịt trả
lại cho Bạt-nan-đà”. Sáng sớm
Bạt-nan-đà
đến nhà vị
đại thần,
vợ vị
Ðại thần
nói rõ việc
ấy.
Bạt-nan-đà
lấy tiền
đem gởi
cửa hàng nơi
chợ mà
đi.
cư sĩ
và
đại thần
của vua, cùng nhau cơ
hiềm. Chỉ
có vị
đại
thần tên là Châu Kế,
khéo léo nói pháp giải
thích. Sau khi giải thích xong
đến
bạch Thế
Tôn, Thế Tôn khen vị
đại thần
đã khéo nói, tạo
nhiều lợi
ích.
Ðức
Phật
nói: “Ðại
thần
nên biết: Mặt
trời mặt
trăng có 4 cái nạn
làm cho chúng không sáng, không sạch,
không thể chiếu
soi, cũng không oai thần.
Bốn cái
đó
là: A-tu-la, khói mây, bụi
và sương mù. Ðó là
đại nạn cho mặt
trời, mặt
trăng. Sa-môn,
Bà-la-môn cũng có 4 nạn:
không sáng, không sạch,
không thể
chiếu soi, cũng
không oai thần. Bốn
cái nạn
đó
là: Không bỏ uống
rượu, không bỏ
dâm dục, không bỏ
tay cầm vàng bạc,
không bỏ sống
theo tà mạng. Ðó là 4
đại
nạn”.
Khi
ấy,
Tỳ-kheo
thiểu dục
cũng hiềm
trách Bạt-nan-đà,
bạch Phật
kiết giới.
TƯỚNG TRẠNG
CỦA TỘI
Vấn
đề xả nơi
đây là, nếu
vị kia có lòng tin
đối với người
giữ vườn
hoặc là
Ưu-bà-tắc, thì nên nói với
họ rằng:
“Ðây là vật mà tôi không nên
nhận,
người nên biết
việc
ấy”.
Nếu người
đó nhận
rồi, hoàn lại
cho Tỳ-kheo, nên vì vật
người
ấy
đã nhận,
bảo sứ
giả của
tịnh nhơn
cất giữ.
Nếu
được
y, bát,
ống kim, Ni-sư-đàn thanh tịnh,
thì nên
đổi lấy
để thọ
trì. Nếu
Ưu-bà-tắc nhận
rồi cho Tỳ-kheo
y, bát, Ni-sư-đàn,
ống
đựng
kim thanh tịnh, nên nhận
để thọ
trì. Nếu người
đó nhận
rồi không trả
lại thì nên bảo
Tỳ-kheo khác nói với
họ rằng:
“Phật có dạy
vì cần thanh tịnh
nên cho ngươi, ngươi
nên trả lại
vật kia cho Tỳ-kheo
đó.” Nếu
các Tỳ-kheo khác khoâng
nói thì nên tự
đến nói: “Phật có dạy
vì thanh tịnh nên cho ngươi,
ngươi nay có thể
cúng cho Tăng, cho Tháp, cho
hai thầy,
cùng với bạn
tri thức
đồng
học, hoặc
là trả lại
cho chủ. Tại
sao vậy? Vì không muốn
mất của
tín thí vậy.” Nếu
không nói với người
kia: Biết vậy,
xem vậy, phạm
Ðột-kiết-la.
Tỳ-kheo-ni phạm
Xả
đọa.
Ba chúng sau Ðột-kiết-la.
Phần thứ
ba của luật
Tứ phần
nói:
Có một
Tỳ-kheo nơi
gò mả nhận
được tiền,
tự tay cầm
đi. Phật
nói: Không nên lấy
như
vậy. Tỳ-kheo
ấy cần
đồng, Phật
dạy: Ðập
phá cho hư hoại
hình tướng, sau
đó
được tự
tay cầm
đi.
Luật Tăng
kỳ
nói:
Người
bệnh
được
sai tịnh nhơn
cất chứa,
nhưng
đừng
tham
đắm. Nếu
vật phạm
Xả
đọa,
xả giữa
Tăng rồi,
vật
ấy
không
được trả
lại cho Tỳ-kheo
kia, Tăng cũng
không nên chia. Nếu
nhiều
nên cho vào trong vật
vô tận
(quĩ tiết
kiệm), khi có lợi
tức,
được
làm phòng xá, sắm
y trung (y An-đà-hội),
không
được
dùng vào thức
ăn.
Tỳ-kheo
được tiền
và an cư rồi
được y tài, không
nên tự
tay lấy, nên bảo
tịnh nhơn
biết. Nếu
không có tịnh nhơn
thì chỉ chỗ
đất gần
chân, nói rằng: Trong
đó
nên biết. Họ
đặt xuống
đất rồi,
tự tay lấy
lá cây, hay
ngói gạch, từ
đằng xa liệng
đến phủ
lên trên,
đợi tịnh
nhơn
đến
bảo cho biết.
Tùy theo cách sử
dụng
của quốc
độ
đó,
hoặc tiền
bằng
đồng,
bằng sắt,
bằng hồ
giao, bằng da, thẻ
cây tre, tất cả
không nên cầm. hoặc
có quốc
độ
lấy không thành tựu
hình tướng,
để
dùng, hoặc có nước
không dùng, thành tựu
hình tướng,
cầm nắm
đều phạm
tội Việt
tỳ-ni. Trong nước
không dùng, không thành tựu
tướng, nắm
vật làm bằng
đồng, bằng
thiếc thì không có tội.
Luật
Ngũ phần
nói:
Tăng
nên Bạch nhị
yết-ma sai một
Tỳ-kheo làm người
bỏ vàng bạc
và tiền. Tỳ-kheo
ấy nên bỏ
vật này trong hầm,
trong lửa, trong dòng nước
chảy, trong
đồng
trống, không nên ghi
nhớ
chỗ
ấy.
Nếu cầm
nắm bỏ
chỗ khác không
được
nắm lại.
Vị Tỳ-kheo
ấy không nên hỏi
rằng: “Vật
này nên làm thế
nào.”
Tăng
cũng không nên dạy
bảo làm như
thế, như
thế.
Nếu
không bỏ,
không hỏi mà sai tịnh
nhơn
đổi
lấy y thực
cho Tăng,
đem
đến cúng Tăng,
Tăng
được
phép thọ.
Nếu
chia thì chỉ người phạm
tội không
được
thọ phần.
Không phạm:
Tuy thí cho Tỳ-kheo
mà Tỳ-kheo
không biết. Tịnh
nhơn thọ,
rồi mua vật
tịnh cho Tỳ-kheo.
Trường hợp
có các Tỳ-kheo muốn
đi xa,
đến
Trưởng giả
xin lương thực
đi
đường.
Người
ấy
sai người
đem
vàng, bạc, tiền,
vật tiễn
đưa. Ðến
nơi
đồ
tích trữ dư
rất nhiều,
sứ giả
trở lại
thưa với
chủ. Chủ
nói: “Tôi
đã dâng cúng, không
nên trả
lại, ông có thể
đem
đến
trong chỗ có Tăng
để cúng cho Tăng”.
Phật dạy:
“Cho phép tịnh nhơn
vì Tăng thọ
nhận
để
đổi lấy
vật cần
dùng cho Tăng.
Các Tỳ-kheo
không nên biết
tới”.
Luật
Thập tụng
nói:
Tự
tay cầm
đồ
báu, nếu ít thì nên bỏ,
nếu nhiều,
gặp tịnh
nhơn
đồng
tâm, nên nói: “Vì không tịnh
nên tôi không nhận,
người
nên lấy.” Tịnh
nhơn lấy
rồi, nói với
Tỳ-kheo: “Vật
này cho Tỳ-kheo.” Tỳ-kheo
nói: “Ðây là vật
không tịnh,
nếu tịnh
sẽ thọ.”
Nếu không gặp
tịnh nhơn
đồng tâm, nên làm ngọa
cụ cho tứ
phương Taêng, nên vào
trong Tăng
nói: “Các Ðại
đức,
tôi tự tay cầm
đồ báu, mắc
tội Ba-dật-đề. Tôi nay phát lồ,
không dám che giấu,
ăn năn tội
lỗi.” Tăng
nên hỏi: “Thầy
đã xả
vật báu
ấy
chưa?” Nếu
đáp: “Ðã xả.”
Tăng nên hỏi:
“Thầy có thấy
tội không?” Nếu
nói: “Thấy tội.”
Tăng nên nói: “Sau
đừng làm lại.” Nếu
nói: “Chưa xả.”
Tăng nên hướng
dẫn cho xả.
Nếu không hướng
dẫn, tất
cả Tăng
mắc tội
Ðột-kiết-la.
Nếu hướng
dẫn mà không xả,
Tỳ-kheo
ấy
mắc Ðột-kiết-la.
Luật
Căn bản
nói:
Nếu
vì sửa sang phòng xá các
việc,
nên xin cỏ, cây, xe cộ,
nhơn công, không nên
xin vàng, bạc, tiền...
Nếu cầm
loại tiền
mà trong nước
đó
dùng thì phạm Xả
đọa. Nếu
cầm loại
tiền mà trong nước
đó không dùng thì mắc
tội ác tác. Nếu
cầm
đồng
đỏ, thau,
đá,
đồng thiếc,
chì, kẽm thì không phạm.
Nếu có người
cúng y tài, cần thì nhận.
Nhận rồi
liền nghĩ
là vật của
người
đó,
mà cất chứa,
nên giao cho tịnh
nhơn
giữ, không nên tự
mình cầm. Nếu
không có tịnh nhơn
thì
đem vật
ấy
đối
trước một
Tỳ-kheo, nói như
thế này: “Cụ
thọ,
nhớ
cho: Tôi tên là...
được vật
bất tịnh
này, tôi sẽ
đem
vật bất
tịnh này
đổi
lấy tịnh
tài.” Nói như vậy
ba lần, rồi
tùy theo việc thọ,
không
đến nổi
sanh nghi.
Nếu
trong chùa Tăng có giặc
đáng sợ
thì vàng, bạc, tiền,
vật báu của
Tháp, Tăng nên cất
giữ chắc
chắn, mới
dời
đi
nơi khác. Nếu
không có người cư
sĩ tịnh
tín nên sai cầu
tịch
(Sa-di), cầu tịch
cũng không có thì tự
tay Tỳ-kheo
đào
hầm cất
giấu. Như
Lai vì trường hợp
gặp nạn
khai cho, sau khi nạn
hết
thì không
được tiếp
tục việc
làm
ấy.
Luật
nhiếp
nói:
Nếu
khi an cư,
thí chủ
đem
y quí
đến cúng cho Tỳ-kheo,
liền khởi
ý nghĩ gởi
cho thí chủ này rồi
nhận lấy.
Nên tìm cư sĩ
tịnh nhơn
tín kính
để làm tịnh
thí. Khởi ý tuởng
là của thí chủ,
cầm nắm,
không phạm. Nếu
không có thí chủ,
có thể
được phép
đem
vàng, bạc, các vật
đối trước
một Tỳ-kheo
nói rằng: “Cụ
thọ, nhớ
cho: Tôi Tỳ-kheo...
đặng
của cải
bất tịnh
này, nay
đem của
bất tịnh
này
đổi lấy
tịnh tài. nói như
vậy ba lần
rồi tự
cất giữ,
hoặc sai kẻ
khác cất giữ.”
(Theo tập Yết-ma của
ngài Hoài Tố cũng chọn
lấy pháp này. Ðời
mạt pháp này,
đây
là phương tiện
dễ làm, nên phải
tuân hành).
Nếu
Tỳ-kheo
ở trên
đường,
nhận
được
vàng, bạc, làm lương
thực
đi
đường, nên tự
cất giữ.
Hoặc sai tịnh
nhơn vaø cầu
tịch mang
đi.
Nên biết: Cầu
tịch
đối
với vàng, bạc
v.v... chỉ cấm
chưùa cho riêng mình
chứ
không ngăn cấm
việc cầm
nắm.
CHỨNG
MINH:
Kinh Ðại
bát niết-bàn
nói:
Nếu
nói Phật cho phép Tỳ-kheo
nuôi người tôi tớ,
chứa
để
vật bất
tịnh, vàng, bạc,
trân bảo, lúa, gạo,
kho tàng, trâu, dê, voi, ngựa,
mua bán cầu lợi,
đối với
đời
đói
kém. Ðó chỉ là thương
xót con vậy. Lại
cho phép các Tỳ-kheo
cất
chứa
đồ
ăn cách
đêm,
tự tay làm
đồ
ăn, không thọ
mà
ăn. Không nên dựa
vào những lời
dạy như
vậy.
PHỤ:
Luật
Thiện kiến
nói:
Có 4 loại
thọ dụng:
1) Dùng có tàm quý, nghĩa
là người không có tàm quý
gần
gũi với
người có tàm quý.
2) Dùng không tàm quý, nghĩa
là người có tàm quý gần
gũi với
người tàm quý, gọi
là thọ dụng
không tàm quý, mắc
tội.
Người có tàm quý gần
gũi với
người không tàm quý,
sau
đó
ắt phải
tùy theo làm
điều
ác, cho nên gọi là người
không tàm quí. Người không tàm quý, gần gũi
với có tàm quý
ắt sẽ cải
ác tu thiện, gọi
là người có tàm quý.
3) Dùng có pháp, nghĩa
là người có tàm quý, y nơi
Chánh pháp mà thọ
nhận.
4) Dùng không pháp, nghĩa
là người không tàm quý
không y theo Chánh pháp mà thọ nhận.
Nếu
được
vật như
thế này thì như
được thuốc
độc không khác.
Luật
Tăng kỳ
nói:
Có một
Tỳ-kheo
dẫn một
Sa-di về nhà thăm
bà con,
đi qua khoảng
đồng trống
vắng, có một
phi nhơn hóa làm hình con
rồng,
đi quanh phía bên phải
của Sa-di, rải
hoa khen rằng: “Lành thay! Ông
được lợi lớn,
bỏ nhà ra khỏi
nhà.” Tỳ-kheo
đến
nhà thăm bà con xong, khi
sắp
trở về
người vợ
trong gia
đình nói: “Ông nay
trở
về, trên
đường
đi thiếu
thốn nhiều,
có thể cầm
số tiền
này,
đổi lấy
vật cần
dùng”. Sa-di nhận
lấy,
cột nơi
chéo y. Trên
đường
đi,
phi nhơn lại
hóa thành con rồng,
đi quanh phía bên trái của
Sa-di, lấy bùn rải
lên, nói rằng: “Ông mất
thiện lợi,
xuất gia tu
đạo,
mà cầm tiền
đi”. Sa-di kêu la. Tỳ-kheo
quay lại hỏi
sự việc.
Sa-di
đáp: “Con không nhớ
có lỗi gì, vô cớ
maø bị quấy
rối”. Tỳ-kheo
bảo: “Ông có cầm
cái gì chăng?” Sa-di
đáp:
“Cầm tiền
đi”. Thầy
Tỳ-kheo bảo
Sa-di bỏ mà
đi.
Bỏ rồi,
phi nhơn lại
trở lại
như trước
cúng dường. Do nhân duyên
ấy, Tỳ-kheo bạch
Phật. Phật
dạy: “Từ
nay không cho phép Sa-di cầm
vàng, bạc, tiền.
Nếu Tỳ-kheo
sai Sa-di trước
đó
đã cầm
rồi, sau sai cầm
thì không tội”.
19. GIỚI
MUA BÁN BẢO
VẬT
Ðại
thừa
đồng
chế.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, kinh doanh tài bảo
dưới
mọi
hình thức,
Ni-tát-kỳ
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Bạt-nan-đà
đến
nơi cửa
hàng dùng tiền
đổi
tiền, cầm
đi. cư
sĩ cơ
hiềm cho nên Phật
chế cấm.
Tiền
có 8 loại:
Tiền
bằng
vàng, bằng bạc,
bằng
đồng, bằng thiếc,
bằng bạch
lạp, bằng
chì, bằng cây, bằng
hồ giao.
TƯỚNG TRẠNG
CỦA TỘI
Pháp xả
đồng như
giới trước.
Tỳ-kheo-ni
phạm
Xả
đoïa.
Ba chúng dưới phạm
Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Dùng tiền
đổi
lấy dụng
cụ trang hoàng như
chuỗi ngọc
mà vì Phật, Pháp, Tăng
hoặc lấy
đồ anh lạc
đổi lấy
tiền mà vì Phật,
Pháp, Tăng.
Luật
nhiếp
nói:
Nếu
vì Tam bảo
xuất nhập,
hoặc thí chủ
làm kho vô tận (quĩ
tiết kiệm),
vì thế mà tìm cầu
đều thành phi phạm.
Song, những vật
này khi xuất
để
làm lợi phải
ghi vào sổ sách
để
làm tin, tìm cách bảo
chứng
tốt, lập
thành văn bản.
Ngày cuối năm
phải báo cáo với
Thượng tọa
và người giao nhận
việc,
đều
phải biết
rõ.
Hoặc lại
báo cáo cho Ô-ba-sách-ca
có tín tâm kia biết.
20. GIỚI
MUA BÁN
Ðại
thừa
đồng
chế.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, kinh doanh mậu
dịch
dưới
mọi
hình thức,
Ni-tát-kỳ
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Bạt-nan-đà
ở trong thôn không
có trú xứ
(Tăng), cầm
gừng sống
đổi thức
ăn mang
đi.
Ngài Xá-lợi-phất
khất thực,
đến nơi
cửa hàng bán cơm,
chủ cửa
hàng trả giá. Lại
nữa, trong thành Xá-vệ,
có ngoại
đạo
được một
y quý giá
đem
đến
Tăng-già-lam, xin
được
đổi chác. Bạt-nan-đà bảo
sáng mai trở lại.
Ðêm
đó, Bạt-nan-đà bảo
giặt nhuộm
y cũ của
mình thành như y mới.
Sáng ngày
đổi cho ngoại
đạo. Ngoại
đạo
được
y
đổi xong,
đem
về trong vườn
nơi chỗ
ở, khoe với
các ngoại
đạo
khác, trong
đoù có người
hiểu biết,
nói: “Ông
đã bị
người ta lừa
dối.” Ngoại
đạo liền
đem y
đến
đó, muốn
đổi lại.
Bạt-nan-đà
không chấp thuận
đổi lại.
Ngoại
đạo
cơ hiềm
cho nên Phật chế
cấm.
GIẢI THÍCH:
Kinh doanh mậu
dịch dưới
mọi hình thức
là lấy thời
(thuốc có thời
hạn)
đổi
thời, lấy
thời
đổi
phi thời (thuốc
không có thời hạn),
đổi (thuốc)
bảy ngày,
đổi
(thuốc) suốt
đời,
đổi
Ba-lợi-ca-la
dùng phi thời
đổi phi thời,
đổi bảy
ngày, suốt
đời
và thời v.v... cho
đến
dùng Ba-lợi-ca-la
đổi
thời, phi thời,
v.v...
Bán, tức
là trị giá từ
một tiền,
luôn luôn lên xuống,
tăng
lên
đến ba tiền,
năm tiền.
Mua cũng như
vậy.
TƯỚNG
TRẠNG CỦA
TỘI
Kinh doanh mậu
dịch dưới
mọi hình thức,
nếu
được,
phạm Xả
đọa; không
được,
phạm Ðột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni
phạm Xả
đọa. Ba chúng dưới
phạm Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Ðổi chác với
người trong 5 chúng xuất
gia, tự thẩm
định không nên
để thua thiệt cho nhau.
Không nên
đổi
chác cùng với người
khác. Hoặc bảo
tịnh nhơn
đổi chác, nếu
có sự hối
hận thì nên hoàn lại.
Hay là dùng tô (váng sữa)
đổi du (dầu),
dùng du
đổi tô.
Luật Tăng
kỳ
nói:
Nếu
vật
ở
trên cửa hàng, có
định
giá trước, Tỳ-kheo
đem tiền
đến mua, khi lấy
vật
đi
nên nói với người
chủ rằng:
“Ðây là giá của
vật
đó.”
Nếu
không nói, im lặng
cầm
đi, phạm
tội Việt
tỳ-ni.
Nếu
vật
ấy
đáng
giá 50 mà thách 100 tiền,
Tỳ-kheo nói: “Nên biết
tôi chỉ có 50.” Như
vậy không gọi
là mua hạ giá. Nếu
Tỳ-kheo biết
có người muốn
mua vật
ấy,
không nên mua trước. Nếu
mua, phạm tội
Việt tỳ-ni.
Trường hợp
khi mua lúa, nghĩ
như
vầy: Sau này lúa sẽ
đắt, phạm
Việt tỳ-ni.
Khi bán lúa ra phạm
Xả
đọa. Trường
hợp nghĩ:
Sợ lúc nào
đó
lúa sẽ
đắt,
nên nay mua lúa vào, nhờ
vậy ta
được
tụng kinh, tọa
thiền, hành
đạo.
Ðến khi lúa
đắt,
để dành cúng dường
hai thầy, hay làm công
đức. Ngoài ra, bán
được lợi
thì không có tội.
Mua bát, mua thuốc v.v... cũng
như vậy.
Luật
Ngũ phần
nói:
Nếu
muốn
đổi
chác, nên sai tịnh
nhơn
làm, nói rằng: “Vì tôi
đem
vật này
đổi
lấy vật
kia.” và tâm nên nghĩ:
Thà
để
người kia
được
lợi nơi
ta, chứ ta không nên
được lợi nơi
người
đó.
Nếu mình muốn
đổi chác thì nên
đổi chác với người
trong 5 chúng, nếu
đổi chác với bạch
y phạm Ðột-kiết-la.
Luật
Căn bản
nói:
Vì lợi
mà mua, không vì lợi mà bán. Khi mua phạm
ác tác, khi bán không phạm.
Nếu không vì lợi
mà mua, vì lợi nên bán; khi mua
không phạm,
khi bán phạm Xả
đọa. Nếu
vì về phương
khác mà mua
để
đem
đi, không nghĩ
đến lợi,
khi
đến
đó
bán, tuy
được lợi,
không phạm.
Luật
nhiếp
nói:
Khi mua bán, không nương
vào thật ngữ,
hoặc ngụy
lạm cân lít, khi cuống
người khác thì mắc
tội vọng
ngữ. Khi
được
vật, phạm
ăn trộm.
Khi cầm tài vật
muốn mua bán, trước
phải
định
ý, không có tâm cầu
lợi,
tùy theo nơi mà thu
được
lợi, thảy
đều không phạm.
Ni-đà-na
nói:
Bí-sô không nên vì người khác
đoán
định giá, không nên
trả
giá cao thấp. Nếu
không có người thế
tục thay thế
mình trả giá thì tự
mình có thể trả
hai, ba giá, nếu quá mức
này mắc tội
ác tác.
Luật
Thập tụng
nói:
Dùng vật
bất tịnh
mua thức
ăn,
mỗi miếng
ăn phạm
Ðột-kiết-la.
Mua y, tùy theo mỗi
lần mặc,
phạm một
Ba-dật-đề.
Nếu cùng nhau
đổi
chác, người kia
ăn
năn nên hoàn lại,
nếu quá bảy
ngày không
được trả
lại. Nếu
dùng giá hạ mà
đòi
y quý giá của kẻ
khác, phạm Ðột-kiết-la. Nếu
vật cần
dùng, ba lần xin không
được,
nên tìm tịnh nhơn
bảo họ
mua giùm cho.
Luận
Tát-bà-đa nói:
Thà làm tên
đồ
tể chứ
không làm người mua bán, vì tất
cả những
việc làm
đó
là lừa dối
tai hại. Vật
mua bán này
đem làm thức
ăn cho chúng Tăng,
Tăng không nên
ăn;
làm phòng cho bốn
phương
Tăng, Tăng
không
được
ở.
Làm tháp, làm tượng không nên hươùng về
đó tác lễ.
Lại nói: “Chỉ
nên tác ý Phật mà lễ.”
(Tác ý lễ là không dùng
đến thân, khẩu
để lễ.
Sở dĩ
cự tuyệt
một cách nghiêm ngặt, chính là sợ
hạng người
không biết xấu hổ,
lừa dối
nói cúng dường Tam bảo là việc
làm có công
đức, tìm cách bào chữa tội
lỗi của
mình vậy).
Phàm làm vị
Tỳ-kheo giữ
giới, không nên thọ
dụng vật
thế này, Nếu
vị Tỳ-kheo
này qua
đời, vật
này nên Yết-ma
để
chia. (Ðã chết
thì không có tâm tham chứa
cất cho nên cũng
giống như
vật Tỳ-kheo
qua
đời, Yết-ma chia vậy).
21. GIỚI
CHỨA BÁT DƯ
Ðại
thừa
vì chúng sanh nên không
đồng
học
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, chứa
bát dư,
không tịnh
thí được
phép chứa
trong hạn
mười
ngày, quá hạn,
Ni-tát-kỳ
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Lục
quần
Tỳ-kheo chứa
bát, cái nào tốt
thì dùng, cái nào xấu
để
một bên. cư
sĩ
đến
phòng xem thấy, cơ
hiềm: “Như
thợ
đồ
gốm, bán hàng gốm”,
cho nên Phật chế
cấm.
Ngài A-nan nhận
được cái bát quý giá
nơi
nước Tô-ma, muốn
cúng cho ngài Ca-diếp,
mà ngài Ca-diếp
đi
vắng,
sợ phạm
giới này. Phật
hỏi: “Tôn giả
Ca-diếp
đi
bao lâu trở về.”
Trả
lời: “Mười
ngày”. Vì vậy
đức
Phật cho chứa
bát 10 ngày.
GIẢI THÍCH:
Bát có hai loại:
Bát bằng thiếc,
bát bằng sành.
Luật
Căn bản
nói:
Bát lớn
nhất
đựng
được hai thăng
gạo nấu
cơm. Cỡ
trung một thăng
rưỡi. Cỡ
nhỏ
một thăng.
TƯỚNG TRẠNG
CỦA TỘI
Trong 10 ngày nhận
được
bát, ngày nhận
được,
ngày không nhận
được,
đến ngày thứ
11, tướng mặt
trời hiện,
đều phạm
Xả
đọa.
Ngoài ra, như giới
chứa y
đã
nói. Tỳ-kheo-ni phạm
Xả
đọa.
Luật
nhiếp
nói:
Hoặc
giảm số
lượng, hay quá số
lượng, hoặc
nghĩ cho người
xuất gia cận
viên khác, theo nhu cầu
của
họ, tuy không phân biệt,
nhưng không phạm.
Nếu vì
để
chứa canh rau, dùng uống
nước, chứa
hai bát nhỏ và
để
đựng muối
hay múc nước
đều
không phạm. Trong một
bát lớn có thể
chứa cái bát nhỏ,
để
đáp
ứng khi cần
dùng, chứa nhiều
chẳng phạm.
Nên chứa một
bát lớn
để
ngừa khi thiếu
mà dùng.
Luận Tát-bà-đa
nói:
Nếu
chứa bát dư
bằng thiếc
trắng, bằng
sành, mà chưa xông khói, tất
cả bát không
ứng
lượng
đều
phạm Ðột-kiết-la.
Phần thứ
ba (luật Tứ
phần)
nói:
Bát cạn, bát nhỏ,
bát vừa cho phép không
tác tịnh
thí
được chứa.
Luật Ngũ
phần
nói:
Nếu
được hai bát, nên hỏi
thầy, cái nào hơn.
Nếu thầy
không khéo phân biệt,
nên dùng mỗi cái trong 5 ngày
để
tự biết
cái nào hơn thì thọ
trì, cái kia cho người khác.
BIỆN
MINH:
Hỏi:
-
Luật nhiếp
cho phép: Giảm
số lượng,
quá số lượng
để
đáp
ứng nhu cầu,
chứa nhiều
không phạm. Còn luận
Tát-bà-đa nói: Nếu
chứa bát bằng
thiếc trắng
v.v...
đều phạm
Ðột-kieát-la. Như
vậy, theo bên nào?
Ðáp:
-
Ðáp
ứng nhu cầu
thì tuy nhiều cũng
có chừng mức;
nếu chứa
bát bằng thiếc
trắng v.v...
đã
không phải là vật
cần thiết
thì là chứa nhóm xan tham,
sao lại
không phạm?
22. GIỚI
CHỨA BÁT CẦU
ÐẸP
Ðại
thừa
đồng học.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, có bát vá dưới
năm
chỗ
không chảy
rỉ,
mà tìm xin bát mới,
vì muốn
đẹp,
Ni-tát-kỳ
Ba-dật-đề.
Tỳ-kheo
ấy
phải
đem
giữa
Tăng
xả.
Tăng
lần
lượt
cho đến
lấy
cái bát tối
hạ
trao cho, khiến
thọ
trì cho
đến khi vỡ.
Như
vậy
là hợp
thức.
NGUYÊN DO:
Bạt-nan-đà
bị vỡ
cái bát, vào thành Xá-vệ
đến các cư
sĩ xin bát. Chỉ
bể một
cái bát mà xin
được nhiều cái bát. Một
thời gian sau
đó,
các cư sĩ
có cơ hội
gặp nhau. Mỗi
người
đều
nói tôi
được nhiều
phước, nhờ
mua bát cúng cho Bạt-nan-đà.
Do
đó cùng nhau cơ
hiềm, nên Phật
chế cấm.
GIẢI THÍCH:
Vá 5
đường,
giữa hai
đường
cách nhau hai ngón tay.
Luật
Thập tụng
nói:
Cho phép dùng thiếc
hay
đồng và bát bể.
Luật
Căn bản
nói:
Nếu
khó xin
được
bát, tùy ý vá, trám, trét mà dùng. Nếu
địa phương
nào dễ xin
được
bát, có thể bỏ
cái cũ xin cái mới.
TƯỚNG TRẠNG
CỦA TỘI
Ðủ
năm
đường nứt,
không rỉ chảy,
lại xin bát mới
phạm Ðột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni
phạm Xả
đọa. Ba chúng dưới
phạm Ðột-kiết-la.
Không phạm: dưới
năm
đường
nứt mà rỉ
chảy nên tìm xin cái mới.
Mình vì người khác mà xin, người khác vì mình mà
xin. Không xin mà
được. Ðược
phần do Tăng
chia. Tự
mình mua
để dành.
Luật Căn
bản
nói:
Cái bát này không nên cất, không nên
để
riêng, cũng không cho người
khác, nên may hai cái
đãy
đựng bát, cái tốt
thì
đựng cái bát dư,
cái không tốt
thì
đựng
cái bát cũ. Khi khất
thực nên
đem
hai cái bát, cơm
khô thì
đựng
trong cái bát dư,
cơm
ướt thì
đựng
trong cái bát cũ.
Nên
ăn
nơi cái bát cũ.
Rửa cái bát dư
trước, hong phơi
cất
để,
ưu tiên
đều
dành cho cái bát dư.
Khi
để
nơi khám hay xông
khói, cái bát dư
đều chiếm
ưu
tiên. Khi
đi
đường, cái bát cũ nhờ
người
mang, cái bát dư
mình tự
mang. Không có ai mang giùm thì mang cái bát dư
nơi vai trái, cái bát
cũ
mang nơi vai phải
mà
đi. Ðây là một
cách trị phạt
cho
đến trọn
đời hoặc
phải khéo léo giữ
gìn cho
đến khi nó bể.
Nếu trái phạm
thì mắc tội
việt pháp.
Luật Tăng
kỳ
nói:
Tỳ-kheo
mang cái bát này cố
ý làm cho bể, mắc
tội Ba-dật-đề. Trường
hợp hai thầy
hay là bạn
quen biết v.v... vì lòng
lân mẫn
sợ vấn
đề rửa
bát trở ngại
cho việc tu tập
đem dấu
đi,
tìm không
được, xin cái khác không tội.
Xin
được một
cái bát nên thọ
trì. Nếu
được hai cái thì bỏ
vào kho của Tăng
một cái.
Cho
đến
xin
được 10 cái thì 9
cái bỏ
vào kho của Tăng.
Xin
được giá tiền
mua bát cũng như
vậy.
Tát-bà-đa
ma-đắc-lặc-già
nói:
Nếu
xin
được
nhiều bát, cái nào vừa
ý thì thọ trì, còn cái kia
cho người
cần dùng.
TRÙNG TRỊ
TỲ-NI
SỰ
NGHĨA
TẬP
YẾU
HẾT QUYỂN
THỨ NĂM
Cụ
thọ
具壽: Skt.
āyuṣmata, Pāli. āyasmant, cách tôn
xưng
đối với những
vị
đệ tử
(Tỳ-kheo) Phật,
hoặc thầy
gọi
đệ tử,
Trưởng lão gọi
vị thiếu
niên cũng gọi từ
này.
Ba-lợi-ca-la
波利迦羅: skt.
Parikara, còn
gọi
là Ba-già-la
波伽羅,
là những
loại
y trợ
thân ngoài ba y ra, như
phú thân y, tăng-kỳ-chi,
nê-hoàn-tăng
v.v...
--- o0o ---
Mục
Lục |
01
|
02
|
03
|
04
|
05
|
06
|
07
|
08
|
09
|
10
11
|
12
|
13
|
14
|
15
|
16
|
17
|
18
|
19
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-6-2007