TRÙNG TRỊ TỲ NI
SỰ NGHĨA TẬP YẾU
CỔ
NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích
Việt
dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH
Nhuận văn
và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
---o0o---
TẬP I
QUYỂN THỨ
6
23. GIỚI
BẢO THỢ
DỆT KHÔNG PHẢI
BÀ CON DỆT Y
Ðại
thừa
vì chúng sanh nên không
đồng
học.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, tự
mình xin chỉ
sợi,
khiến
thợ
dệt
không phải
thân quyến
dệt
làm ba y, Ni-tát-kỳ
Ba-dật-đề
NGUYÊN DO:
Bạt-nan-đà
muốn may y Tăng-già-lê,
nên vào trong thành Xá-vệ,
đến nhà cư
sĩ xin chỉ
khắp nơi.
Xin
được nhiều
chỉ bèn khiến
thợ dệt,
dệt làm ba y, tự
mình mắc chỉ
vào xa, tự mình coi thợ
dệt. Cư
sĩ thấy
vậy cơ
hiềm, cho nên Phật
chế cấm.
TƯỚNG
TRẠNG CỦA
TỘI
Coi thợ
dệt, hoặc
tự mình dệt,
hay tự mình mắc
chỉ vào xa,
đều
phạm Ðột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni
phạm Xả
đọa. Ba chúng dưới
phạm Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Thợ dệt
là bà con, tự mình dệt
đãy
đựng
bát hay
đồ dùng lặt
vặt.
Luật
Tăng kỳ
nói:
Tự
mình
đi xin chỉ,
phạm Việt
tỳ-ni tâm hối;
xin
được phạm
tội Việt
tỳ-ni; dệt
thành phạm Xả
đọa.
Luật
Thập tụng
nói:
Khiến
thợ dệt,
không phải bà con dệt,
phạm Xả
đọa. Ðến
người không phải
bà con xin chỉ, phạm
Ðột-kiết-la.
Tự mình dệt
hay sai 5 chúng dệt,
phạm
Ðột-kiết-la.
Luật
Căn bản
nói:
Nếu
trả tiền
dệt thì không phạm.
Luận
Tát-bà-đa nói:
Nếu
thiếu y thì nên xin y,
không nên xin chỉ
để may y. Cần chỉ
may y mà
đem may giây lưng,
không tội.
24. GIỚI
CẦU DỆT
Y MỚI CHO TỐT
Ðại
thừa
đồng chế
và gọi
đó
là ác cầu
đa
cầu.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, có cư
sĩ
hay vợ
cư
sĩ
khiến
thợ
dệt
vì Tỳ-kheo
dệt
y. Tỳ-kheo
ấy,
trước
chưa
được
yêu cầu
tùy ý, liền
đến
chỗ
thợ
dệt
nói rằng:
“Y này vốn
làm cho tôi. Hãy dệt
cho tôi thật
hết
sức
khéo, khiến
cho dài, rộng,
bền
chắc,
tôi sẽ
trả
công cho ít nhiều”,
Tỳ-kheo
ấy
trả
công, dù chỉ
đáng
giá một
bữa
ăn,
nếu
được
y, Ni-tát-kỳ
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Thành
Xá-vệ
có một cư
sĩ
đem
tơ lụa
tốt bảo
thợ dệt,
dệt y cho Bạt-nan-đà. Thợ
dệt nói cho Bạt-nan-đà biết
việc
ấy,
Bạt-nan-đà
bảo thợ
dệt dệt
cho dài, cho rộng,
bền
chắc, thợ
dệt nói sợi
tơ lụa
thiếu. Bạt-nan-đà
đến
nhà cư sĩ
xin thêm tơ lụa.
Vợ cư
sĩ
đem
cái rương
đựng
tơ lụa
ra, Bạt-nan-đà
chọn lấy
theo ý muốn của
mình rồi
đem
đến thợ
dệt. Thợ
dệt nói tiền
thuê ít. Bạt-nan-đà
hứa trả
tiền công dệt.
Cư sĩ
từ phương
khác trở về
thấy không phải
cái y mà trước kia ông ta bảo
thợ dệt
dệt, hỏi
ra biết
được
sự việc
bèn sanh cơ hiềm,
cho nên Phật chế
cấm. Sau
đó,
Tỳ-kheo nghi không
dám trả
lời khi có người
thỉnh cầu
theo ý muốn, cũng
không dám từ chối
nhận y quá
đẹp
mà mình không muốn.
Phật
dạy: Nếu
có sự thỉnh
tùy ý trước thì không phạm.
TƯỚNG TRẠNG
CỦA TỘI
Mong cầu
như vậy
mà
được y thì phạm
Xả
đọa,
không
được y phạm
Ðột-kiết-la.
Tỳ-kheo-ni phạm
Xả
đọa.
Ba chúng dưới phạm
Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Vì người khác xin, hoặc
người khác vì mình xin
hay không xin mà
được.
Luật
Tăng kỳ
nói:
Nếu
chỉ
đến
khuyên mà không hứa
trả
thêm giá,
được y, phạm
Việt tỳ-ni.
Luật
Thập tụng
nói:
Mình có chỉ
sợi khiến
thợ dệt
dệt thì không phạm.
25. GIỚI
CHO Y RỒI HỜN
GIẬN LẤY
LẠI
Ðại
thừa
đồng học.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, trước
đã
cho Tỳ-kheo
khác y, sau vì giận
hờn,
tự
mình đoạt,
hay sai người
đoạt
lấy,
nói rằng:
“Hãy trả
y lại
cho tôi. Tôi không cho ngài”. Nếu
Tỳ-kheo
kia trả
y, Tỳ-kheo
này nhận
lấy,
Ni-tát-kỳ
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Ðệ
tử
của Nan-đà
có tài giáo hóa, Bạt-nan-đà
nói rằng: “Cùng với
tôi du hành trong nhơn
gian, tôi sẽ cho ông cái y”. Các Tỳ-kheo
khác hỏi: “Tại
sao ông cùng
đi với
Bạt-nan-đà?
Ông ta là người ngu si không biết
tụng giới
thuyết giới,
Bố-tát Yết-ma”.
Sau
đó
đệ
tử của
Nan-đà không cùng
đi.
Bạt-nan-đà
đòi lại
cái y mà trước
đó
đã cho. Tỳ-kheo
ấy không chịu
trả. Bạt-nan-đà giận
dữ cướp
giật lại.
Tỳ-kheo
ấy
la lơùn: “Ðừng
làm vậy!” Các Tỳ-kheo
ở phòng gần,
cùng nhau hỏi biết
sự việc,
bạch Phật
kiết giới.
TƯỚNG TRẠNG
CỦA TỘI
Ðoạt
lại
mà
đem cất
giấu, lấy
khỏi chỗ
cũ, phạm
Xả
đọa,
không cất giấu,
không lấy khỏi
chỗ cũ,
phạm Ðột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni
phạm Xả
đọa. Ba chúng dưới
phạm Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Không giận dữ,
người
đó
liền trả
lại y. Hoặc
người khác khuyên bảo
họ trả
lại y. Hoặc
người mượn
y cố
đoạt một
cách vô
đạo lý. Hoặc
sợ mất
y hay bị hư
hoại. Hoặc
người
ấy
phá giới, phá kiến,
phá oai nghi. Hoặc
bị
cử, hoặc
diệt tẫn,
hoặc nên diệt
tẫn. Hoặc
vì những việc
này, mạng nạn,
phạm hạnh
nạn. Tất
cả trường
hợp như
vậy mà
đoạt lấy,
không cất giấu
thì không phạm.
Luật
Tăng kỳ
nói:
Hoặc
hợp
đồng
cho,
đoạt
lại một
cách riêng rẽ. Hoặc
cho một cách riêng rẽ
mà cùng nhau
đoạt
lại. Hoặc
cùng nhau cho, cùng nhau
đoạt.
Hoặc
cho riêng,
đoạt
riêng. Cùng nhau
đoạt
lại
mà
được, mắc
một tội
Ba-dật-đề.
Ðoạt riêng rẽ
mà
được thì mắc
nhiều Ba-dật-đề.
Nếu khi cho y nói thế
này: “Ở bên tôi thì tôi
cho, không
ở bên tôi thì tôi lấy
lại”. Hay là nói: “Vừa
ý tôi thì tôi cho, không vừa
ý tôi thì tôi lấy
lại”.
Hoặc vì vấn
đề chịu
học kinh, nên cho,
không học
kinh nên lấy lại.
Tất cả
trường hợp
như vậy
thì không có tội.
Hoặc
bán chưa lấy
tiền, hay lấy
chưa hết
tiền mà người
ấy lấy
y, lấy lại
không tội. Hoặc
đệ tử
không thể răn
dạy
được,
vì
để chiết
phục cho nên
đoạt lại,
sau khi chiết phục
được roài lại
cho họ thì không tội.
Luật
Thập tụng
nói:
Ðoạt
lại mà
được,
thì phạm Xả
đọa, không
được,
phạm Ðột-kiết-la.
Luận
Tát-bà-đa nói:
Ðoạt
y lại của
5 chúng và người dữ
học (học
giới lại),
hành biệt trụ,
hành Ma-na-đỏa,
đui,
mù,
điếc,
câm, bị cử,
đều phạm
Xả
đọa.
Ðoạt y của
người cuồng
loạn, tâm bệnh
hoạn, phạm
tứ trọng,
ngũ nghịch
và ngũ pháp nhơn
đều mắc tội
Ðột-kiết-la.
Tỳ-kheo-ni
đoạt y của
Tỳ-kheo phạm
Ðột-kiết-la,
đoạt
y của Ni chúng
đều
phạm Xả
đọa. Nếu
trước
đó
với ý
định
dứt khoát cho y người
khác, sau vì phiền
não tạm
đoạt
lại, phạm
Xả
đọa.
Khi y trả lại
cho người
ấy,
người trả
phải sám hối
phạm tội
Ba-dật-đề.
Nếu trước
với ý
định
dứt khoát cho y người
khác, sau với ý
định
dứt khoát
đoạt lấy
lại thì phải
tính theo tiền mà thành tội
(trị giá 5 tiền
thì phạm trọng).
Nếu trước
tạm thời
cho y người khác, sau lại
đoạt
lấy lại
vì phẫn nộ
muốn gây bực
bội cho họ,
phạm Ðột-kiết-la. Nếu
vì chiết phục
khiến cho họ
lìa ác pháp, tạm thời
đoạt
lại thì không tội.
BIỆN
MINH:
Hỏi:
- Theo luật
Tứ phần
thì
đoạt lại
y người phá giới,
phá kiến v.v... không phạm.
Luận Tát-bà-đa
thì nói
đoạt lại
y người dữ
học, cho
đến
người bị
cử
đều
phạm Xả
đọa. Như
vậy nên theo bên nào?
Ðáp:
-
Nếu trước
đó cho họ
y, sau vì họ phá giới
v.v...
nên
đoạt
lấy lại,
với tâm dùng
để
chiết phục
họ, cho nên không phạm.
Nếu họ
vốn là người
dữ học
v.v... trước do ái mà cho,
sau do sân nhuế mà
đoạt lại
là làm theo thói của
phàm tình, cho nên kết là có tội
vậy.
26. GIỚI
DÙNG THUỐC QUÁ BẢY
NGÀY
Ðây là giá tội
Ðại thừa
Tỳ-kheo
đồng
học.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, có bệnh,
các loại
thuốc
dư
tàn như
tô (váng sữa),
dầu,
sanh tô (bơ
sống),
mật
ong, thạch
mật
(đường
mía), trong thời
hạn
7 ngày
được phép dùng, nếu
quá 7 ngày còn dùng, Ni-tát-kỳ
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Các Tỳ-kheo
vào mùa thu bị
gió sanh bệnh, hình thể
khô khan, lại sanh ghẻ
độc. Phật
cho phép dùng năm
loại
thuốc vào trong thời
dược, phi thời
dược. Lúc
đó,
Tất-lăng-già-bà-ta
ở trong thành La-duyệt,
có nhiều người
quen biết, cùng nhiều
đồ chúng, nhận
được tô du, sanh tô,
mật,
thạch mật.
Các
đệ tử
tích trữ chứa
cất, chảy
đầy các nơi,
phòng xá bị hôi thối.
Các Trưởng giả
thấy vậy
cơ hiềm
cho nên Phật chế
cấm.
TƯỚNG
TRẠNG CỦA
TỘI
Nếu phạm
Xả
đọa,
thuốc không xả,
lại
đem
đổi thuốc
khác, mắc một
tội Xả
đọa, một
Ðột-kiết-la.
Tỳ-kheo-ni phạm
Xả
đọa.
Không phạm:
Tô du quá 7 ngày,
đem
thoa vào trục của
cánh cửa
để khỏi
kêu; mật, thạch
mật
đem
cho người giữ
vườn. Nếu
đến 7 ngày thì
đem cho Tỳ-kheo dùng.
Luật
Căn bản
nói:
Trước
giờ ngọ
nên rửa tay sạch,
cầm lấy
thuốc
ấy
đến bên người
đồng phạm
hạnh thưa:
“Cụ thọ
ghi nhận cho, Tôi Tỳ-kheo...
có bệnh duyên như
vậy, thuốc
này thanh tịnh, tôi nay xin
phép
được
dùng, trong thời
gian 7 ngày
đồng như
người phạm
hạnh”. Nói như
vậy 3 lần.
Nếu uống
xong một ngày liền
báo với
đồng
phạm hạnh
rằng: “Thuốc
này
đã uống
1 ngày, còn 6 ngày nữa,
tôi sẽ uống”.
Nên báo cáo như
vậy
đến ngày thứ
7. Quá 7 ngày, nếu
còn thuốc
nên xả cho tịnh
nhơn hoặc
cầu tịch.
Luật nhiếp
nói:
Vì
ưa
dung nghi
đẹp,
đắm
trước mùi thơm
ngon, hoặc vì muốn
thứ béo, hoặc
tâm trá ngụy, dùng các thứ
thuốc,
đều
phạm tội
ác tác.
Luật Thập
tụng
nói:
Nếu
trọng bệnh
thì không phạm. Thực
là 4 loại thức
ăn tiêu hóa nuôi
thân. Khi
ăn nên nghĩ:
“Ta vì trị bệnh
nên
ăn, không vì mùi vị
ngon vậy”.
Luật Ngũ
phần
nói:
Nên xả cho Tăng,
Tăng xả
cho bạch y, Sa-di. Hoặc
dùng
để thắp
đèn hoặc
thoa chân. Tỳ-kheo xả,
thuốc
ấy
không
được dùng, tất
cả Tỳ-kheo
đều không
được
ăn.
27. GIỚI
XIN ÁO TẮM MƯA,
DÙNG PHI THỜI
Ðại
thừa
đồng
học.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, mùa xuân còn một
tháng, có thể
tìm cầu
y tắm
mưa;
còn lại
nưûa
tháng, có thể
dùng. Nếu
Tỳ-kheo
quá trước
một
tháng tìm cầu
y tắm
mưa,
quá trước
nửa
tháng dùng, Ni-tát-kỳ
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Ðức
Phật
ở
nơi vườn
Kỳ-đà,
Tỳ-xá-khư
Mẫu thỉnh
Phật và Tăng
thọ thực.
Khi
ấy, nhằm
lúc trời mưa,
Phật cho phép các Tỳ-kheo
tắm mưa.
Người
ở
của
bà Tỳ-xá-khư
Mẫu
đến
báo cáo giờ thọ
trai, từ xa nhìn thấy
Tỳ-kheo lõa hình tắm,
nghi là ngoại
đạo,
về thưa
với bà chủ
nhà. Sau khi Phật
thọ
thực xong, bà Tỳ-xá-khư Mẫu
xin nguyện tám
điều:
-
Cúng thức
ăn cho khách Tỳ-kheo.
-
Cúng thức
ăn cho Tỳ-kheo
đi xa.
-
Cúng thức
ăn cho Tỳ-kheo
bệnh.
-
Cúng thuốc
cho Tỳ-kheo bệnh.
-
Cúng thức
ăn cho người
nuôi bệnh.
-
Cúng cháo cho chúng Tăng.
-
Cúng áo tắm
mưa
cho Tỳ-kheo.
-
Cúng áo tắm
cho Tỳ-kheo-ni.
Phật
đều chấp
thuận. Khi
ấy,
Lục quần
suốt cả
năm tìm cầu
áo tắm mưa,
không xả áo mưa,
dùng làm việc khác, cho nên Phật
chế cấm.
TƯỚNG TRẠNG
CỦA TỘI
Ngày 16 tháng ba nên tìm xin, ngày mồng
1 tháng tư nên dùng. Trước
thời gian
ấy
sử dụng,
đều phạm
Xả
đọa.
Luật
Tăng kỳ
nói:
Y này không
được
thọ dụng
như ba y chính, không
được tịnh thí, không
được mặc vào trong sông,
trong ao
để
tắm, khi mưa
nhỏ không
được
mặc tắm,
chỉ mặc
tắm khi mưa
lớn. Nếu
mưa
đột
ngột dừng,
mồ hôi,
đất
nhơ, có thể
mặc vào trong những
chỗ nào có nước
để tắm
thì không tội. Những
lúc khác, cũng
không
được lõa hình mà tắm,
phải mặc
xá-lặc (quần
cụt) hoặc
các loại y cũ.
Không
được mặc
áo tắm mưa
làm các việc khác. Nếu
khi
ăn, muốn
lấy dầu
thoa thân, hoặc khi bệnh,
hay chỗ có nhiều
người qua lại,
được dùng nó cột
hai
đầu
để
che. Rằm tháng tám phải
xả.
Một
Tỳ-kheo
ở
giữa Tăng
xướng rằng:
“Ðại
đức
Tăng,
xin lắng
nghe! Hôm nay Tăng
xả
y tắm
mưa”.
Nói như vậy
ba lần.
Nếu
đến ngày 16 mới xả,
mắc tội
Việt tỳ-ni.
Xả rồi,
được dùng làm ba y,
cũng
được thuyết
tịnh, cũng
được mặc
vào trong những chỗ
nào có nước
để
tắm, mặc
làm mọi việc,
không tội.
Luận
Tát-bà-đa nói:
Ni
được phép chứa áo tắm,
chứ không
được
phép chứa áo tắm
mưa. Còn Tỳ-kheo
được chứa
áo tắm mưa
vì hai việc:
-
Khi tắm
mưa che bốn
bên, tắm bên trong, khi
nóng cũng vậy.
-
Tháng mùa hạ
nhiều mưa,
thường gói ba y
để
mang
đi.
Nếu
gặp năm
nhuần tháng ba thì
không nên cầu xin vào tháng ba trước.
Tỳ-kheo không chứa
áo tắm mưa,
không tội.
28. GIỚI
CHỨA Y CẤP
THÍ QUÁ HẠN
Ðại
thừa vì chúng sanh,
nên
được
chứa, song phải
như pháp tịnh
thí, như trước
đã nói.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, còn mười
ngày nữa
mới
hết
ba tháng hạ,
các Tỳ-kheo
được
y cấp
thí, Tỳ-kheo
biết
đó
là y cấp
thí, có thể
thọ
nhận,
thọ
xong, có thể
cất
chứa
cho đến
thời
của
y, nếu
cất
chứa
quá hạn,
Ni-tát-kỳ
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Ðức
Phật
ở
Tỳ-lan-nhã, an cư
xong, Bà-la-môn thiết
cúng thí y. Phật cho phép Tỳ-kheo
thọ y an cư.
Lục quần
thường suốt
cả năm
xin y, như lúc an cư
chưa xong cũng
xin y, cũng nhận
y. Lại như,
Bạt-nan-đà
ở trong một
trú xứ an cư
rồi nghe chỗ
an cư khác
được
y nhiều, bèn
đến
đó
để
được chia phần,
nhận
được
nhiều phần
đem về
trong Kỳ-hoàn.
Nhân
đây,
các Tỳ-kheo thiểu
dục bạch
Phật, Phật
quở trách.
Khi
ấy,
trong nước Xá-vệ
có hai
đại thần
tên là Lê-sư-đạt-đa và Phú-na-la nhận
lệnh của
vua (Ba-tư-nặc),
cầm quân
đi
dẹp phản
loạn, tự
nghĩ rằng:
“Chưa biết
có
được sống
mà trở về
hay không?”. Hai vị
ấy muốn thiết
lập trai nghi cúng y
cho chư
Tăng. Các Tỳ-kheo
vì an cư chưa
xong, không dám nhận
y, bạch
Phật, Phật
cho phép nhận, bèn kiết
giới này.
GIẢI THÍCH:
Y cấp
thí là y có thời
gian tính, nhận thì
được,
không nhận thì mất.
Thời hạn
của y là sau một
tháng kể từ
ngày Tự tứ
nếu không thọ
y Ca-thi-na, và sau 5 tháng kể
từ ngày Tự
tứ nếu
có thọ y Ca-thi-na. Còn mười
ngày nữa thì
đến
ngày Tự tứ
mà
được y cấp
thí thì nên nhận.
Nhận
rồi chứa
cho
đến thời
của y. Nếu
còn chín ngày
được y cấp thí nên nhận,
nhận rồi
chứa cho
đến
thời của
y, lại tăng
thêm một ngày. Cho
đến
còn một ngày nữa
thì
đến ngày Tự
tứ, nhận
được y cấp
thí thì cất
đến
thời của
y, lại tăng
thêm chín ngày.
TƯỚNG
TRẠNG CỦA
TỘI
Quá thời
gian về trước
hay quá thời gian về
sau,
đều phạm
Xả
đọa.
Tỳ-kheo-ni phạm
Xả
đọa.
Không phạm:
Y bị
đoạt, y bị
mất v.v... quá thời
hạn về
trước; tưởng
là y bị mất
v.v... quá thời hạn
về sau.
Luật
Căn bản
nói:
Nếu
ở trong mùa hạ, thí chủ
muốn tự
tay dâng cúng y, nhận
lấy
không phạm. Hoặc
lần lượt
nhận
được
y cất chứa
của Tỳ-kheo,
hoặc thí chủ
nói: “Tôi
đi, khi trở
về, tự
tay dâng cúng”, tuy quá thời
hạn, chứa
để cũng
không phạm.
Luận
Tát-bà-đa nói:
Trừ
10 ngày, y cấp thí tất
cả y an cư
phải
đợi
đến khi Tự
tứ mới
chia. Nếu trong thời
gian an cư mà chia, phạm
Ðột-kiết-la.
29. GIỚI THÁNG SAU, KHI
MÃN HẠ
LÌA Y QUÁ sáu
đÊM
Ðại
thừa Tỳ-kheo
đồng học.
Luật
Tăng kỳ
nói:
Ba tháng hạ
chưa
đủ.
Luật
Ngũ phần
nói:
Ba thaùng an cư
chưa hết
tháng tám.
Luật
Thập tụng
nói:
Ba tháng qua, chưa
đến tháng tám, chưa
đủ năm.
Luật
Căn bản
nói:
Ở nơi
trú xứ A-lan-nhã, hậu
an cư .
Danh từ
Ca-đề dịch
là công
đức, hay dịch
là mão tinh, sao mão nhằm
tháng này vậy; nghĩa
là 16 tháng bảy cho
đến
ngày 15 tháng tám, gọi
là tháng Ca-đề.
Dựa
theo bốn bộ
Luật kia, chữ
“mãn” phải
đọc
luôn
đến câu dưới.
Nghĩa là người
hậu an cư,
tuy tùy theo chúng tiền
an cư, rằm
tháng bảy Tự
tứ, nhưng
phải riêng nơi
A-lan-nhã
đủ 1 tháng,
để
đủ thời
gian hậu an cư,
không cho phép lìa y.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, ba tháng hạ
đã
hết,
một
tháng hậu
Ca-đề
cũng
mãn, sống
tại
A-lan-nhã, chỗ
đáng
nghi ngờ,
có sợ
hãi, Tỳ-kheo
sống
tại
trú xứ
như
vậy,
trong ba y, nếu
muốn,
có thể
lưu
một
y gởi
trong nhà dân, các Tỳ-kheo
có nhân duyên
được
lìa ngủ
cho đến
sáu đêm,
nếu
quá, Ni-tát-kỳ
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Ðức
Phật
ở nước
Xá-vệ, các Tỳ-kheo
an cư xong, tháng Ca-đề
sau
đã
đủ,
ở nơi
trú xứ A-lan-nhã, nơi
có nhiều nạn
giặc, cùng nhau kéo về
ở Kỳ-hoàn.
Ðức Phật
biết việc
ấy nên cho phép gởi
y nơi nhà dân. Nhân
đây, lục quần
liền gởi
y nơi nhà dân, và dặn
dò thân hữu Tỳ-kheo
rồi
đi
du hành. Người
được
dặn dò
đem
y ra phơi, các Tỳ-kheo
bạch Phật,
nên Phật chế
cấm.
GIẢI THÍCH:
A-lan-nhã: là chỗ
cách xa thôn xóm 500 cung.
Theo luật
của nước
Giá-ma-la thì mỗi
cung dài 4 khuỷu tay, dùng khuỷu
tay
để
đo.
Chỗ có nghi ngờ:
là chỗ nghi có kẻ
trộm, giặc
cướp. Khủng
bố là sợ
có giặc cướp,
ăn trộm.
Xá nội: là xóm làng
đồng bào.
Luật
Ngũ phần
nói:
Nhất
nhất
y có nghĩa là Tăng-già-lê
hay y Uất-đa-la-tăng, cái nào nặng
thì gởi một
cái. Không
được gởi
y An-đà-hội
vì phải mặc
nơi thân. Không
được gởi hai y, vì khi lễ
bái, nhập chúng, khất
thực, không
được
mặc một
y. Có nhân duyên tức
là việc
của Tháp, việc
của hai thầy
(Hòa thượng, A-xà-lê) và
bao nhiêu việc khác.
TƯỚNG TRẠNG
CỦA TỘI
Ðến
đêm thứ 7, mặt
trời chưa
xuất hiện,
không xả y, tay không rờ
đụng y, không ném
đá
đến
được
chỗ
ở,
mặt trời
xuất hiện,
phạm Xả
đọa.
Không phạm:
Tưởng là bị
cướp
đoạt, v.v...
đường
sá trở ngại
và các tai nạn khác.
Luật
Tăng kỳ
nói:
Tăng
Yết-ma,
được
phép một tháng không mất
y.
Luật
Ngũ phần
nói:
Nếu
một
đêm,
hai
đêm, cho
đến
năm
đêm,
việc rồi
không trở về,
phạm Ðột-kiết-la.
Luật
nhiếp
nói:
Trong lòng vốn
đi tạm,
nghĩ
rằng
sẽ trở
về liền,
đến
đó
vì sự việc
phải
ở
lại, không về
kịp chỗ
để y, thì không có lỗi
lìa y.
Luật
Thiện kiến
nói:
Nếu
ở nơi
A-lan-nhã chúng Tăng
nhiều,
phòng xá chắc chắn,
khỏi phải
gởi nơi
xóm làng. Nếu gởi,
khi gởi y rồi,
mỗi sáu
đêm
một lần
đến xem, thấy
y rồi, về
lại chỗ
A-lan-nhã.
30. GIỚI
XOAY VẬT
CỦA
TĂNG
VỀ
CHO MÌNH
Ðại
thừa
đồng
chế.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, biết
đó là vật
thuộc
Tăng,
mà tự
xoay về
cho mình, Ni-tát-kỳ
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Nước
Xá-vệ có một
cư sĩ,
thường
ưa
dâng cúng Phật và chư
Tăng thức
ăn và y tốt.
Bạt-nan-đà
nói với cư
sĩ
ấy
rằng: “Tăng
được cúng thì có nhiều
người, vậy
ông chỉ cúng thức
ăn cho Tăng,
còn y thì cúng cho tôi.” Cư
sĩ nghe theo.
Hôm sau, theo lời
mời chúng Tăng
đến nhà. Cư
sĩ thấy
oai nghi
đầy
đủ,
nói lớn rằng:
Hối hận
không
được
cúng y. Tỳ-kheo hỏi
biết vấn
đề, bạch
Phật kiết
giới. Khi
ấy,
các Tỳ-kheo không biết
là vật của
Tăng hay không phải
là vật của
Tăng, là vật
đã hứa
cho Tăng hay chưa
hứa cho Tăng,
sau mới biết
là vật của
Tăng hay
đã
hứa cho Tăng,
hoặc tác sám Xả
đọa, hoặc
lấy làm xấu
hổ. Phật
dạy: không biết
thì không phạm.
GIẢI THÍCH:
Tăng
vật: là vật
vì Tăng mà sắm,
đã dâng cho Tăng,
đã hứa
cho Tăng. Vật:
là chỉ cho y, bát, tọa
cụ,
ống
đựng kim cho
đến
đồ
đựng
nước.
TƯỚNG
TRẠNG CỦA
TỘI
Biết
là vật
của Tăng,
tìm cách xoay về
cho mình phạm Xả
đọa. Vật của
Tăng mà chuyển
cho Tháp, vật của
Tháp mà chuyển cho Tăng.
Vật của
Tăng bốn
phương, vật
của Tăng
hiện tiền,
vật của
Tỳ-kheo Tăng,
vật của
Tỳ-kheo-ni chúng, triển
chuyển
đổi
nhau,
đều phạm
Ðột-kiết-la,
Tỳ-kheo-ni phạm
Xả
đọa.
Ba chúng dưới phạm
Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Ðã hứa mà tưởng
là không hứa. Hứa
ít mà khuyên cho nhiều.
Hứa
ít người mà khuyên cho
nhiều
người. Hứa
cho
đồ xấu,
mà khuyên cho
đồ tốt.
Luật
Căn bảnnói:
Ðã hứa
cho là tưởng
đã
hứa, và nghi phạm
Xả
đọa.
Chưa
hứa tưởng
đã hứa
và nghi phạm Ðột-kiết-la. Ðã hứa
tưởng chưa
hứa, chưa
hứa tưởng
đã hứa
thì không phạm.
Luật
Tăng kỳ
nói:
Nếu
có người muốn
bố thí, hỏi
Tỳ-kheo, nên cúng cho
chỗ
nào. Tỳ-kheo nên
đáp:
“Tùy lòng ông kính trọng
chỗ nào thì cúng cho
chỗ
ấy.” Nếu
họ
lại hỏi:
“Cúng chỗ nào
được
quả báo nhiều.”
Nên trả lời:
“Cúng cho Tăng quả
báo nhiều.” Nếu
lại hỏi:
“Tăng
ở
trú xứ nào trì giới
thanh tịnh có công
đức.”
Nên trả lời:
“Tăng không phạm
giới, thanh tịnh.”
Nếu có người
đem vật
đến cúng, Tỳ-kheo
nên nói: “Cúng cho Tăng
được quả
báo lớn.” Nếu
họ nói: “Tôi
đã
cúng cho Tăng rồi,
nay muốn cúng cho Tôn giả.”
Như vậy
nhận không tội.
Nếu biết
vật
ấy
họ hướng
đến Tăng
khiến họ
xoay lại cho mình, phạm
Xả
đọa.
Vật
ấy
Tăng không nên trả
lại. Tăng
nên thọ dụng.
Nếu khiến
họ xoay về
cho người khác, phạm
Ba-dật-đề.
Biết vật
ấy hướng
cho vị Tăng
này, khiến họ
xoay cho vị Tăng
khaùc v.v...
đều phạm
tội Việt
tỳ-ni. Biết
vật
ấy
họ hướng
cho sinh vật này mà bảo
họ xoay cho sinh vật
khác, phạm Việt
tỳ-ni tâm hối.
Luật Ngũ
Phần
nói:
Nếu
thí chủ tự
xoay (tự
đổi
ý) muốn
đem
vật
định
cúng Tăng, cúng cho mình
thì không phạm.
Luận Tát-bà-đa
nói:
Vật
định cho người,
khiến
đem
cho mình, thì nên trả
lại cho họ.
Nếu vật
định cúng cho Tháp
này xoay về cho Tháp kia, vật
của Tăng
kỳ này xoay cho Tăng kỳ
kia, không nên trả
lại
mà chỉ sám Ðột-kiết-la. Nếu
hạ lạp
Tự tứ
xoay vật của
chúng Tăng này hướng
về cho Tăng
khác, nên trả lại,
rồi tác sám Ðột-kiết-la. Không trả
lại, tính thành tiền
kết tội.
Diện môn lạp
cũng
như vậy.
C. HỎI ÐỂ KẾT
THÚC
Thưa
các Ðại
đức,
tôi đã
tụng
ba mươi
pháp Ni-tát-kỳ
Ba-dật-đề.
Nay hỏi
các Ðại
đức
trong đây
có thanh tịnh
không? (3 lần).
Các Ðại
đức
trong đây
thanh tịnh,
vì im lặng.
Việc
ấy
tôi ghi nhận
như
vậy.
Thiên thứ
tư
nói về
30 pháp Xả
đọa
xong.
V. THIÊN THỨ
NĂM:
90 BA-DẬT-ÐỀ
Chia làm ba: Nêu chung, kê riêng và kết
thúc.
A. NÊU CHUNG
Luật
Tăng kỳ
có 92, luật Ngũ
phần
có 91.
Thưa
các Ðại
đức,
đây
là chín mươi
pháp Ba-dật-đề,
rút ra từ
Giới
kinh, nửa
tháng tụng
một
lần.
GIẢI THÍCH:
Luật
Căn bản
nói:
Ba-dật-để-ca,
nghĩa là
đọa
lạc nơi
bị thiêu
đốt.
Tức là khi phạm
tội này
đọa
nơi
địa
ngục, bàng sanh, ngạ
quỷ, trong
đường
ác chịu khổ
thiêu
đốt. Lại
nữa, tội
này nếu không ân cần
nói lên tha thiết
để trừ tội,
thì nó có khả năng
làm trở ngại
các pháp lành.
B. KÊ RIÊNG
Có 90 giới
điều,
từ giới
nói láo cho
đến giới
90 là may y
đồng với
y của Phật.
1. GIỚI
NÓI DỐI
Ðây là tánh tội.
Ðại thừa
đồng chế.
Vì cứu chúng sanh nên
được khai cho.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, cố
ý nói dối,
Ba-dật-đề.
GIẢI THÍCH:
Thích tử
Tượng Lực
cùng với ngoại
đạo Phạm
chí luận nghị,
trường hợp
không hơn
được,
bèn nói ngược lại
với ý trước.
Khi trong Tăng hỏi,
cũng nói ngược
lại với
lời trước.
Phạm chí cơ
hiềm, cho nên Phật
chế cấm.
TƯỚNG TẠNG
CỦA TỘI
Thấy,
nghe, xúc,
biết...
tám loại vọng
ngữ, nói một
cách rõ ràng, phạm
Ba-dật-đề; nói không rõ
ràng, phạm
Ðột-kiết-la.
Tỳ-kheo-ni phạm
Ba-dật-đề.
Ba chúng dưới phạm
Ðột-kiết-la.
Khi thuyết giới,
sau ba lần hỏi,
nhớ mình có tội
mà không nói, phạm
Ðột-kiết-la.
Luật
Căn bản
nói:
Trái với
lòng mà nói
đều phạm
tội
đọa.
Nếu nói không trái với
lòng thì không phạm.
PHỤ:
Luật
nhiếp
nói:
Ðệ
tử
Phật phải
nói thật, không nên thề
để minh oan, vì thề
là chứng tỏ
người ta không tin
mình. Dù bị vu oan cũng
không nên thề thốt.
Luật
Thập tụng
nói:
Không
được
tự mình phù chú hay
phù chú cho người. Không
được
đem vật
gì ra
để tự
thề hay rủa
người khác. Không
được
đem mình phó thác
cho thần
Thánh hay bảo người
phó thác cho
thần thánh. Phù chú
hay cầu
cạnh thần
Thánh là cùng một
loại.
(Như những
việc
đầu
trạng hay tế
thần... hiện
nay).
2. GIỚI
CHÊ BAI
Ðây là tánh tội.
Ðại thừa
đồng chế.
Nếu chỉ
chê người thì kết
tội nhẹ,
nếu có khen mình thì
bị
tội nặng;
nếu có gây thêm phiền
não thì mất luôn giới
của Bồ-tát.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, nói lời
nhục
mạ
bằng
các giống
loài, Ba-dật-đề
NGUYÊN DO:
Lục
quần xử
đoán việc
tranh chấp, dùng
đủ
chủng loại
nhục mạ
Tỳ-kheo. Tỳ-kheo
vì xấu hổ,
nên quên trước quên sau, không
nói
được,
nên Phật chế
cấm.
GIẢI THÍCH:
Tướng
trạng của
tội: Nhục
mạ bằng
các giống loài; tức
là nói giòng họ
thấp
kém, làm nghề thấp
kém, kỹ thuật
thấp kém, công xảo
thấp kém. Hoặc
chê là người phạm
tội, người
nhiều kết
sử, người
mù lòa trọc
đầu
v.v... Hoặc
đối
diện nói: Ngươi
sanh trong nhà Chiên-đà-la
(giòng họ hạ
tiện), cho
đến
các hoạn nạn,
dồn dập
về cho người...
Hoặc
mượn
lời ví
để
mắng như
nói: “Ngươi giống
như người
sanh trong nhà Chiên-đà-la
v.v..” Hoặc tự
đem mình
để
so sánh mà mắng, như
nói: “Tao không phải
giòng Chiên-đà-la v.v..”
đều
phạm Ba-dật-đề. Nói không rõ
ràng phạm
Ðột-kiết-la.
Nếu dùng cách nói
khéo léo
đối
diện mắng,
dùng lời ví
để
mắng, tự
so sánh mình
để mắng,
nói rõ ràng hay không rõ ràng
đều
phạm Ðột-kiết-la. Nói pháp khéo
léo, như nói: Người
ở nơi
A-lan-nhã (rừng vắng),
người mặc
áo vá, người khất
thực, cho
đến
người ngồi
thiền. Ðối
diện nói: “Ông là người
A-lan-nhã v.v..” Nói ví
để
mắng, như
nói: “Ông tựa như
kẻ
ở
A-lan-nhã v.v...” Tự
so sánh mình
để mắng,
như
nói: “Tao không phải
người
ở nơi
A-lan-nhã v.v...” Tỳ-kheo-ni
phạm
Ba-dật-đề.
Ba chúng sau phạm
Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Vì
đem lại
lợi ích cho nhau, nên
nói vì Pháp, vì Phật, vì giáo giới
nên nói. Vì quen thân cho nên nói. Hoặc
nói giỡn, nói lỡ
lời, nói một
mình, nói trong mộng,
nói nhầm.
Luật
Ngũ phần
nói:
Mạ
nhục
bốn chúng dưới,
phạm Ðột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni
mạ nhục
Tỳ-kheo hay Tỳ-kheo-ni,
phạm Ba-dật-đề, mạ
nhục ba chúng dưới
phạm Ðột-kiết-la.
3. GIỚI
NÓI HAI LƯỠI
Ðây là tánh tội.
Ðại thừa
đồng chế.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, nói lời
ly gián, Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Lục
quần
truyền nói lời
kín của bên này bên kia,
làm cho trong chúng chưa có cãi cọ
sanh cãi cọ;
đã
có cãi cọ không chấm
dứt
được,
cho nên Phật chế
cấm.
TƯỚNG TRẠNG
CỦA TỘI
Nói rõ ràng hay không rõ ràng, tội
phạm
đồng
như giới
trước. Tỳ-kheo-ni
cũng
đồng
như giới
trước.
Trường hợp
không phạm như
sau: Vì
để phá bạn
tri thức xấu,
bạn
đảng
xấu, phi pháp, phi luật
Yết-ma, vô nghĩa,
vô ích mà nói nhiều
v.v...
PHỤ:
Nói việc
của người
nơi cửa
quan, phạm Ðột-kiết-la.
Luật
Thập tụng
nói:
Nếu
có kẻ
bạch y
ở
trong chùa, muốn làm việc
quấy ác, xâm phạm
não loạn Tỳ-kheo,
nên tha thiết
nói với
họ khiến
cho họ
được
nhiếp phục.
Nếu không nhiếp
phục họ
được, không nên
trình thẳng
đến vua. Trước
hết nên nói với
bạn bè của
kẻ ác này biết,
kế
đó
mới nói với
phu nhơn của
vua và con vua,
đại thần
v.v.... Nếu người
ấy bỏ
việc quấy
ác thì thôi,
đừng nên tiến
hành công việc
ấy
nữa.
4. GIỚI
NGỦ CÙNG NHÀ VỚI
NGƯỜI NỮ
Ðại
thừa
đồng học.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào cùng phụ
nữ
ngủ
chung một
nhà, Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Ngài A-na-luật từ
nước
Xá-vệ
đến
nước Câu-tát- la,
trên
đường
đi gặp
một thôn, không có
trú xứ
của Tỳ-kheo.
Nghe nhà của
một
dâm nữ, khách qua
đường
xin nghỉ
đêm
tại
đó.
Tôn giả
đến
xin nghỉ trọ
dưới cánh cửa.
Khi
đó có các Trưởng
giả cũng
đến
đó
xin nghỉ lại
đêm. Chỗ
chật người
đông dâm nữ
mời Tôn giả
vào trong nhà nghỉ.
Tôn giả
ngồi kiết
già,
để tư
tưởng trước
mặt. Ðầu
đêm,
dâm nữ
đến
xin
được làm vợ.
Tôn giả không trả
lời mà cũng
không nhìn ngó. Ðến
cuối
đêm dâm nữ
lại cởi
y
đến nắm
tay Tôn giả. Ngài vọt
người lên trên hư
không ngồi. Dâm nữ
hổ thẹn,
mặc áo vào chắp
tay, ba lần sám hối.
Tôn giả trở
về chỗ
cũ ngồi,
nói pháp vi diệu.
Dâm nữ
đạt
được
pháp nhãn tịnh, thọ
Tam quy, Ngũ giới,
làm người
Ưu-bà-di.
Ngày hôm sau, Tôn giả
thọ sự
cúng dường cơm
trưa của
dâm nữ, và nói pháp rồi
đi. Về
đến Tăng-già-lam,
Tôn giả
kể
lại cho chúng nghe.
Người
thiểu dục
cơ hiềm,
bạch Phật,
kiết giới.
GIẢI
THÍCH:
Nhà có 4 loại:
a) Bốn
phía có vách, trên có lợp.
b) Phía trước
trống, không có vách.
c) Tuy có vách mà không bao hết.
d) Hoặc
che hết mà có chỗ
mở ra vào.
TƯỚNG
TRẠNG CỦA
TỘI
Tỳ-kheo
và phụ
nữ hoặc
đến trước
hay sau, hoặc cùng
đến,
nếu nằm
xuống, lưng,
sường bén
đất
(chiếu), phạm
Ba-dật-đề.
Tùy theo sự trở
mình, phạm Ba-dật-đề. Cùng với
quỷ nữ,
súc sanh nữ, và người
huỳnh môn (bất
năng nam), người
hai căn, ngủ
chung nhà, phạm Ðột-kiết-la. Ban ngày phụ
nữ
đứng,
Tỳ-kheo nằm,
Ðột-kiết-la.
Tỳ-kheo-ni phạm
Ba-dật-đề.
Ba chúng dưới phạm
Ðột-kiết-la.
Không phạm: Không biết
có phụ nữ,
nhà thiếu chỗ,
có che ngăn, hoặc
đi, hoặc
ngồi, bệnh
nằm, bị
trói.
Luật Ngũ
phần
nói:
Nếu
cùng lợp mà ngăn
riêng hoặc
đại
hội thuyết
pháp, hoặc mẹ,
chị, em, bà con, bệnh
hoạn hay có người
nam hiểu biết
làm bạn, không nằm
đều không phạm.
Luật Nhiếp
nói:
Nếu
cùng với trời,
rồng cái có thể
thấy hình và bàng sanh
cái, ngủ
đồng chỗ,
đều mắc
ác tác. Bàng sanh cỡ
nhỏ,
không thể hành dâm, không phạm.
Nếu có cha mẹ,
phu chủ v.v... thủ
hộ,
đồng
ngủ, không phạm.
5. GIỚI
CÙNG NGƯỜI CHƯA
THỌ ÐẠI
GIỚI NGỦ
BA ÐÊM
Ðại
thừa Tỳ-kheo
đồng học.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, ngủ
đêm
chung nhà với
người
chưa
thọ
Ðại
giới
quá hai đêm,
đến
đêm
thứ
ba, Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Lục
quần cùng với
các Trưởng giả
ngủ chung trong giảng
đường. Một
Tỳ-kheo buông tâm ngủ
nghỉ, trở
mình bị lộ
hình. Một Tỳ-kheo
lấy y tủ
lại, sau
đó
lại trở
mình lộ hình, như
vậy
đến
lần thứ
ba. Trưởng giả
cơ hiềm,
chế giễu
cho nên Phật chế
cấm. Sau
đó
đức Phật
ở nước
Câu-thiểm-di, vì La-vân
(La-hầu-la)
chưa thọ
Ðại giới
nên các Tỳ-kheo
đuổi ra ngoài. La Vân
phải
đến ngủ
nơi nhà tiêu. Ðức
Thế Tôn biết
việc
đoù,
bèn
đến cầu
tiêu dẫn La-vân về
phòng của mình ngủ
một
đêm.
Sáng ngày
đức Phật
họp Tỳ-kheo
lại, nói rằng:
“Các thầy thiếu
lòng thương nên
đuổi con nít ra ngoài
như
thế. Từ
nay cho phép các Tỳ-kheo
cùng với
người chưa
thọ Ðại
giới ngủ
hai
đêm,
đến
đêm thứ
ba khi mặt trời
chưa xuất
hiện nên thức
dậy bảo
tránh
đi nơi
khác. Nếu
đến
đêm thứ
tư nên tự
mình tránh hoặc bảo
người
ấy
tránh
đi”.
TƯỚNG TRẠNG
CỦA TỘI
Phạm,
không phạm
đồng
như giới
trước. Tỳ-kheo-ni
phạm Ba-dật-đề.
Luật Tăng
kỳ
nói:
Nếu
cùng với người
chưa thọ
Cụ túc ngủ
chung một nhà, nên dùng
đến màn ngăn, cao
đến
cổ hay
đến
nách, màn thòng gần
sát
đất,
con mèo chui qua không
được.
Luật Thập
tụng
nói:
Có Tỳ-kheo
bệnh, sai Sa-di cung
cấp
hầu hạ,
tuy nằm, không phạm.
Nhưng nếu
có một Tỳ-kheo
không bệnh
ở
đó, không nên nằm.
Luật Căn
bản
nói:
Nếu
sau khi an cư, có một
Tỳ-kheo xấu
đến trong chùa, thầy
chủ chùa nên cho cùng
với
cầu tịch
(Sa-di) ngủ chung một
phòng cho
đến hết
an cư, không có gì phải
nghi hoặc. Hạ
xong rồi, nếu
có thể
đuổi
đi
thì cứ tống
cổ
đi.
Còn không thể
đuổi
đi,
thì nên tìm cách
đưa cầu
tịch
đến
chùa khác. Trên
đường
đi,
tuy phải ngủ
quá hai
đêm, suốt
đêm nên ngủ,
không có gì nghi hoặc.
PHỤ:
Căn
bản mục-đắc-ca
nói:
Không cùng với
người thế
tục, cầu
tịch, thọ
học nhơn,
người biệt
trú v.v... ngồi chung, nếu
coù nạn duyên thì không
phạm.
6. GIỚI
CÙNG VỚI NGƯỜI
CHƯA THỌ
ÐẠI GIỚI
TỤNG NIỆM
Ðại
thừa
Tỳ-kheo
đồng
học.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, cùng tụng
đọc chung với
người
chưa
thọ
Ðại
giới,
Ba-dật-đề.
Kinh Giới
nhân duyên nói:
Nếu
Tỳ-kheo
đến
người chưa
thọ giới
Cụ túc nói một
câu giới pháp, phạm
Ba-dật-đề.
(Xét rằng trong luật Thiện
kiến, cũng
đồng với
ý này. Bởi vì tên của
năm thiên chỉ
là pháp của
đại Tăng,
nếu Sa-di... biết
hết trở
thành giá nạn vậy).
NGUYÊN DO:
Lục
quần cùng với
các Trưởng giả
tụng kinh Phật
tại giảng
đường, âm thanh to lớn
như giọng
đọc kinh của
Bà-la-môn, náo loạn
các vị
tọa thiền,
cho nên Phật chế
cấm.
GIẢI THÍCH:
Người chưa
thọ Ðại
giới: ngoài Tỳ-kheo
và Tỳ-kheo-ni, tất
cả mọi
người khác vậy.
Luật
Tăng kỳ
nói:
Tuy Tỳ-kheo-ni
thọ Cụ
túc rồi cũng
không
được dạy.
Nếu muốn
truyền thọ
kinh cho
đệ tử,
nên bảo họ
rằng: “Ðợi
tôi tụng xong ông sẽ
tụng”.
Nếu
họ
không chịu nhận
lời dạy
ấy, thì không
được
dạy.
Luật
Ngũ phần
nói:
Ðồng
tụng
tức là cùng tụng
một lượt.
Hoặc người
dạy nói chưa
xong, người học
đã nói. Hoặc
người kia tụng
chưa xong, người
này
đã tụng.
TƯỚNG
TRẠNG CỦA
TỘI
Nếu
Thầy
không dạy rằng:
Tôi nói rồi ông sẽ
nói, phạm Ðột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni,
Ba-dật-dề.
Không phạm:
Thầy nói rồi
trò nói, hay là hai người
đồng nghiệp
cùng tụng v.v...
Luật
Thiện kiến
nói:
Sau khi
đức
Phật nhập
Niết-bàn, ngài Ca-diếp
là bậc Thượng
tọa, cùng 500 vị
A-la-hán kiết tập
ba tạng, nếu
cùng với người
chưa thọ
Ðại
giới
đọc tụng, phạm
Ba-dật-đề.
Nếu Pháp sư
soạn thuật
văn tự,
cùng
đọc tụng
thì không phạm.
7. GIỚI ÐẾN
NGƯỜI NGOÀI NÓI TỘI
THÔ CỦA KẺ
KHÁC
Ðại
thừa
đồng chế.
Nghĩa sớ
nói: Nói lỗi của
người có hai cách:
-
Với tâm hãm hại,
muốn cho người
kia mất danh lợi
v.v...
-
Với tâm trị
phạt, muốn
cho người kia bị
trói buộc.
Cả
hai tâm này
đều do nghiệp
đóng vai chủ,
chắc chắn
phạm trọng
giới. Nếu
với tâm khuyên cải
hóa mà nói, và
được Tăng
sai mà nói,
đều không phạm.
Lại nữa,
nếu phạm
thất nghịch,
thập trọng,
người
đó
mất giới.
Sau khi mất
giới
rồi, mà nói thì chỉ
phạm khinh tội
mà thôi.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, biết
vị
khác có tội
thô ác,
đem nói với
người
chưa
thọ
Ðại
giới,
trừ
Tăng
Yết-ma,
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Ðức
Phật
ở
núi Kỳ-xà-quật,
khi
ấy có các vị
Tỳ-kheo
đang
hành pháp Ba-lợi-bà-sa,
Ma-na-đỏa,
ngồi dưới
chúng Tăng. Lục
quần nói với
bạch y những
vị
ấy
phạm tội
như vậy,
như vậy,
bị phạt
nên ngồi dưới
chúng. Các Tỳ-kheo
phạm
tội nghe như
vậy hổ
thẹn, Tỳ-kheo
khác cũng hổ
thẹn bạch
Phật, kiết
giới. Sau
đó
ngài Xá-lợi-phất
được Tăng
sai
đến nơi
vương cung và nhơn
dân nói tội của
Ðiều-đạt,
liền sanh tâm cẩn
thận sợ
sệt. Phật
dạy: “Tăng
sai, không phạm”.
GIẢI THÍCH:
Thô ác: là tội
Ba-la-di, Tăng tàn. Tăng:
là cùng một Yết-ma,
cùng một thuyết
giới.
TƯỚNG
TRẠNG CỦA
TỘI
Nếu
nói rõ ràng phạm Ba-dật-đề, không rõ ràng phạm
Ðột-kiết-la.
Trừ tội
thô ác, còn các tội
khác,
đến
người chưa
thọ Ðại
giới nói, phạm
Ðột-kiết-la.
Tự mình, phạm
thô tội,
đến
người chưa
thọ giới
nói, phạm Ðột-kiết-la. Trừ
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni,
đem thô tội
của người
khác,
đến người
chưa thọ
giới nói, phạm
Ðột-kiết-la.
Tỳ-kheo-ni phạm
Ba-dật-đề.
Ba chúng dưới phạm
Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Người bạch
y trước
đã
nghe thô tội này rồi...
Luật
Tăng kỳ
nói:
Tỳ-kheo-ni
tuy
đã thọ
Cụ túc giới,
cũng không
được
nói với họ.
Luật
Căn bản
nói:
Nếu
đối với
nhà thế tục
không biết mà tưởng
là họ không biết,
hay là nghi mà
đến họ
nói phạm tội
đọa. Nếu
đối với
nhà thế tục
đã biết
mà tưởng là họ
không biết, hay là nghi, maø
đến họ nói, mắc
ác tác.
Không phạm:
Ðối với
nhà thế tục
không biết mà tưởng
là họ
đã
biết trước
v.v...
Luật
Ngũ phần
nói:
Bảo
đến nói với
Ất mà nói với
Giáp, bảo nói tội
này, mà nói tội khác,
đều
phạm Ba-dật-đề.
Luật
Thập tụng
nói:
Nếu
Tăng Yết-ma
cho phép Tỳ-kheo này là người
đi nói tội
mà Tỳ-kheo khác
đi
nói, phạm Ðột-kiết-la. Nếu
bảo nói với
người này, nói chỗ
này, mà
đến người
kia nói, nói chỗ
kia, phạm
Ðột-kiết-la.
Nếu khi Tăng
tác Yết-ma qui
định
tùy ý nói, nói lúc nào, nói chỗ
nào cũng
được
thì nói không phạm.
Luận
Tát-bà-đa nói:
Thà phá
đập
tượng, không nên
đến người chưa
thọ Cụ
túc giới nói lỗi
của Tỳ-kheo.
Nếu nói tội
thì phá Pháp thân vậy.
Nếu
nói tên hai thiên của
tội
phạm Ba-dật-đề, nói sự
tướng của
tội, phạm
Ðoät kiết-la.
BIỆN
MINH:
Hỏi:
-
Ngũ
phần
nói: Bảo
đến
nói với Giáp mà nói với
Ất v.v...
đều
phạm Ba-dật-đề. Thập
tụng
lại nói: Ðến
người khác, chỗ
khác nói, chỉ phạm
Ðột- kiết-la.
Như vậy
theo bên nào?
Ðáp:
-
Ðã
được Tăng
sai nhưng cái
đích
để
đến
(là Giáp) không
đúng
hẳn,
tuy nhầm, nhưng
nên
theo luật
Thập tụng
kết
khinh tội; nhưng
vì do ác tâm, muốn
trù dập
người nên
đến
Ất nói, do vậy,
phải theo luật
Ngũ phần
kết
trọng tội
là phải.
8. GIỚI
ÐẾN NGƯỜI
NGOÀI NÓI PHÁP ÐÃ CHỨNG
Ðại
thừa
đồng học.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, đối
với
người
chưa
thọ
Cụ
túc mà tự
nói mình chứng
ngộ
pháp Thượng
nhơn
rằng:
“Tôi biết
điều
ấy;
tôi thấy
điều
ấy”.
Nếu
đây
là sự
thật,
Ba-dật-đề.
(Theo trong kinh Giới
nhân duyên thì nói với Sa-di cho nên chế).
NGUYÊN DO:
Duyên khởi
bởi các Tỳ-kheo
nơi vườn
Bà-cầu nên Phật
chế. Như
đã nói rõ trong
thiên
đầu.
TƯỚNG
TRẠNG CỦA
TỘI
Nói một cách rõ ràng phạm
Ba-dật-đề.
Nói không rõ ràng phạm
Ðột-kiết-la. Ðến
quỷ súc sanh nói phạm
Ðột-kiết-la,
đến người
thọ Ðại
giới không
đồng
tình mà nói phạm
Ðột-kiết-la, Tỳ-kheo-ni
phạm Ba-dật-đề. Ba chúng sau phạm
Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Như trong thiên
đầu
đã nói.
Luật Ngũ
phần
nói:
Người
thọ Ðại
giới, không hỏi
mà nói, mỗi lời
phạm một
Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Trước khi Nê-hoàn (Niết-bàn).
Luật
Thập tụng
nói:
Thật
là A-la-hán, cho
đến
đạt
được niệm
A-na-ban-na
mà nói với
người, phạm
Ðột-kiết-la.
Nói loài trời
v.v... phạm
Ba-dật-đề.
Nói thổ quỷ
phạm Ðột-kiết-la.
Luật nhiếp
nói:
Ðối
với người
thế tục,
hiện thần
thông, mắc tội
ác tác.
Không phạm: Vì
để
hiện bày Thánh giáo,
hiện
việc hy hữu,
hoặc vì giáo hóa hữu
tình,
điều
phục taâm, tuy nói, nhưng
không tội.
Luận Tát-bà-đa
nói:
Vì danh lợi nói: “Tôi trì giới
thanh tịnh, tụng
Tam tạng, tụng
đâu hiểu
đó, hỏi
đâu trả
lời
đó”,
đến người
nói,
đều phạm
Ðột-kiết-la.
Ma-đắc-lặc-già
nói:
Nói với người
cuồng, loạn
tâm, bệnh nặng,
Ðột-kiết-la.
9. GIỚI
NÓI PHÁP CHO NGƯỜI NỮ
NGHE QUÁ HẠN
Ðây thuộc
về giá tội.
Ðại thừa
đồng học.
Nếu tránh
được
sự cơ
hiềm thì nói rộng
hay nói hẹp tùy ý, không phạm.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, thuyết
pháp cho người
nữ
quá năm,
sáu lời,
trừ
có mặt
người
nam có trí, Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Ca-lưu-đà-di khất
thực
đến
nhà Trưởng giả,
trước mặt
mẹ chồng,
ông ghé tai nói pháp cho nàng dâu nghe, mẹ
chồng thấy
vậy, sanh nghi, nên
Phật
chế cấm.
Sau
đó các Tỳ-kheo
không dám vì người nữ
nói pháp, Phật lại
kiết văn
giới này.
GIẢI THÍCH:
Năm
lời: tức
là sắc vô ngã cho
đến
thức vô ngã.
Sáu lời: tức
là Nhãn vô thường cho
đến
Thức vô thường.
Có mặt người
nam có trí: tức là người
hiểu biết
được việc
tốt việc
xấu, việc
phải việc
quấy.
Luật
Nhiếp
nói:
Năm
sáu lời tương
ứng nhau, hễ
có sự nói naêng thì gọi
là năm sáu lời.
TƯỚNG TRẠNG
CỦA TỘI
Tỳ-kheo-ni
phạm
Ba-dật-đề.
Ba chúng dưới phạm
Ðột-kiết
la.
Không phạm:
Có mặt người
nam có trí nói quá năm
sáu lời.
Nếu không có người
nam có trí mà truyền
năm
giới, nói pháp năm
giới, thọ
Bát quan trai giới,
nói pháp Bát quan trai, nói pháp bát Thánh
đạo, 10 pháp lành (thập thiện),
10 pháp không lành. Và người
nữ hỏi
nghĩa lý cần
trả lời
mà họ không hiểu
nên phải nói rộng.
Luật
Ngũ phần
nói:
Vì người
nữ, nói pháp năm
sáu lời rồi,
nói rằng: “Bài pháp
đến
đây là hết,
đứng dậy
đi”, lại
có nhân duyên, ngồi
trở
lại, nói lại,
không phạm. Nếu
nói năm sáu lời
rồi, lại
có người nữ
khác
đến, vì người
nữ sau nói, tiếp
tục như
vậy, cho
đến
rất nhiều
người nữ,
vì họ nói,
đều
không phạm. Nếu
mình
đọc kinh, người
nữ
đến
nghe, hỏi nghĩa
lý kinh, giải thích quá naêm
sáu lời,
đều không phạm.
Luận
Tát-bà-đa nói:
Nữ
là người có khả
năng chấp
nhận sự
dâm dục nếu
chưa kham nhận
làm việc dâm dục,
phạm Ðột-kiết-la.
10. GIỚI
ÐÀO ÐẤT.
Ðây là giá tội.
Ðại thừa
Tỳ-kheo
đồng
học.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, tự
tay đào
đất
hoặc
bảo
người
đào,
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Lục
quần
tu bổ giảng
đường cho
đức
Phật, tự
tay
đào
đất
xung quanh, Trưởng giả cơ
hiềm
vì làm chết sinh mạng,
cho nên chế cấm.
Lục quần
lại sai người
đào cũng
bị Trưởng
giả cơ
hiềm cho nên
đức
Phật lại
kiết giới
lần thứ
hai.
GIẢI THÍCH:
Ðất
có 2 thứ:
Ðất
đã
đào và
đất
chưa
đào.
Ðất
đã
đào trải
qua bốn tháng có mưa
nắng trở
thành như chưa
đào.
Luật
Thập tụng
nói:
Ðất
có 2 loại:
đất sống
và
đất không sống.
Có quốc
độ
mưa nhiều,
tám tháng
đất sống
(sau tiết kinh trập,
trước tiết
lập
đông),
có quốc
độ
ít mưa, bốn
tháng
đất sống
(bốn tháng mùa hạ).
Trừ thời
gian
đó ra gọi
là
đất không sống.
TƯỚNG TRẠNG
CỦA TỘI
Nếu
dùng bừa
hay dùng xuổng, hay dùng chày,
hoặc
dùng dao, cho
đến móng tay làm tổn thương
đến
đất,
đốt lửa
trên
đất, tất
cả
đều
phạm Ba-dật-đề. Nếu
không nói: “Biết
cái này, xem cái này”, Ðột-kiết-la.
Tỳ-kheo-ni Ba-dật-đề.
Không phạm:
Nếu có nói: “Biết
cái này, xem cái này”. (Ðây là một
tịnh ngữ.
Ý nói người tịnh
nhơn kia tự
biết, tự
xem
xét chỗ nào nên
đào,
chỗ nào nên
để.
Tỳ-kheo không nên nói
thẳng
cuốc chỗ
này,
để chỗ
kia); hoặc phát cây
rừng,
tre trúc, hàng rào ngã
đỡ
đứng
dậy, lật
gạch
đá,
lấy phân bò; lấy
đất bờ
sập, lấy
đất chuột
đào làm hang, hoặc
dọn
đất
chỗ
đi
kinh hành, hoặc dọn
đất trong nhà, hoặc
chỗ
đi
tới
đi
lui, hay
đất quét nhà,
đất
đắp
để
tựa, hoặc
là không cố
đào,
đều không phạm.
Luật
Tăng kỳ
nói:
Trên chỗ
đất lõm bên bờ
sông lấy chân
đạp,
mỗi
đạp
là một Ba-dật-đề. Bờ
lõm bên
đường
đi
hay chỗ
đất
sập thì không phạm.
Thầy
Tỳ-kheo
trị sự
có nhiều vật
của Tháp, vật
của Tăng
muốn chứa
cất trong
đất,
hoặc chỗ
trống, sanh
địa,
không
được tự
tay mình
đào, nên cho tịnh
nhơn biết.
Nếu
ở
chỗ
đất
bị khuất,
tử
địa,
được tự
tay
đào
đất.
Khi khui miệng hầm,
khi
đậy miệng
hầm cũng
vậy.
Nếu
đất chết mà có mưa,
không nên tự tay
đào,
bảo tịnh
nhơn
đào
lấy hết
chỗ nước
thấm. sau
đó
tự tay
đào,
không tội.
Ðào
đất, Ba-dật-đề. Phân nửa là cát, tội
Việt tỳ-ni.
Hoàn toàn là cát, không tội,
phân, tro cũng vậy.
Luật
Thập tụng
nói:
Ðào
đất không sống, mỗi
lần
đào
là một Ðột-kiết-la. Ðào
đất
sống, mỗi
lần
đào
một Ba-dật-đề. Tự
tay
đắp bờ,
cho
đến gieo hạt
rau cải, mỗi
hành
động như
vậy phạm
Ðột-kiết-la.
Nếu Tỳ-kheo
là Kiến trúc sư
muốn khởi
công làm tượng Phật
mới, hay Tăng
phòng,
đắp
đất
làm khuôn, thì không phạm,
còn Tỳ-kheo khác thì phạm
tội. Nếu
là vàng bạc sống
(chưa lọc)
v.v.... các vùng mỏ,
hoặc
chỗ
đất
trắng,
đất
đỏ, màu vàng nhạt,
chỗ sanh thạch
(đá sống),
chỗ hắc
thạch (đá
đen), chỗ
cát, chỗ ruộng
muối,
đào
không phạm.
Luật
Căn bản
nói:
Ðào
đất sống
phạm Ba-dật-đề, không phải
sanh
địa (đất
sống) tội
ác tác. Ðóng nọc
phạm
Ba-dật-để-ca
(Ba-dật-đề),
nhổ nọc
phạm ác tác. Nếu
Tỳ-kheo với
chức năng
tri sự muốn
làm nền, gặp
lúc thuận tiện
mà không có tịnh nhơn,
cần
đóng
nọc
để
phân
định ranh giới,
đóng sâu xuống
bốn ngón tay, không
phạm.
Luật
Ngũ phần
nói:
Ba chúng sau
đào
đất không lý do, phạm
Ðột-kiết-la,
nếu laáy
đất
khô ráo, không phạm.
11. GIỚI
PHÁ HOẠI thôN QUỶ
THẦN
Ðây là giá tội.
Ðại thừa
Tỳ-kheo
đồng
học.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, phá hoại
mầm
sống
cây cỏ,
Ba-
dật-đề.
NGUYÊN DO:
Có một
vị
Tỳ-kheo
ở
nơi
chốn khoáng dã, sửa
sang phòng nhà, tự
mình chặt
cây, nên Phật cấm
chế.
GIẢI
THÍCH:
Quỷ
(thực
vật): là không phải
người. Nơi
ở của
quỷ thần
là chỉ cho tất
cả cây cỏ
vậy.
TƯỚNG
TRẠNG CỦA
TỘI
Nếu
tự
mình chặt, tự
mình sao, tự mình nấu,
hay dạy người
chặt, sao, nấu,
đều phạm
Ba-dật-đề.
Ðóng
đinh lên cây, lấy
lửa
đặt
lên trên cỏ cây, chặt
đứt,
đều
phạm Ba-dật-đề. Làm cho phân nửa
chết, phân nửa
sống
đối
với cỏ
cây, phạm Ðột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni
phạm Ba-dật-đề.
Không phạm:
Nếu nói: “Biết
đây, xem
đây!”,
nếu chặt
cỏ cây khô và trường
hợp vì nhầm
làm
đứt nó.
Luật
Ngũ phần
nói:
Nếu
Tỳ-kheo,
cần dùng những
việc gì thì nên nói với
tịnh nhơn:
“Ngươi biết
cho (tri thị)!” Nếu
họ không hiểu,
nên nói lại: “Ngươi
xem xét cho (khán tri)!” Nếu
tự chặt
thôn quỷ thần
(cỏ cây), hoặc
bảo người
chặt, phạm
Ba-dật-đề.
Cỏ sống,
tưởng là cỏ
sống hay nghi
đều
phạm Ba-dật-đề. Cỏ
khô, tưởng là cỏ
khô; cỏ sống,
tưởng là cỏ
khô, không phạm. Ba chúng dưới
giết sự
sống của
cỏ cây không lý do,
phạm
Ðột-kiết-la.
Nếu bị
lửa
đốt,
bị bẻ,
bị chặt,
biết chắc
là không phải cỏ
cây sống thì không phạm.
Nơi trú xứ
các Tỳ-kheo
ở,
nơi sân sanh cỏ,
cho phép bảo tịnh
nhơn biết.
Luận
Tát-bà-đa nói:
Có ba giới
rất lợi
ích cho Phật pháp: Không
được gánh vác, không
được giết
cỏ cây, không
được
đào
đất.
Nếu không chế
ba giới này, quốc
vương sẽ
bắt các Tỳ-kheo
phục dịch
(công tác công cộng
có liên hệ
đến ba giới).
Ba chúng là tịnh
nhơn
nên không phạm.
Không
được leo lên cây hái
trái, hay rung cây
để
trái rớt.
Ma-đắc-lặc-già
nói:
Lấy
tro,
đất,
cát, phủ lên trên cỏ
sống, phạm
Ðột-kiết-la.
nuốt trộng
trái sống chưa
tác tịnh, phạm
Ðột-kiết-la.
Nhổ nấm,
phạm Ðột-kiết-la.
Thọc
cho trái chín rớt, phạm
Ðột-kiết-la.
Thọc cho trái sống
rớt phạm
Ba-dật-đề.
Luật
Thiện kiến
nói:
Cây ngã
đè
Tỳ-kheo mà không chết,
tuy trong tay có dao, búa v.v.... thà chết
chứ không chặt
cây,
đào
đất
để khỏi
chết. Tại
sao vậy? Ðào
đất
chặt cây phạm
tội
đọa.
Người trí tuệ
thà giữ giới
mà chết chứ
không
để phạm
giới mà sống.
Nếu có người
phóng hỏa
đốt,
cháy
đến chùa, vì bảo
vệ trú xứ
được phép chẻ
tre
đào
đất
để dập
ngọn lửa,
không phạm.
Cây có hai loại:
loại mọc
dưới nước,
loại mọc
trên
đất. Hoa sen nổi
trên mặt nước
mà sống, nếu
còn trong nước mà lật
úp lại, phạm
Ðột-kiết-la,
nếu lên khỏi
nước phạm
Ba-dật-đề.
Nếu cần
bông trái,
được phép kéo nhánh
cây hạ
thấp xuống,
bảo tịnh
nhơn hái thì không phạm,
không
được làm cho cây
gãy. Nếu
cây cao, tịnh nhơn
với không tới,
Tỳ-kheo bồng
tịnh nhơn
lên
để hái, không phạm.
Nếu cây ngã
đè
người, Tỳ-kheo
chặt cây,
đào
đất
để
cứu mạng
sống của
người
đó,
không phạm. (Trước
nói không
được là tự
cứu mình, nay nói
không phạm
vì cứu người
vậy, hoàn toàn
đồng
với ý Thánh giáo Ðại
thừa).
Luật
Tăng kỳ
nói:
Có quốc
độ làm kho chứa
lúa sợ phi nhơn
ăn trộm,
dùng tre, lửa
đốt
lên làm dấu cho biết,
đây tức
là tác tịnh rồi.
Như Ma-ma-đế
có kho chứa lúa chưa
tác tịnh, sợ
Tỳ-kheo nhỏ
tuổi không biết
pháp, khiến tịnh
nhơn hỏa
tịnh, cho
đến
hết kho lúa, Tỳ-kheo
được nói: “xay
đi, không phạm”.
Luật
Căn bản
nói:
Người có trách nhiệm lo công việc
chùa, khi muốn chặt
cây, bảy, tám ngày trước
đó, dưới
gốc cây, nên bày các
vật
phẩm cúng tế,
và tụng kinh chú nguyện,
thuyết thập
thiện
đạo,
khen ngợi hành
động
lành, lại nên nói rằng:
“Nếu nơi
cây này trước
đây
có vị Thiên thần
nào trú ngụ, nay nên tìm chỗ
khác
ở.
Cây này vì công việc
Tam bảo, cần
dùng.” Sau
đó bảy,
tám ngày mới chặt.
Khi chặt cây nếu
có tướng khác hiện,
nên vì khen ngợi
công
đức
thí xả, nói cái lỗi
xan tham.
Nếu tướng
khác vẫn còn hiện
thì không nên chặt.
Nếu
không có tướng khác hiện
thì mới chặt
vậy. (Nghĩa
là khiến người
tịnh nhơn
“tri” (biết) chứ
không phải Tỳ-kheo
tự tay chặt
vậy).
CHƯÙNG
MINH:
Căn
bản tạp
sự
nói:
Nước Ðắc-xoa-thi-la
có một
long vương
tên Y-la-bát, hóa thân làm hình của
Ma-nộp-bà (thiếu
niên) mang một tráp
đầy
vàng,
đi khắp
các nơi, dùng kệ
xướng rằng:
“ Chỗ
nào vua là lớn.
Trong nhiễm mà không nhiễm,
Không nhiễm mà lại
nhiễm.
Người nào là người
ngu?
Nơi nào người
ngu lo,
Nơi nào người
trí hỷ,
Ai hòa hợp biệt
ly,
Gọi
đó
là an lạc”.
Nếu
ai giải
thích
được, liền
thưởng tráp vàng này.
Song không có ai giải thích
được.
Ði lần
đến
nước Bà-la-ni-tư
cũng xướng
như vậy.
Có người trả
lời: “Có bậc
thượng trí
ở
nơi A-lan-nhã, tên là
Na-lạt-đà, sẽ
giả thích nghĩa
này.” Sau
đó không bao lâu,
Na-lạt-đà
đến.
Rồng dùng kệ
hỏi. Người
kia nghe, ghi nhớ
lại,
nói rằng: “Mười
hai năm sau sẽ
giải thích cho ông.” Rồng
nói: “Như vậy
lâu quá, xin trong vòng bảy
ngày.”
Khi
ấy,
Na-lạt-đà liền
đến báo với
năm Tỳ-kheo
Tỳ-kheo trả
lời: “Ông có thể
hỏi Phật.”
Na-lạt-đà
liền
đến
vườn nai, lễ
dưới chân Phật,
ngồi một
bên. Phật nói pháp cho
nghe, chứng
quả Dự
lưu, nguyện
xin xuất gia. Phật
dạy:
“Trước hết
nên vì Ma-nộp-bà giải
thích nghĩa bài tụng,
vậy sau mới
xuất gia, neân trả
lời như
vầy:
Vua thứ
sáu là hơn.
Chỗ
nhiễm liền
sanh
đắm.
Không nhiễm
mà khởi nhiễm.
Nói
đó
là người ngu.
Người
ngu nơi
đây
lo,
Kẻ
trí nơi
đây
hỷ.
Chỗ
ái biệt ly
được,
Gọi
an lạc là
đây.
Người kia nếu không hiểu,
lại vì họ
nói bài tụng:
Nếu
người nghe lời
diệu,
Hiểu
rồi tu thắng
định.
Nếu
nghe không rõ nghĩa,
Do người
đó phóng dật.
Nếu
người
kia lại nghi, ông có thể
đối với
người kia dùng ngón
tay ngắt
một chiếc
lá, nếu hỏi
Thế Tôn xuất
thế chưa?
Trả lời:
đã xuất
thế. Nếu
hỏi nơi
nào? Trả lời:
Tại Thí Lộc
Lâm (vườn nai).
Khi
ấy,
Na-lạt-đà nhận
lời dạy
của Phật
rồi
đến
chỗ con rồng,
trả lời
đầy
đủ
như trên. Con rồng
kia hóa làm Chuyển
luân Thánh vuơng
đến chỗ
đức Thế
Tôn.
Phật nói: “Người
là người ngu si,
ở
thời
đức
Phật Ca-diếp-ba,
thọ giới
cấm của
Phật, mà không thọ
trì nên cảm lấy
quả báo hạ
liệt làm thân rồng
lâu dài. Nay vì lý do nào lại
khởi tâm dối
trá? Ngay bây giờ
ngươi
nên hiện nguyên hình trở
lại.
Rồng
thưa:
“Bạch Thế
Tôn! Con là thân rồng,
vì nhiều
oán thù xấu ác, sợ
có chúng sanh cùng làm tổn
hại. Ðức
Phật bảo
Kim Cang Thủ vì rồng
thủ hộ.
Long vương một
mình
đến một
chỗ, hiện
lại nguyên hình. Thân
có 7
đầu,
đầu
đuôi cách nhau có
đến 200 dịch (trạm
ngựa), trên mỗi
đầu mọc
một cây y-la
đại
thọ, bị
gió lay
động máu mủ
chảy ra, thấm
nhớp hình hài, hôi
thúi
đáng
ghê. Thường có các loài
trùng, giòi, ruồi, khắp
trên thân thể, ngày
đêm
rút rỉa
ăn
nuốt. Lúc
ấy,
Long vương liền
dùng thân cũ,
đến
chỗ Thế
Tôn, lễ dưới
chân,
đứng qua một
bên, bạch rằng:
“Cúi xin
đức Thế
Tôn vì con thọ ký, và
đến
khi nào mới bỏ
được thân rồng
này?” Phật dạy:
“Ðời sau, khi con người
sống tám vạn
tuổi, có
đức
Phật ra
đời
hiệu là Từ
Thị, vì ngươi
thọ ký, sẽ
thoát khỏi thân rồng.”
Long vương buồn
khóc, những con mắt
trong các
đầu
đều
chảy nước
mắt, thành 14 con
sông, dòng nước chảy
nhanh
đáng sợ.
Phật bảo:
“Phải chấm
dứt,
đừng
để tổn
hại
đến
nước (quốc
gia).” Rồng
đảnh
lễ dưới
chân Phật, thoạt
biến mất.
Ðại
chúng hỏi
nguyeân nhân vấn
đề. Phật dạy:
“Thời
đức
Phật Ca-diếp-ba,
con rồng này
ở
trong giáo pháp của
Phật,
xuất gia tu hành, thấu
rõ ba Tạng, lão luyện
các pháp
định,
đi
kinh hành dưới cây y-la,
để
tự sách tấn
mình. Lá cây rơi
đụng trán, vẫn nhẫn
thọ. Sau
đó,
vì tâm quá mệt mỏi,
nên từ thiền
định
đứng
dậy. Hành giả
sách tấn kinh hành, lại
bị lá cây rơi
trúng
đầu quá
đau,
nổi lòng giận
dữ, liền
dùng tay bẻ nhánh quăng
xuống
đất,
nói lời như
sau: Phật Ca-diếp-ba,
những vật
vô tình này, thấy
có lỗi
gì mà chế học
giới (xứ)
khiến ta chịu
khổ thế
này? Do lòng sân
độc hại
quá mạnh, phá hủy
giới cấm,
nên khi chết
đọa
làm loài rồng.”
PHỤ:
Luật
Ngũ phần
nói:
Không
được
vì quỷ thần
và sư ngoại
đạo làm tháp. Ðã làm
rồi
thì không
được phép phá.
Căn
bản ni-đà-na
nói:
Ðối
với
chỗ Thiên thần
không nên cúng dường, cũng
đừng khinh khi xâm phạm.
12. GIỚI
NÓI QUANH ÐỂ
QUẤY
RẦY
NGƯỜI
KHÁC
Ðây là tánh tội.
Ðại
thừa
đồng
học.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, cố
ý nói quanh và gây phiền
vị
khác, Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Xiển-đà
phạm tội,
các Tỳ-kheo hỏi,
Xiển-đà
đem bao nhiêu việc
khác nói: “Các vị
nói với
ai, nói việc gì, bàn luận
thế nào, nói với
tôi hay nói với ai. Ai phạm
tội, tội
do
đâu sanh. Tôi không
thấy
toäi, tại sao nói tôi có tội?”
Các Tỳ-kheo
cơ hiềm,
bạch Phật,
Phật bảo
Tăng tác bạch
dư ngữ
(nói quanh), kiết
giới
rằng: Tỳ-kheo
nào nói quanh co phạm
Ba-dật-đề.
Xiển-đà
nhơn
ấy
không nói quanh lại
gây phiền
haän cho chúng Tăng
bằng
cách: kêu
đến, không
đến;
không kêu lại
đến,
cần
đứng
dậy, không
đứng;
không cần
đứng
dậy,
lại
đứng, nên nói, không
nói; không nên nói lại
nói. Phật
lại bảo
Tăng tác bạch
xúc não, kiết giới
này lại.
TƯỚNG
TRẠNG CỦA
TỘI
Tăng
chưa
tác bạch dư
ngữ (nói quanh) mà dư
ngữ phạm
Ðột-kiết-la.
Nếu tác bạch
rồi mà dư
ngữ, phạm
Ba-dật-đề.
Tăng chưa
tác bạch xúc não (gây phiền
hận) mà kêu
đến
không
đến v.v...
đều
phạm Ðột-kiết-la. Nếu
tác bạch rồi
mà xúc não
đều phạm
Ba-dật-đề.
Nếu bậc
Thượng tọa
kêu
đến mà không
đến
phạm Ðột-kiết-la.
Tỳ-kheo-ni
phạm
Ba-dật-đề.
Ba chúng dưới phạm
Ðột- kiết-la.
Không phạm:
Nghe lại lời
nói trước không hiểu
vì có sự mập
mờ, cho nên giống
là dư ngữ
(hỏi lại:
“Thầy nói với
ai?... cho
đến tôi không thấy
tội này”). Người
ấy làm việc
phi pháp, hoặc khi
ăn
hoặc ngồi
chỗ
ăn
có bệnh, nạn
v.v... cho nên giống
như
là xúc não.
Luật
Căn bản
nói:
Nếu
Tỳ-kheo
thấy người
thợ săn
đuổi
con nai v.v... chạy
vào chùa. Thợ săn
hỏi:
“Ông có thấy con nai chạy
qua
đây không?” Tỳ-kheo
không nên nói là: “Thấy”.
Nếu lúc trời
lạnh nên mời
họ vào nhà
ấm
để sưởi
lửa. Nếu
là lúc trời nóng thì nên mời
họ vào nhà mát
để
uống nước.
Nếu họ
nói: “Tôi không mệt
mỏi.”
Tôi cần hỏi
con nai chạy qua
đây.
Trước hết
tự xem chỉ
trong bàn tay mà nói: “Tôi thấy
chỉ trong bàn tay.” Nếu
họ hỏi
nữa, nên nhìn lên
thái hư
mà nói: “Tôi thấy
thái hư.”
Nếu họ
nói: “Tôi không hỏi
chỉ
tay và thái hư, chỉ
hỏi con vật
cần giết
có chạy qua
đây
không?” Liền khi
ấy
nên xem khắp bốn
phương, khởi
niệm như
thế này: “Ðối
với Thắng
nghĩa
đế,
tất cả
các hành, vốn không có hữu
tình”, và trả lời:
“Tôi không thấy
hữu
tình.” Như vậy
đều không phạm.
Nếu khi hỏi
việc khác, không như
thật mà trả
lời,
đều
mắc tội
đọa.
PHỤ:
Giới
không cung kính, các bộ luật
khác
đều có giới
này. Ðại ý cùng giới
này
đồng vậy.
Luật
Thập tụng
nói:
Nếu
Tỳ-kheo
không cung kính, phạm
Ba-dật-đề.
Xiển-đà
đối với
Thượng tọa,
khi nói pháp luật,
tác dị
ngữ (dùng những
lời kỳ
dị
để
đáp lại
những nạn
vấn)
đáp,
cho nên Phật chế
cấm. Tăng
sẽ vì họ
ghi nhận việc
không cung kính bằng
cách bạch
tứ Yết-ma.
Nếu trước
khi chưa ghi nhận,
khuyên bảo
đừng
làm. Họ
đáp
rằng: không làm mà thật
làm. Hoặc
đáp:
sẽ làm mà thật
làm,
đều phạm
Ðột-kiết-la.
Nếu sau khi Tăng
đã ghi nhận
việc không cung kính,
khuyên bảo
đừng làm, mà
đáp
rằng: không làm mà thật
làm. Hoặc
đáp
rằng: sẽ
làm mà thật làm,
đều
phạm Ba-dật-đề.
Luật
Ngũ phần
nói:
Khinh ba thầy
(Hòa thượng, Thượng
tọa, A-xà-lê)và giới
đều phạm
mỗi một
Ba-dật-đề.
Khinh Tỳ-kheo khác phạm
Ðột-kiết-la.
Cho
đến Thầy
bảo quét mà không
quét, bảo
quét thuận gió mà quét nghịch
gió
đều phạm
Ðột-kiết-la.
Tỳ-kheo-ni cũng
như vậy.
Ba chúng sau phạm
Ðột-kiết-la.
Luật
Nhiếp
nói:
Không kính Tăng-già
mắc tội
đọa. Không kính người
khác mắc tội
ác tác.
Năm
hạng
người dạy
bảo không
được
trái nghịch:
1) Quốc
vương.
2) Như
Lai Ðại sư.
3) Bậc
Thượng
tọa trong chúng.
4) A-giá-lợi-gia
(A-xà-lê).
5) Ô-ba-đà-gia
(Hòa thượng).
BIỆN
MINH:
Quốc
vương
dạy bảo
tức là thường
pháp của quốc
gia. Tỳ-kheo không
được
phạm
đến
quốc hiến
như vậy.
Nếu
dạy bảo
một cách phi lý như
bảo triều
bái hay phục dịch
v.v... không nên làm theo. Trong Tạng
có ghi chép: Sa-môn không nên lễ
bái người
đời
v.v... cùng các việc,
gồm
sáu quyển,
Tỳ-kheo
không nên không xem. Hơn
nữa, trừ
bậc Như
Lai Ðại sư,
nếu hai thầy,
Thượng tọa
có dạy bảo
việc phi pháp cũng
không nên phục tùng.
Luật
Tứ phần
nói:
Không nên
ở
trước một
Hòa thượng, hay nhiều
Hòa thượng v.v...
(nhiều
vị
đã
10 hạ) hoặc
một A-xà-lê, hay nhiều
A-xà-lê v.v... (nhiều
vị
đã 5 hạ)
mặc y phủ
hai vai và mang guốc
dép. Khi thấy hai thầy,
Thượng tọa
nên
đứng dậy
chào
đón. Trừ
khi
ăn, khi tác pháp dư
thực chứ
không
ăn, hoặc
bệnh, nên thưa
rằng: “Ðại
đức tha thứ
cho con, con có duyên sự
như vậy
nên không
đứng dậy
được”.
TRÙNG TRỊ
TỲ-NI
SỰ
NGHĨA
TẬP
YẾU
HẾT QUYỂN
THỨ SÁU
Thập
tụng
luật
8, tr. 60c13, Ðại
23n1435: “Nếu
Tỳ-kheo
xoay
đồ vật
về
mình mà khởi
tưởng
muốn
xoay phạm
Ni-tát-kì ba-dật-đề.
Hoặc
xoay
đồ vật
về
cho mình mà khởi
tưởng
không xoay cũng
phạm
Ni-tát-kì ba-dật-đề.
Hoặc
xoay
đồ vật
về
cho mình mà sanh nghi cũng
phạm
Ni-tát-kì ba-dật-đề.
Nếu
không xoay
đồ vật
về
cho mình mà khởi
tưởng
xoay về
thì phạm
Đột-kiết-la.
Nếu
không xoay
đồ vật
về
cho mình mà sanh nghi cũng
phạm
Đột-kiết-la.
Nếu
không xoay
đồ vật
về
cho mình và khởi
tưởng
không xoay thì không phạm.”
--- o0o ---
Mục
Lục |
01
|
02
|
03
|
04
|
05
|
06
|
07
|
08
|
09
|
10
11
|
12
|
13
|
14
|
15
|
16
|
17
|
18
|
19
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-6-2007