TRÙNG TRỊ TỲ NI
SỰ NGHĨA TẬP YẾU
CỔ
NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích
Việt
dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH
Nhuận văn
và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
---o0o---
TẬP I
QUYỂN THỨ
8
38.
GIỚI
ĂN THỨC
ĂN CÁCH ÐÊM
Ðây là
giá tội. Ðại
thừa Tỳ-kheo
đồng học.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào, cất
chứa
đồ
ăn quá
đêm và
ăn, Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Tôn giả
Ca-la thường tọa
thiền tư
duy, khi ấy trong
thành khất thực dễ
được. Ca-la nghĩ
rằng: “Tại
sao hàng ngày phải
đi khất
thực khổ sở!
Thà là ta ăn những
thức
ăn
được trước,
những thức
ăn
được sau mang về
để ngày mai
ăn”. Sau
đó làm theo ý
đã nghĩ.
Các Tỳ-kheo
đến bữa
ăn không thấy
Ca-la, nghi là qua đời
hay là đi nơi
khác... Sau đó, lại
thấy hỏi
biết lý do, bạch
Phật, kiết
giới.
GIẢI
THÍCH:
Thức
ăn nhận
được ngày nay
để
đến ngày mai,
đối với các Tỳ-kheo
đều là vật
không thanh tịnh.
TƯỚNG TRẠNG CỦA
TỘI
Tỳ-kheo-ni
phạm Ba-dật-đề.
Không
phạm: thức
ăn còn thừa
đem trao cho cha mẹ
hay người công quả
v.v... Sau đó, từ
nơi họ
xin lại thì
được
ăn.
Luật
Thập tụng nói:
Ðại
Tỳ-kheo chưa dùng tay nhận
mà cùng ngủ với
thức
ăn thì gọi
là nội túc,
ăn phạm Ðột-kiết-la;
đã dùng tay nhận
và cùng ngủ gọi
là tàn túc thực,
nếu
ăn phạm
Ba-dật-đề.
- Trước
tự lấy trái cây, sau nhận
từ nơi tịnh
nhơn mà
ăn, phạm Ðột-kiết-la.
- Có hai loại xúc thực,
ăn không tội:
a) Tỳ-kheo
thanh tịnh
đụng nhầm.
b) Tỳ-kheo
phá giới không biết
xấu hổ
đụng vào (xúc chạm).
Thuốc
7 ngày có thể dùng
quá nửa ngày.
Căn
bản ni-đà-na
nói:
Bánh
hay trái cây ăn
còn, đem trao cho
Sa-di, sáng ngày được
nhận
ăn; nếu
có tâm hy vọng sẽ nhận
lại thì khi trao mắc
ác tác, khi ăn phạm tội
đọa, nếu
hoàn toàn không có tâm hy vọng
sẽ
được nhận
lại thì không phạm.
Mục-đắc-ca
nói:
Nếu
người bệnh mà nghèo, dầu,
tô dư thừa
dùng không tội.
- Tỳ-kheo
đi
đường, bảo
Sa-di mang lương thực
theo có thể vì
Sa-di đỡ lên,
đỡ xuống.
Lại nữa,
các Bí-sô đi
đường nên
đem theo lương
thực,
đã không có người
thế tục,
lại không có Sa-di,
thì nên khuyến hóa
thí chủ. Thí chủ cũng
không, nên tự tay
mang đi, sau
đó gặp
người thế
tục, trao
đổi mà
ăn. Trường hợp
không thể thực
hiện phương
tiện trao
đổi thì nên chia
làm hai phaàn, bảo
người thế
tục rằng: “Ngươi
lấy một phần”.
Người
ấy lấy
rồi, bảo
người
ấy rằng:
“Ngươi lấy phần
ăn của tôi, tôi lấy
phần
ăn của
người, thay
đổi mà
ăn”. Trường
hợp này nếu
khó thực hiện,
thì ngày thứ nhất
nên tuyệt thực.
Sáng ngày nếu có người
trao thì nhận lấy
mà ăn.
Nếu không có
người trao, thì cho
phép tự lấy
một nhúm mà
ăn. Cho
đến ngày thứ
ba lại không có người
trao, cho ăn 2
nhúm. Ðến ngày thứ tư
lại không có người
trao, tùy theo ý của
mình, ăn no, không phạm.
Sau đó, trên lộ
trình đi, lương
thực bị
hết sạch,
có trái chín rớt
trên đất, nên lấy
tác tịnh, thọ
rồi mới
ăn. Nếu
tịnh nhơn
khó có được, thọ
rồi, nên
ăn. Người trao cũng
không, thì có thể tự
lấy, khởi
tưởng của Bắc
châu (Bắc Câu-lô
châu) mà ăn. Trên
cây trái chín chưa
rụng xuống
đất, nên tự leo lên cây rung cho nó rớt, tự
lấy mà
ăn. Những
điều
khai mở trên,
đều là vì nạn
duyên, nếu không nạn duyên thảy
đều cấm ngăn.
Luật Thiện
kiến nói:
Nếu nhiều
Tỳ-kheo cùng
đi mà chỉ có một
Sa-di nhỏ, Tỳ-kheo
tự gánh lấy
lương thực,
đến giờ
ăn, mỗi
người tự
chia phần. Sa-di nhận
phần của
mình rồi, nói với
Tỳ-kheo rằng:
“Nay đem phần
của Sa-di cúng cho
Ðại
đức”. Ðổi
được rồi,
lại
đổi cho vị
thứ hai, lần
lượt cho
đến cả
chúng, ăn như
thế không tội.
Nếu Sa-di không hiểu
pháp Tỳ-kheo tự
đem phần
ăn của
mình cho Sa-di, lần
lượt
đổi như
trên rồi
ăn, không phạm.
Luận Tát-bà-đa
nói:
Nếu thức
ăn là Phật
lạp, diện
môn lạp, tự
tứ lạp, tuy trước
cầm, sau mua,
được
ăn, không có cái tưởng
là của mình vậy,
không tội.
CHỨNG
MINH:
Căn
bản tạp
sự nói:
Phật
bảo A-nan: “Không
có trường hợp,
ở trong nhà nào
đó,
ăn
đồ
ăn cách
đêm, mà chứng
được A-la-hán. Nhưng
cũng không có trường
hợp có A-la-hán, các lậu
đã hết,
ở trong nhà bạch
y, mà ăn
đồ
ăn cách
đêm”.
BIỆN
MINH:
Hỏi:
- Sa-di không
ăn
đồ
ăn cách
đêm,
được chứng
quả A-la-hán. Nếu
đã chứng
quả A-la-hán
rồi thì cần
gì phải thọ
giới Cụ
túc?
Ðáp:
- Trong 8 loại
Tỳ-kheo, tuy có loại
Tỳ-kheo phá kiết
sử, song khi Phật
diệt
độ, cần
phải dùng Bạch tứ
yết-ma làm tôn yếu.
Cho nên Sa-di dầu
đã chứng
vô học, cần phải
tức thời
thọ Cụ
túc, không đợi tuổi
đủ 20. Chưa
hề có trường hợp
không đăng
đàn thọ Cụ
ấy vậy.
39.
GIỚI TỰ
NHẬN THỨC
ĂN
Ðây là
giá tội. Tỳ-kheo
Ðại thừa
đồng học.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào,
đưa
vào miệng
thức
ăn
hoặc thuốc không
được trao nhận,
trừ nước
và tăm
xỉa răng,
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Nơi thành Xá-vệ
có một Tỳ-kheo,
thường khất
thực mặc
y phấn tảo.
Khi ấy trong thành, các cư
sĩ, vì cha mẹ
của họ
qua đời; nơi ngã tư
đường cho
đến trong miếu,
thiết trai phạn
cúng tế. Tỳ-kheo
ấy tự
tay lấy thức
ăn mà
ăn. Cư
sĩ cơ
hiềm, cho nên Phật
chế cấm. Lúc bấy
giờ, có các Tỳ-kheo
sanh nghi, không dám tự
lấy tăm
xỉa răng
và nước lã
để uống,
Phật dạy:
không phạm.
GIẢI
THÍCH:
Nhận
có 5 cách:
- Dùng tay trao, dùng tay nhận.
- Dùng tay trao, dùng vật
nhận.
- Dùng vật
trao, dùng vật nhận.
- Dùng vật
trao, dùng tay nhận.
- Dùng vật
từ xa
đưa, người
trao, kẻ nhận
đều biết
nhau, không có gì trở
ngại, rơi
vào trong tay.
Lại
có 5 cách nhận:
- Thân trao, thân nhận.
- Y trao, y nhận.
- Khuỷu
tay trao, khuỷu tay
nhận.
- Ðồ
trao, đồ nhận.
- Hoặc
có nhân duyên để nơi
đất trao.
TƯỚNG TRẠNG CỦA
TỘI
Tưởng,
nghi v.v... sáu câu như
thường có thể biết.
Tỳ-kheo-ni thì phạm
Ba-dật-đề.
Luật
Ngũ phần nói:
Trừ
thức
ăn nếm
thử không
được nuốt.
Cho phép từ rồng
nhận thức
ăn, từ trời
nhận thức
ăn, từ
quỷ nhận
thức
ăn, từ
khỉ nhận
thức
ăn, từ
nơi lời
nói của thí chủ
nhận thức
ăn. Không
được nhận
thức
ăn từ
đằng xa ném tới
mà ăn.
BIỆN
MINH:
Hỏi:
- Tứ
phần cho nhận
vật từ xa ném
đến thì thành thọ.
Ngũ phần thì không cho nhận
vật thực
ném đến
để
ăn. Vậy thì
ở
đây, nên theo bên
nào?
Ðáp:
- Tứ phần cho nhận
vật từ xa ném
đến, vì phải
dùng tay để hứng
lấy, hoặc
có nhân duyên. Ngũ
phần ném thức
ăn, do bởi
khinh mạn. Cho phép, hay chế
cấm
đều có lý do riêng biệt,
chủ ý
ở nơi
đây là vậy.
40.
GIỚI KHÔNG BỆNH
ÐÒI THỨC
ĂN NGON
Ðại
thừa có bệnh cũng
không được
ăn cá thịt.
GIỚI
BỔN:
Các thức
ẩm thực mỹ
diệu như sữa,
lạc, cá và thịt, Tỳ-kheo nào
không bệnh
mà xin những
thứ
ẩm
thực mỹ
diệu
ấy
cho mình, Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Bạt-nan-đà
đến nhà chủ
buôn đòi thức
ăn mỹ
diệu (tạp
thực). Người
chủ buôn hỏi:
“Ngài có bệnh gì?”
Ðược trả lời:
“Không có bệnh, chỉ
muốn
ăn
đồ
ăn mỹ
diệu vậy”.
Chủ buôn cơ
hiềm, cho nên Phật
chế cấm.
Khi ấy, có Tỳ-kheo bệnh
cẩn thận
sợ không dám xin,
không dám vì người
bệnh xin, nhận
được không dám
ăn, cho nên Phật
cho phép.
TƯỚNG TRẠNG CỦA
TỘI
Tỳ-kheo-ni
mắc tội
về pháp hối
quá. Ba chúng dưới
phạm Ðột-kiết-la.
Luật
Thập tụng nói:
Ðòi mà
được, mắc
tội Ba-dật-đề;
không được, mắùc
Ðột-kiết-la.
Luật
nhiếp nói:
Không
beänh đến xin,
để có bệnh
ăn; khi xin phạm
ác tác, khi ăn
không có tội. Có bệnh
đến xin,
để không bệnh
ăn, khi xin không
có tội, khi
ăn
tội
đọa. Nếu
thí chủ nói: “Cần
chi cứ cho biết”,
hoặc
đến trời,
rồng, dạ-xoa, xá, khất
cầu, không phạm.
41. GIỚI TỰ
TAY CHO NGOẠI ÐẠO
THỨC
ĂN
Ðại
thừa
đồng học.
Hoặc xem căn
cơ
được phép cho.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào tự
tay cho thức
ăn
đến nam ngoại
đạo, nữ
ngoại
đạo, Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Phật
bảo A-nan chia bánh
cho chúng Tăng.
Chia rồi còn dư, bèn cho người
đi xin. Có một
người con gái ngoại
đạo lõa hình, nhan
sắc
đoan chánh, A-nan
cho bánh, bánh xấp
hai cái tưởng là một,
đem cho cô ta. Người
con gái ấy cùng với người
gần, hỏi
nhau, biết việc
ấy, họ liền
sanh nghi báng. Lại
có một người Phạm
chí, ăn chỗ
này rồi,
đi
đến nước khác, trên
đường
đi gặp một
người (Bà-la-môn)
giàu lòng tin (tín sĩ),
nói là từ cư
sĩ trọc
đầu
được
ăn. Người
(Bà-la-môn) giàu lòng tin kia bạch
với Tỳ-kheo, Phật
nghe, kiết giới.
Sau đó, ngoại
đạo có lời
oán trách, Phật bèn
cho phép để dưới
đất hay sai người
cho thì được.
TƯỚNG TRẠNG CỦA
TỘI
Tự
tay cho, mà nhận,
phạm Ba-dật-đề;
không nhận, Ðột-kiết-la. Sắp
sửa muốn
cho, lại
đổi ý, phạm
Ðột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni,
phạm Ba-dật-đề.
Ba chúng sau, phạm
Ðột kiết-la.
Không
phạm: Cho cha mẹ
và người giúp việc v.v...
hoặc bị
thế lực
cưỡng
đoạt.
Luật
Căn bản nói:
Hoặc
muốn dùng thức
ăn làm nhân duyên
để trừ
ác kiến của
kẻ
ấy thì không phạm.
Luật
Thập tụng nói:
Không
phạm là, nếu
người
ấy có bệnh
hay quyến thuộc; hoặc
khi xin xuất gia mà
cho (tức là 4 tháng
thử họ
vậy). Tự
mình chưa thọ
thực, không nên cho
kẻ khác. Mình thọ
trước, sau mới
cho người. Nếu là cha, mẹ,
hay người bị
troùi, thì cần cho
thức
ăn gấp;
còn người có thai,
ít nhiều tùy theo
mà cho họ. Súc sanh
nên cho một miếng.
42.
GIỚI ÐẾN
NHÀ KHÁC KHÔNG DẶN
Ðại thừa
đồng học.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào, trước
đã nhận người
mời, nhưng trước
hay sau bữa
ăn
đi
đến nhà người khác mà
không báo cho Tỳ-kheo khác biết, trừ trường
hợp
đặc
biệt, Ba-dật-đề.
Trường hợp
đaëc
biệt
là: khi bệnh,
thời
gian làm y, thời
gian thí y,
đây
là trường
hợp
đặc
biệt.
NGUYÊN DO:
Có một
Trưởng giả
thiết lập
trai soạn thỉnh
Tăng,
đợi Bạt-nan-đà
đến. Bạt-nan-đà
sau khi tiểu thực xong lại
đến nhà khác, khi gần
quá ngọ mới
trở lại. Do vậy,
các Tỳ-kheo
ăn không
đủ no vì quá ngọ.
Lại nữa, có một
đại thần
đem cam
đến Tăng-già-lam
cũng
đợi Bạt-nan-đà
đến mới
chia. Bạt-nan-đà
ăn xong, liền
đến nhà khác, quá
ngọ mới
trở lại, khiến
chúng Tăng không
được
ăn cam tươi
ấy, cho nên Phật
chế. Sau
đó, chúng Tăng
không dám nhận lời
mời vào thành, Phật
cho phép dặn nhau rồi vào thành. Lại
nữa, nếu
vì bệnh, khi làm y, khi thí y, không dặn,
được vào thành.
GIẢI
THÍCH:
Trước
bữa
ăn: là mặt
trời xuất hiện
cho đến bữa
ăn. Sau bữa
ăn: là từ khi
ăn cho
đến giữa
ngày. Các Tỳ-kheo
khác: là đồng một giới,
cùng ở.
TƯỚNG TRẠNG CỦA
TỘI
Dặn
rồi
đi, nửa
đường trở
lại... muốn
đi phải
dặn lại.
Không dặn thì vào
bao nhiêu nhà, phạm
bấy nhiêu Ba-dật-đề.
Một chân vào trong
cửa ngõ... phạm
Ðột-kiết-la.
Tỳ-kheo-ni phạm
Ba-dật-đề.
Ba chúng dưới phạm Ðột-kiết-la.
Không
phạm: Nếu
không có Tỳ-kheo
để dặn,
thì đến bên phòng
kho tàng của tụ
lạc, hay
đến chỗ có nhà
để dặn.
Hoặc vì thế lực
kéo lôi, mạng nạn,
phạm hạnh
nạn.
Luật nhiếp
nói:
Nếu nói với
chủ nhà: “Dầu tôi không
đến, cũng
nên cúng dường Tăng,
đừng
để thiếu
sót.” Hay người chủ không vì vị
ấy mà
đợi chờ, thì
đều không tội.
43.
GIỚI CƯỠNG
NGỒI NƠI
NHÀ ĂN
Ðại
thừa
đồng học.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, tại
nhà có thức
ăn có vật báu, mà cố
ngồi nán, Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Ca-lưu-đà-di
đến nhà của
Trai ưu-bà-di ngồi,
người chồng
hỏi cần gì v.v... Trả
lời: “Cần
thức
ăn”, liền
bảo vợ
đem thức
ăn ra cho.
Ăn rồi,
không đi. Ngươøi
chồng giận
bỏ
đi và nói: “Tùy
ông, muốn làm chi
thì làm”. Phật
nghe, chế cấm.
GIẢI
THÍCH:
Thức
ăn: Nam lấy nữ
làm món ăn, nữ
lấy nam làm món
ăn, cho nên gọi
là “thực gia”. Vật
quý báu: là chỉ cho
xa cừ, mã não, trân
châu, hổ phách,
kim, ngân. (Xét giới
này, chính từ “thực gia
食家?” mắc tội,
chứ chẳng
phải từ
nơi vật
quý mà mắc tội.
Nói: “Có vật báu”,
thì vật báu
ở
đây, chỉ
chỗ vợ
chồng có thể
hành dâm được vậy).
TƯỚNG TRẠNG CỦA
TỘI
Mù mà
không điếc,
điếc
mà không mù, đứng
không ngồi, phạm Ðột-kiết-la.
Tỳ-kheo-ni, phạm
Ba-dật-đề.
Ba chúng dưới phạm Ðột-kiết-la.
Không phạm: Chỗ
đưa tay
đụng
đến cánh cửa,
có hai Tỳ-kheo bạn, hay bị
trói v.v...
Luật Thập
tụng nói:
Không phạm: nhà
đoạn
dâm dục, nhà thọ
Bát quan trai, hoặc
lại có bậc Tôn túc ngồi
nơi tòa, hay nhà có
nhiều người ra vào.
Nếu người
nữ thọ
giới một
ngày, người nam không thọ
giới, hay người
nam thọ giới
một ngày, người
nữ không thọ
giới, ngồi
nơi nhà như
vậy phạm Ðột-kiết-la,
nếu cả
hai đều thọ
giới thì không phạm.
44.
GIỚI NGỒI CHỖ
VẮNG VỚI
THỰC GIA
Ðại
thừa
đồng học.
Phạm, không phạm,
đồng như
giới trước.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào, trong nhà
ăn
có vật
báu mà ngồi
ở chỗ
khuất, Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Ca-lưu-đà-di
lại ngồi
ở sau cánh cửa
mà cùng với Trai
ưu-bà-di nói chuyện,
nên Phật chế.
45.
GIỚI NGỒI MỘT
MÌNH VỚI NGƯỜI
NỮ
Ðại
thừa
đồng học.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào, một
mình ngồi
với một
người nữ
tại chỗ trống,
phạm
Ba-dật-đề.
Nguyên do:
Cũng khởi
sự từ Ca-lưu-đà-di,
cho nên chế.
TƯỚNG TRẠNG CỦA
TỘI
Phạm,
không phạm
đều
đồng như
giới trước.
Luật
Thập tụng nói:
Ngồi
cách nhau một trượng, phạm
Ba-dật-đề;
cách nhau một trượng rưỡi,
phạm Ðột-kiết-la, quá hai trượng
không phạm.
Luật
nhiếp nói: Nếu cùng phi nhơn
nữ, bán-trạch-ca
nữ và
đối tượng
chưa có thể
hành dâm, hay là kẻ
điếc
lác lẩn thẩn
v.v... cùng ngồi chỗ vắng,
đều mắc tội
ác tác.
46. GIỚI CỐ
Ý KHIẾN NGƯỜI
KHÁC KHÔNG ÐƯỢC THỨC
ĂN
Ðại
thừa
đồng học.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào, noùi với
Tỳ-kheo khác như vầy:
“Ðại
đức
hãy cùng tôi vào tụ
lạc, tôi sẽ cho Ðại
đức thức
ăn”.
Tỳ-kheo
ấy cuối
cùng không cho thức
ăn Tỳ-kheo
kia, lại
nói rằng:
“Ðại
đức hãy
đi chỗ
khác
đi!
Tôi với
Ðại
đức
mà ngồi
một chỗ hay nói
chuyện
là không vui. Tôi ngồi
một mình, nói chuyện một
mình lại
an lạc”.
Chỉ
với mục
đích
ấy chứ
không gì khác, là cố
tình
đuổi
đi,
Ba-dật-đề.
Luật Căn
bản nói:
Ngữ là
đọc tụng,
tọa là thiền
tư.
NGUYÊN DO:
Bạt-nan-đà
cùng các Tỳ-kheo
tranh cãi, lòng ôm mối
giận. Sau
đó một
thời gian, dẫn
đến những
nơi không có thức
ăn, gần
giữa ngày bèn nói:
“Ngài là người
đại ác, do ngài cho
nên khiến tôi cũng
không nhận
được thức
ăn, ngài nên
đi
đi v.v...” Tỳ-kheo
kia ra khỏi thành
đến Kỳ-hoàn,
giữa ngày
đã qua, không
ăn
được, quá
đói, các Tỳ-kheo
nghe, cơ hiềm,
chê trách, bạch Phật,
chế cấm.
TƯỚNG TRẠNG CỦA
TỘI
Sửa soạn
đuổi
đi,
đi cách khoảng
thấy nghe, hoặc
tự mình
đi cách khoảng thấy
nghe, đều phạm
Ba-dật-đề.
Bỏ chỗ khoảng
không nghe, đến chỗ
khoảng không thấy;
bỏ chỗ khoảng
không thấy,
đến chỗ khoảng
không nghe phạm Ðột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni
phạm Ba-dật-đề.
Ba chúng dưới phạm
Ðột-kiết-Ia.
Không phạm: Cho
ăn rồi
bỏ
đi. Hoặc
bệnh hay không có
oai nghi, ngươøi thấy
không vui, nói rằng:
“Mời ngài
đi, tôi sẽ mang thức
ăn
đến Tăng-già-lam”.
Hoặc người
kia phá giới, phá
kiến, phá oai nghi, bị
cử (gạt một
bên), bị tẫn
nên phải
đuổi,
hoặc mạng
nạn, phạm
hạnh nạn,
phương tiện bảo
đi, không vì hiềm
giận.
Luật
Ngũ phần nói:
Làm việc
này, phiền
đến bốn chúng, phạm
Ðột-kiết-la.
Ni làm việc này phiền
đến hai chúng, phạm
Ba-dật-đề,
phiền ba chúng
khác, phạm Ðột-kiết-la.
Luật
Thập tụng nói:
Chưa
vào cửa thành khiến
trở lại,
cho đến chưa
vào trong cửa nhà bạch y bảo
trở
lại,
đều phạm
Ðột-kiết-la. Nếu
vào trong cửa ngõ
khiến trở lại,
phạm Ba-dật-đề.
Luật
nhiếp nói:
Nếu
theo lời thầy thuốc
bảo
đừng
ăn thì không phạm.
47. GIỚI
NHẬN THUỐC
QUÁ HẠN ÐỊNH
Ðại
thừa
đồng học.
Vì chúng cho nên
đòi
hỏi,
không phạm.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào,
được
thỉnh caàu thọ nhận
thuốc
4 tháng, Tỳ-kheo
không bệnh
có thể
nhận; nếu
quá hạn
mà nhận
Ba-dật-đề, trừ có sự
thỉnh thường xuyên,
thỉnh
tiếp tục,
thỉnh chia phần, thỉnh suốt
đời.
NGUYÊN DO:
Ma-ha-nam, giòng họ
Thích, cúng dường
thuốc cho chúng Tăng,
cung kính bậc Thượng tọa,
cúng thuốc tốt,
cần cũng
cúng, không cần cũng
cúng. Lục quần
cần thuốc
đến nhaø xin khó
được. Thí chủ
nói: “Có thì cúng, không có sẽ
đến chợ
mua để cúng.” Lục quần
liền cho là có ái,
và nói láo, quở
trách. Ma-ha-nam nhân đó
không cúng thuốc
cho Tăng nữa,
nên Phật chế.
Lại vì nhân duyên
khai cho thường thỉnh
v.v...
GIẢI
THÍCH:
Bốn
tháng: là chỉ cho 4
tháng mùa hạ. Bệnh:
là thầy thuốc
bảo phải
uống thuốc. Thường
thỉnh: là người
ấy thưa
như vầy:
“Tôi thường cúng
thuốc”. Thỉnh tiếp
tục: là thôi cúng
roài cúng lại. Thỉnh
chia phần: là mang thuốc
đến Tăng-già-lam phân phối
cúng. Thỉnh suốt
đời: là người
ấy nói: “Tôi sẽ
cúng trọn
đời”.
Thỉnh
có 4 cách:
1) Thời
gian có hạn
định, thuốc
không hạn
định.
2) Thời
gian có hạn
định, thuốc
có hạn
định, bốn tháng hạ
nên nhận.
3) Thời
gian không hạn
định, thuốc có hạn
định.
4) Hoặc
thời gian không hạn
định, thuốc
không hạn
định, tùy khi nào
cúng thì nên nhận.
Luật
Tăng kỳ
nói:
Hoặc
4 tháng mùa hạ, hoặc
4 tháng mùa đông,
hay 4 tháng mùa xuân, Ðàn-việt
thỉnh không nhất
định. Hoặc
4 tháng, hoặc 1
tháng hay nửa
tháng, định kỳ
mãn rồi, không
được
đến
đòi. Nếu
thỉnh bữa
ăn trước,
không được
đòi bữa
ăn sau. Thỉnh
bữa
ăn sau không
được
đòi bữa
ăn trước.
Thuốc và các vật dụng
khác cũng vậy.
Nếu nói suốt
đời nhận
sự cúng dường
tứ sự
của tôi; như
vậy,
được tùy ý
đòi.
TƯỚNG
TRẠNG CỦA
TỘI
Nhận quá hạn
định, mỗi
miếng phạm
một Ba-dật-đề.
Tỳ-kheo-ni, phạm
Ba-dật-đề.
Ba chúng dưới phạm
Ðột-kiết-la.
Luật
Thập tụng
nói:
Ðòi mà
được, phạm
Ba-dật-đề,
không được, phạm
Ðột-kiết-la.
Ðòi trái ha-lê-lặc...
hay là thuốc,
được, không
được,
đều phạm Ðột-kiết-la.
Luật
nhiếp nói:
Thỉnh
cúng 4 tháng thức
ăn thô chưa mãn, lại
đòi thức
ăn ngon, nếu
được phạm ác tác,
ăn, liền
mắc tội
đọa. Thỉnh
thức
ăn ngon,
đòi thức
ăn thô, khi
đòi phạm
ác tác, khi ăn
không tội.
Luật
Thiện kiến
nói:
Ðàn-việt
cúng thuốc dùng vào
việc thuốc, không
được dùng làm vật
thực. Cho dầu
đòi tô (váng sữa),
phạm Ðột-kiết-la.
PHỤ:
Luật Ngũ
phần nói:
Nếu có người
cúng thuốc cho Tăng,
ngươøi Tỳ-kheo
chấp sự
nên hỏi: “Cúng cho tủ
thuốc của
tụ lạc
(thôn xóm) hay cúng cho tủ
thuốc của
Tăng phòng?”
Nếu họ
nói: “Cúng cho tủ
thuốc tụ
lạc”; khi cần
nên nói: “Tôi cần
thuốc như
vậy, vì tôi cung cấp,
đừng
để thiếu.”
Nếu nói
để cho Tăng
phòng nên Bạch nhị yết-ma,
sai Tỳ-kheo có
đủ năm
pháp: không tùy ái, nhuế,
si, bố, biết
thuốc hay không phải
thuốc, làm người
giữ thuốc
cho Tăng. Người
ấy nên dùng
đồ mới
để
đựng:
Ha-lê-lặc, Ha-ma-lặc,
Tỳ-hê-lặc,
Tất-bạt-la,
càn cương,
cam giá, đường, thạch
mật. Nếu
đồ không chảy
nên đựng: như
tô, du, mật nên cột,
đậy miệng
kỹ,
đề tên thuốc
rõ ràng. Nếu
Tỳ-kheo bệnh
cần, nên hoan hỷ
đưa. Nếu
người bệnh tự
biết dùng thuốc
thì nên tự lấy
dùng; nếu không biết,
nên hỏi thầy
thuốc. Nếu
không có thầy thuốc nên hỏi
hai thầy (Hòa thượng,
A-xà-lê): “Con bị bệnh
như vậy, như
vậy, nên dùng thuốc
gì?” Nếu hai thầy
không biết, nên lấy
uống, sau ba lần
không lành, lấy thứ thuốc
khác để dùng.
48.
GIỚI XEM QUAÂN TRẬN
Ðại thừa
đồng học.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào,
đi
xem quân trận,
Ba-dật-đề, trừ có nhân
duyên hợp thời.
NGUYÊN DO:
Vua Ba-tư-nặc
tự mình lãnh lục
quân chinh phạt bọn
phản loạn.
Lục quần
đến xem coi, vua
không bằng lòng,
nhân đó gởi
một gói thạch
mật về
dâng đức Thế
Tôn... Thế Tôn quở
trách, kiết giới.
Sau đó có hai
đại thần
ở trong quân trận
mong muốn
được gặp
Tỳ-kheo Lê-sư-đạt
và Phú-la-na, nên sai sứ
đến mời.
Các Tỳ-kheo cẩn thận
sợ không dám
đến, cho nên trừ
thời, và nhân
duyên.
TƯỚNG TRẠNG CỦA
TỘI
Ðến
chỗ mà thấy
được, phạm
Ba-dật-đề,
không thấy, phạm
Ðột-kiết-la.
Muốn xem mà không
đi, trên
đường gặp
mà không tránh, phạm
Ðột-kiết-la.
Tỳ-kheo-ni, phạm
Ba-dật-đề.
Ba chúng dưới phạm Ðột-kiết-la.
Không phạm: Sức
mạnh bắt
buộc, tất
cả các trở
nạn không tránh
được.
Luật Tăng
kỳ nói:
Hành quân kéo đến
tinh xá, không tác ý, xem, không tội.
Tác ý xem, mắc tội
Việt tỳ-ni.
Luật Căn
bản nói:
Nếu thấy
hành quân, không nên nói là hay, dở
gì cả.
Luật Thập
tụng nói:
Ðến xem quân dạ-xoa,
phạm Ðột
kiết-la.
Ni-đà-na
nói:
Thấy
đánh nhau không nên
đến xem. Nếu thấy
cãi nhau, phải
tránh đi gấp.
49.
GIỚI
Ở TRONG QUAÂN TRẬN
QUÁ BA ÐÊM
Ðại
thừa
đồng học.
Hoặc quán căn cơ,
không phạm.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, có nhân duyên
được
phép
đến
trong quân trại
ngủ lại
hai, ba
đêm.
Nếu quá, Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Lục quần
có nhân duyên đến
ngủ trong quân trận,
cư sĩ cơ
hiềm, cho nên Phật
chế cấm.
TƯỚNG
TRẠNG CỦA
TỘI
Ðến
đêm thứ ba, khi tướng
mặt trời
chưa xuất
hiện, nên
đến chỗ không thấy
không nghe; nếu
không lìa chỗ không
thấy không nghe, minh tướng
xuất hiện
phạm Ba-dật-đề;
lìa chỗ thấy
không lìa chỗ nghe,
phạm Ðột-kiết-la.
Tỳ-kheo-ni phạm
Ba-dật-đề.
Ba chúng dưới phạm Ðột-kiết-la.
Không
phạm: gặp
các trở ngại.
Luật
Ngũ phần nói:
Tuy có
nhân duyên, nếu
dùng thơ tín, giải
quyết
được thì nên dùng
thơ tín. Nếu
cần phải
đến, thì mới
đến. Việc
xong liền về,
không nên ở lại
ngủ. Nếu
việc không xong,
nên ở lại
một
đêm. Một
đêm không xong, nên
ở
đêm thứ
hai. Nếu vẫn
không xong,
ở
đến
đêm thứ
ba. Ðêm thứ ba xong
hay không xong, nếu
ở quá, phạm Ba-dật-đề.
Nếu việc
xong một cách
đột ngột, không nên
ở lại
đêm mà ngủ, trái phạm,
mắc Ðột-kiết-la.
50.
GIỚI XEM COI QUAÂN
TRẬN
Ðại
thừa
đồng học.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào,
ở trong quân trận
hai, ba
đêm hoặc
khi xem quân
đội chiến
đấu, hoặc
xem thế
lực
quân
đội, quân voi, quân ngựa,
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Lục
quần xem quân trận,
bị mũi
tên bắn trúng,
đồng bạn dùng y băng
lại, chở
về. Cư
sĩ hỏi
biết sự
việc cùng nhau cơ
hiềm, cho nên Phật
chế cấm.
TƯỚNG TRẠNG CỦA
TỘI
Phạm,
không phạm
đồng như
giới trước.
Luật
Ngũ phần nói:
Xem cầm
thú đánh nhau phạm
Ðột-kiết-la.
51.
GIỚI UỐNG
RƯỢU
Ðại
thừa
đồng học.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào, uống
rượu, Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Tôn giả
Ta-già-đà ngủ
nhờ nơi
nhà của Phạm chí bện
tóc, đã hàng phục
con rồng lửa
ác độc. Chủ
nước Câu-thiểm-di,
sanh lòng kính mộ,
đảnh lễ
Thế Tôn, xin
được cúng dường Tôn giả.
Lục quần
đòi rượu
đen, Tôn giả
bị say, giữa
đường ói mửa,
chim chóc tranh nhau la inh
ỏi. Phật
hỏi A-nan, biết
sự việc,
quở trách: “Như
hiện nay thì không
hàng phục
được con rắn con, huống
là con rồng lớn”.
Uống rượu
có 10 tội lỗi
và mất mát:
1) Nhan sắc xấu.
2) Yếu sức.
3) Con
mắt không sáng.
4) Tướng
nóng giận.
5) Phá
hư ruộng
vườn tài sản.
6) Ðưa
đến bệnh tật.
7) Thích gây tranh chấp.
8)Tiếng xấu
đồn khắp.
9) Trí tuệ giảm
sút.
10) Thân hoại mạng
chung đọa vào 3
đường dữ.
Từ
đây về sau, ai (tôn giáo pháp) Ta là thầy,
thì cho dù chỉ dùng
đầu ngọn
cọng cỏ
chấm vào rượu
rồi thấm vào miệng.
TƯỚNG TRẠNG CỦA
TỘI
Tỳ-kheo-ni,
phạm Ba-dật-đề.
Ba chúng sau phạm
Ðột kiết-la.
Không
phạm: dùng rượu
làm thuốc, dùng rượu thoa ghẻ.
Luật Thập
tụng nói:
Uống rượu
gạo, rượu
cam, rượu
đường v.v... tất
cả loại
rượu có thể
say, mỗi miếng
phạm một
Ba-dật-đề.
Nếu chỉ
có sắc rượu,
không có mùi rượu,
vị rượu,
không say người thì
uống không phạm.
Ma-đắc-lặc-già
nói:
Nếu dùng rượu
nấu làm thời
dược (thuốc
đúng thời), thuốc
phi thời, thuốc
bảy ngày không có
tánh rượu,
được uống.
Luật Thiện
kiến nói:
Nếu thuốc
nấu rượu, nấu
thức
ăn nên có mùi vị
rượu, phạm
Ðoät-kiết-la; không coù mùi vị
rượu thì
được dùng.
52.
GIỚI GIỠN TRONG NƯỚC
Ðại
thừa
đồng học.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào,
đùa
giỡn tronc nước, Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Thập
thất quần Tỳ-kheo
giỡn trong nước.
Vua Ba-tư-nặc
cùng với Mạc-lợi
phu nhơn, từ
trên lầu trông thấy.
Phu nhơn sai sứ
đến bạch
đức Thế
Tôn, chế cấm.
GIẢI THÍCH:
Giỡn
trong nước: là từ bờ
này đến bờ
kia, hoặc thuận
dòng hay nghịch
dòng, hoặc
ở
đây lặn xuống,
nơi
kia nổi lên.
Hoặc lấy
tay vẽ trên nước,
hoặc cùng nhau tạt
nước, vung vãi
trong nước.
TƯỚNG TRẠNG CỦA
TỘI
Giỡn
trong nước, phạm Ba-dật-đề.
Nếu nước
trái lạc tương,
lúa mạch v.v...
đựng trong
đồ mà lộng
hý (vẽ chơi),
phạm Ðột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni,
phạm Ba-dật-đề.
Ba chúng sau, phạm
Ðột-kiết-la.
Không
phạm: Ði
đường phải lội
qua nước, kéo tre lấy
cát, tìm vật bị
mất, học
bơi v.v...
Luật
Ngũ phần nói:
Tát nước
tuyết, giỡn sương
trên đầu cỏ,
Ðột-kiết-la.
Luật
Thập tụng
nói:
Trên
bàn có nước, hoặc
nơi giường
ngồi có nước,
dùng ngón tay vẽ chơi,
phạm Ðột-kiết-la.
Luật
Thiện kiến
nói:
Nước
sâu ngập
ống chân, giỡn
trong đó, phạm
Ba-dật-đề.
Lay động chiếc
thuyền, giỡn
nước, phạm
Ðột-kiết-la.
53.
GIỚI THỌC LÉC NHAU
Ðại
thừa
đồng học.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào, lấy
ngón tay thọc
léc người
khác, Ba-dật-đề. (tức là dùng
ngón tay khiến cho thịt
ngứa
để
lấy sự
vui vậy).
NGUYÊN DO:
Một
người trong Lục
quần, thọc
léc một người
trong Thập thất quần
đến bỏ mạng,
cho nên Phật chế
cấm.
TƯỚNG TRẠNG CỦA
TỘI
Trừ
ngón tay, ngón chân. Nếu
dùng gậy, chìa khóa
chốt cửa
v.v... thọc léc, phạm
Ðột-kiết-la.
Tỳ-kheo-ni, Ba-dật-đề,
ba chúng sau, Ðột-kiết-la.
Không
phạm: khi ngủ
đụng phải, tất
cả việc
đụng nhầm.
Luật
Ngũ phần nói:
Thọc
léc Sa-di cho đến
súc sanh, phạm Ðột-kiết-la.
Tát-bà-đa ma-đắc-lặc-già
nói:
Nếu
thân căn hư
hoại lấy
tay chọc, phạm
Ðột-kiết-la.
54.
GIỚI KHÔNG NHẬN
LỜI CAN GIÁN
Ðại
thừa
đồng học.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào, không nhận
lời can gián, Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Xiển-đà
suýt phạm giới,
các Tỳ-kheo can
gián mà không nghe, cho nên Phật
chế.
TƯỚNG TRẠNG CỦA
TỘI
Tỳ-kheo-ni
phạm Ba-dật-đề.
Ba chúng dưới, Ðột-
kiết-la.
Không
phạm: người
can gián không có trí tuệ
và vui chơi, nhầm
nói v.v...
PHỤ:
Kinh
Tỳ-ni mẫu
nói:
Không
nên nhận sưï
can gián của 5 hạng người:
1) Người không tàm
quý.
2) Người không học
rộng.
3) Người thường
tìm lỗi của
người.
4) Người
ưa
đấu tranh.
5) Người muốn
cởi áo hoàn tục.
55)
GIỚI KHỦNG
BỐ NGƯỜI
KHÁC
Ðại
thừa
đồng học.
Hoặc quán căn cơ
để chiết
phục, không phạm.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào, dọa
nạt Tỳ-kheo
khác, Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Nơi
kinh hành, Phật
kinh hành, Tỳ-kheo
Na-ca-ba-la hầu Phật,
đầu hôm thỉnh
Phật về
phòng. Thế Tôn làm
thinh, giữa
đêm, sau
đêm cũng
vậy. Na-ca-ba-la lật
ngược y, giả
tiếng của
phi nhơn khủng bố
Thế Tôn. Sáng hôm
sau, Thế Tôn nhóm
chúng, khiển trách,
kiết giới.
GIẢI
THÍCH:
Khủng
bố: là dùng sắc,
thanh, hương, vị, xúc, pháp, khủng
bố người.
TƯỚNG TRẠNG CỦA
TỘI
Ðối
tượng thấy nghe, biết,
sợ hay khoâng sợ,
đều phạm
Ba-dật-đề;
không thấy, nghe,
biết, phạm Ðột-kiết-la.
Tỳ-kheo-ni, Ba-dật-đề.
Ba chúng sau, phạm
Ðột-kiết-la.
Không
phạm: Tất
cả trường
hợp không cố
ý làm cho người
khác sợ sệt.
Luật nhiếp
nói:
Nếu dùng sắc,
thinh... khả
ố khiến người
khác sợ, mắc
tội
đọa. Nếu
dùng sắc thinh khả
ái khiến người
khác kinh sợ,
đều mắc
tội ác tác. Nếu
đối với người
khác làm cho họ
kinh sợ
đều phạm
ác tác. Nếu trình
bày ba đường dữ, dụng
ý để hóa
đạo, người kia tuy sợ,
không phạm. Bí-sô,
tưởng Bí-sô, 6 câu,
2 câu đầu tội
đọa, 4 câu sau
khinh tội. Thật
không có sự sợ
sệt, tưởng
không có sự sợ
sệt 6 câu, 2 câu nặng,
2 câu nhẹ, 2 câu
không phạm.
56.
GIỚI TẮM
RỬA NHIỀU
QUÁ
Ðại
thừa
đồng học.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo,
nửa
tháng tắm
một lần;
Tỳ-kheo không bệnh nên thọ; nếu
quá, Ba-dật-đề, trừ trường
hợp
đặc
biệt. Trường hợp
đặc biệt là: Thời
gian nóng, khi bệnh,
khi lao tác, khi gió và mưa,
khi
đi
đường. Ðó là trường hợp
đặc
biệt.
NGUYÊN DO:
Nước
Ma-kiệt có ao nước, vua Bình-sa cho phép các Tỳ-kheo
vào trong đó tắm.
Lục quần
Tỳ-kheo sau
đêm vào tắm.
Vua cùng thể nữ
đến, nghe tiếng
Tỳ-kheo tắm,
yên lặng chờ.
Lục quần
dùng các loại thuốc bột
tắm cho
nhau, mãi đến mặt trời
mọc, cuối
cùng nhà vua không tắm
được. Do
đó các
đại thần
đều cơ
hiềm, chê trách, giận
dữ, nên Phật
chế cấm.
GIẢI
THÍCH:
Bệnh:
là thaân thể bị hôi thúi. Lao tác: là những việc
như quét
đất, quét phòng. Mưa
gió, một cơn
mưa gió lốc
làm nhớp thân. Ði
đường:
đi nửa do-tuần.
Luật
Ngũ phần nói:
Khi
nóng là khi mồ hôi
đổ ra.
Luận
Tát-bà-đa nói:
Thời
gian tắm sớm
muộn tùy từng
vùng, thường trong
thời gian nửa tháng hai
được phép tắm.
TƯỚNG TRẠNG CỦA
TỘI
Trừ
trường hợp
đặc biệt,
ngoài xối nước
ướt khắp
thân hoặc
ướt nửa thân, phạm
Ba-dật-đề.
Sửa soạn
mà không thực hiện,
phạm Ðột-kiết-la.
Tỳ-kheo-ni phạm
Ba-dật-đề.
Ba chúng dưới phạm Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Thế lực
bắt buộc
phải tắm.
Luật
Thập tụng nói:
Ngày
hôm qua đến, ngày
hôm nay tắm, ngày
mai sắp muốn
đi, ngày nay tắm,
phạm Ba-dật-đề.
Luật
Ngũ phần nói:
Nếu
tắm cho thầy và người
bệnh, thân thể
mình đã
ươùt, nhân
đó tắm
không phạm.
Luật
Tăng kỳ
nói:
Nếu
không có các trường
hợp trên, thì phải
theo pháp tắm của
thợ
đồ gốm
đồ sành, trước
hết rửa
2 tay, 2 chân, sau rửa
đầu, mặt, eo lưng,
vai, cánh tay, cùi chỏ,
hông, nách.
BIỆN
MINH:
Lễ
sám kiết
đàn, hàng ngày tắm
3 lần, tuân theo lời
Phật dạy,
chẳng phải
phạm. Trong Tòng lâm tất
cả chúng có mục
tắm nước
nóng, cũng chẳng phạm.
PHỤ:
Không
nên cùng với người
bạch y tắm chung, nếu
họ khen ngợi
Tam bảo thì cho phép tắm.
57. GIỚI
NHEN LỬA CHỖ
ÐẤT TRỐNG
Ðại
thừa
đồng học.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào, không bệnh,
để tự
sưởi, nhóm lửa tại
đất trống, hoặc
bảo người nhóm,
Ba-dật-đề. Trừ có nhân
duyên.
NGUYÊN DO:
Trước
bậc Thượng tọa,
Lục quần
không được làm theo ý của
mình, nên cùng nhau ra ngoài phòng nhóm lửa
giữa
đất trống
để sưởi
ấm. Khi
ấy, trong bộng
cây có con rắn
độc, hơi
khói lồng vào nóng,
từ trong lỗ bộng
cây chạy ra, các Tỳ-kheo
đều kinh hoàng, lấy
củi
đang cháy quăng
tán loạn,
đến nỗi cháy giảng
đường, cho nên Phật
chế cấm.
GIẢI
THÍCH:
Bệnh:
cần lửa
để sưởi
ấm. Nhân duyên: là
Tỳ-kheo bệnh
cần nấu
cơm, cháo, canh, hoặc
ở nơi
ôn thất,
nhà trù, phòng tắm,
hoặc xông bát, nhuộm
y, đốt
đèn,
đốt hương.
TƯỚNG
TRẠNG CỦA
TỘI
Không bệnh,
nhen lửa chỗ
trống
để sưởi, hoặc
đốt cỏ, cây, nhánh, lá v.v... phạm Ba-dật-đề.
Ðốt phân nửa,
đốt than, phạm
Ðột-kiết-la.
Tỳ-kheo-ni, phạm
Ba-dật-đề.
Ba chúng sau phạm
Ðột-kiết-la.
Luật
Ngũ phần
nói:
Ðốt
lửa, ngọn
lửa cao 4 ngón tay,
phạm Ba-dật-đề.
Luận
Tát-bà-đa nói:
Trên
đường
đi gặp trời
lạnh rét, nhoùm lửa
để sưởi,
không phạm.
Luật
Tăng kỳ
nói:
Cầm
đuốc
đi, muốn
dập tàn, không nên
dập chỗ
đất chưa
cháy, nên dập trên
chỗ cao, trên gạch,
nếu lửa của
đuốc rớt
xuống
đất, liền dập
cho tắt thì không tội.
PHỤ:
Phần
thứ tư
(Tứ phần
luật) nói:
Gần
lửa có 5
điều
lỗi:
1)
Khiến cho người không có nhan sắc.
2)
Mất sức.
3)
Mắt mờ.
4)
Khiến nhiều người
tụ tập.
5)
Nói nhiều việc thế
tục.
Luật
Tăng kỳ
nói:
Ðốt
lửa có 7 việc không lợi
ích:
1) Hư mắt.
2) Hư sắc.
3) Thân
suy yếu.
4) Nhớp hư
áo.
5) Hư mền
giường.
6) Tạo nhân duyên phạm
giới.
7) Thêm
ngôn luận về
thế tục.
PHỤ:
Căn
bản tạp sự
nói:
Cố
ý đốt cháy rừng núi, mắc
tội Thổ-la
(Thâu-lan-giá).
58.
GIỚI GIỠN
CHƠI, giẤU
VẬT CỦA NGƯỜI
KHÁC
Ðại
thừa
đồng học.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào, giấu
y, bát, tọa
cụ,
ống
đựng kim của Tỳ-kheo
khác, tự
mình giấu,
hoặc bảo
người giấu, dù chỉ
giỡn chơi, Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Thập
thất quần
đem y, bát, tọa
cụ,
ống
đựng kim,
để một
bên, đi kinh hành,
chờ
đến giờ
thọ trai. Lục quần
đợi khi họ
quay lưng lại,
lấy giấu.
Giờ thọ
trai đến, họ
phải tìm kiếm,
lúc ấy họ
bị chế nhạo.
Các Tỳ-kheo xét biết,
cơ hiềm,
Phật nghe, chế
giới.
TƯỚNG TRẠNG CỦA
TỘI
Tỳ-kheo-ni,
phạm Ba-dật-đề.
Ba chúng dưới, phạm
Ðột-kiết-la.
Không
phạm: biết
rõ vật của
người kia bỏ
quên nên lấy cất.
Vì răn dạy
người thiếu
cẩn thận
nên lấy cất.
Mượn y của
người mặc,
người kia không
thâu xếp,
sợ mất
nên lấy cất.
Hoặc mạng
nạn, phạm
hạnh nạn
v.v...
Luật
Ngũ phần
nói:
Cất
giấu vật
của bốn
chúng cho đến vật của
súc sanh, mắc Ðột-kiết-la. Ni giấu
vật của 2 chúng, mắc
Ba-dật-đề.
Ngoài ra, mắc Ðột-kiết-la.
Luật
Tăng kỳ
nói:
Giấu
loại y khác hay vật
khác, mắc tội
Việt tỳ-ni.
Luật
Thập tụng
nói:
Nếu
người kia tìm
được, mắc Ðột-kiết-la;
tìm không được, phạm Ba-dật-đề.
Nếu giấu
ống
đựng kim tìm
được, không tìm
được,
đều mắc Ðột-kiết-la.
59.
GIỚI VỘI
ÐẮP Y ÐÃ TỊNH
THÍ
Ðại
thừa
đồng học.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào,
đã
cho y cho Tỳ-kheo,
Tỳ-kheo-ni,
Thức-xoa-ma-na,
Sa-di, Sa-di ni, về
sau không nói với
chủ, lấy
lại mà dùng, Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Vì lục
quần cho nên chế.
GIẢI THÍCH:
Cho y:
là tịnh thí y vậy.
Tịnh thí có 2 loại:
1) Chơn thật
tịnh thí là
nói: “Ðây là y dư của
tôi chưa tác tịnh,
nay vì muốn tịnh,
xin biếu cho Trưởng
lão để làm tịnh
chơn thật.”
2) Triển chuyển
tịnh thí là
nói: “Ðây là y dư của
tôi, chưa tác tịnh.
Nay vì muốn tịnh,
xin biếu cho Trưởng
laõo để
được tịnh”. Vị
kia nói: “Trưởng
lão nghe cho, Trưởng
lão có cái y dư, chưa tác tịnh,
nay cho tôi được tịnh.
Tôi xin nhận.” Nhận rồi
hỏi rằng: “Trưởng
lão có muốn cho ai
chăng?” Vị kia trả
lời: “Cho thầy...”
Vị nhận
y lại nói: “Trưởng
lão có cái y dư, chưa tác tịnh,
nay cho tôi, để
được tịnh. Tôi nhận.
Nhận rồi,
tôi cho mỗ giáp. Như vậy
y này là của mỗ
giáp, thầy hãy vì mỗ
giáp giữ gìn và tùy
ý sử dụng.”
TƯỚNG TRẠNG CỦA
TỘI
Chơn thật
tịnh thí, phải
hỏi chủ,
vậy sau mới dùng triển
chuyển tịnh
thí, hỏi chủ
hay không hỏi, tùy
ý dùng. Tỳ-kheo-ni,
phạm Ba-dật-đề.
Ba chúng sau, phạm
Ðột-kiết-la.
Luật Căn bản
nói:
Nhận y của
người gởi,
sau không hỏi chủ lấy
đắp mặc, phạm
Ba-dật-để-ca;
nếu vật
của thân hữu,
người kia khi nghe mình dùng, tâm sanh vui mừng
thì không phạm.
BIỆN
MINH:
Xét rằng:
Luật Căn
bản cùng với
luật Tứ
phần mục
đích hoàn toàn khác
nhau. Ðây vì người
năng thí mà chế
giới; kia vì người
nhận gởi
mà đề phòng tội
lỗi. Tuy có khác
nhau, song đứng về
mặt lý thì cả
hai đều nên bảo
vệ.
PHỤ:
Luật
Ngũ phần nói:
Không
nên tịnh thí cho 5
hạng người:
1) Không cùng biết.
2) Chưa hiểu nhau tận
tường.
3) Chưa từng
gần thân nhau.
4) Phi thân hữu
đồng sư.
5) Phi thời, phi
loại (người
80, 90 tuổi gọi
là phi thời. Chưa
từng xuất
gia gọi là phi loại).
Lại có 2 pháp không
nên tịnh thí:
1) Người không
hay khen ngợi.
2) Không cùng với
người tạo
tiếng khen tốt
đẹp.
Lại có 2 pháp:
1) Không hay nhận
trọng vật tịnh
thí của người,
bảo vệ
như của mình.
2) Mình có trọng
vật, không hay tịnh
thí. Người kia dùng
không hận.
Lại
có 2 pháp:
1) Khoâng biết họ
còn sống chăng?
2) Không biết rõ
họ còn tu hay
không?
Nếu Tỳ-kheo
ở một mình, nên làm pháp “từ xa hướng
đến tịnh thí”. Trong 3 y phải
có sự thay
đổi. Ðắp y trống
vai mặt, cởi
guốc dép, quỳ
gối, cầm
y, nghĩ, miệng
nói: “Y này của
tôi,... (bao nhiêu) điều,
nay xả”. Nói như
vậy 3 lần. Sau
đó nhận
y dư, cũng
như pháp trước,
tâm nghĩ miệng
nói: “Y... này của
tôi, (bao nhiêu) điều...
nay nhận.” Nói như vậy
ba lần. Như
vậy là thọ
rồi, y xả kia nên tịnh
thí, lại cũng
như pháp trước,
tâm nghĩ miệng
nói: “Y này của
tôi, tịnh thí cho.... từ
nơi vị kia lấy
dùng.” Nếu không
đổi, thọ dụng,
khi được y dư
liền phải
tịnh thí như vậy.
Pháp
độc tịnh
thí, đến ngày thứ 11, lại
phải như
pháp trước, tâm nghĩ,
miệng nói: “Y dư
này của tôi, từ
nơi... lấy
lại”. Sau
đó, cũng
như pháp trước,
thọ trì, tịnh
thí. Hoặc
đối với
người tịnh thí, nên làm pháp triển chuyển
tịnh thí. Như
pháp trước, cầm
y nói: “Y dư này của
tôi, đến Trưởng
lão làm pháp tịnh
thí”. Vị kia nên hỏi: “Y này của
Trưởng lão,
đến tôi tác tịnh,
tôi đem cho ai?” Ðáp rằng:
“Trong 5 chúng, tùy yù ngài cho”. Vị
kia liền nói: “Nay
tôi cho... Khi nào ngài cần,
đến
đó lấy
dùng, khéo léo bảo
vệ y”.
Trong vấn
đề này, vị
kia nói rõ tên Tỳ-kheo
thọ thí. Tỳ-kheo
ấy sợ
phạm tội
chứa y dư,
không dám nhận Phật
dạy: “Không nên nêu
tên Tỳ-kheo nhận
y.”
60.
GIỚI Y KHÔNG HOẠI
SẮC
Ðại
thừa
đồng học.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào,
được y mới,
tùy ý dùng một
trong ba màu, hoặc
là xanh, hoặc
đen, hoặc
mộc
lan, làm cho hoại
sắc.
Nếu
không làm hoại
sắc
bằng
ba thứ,
hoặc
xanh, hoặc
đen, hoặc
mộc
lan, mà mặc
nguyên y mới,
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Lục
quần mặc
y màu trắng
đi, cư
sĩ cơ
hiềm, nên chế.
GIẢI
THÍCH:
Y mới
may hoặc là mới
nhận
được từ
nơi người,
đều gọi là y mới.
TƯỚNG TRẠNG CỦA
TỘI
Tỳ-kheo-ni,
phạm Ba-dật-đề.
Ba chúng dưới, phạm
Ðột-kiết-la.
Luật
Thập tụng nói:
Nếu
được y xanh nên
dùng đen
đỏ
để tác tịnh.
(Nê ‘泥’ tức
là màu đen. Thiến
‘茜’, cách
đọc ‘phiên thiết’
“thử + kiến=thiến”,
tên loài cỏ, cũng viết
là thiến ‘菁’,
tức mộc lan vậy).
Nếu
được y màu
đỏ, nên dùng màu
xanh, đen
để tác tịnh;
nếu
được y màu vàng,
đỏ, trắng,
nên dùng màu xanh, đen,
đỏ ba màu
để tác tịnh.
Luật
Ngũ phần nói:
Nên
dùng 3 sắc
để làm chuẩn. Nếu
không làm chuẩn thì
bao nhiêu lần mặc
phạm bấy
nhiêu Ba-dật-đề.
Nếu không mặc,
thì bao nhiêu đêm,
bấy nhiêu phạm Ba-dật-đề.
Luật
Tăng kỳ
nói:
Tác tịnh,
lớn nhất bằng
4 ngón tay, nhỏ nhất
bằng hột
đậu. Hoặc
một, hoặc
ba, hoặc năm,
hoặc bảy,
hoặc chín. Không
được vẽ
như hình của
hoa. Nếu vá riêng từng
miếng, mỗi
miếng
đều phải tác tịnh.
Nếu may y mới
thì tác tịnh một góc (chéo); nếu
một
điều,
nửa
điều
được vá cũng
tác tịnh.
61.
GIỚI GIẾT
SÚC SANH
Ðây là
tánh tội. Phạm
trọng tội của
Ðại thừa.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào, cố
ý giết chết mạng
sống loài vật, Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Ca-lưu-đà-di
không thích thấy
các loài chim, làm cung bằng
tre để bắn
chim, nên Phật chế
cấm.
GIẢI
THÍCH:
Luật
Ngũ phần nói:
Súc
sanh: là trừ loài rồng
ra, còn bao nhiêu đều
cùng là súc sanh cả.
(Rồng tuy là súc
sanh mà hay biến
hóa đủ thần
lực, thủ
hộ quốc
độ, bảo
vệ Chánh pháp. Công
dụng của
rồng cũng
như chư
Thiên, cho nên nếu
giết thì phạm
Thâu-lan-giá.)
TƯỚNG TRẠNG CỦA
TỘI
Tự
mình giết, dạy người
giết, phương
tiện giết
v.v... tất cả
phạm Ba-dật-đề.
Phương tiện
muốn giết
mà không giết, phạm Ðột-kiết-la.
Tỳ-kheo-ni, phạm
Ba-dật-đề.
Ba chúng dưới phạm Ðột-kiết-la.
Nhầm, gây tổn
thương không phạm.
Tát-bà-đa ma-đắc-lặc-già
nói:
Muốn
chặt sợi
dây nhằm chặt
con rắn, phạm
Ðột-kiết-la.
Muốn giết
con trùng này nhằm
giết con trùng kia,
muốn chặt con trùng mà chặt
dưới
đất, muốn
bắt trùng mà gắp
đất,
đều mắc tội
Ðột-kiết-la.
PHỤ:
Luật
nhiếp nói:
Nếu
trong chùa, phòng, mái hiên chim chóc
đến
ở, làm
ồn, nên sai người
xem xét. Nếu tổ
của nó không có trứng
thì nên đuổi
đi; nếu có,
đợi nó nở
và bay đi, sẽ
đuổi.
Nếu tổ
ong không có con thì nên đuổi
đi, nếu
có dùng tơ, gai bao
bọc,
đừng cho nó phát
triển thêm.
62. GIỚI DÙNG NƯỚC
CÓ TRÙNG
Ðại
thừa
đồng chế.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào, biết
nước có trùng mà uống hoặc dùng, Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Do lục
quần Tỳ-kheo
nên Phật chế.
TƯỚNG TRẠNG CỦA
TỘI
Tưởng,
nghi, v.v.... sáu câu, có thế
biết; Tỳ-kheo-ni, phạm
Ba-dật-đề.
Ba chúng sau, phạm
Ðột-kiết-la.
Không
phạm: Không biết
có trùng. Hoặc có,
loại trùng lớn,
khua động nước
nó tránh chỗ khác.
Hoặc nước
có lọc.
Luật
Căn bản
nói:
Biết
có trùng trong những
vật như bún, mật,
đường, dầu,
giấm, nước,
sữa, lạc
(cao sữa), bánh, trái cây mà thọ dụng
đều mắc tội
đọa.
Luật
nhiếp nói:
5 thứ
con mắt không nên
xem nước: 1) Con mắt
có bệnh, 2) Mắt
có mụt nhọt
3) Mắt cuồng
loạn, 4) Mắt
già nua, 5) Thiên nhãn.
Thời
gian xem coi nước
có trùng hay không, nên xem
độ lâu như
6 cổ xe bò xoay lại.
Nếu
nước sông chảy,
một khi xem không trùng trong khoảng
một câu-la-xá,
tùy ý uống dùng,
song khoảng cách
đó, không có con
sông nào khác chảy
vào.
Nếu
nước không chảy
và dòng nước chảy
ngược thì một
lần xem ngang bằng
trong khoảng một
tầm nhìn thì
được
dùng.
Có 5 loại
nước sạch:
1) Tăng-già
tịnh.
2) Biệt
nhơn tịnh.
3) Lược
tịnh.
4) Suối
chảy mạch
tịnh.
5) Giếng nước
tịnh.
Nếu
biết vị
kia là người trì giới,
tôn trọng mạng
sống, dầu
không quan sát, khi nhận
được nước
nơi vị
ấy uống, dùng không phạm.
Mỗi
lần xem coi nước,
bắt
đầu từ
mặt trời
xuất hiện,
cho đến tướng
mặt trời
chưa xuất
đều tùy
đó mà thọ dụng.
Luật
Tăng kỳ
nói:
Trùng,
không phải là cá trạnh
v.v... Nó là loại
trùng nhỏ ly ti, cho
đến hình tướng
rất nhỏ, mắt
nhìn khó thấy.
Không
nên dùng Thiên nhãn xem coi nước,
cũng không nên sai
người mắt mờ
xem coi nước. Người
có thể thấy
cái chỉ nhỏ
nhất trong bàn tay,
được sai xem coi nước.
Không được xem gấp quá hay xem lâu quá, nên xem
độ lâu bằng con voi lớn
một phen xoay mình
lại.
Nếu
trong nước
có trùng rất
nhỏ, không nên
rửa
tay, rửa
mặt
và
đi
đại
tiểu tiện.
Nếu
Ðàn-việt mời
cơm, nên hỏi
đã lược
nước chưa.
Nếu nói chưa
lược, nên coi người
nào đủ tin bảo
họ lược.
Nếu người
không đủ tin,
đừng bảo
lược, gây tổn
thương cho trùng. Tỳ-kheo
nên tự lược
nước mà dùng. Trùng
trong đãy lọc nên
đem
đổ lại nơi
chỗ lấy nước.
Nếu nơi chỗ
lấy nước xa thì vũng
nước nào trong vòng
7 ngày không khô cạn,
đổ trùng chỗ
đó. Nếu
không có vũng nước nào thì nên
đem chúng
đựng vào
đồ chứa
để nuôi.
Ðợi trời mưa
có nước thì
đem
đổ nó nơi
dòng nước, nói như vầy:
“Các ngươi hãy vào
trong biển cả
đi”.
Nếu
trên đường
đi, biết
giếng nước
có trùng, không được
xách nước
đó
đổ vào
đồ chứa mượn
của người.
Nếu
nước ao, nước vũng
lớn có trùng, không
được kêu lớn: “Trưởng
lão! Nước này có
trùng, có trùng”, khiến
cho vị
ấy sanh nghi, không
vui. Nếu vị
ấy hỏi:
“Nước này có trùng
chăng?” Nên
trả lời:
“Trưởng lão tự
xem lấy.” Nếu
là chỗ quen biết,
đồng sư,
nên nói: Nước này
có trùng, nên lược
mới dùng.
PHỤ:
Phần
thứ tư
nói:
Không
nên không có đãy lọc
nước mà
đi quá nửa
do-tuần. Nếu không có, nên dùng chéo của y Tăng-già-lê
lược.
Luật
Ngũ phần nói:
Cũng
cho phép chứa cái
bình lọc nước
bằng
đồng, thiết,
tre, cây, sành, đá
v.v... dùng vải mịn
đậy nắp,
không cho pheùp dùng cái y phấn
tảo
đậy.
Căn
bản tạp sự
nói:
Dùng lụa
mỏng cột miệng
bình, thả chìm dưới
nuớc phân nửa
cái miệng bình,
đợi
đầy xách lên vẫn
phải quan sát trùng
(nếu nhận chìm luôn cả
miệng bình thì nước
không vô). Cần cái
bình rộng miệng, không
đòi hỏi
lớn nhỏ,
dùng lụa cột
miệng bình, tùy thời
lấy nước,
đấy là việc
làm cần cẩn
thận và thong thả.
(“Quân
trì 君持U” cũng
viết là “quân trì
軍遲”,
dịch là bình. Nam hải
ký qui
nói: Tịnh bình bằng
sành, bằng
đất, lớn
cỡ 2, 3 thăng,
bỏ nơi chỗ
sạch, dùng tay sạch
cầm. Nhiều
bình làm bằng
đồng, bằng
thiết, bỏ
nhiều chỗ,
tùy ý xách).
Truy
môn cảnh huấn
nói:
Ðãy lọc
nước là dụng
cụ của
hạnh từ,
là cái duyên tế vật.
Ðại hạnh do
đây mà phát sanh,
chí đạo nhân
đây mà
đạt
đến.
CHỨNG
MINH:
Luật
Tăng kỳ
nói:
Nước
Ba-la-chỉ có hai Tỳ-kheo
làm bạn,
đến nước
Xá-vệ
để thăm
hỏi
đức Thế
Tôn, trên đường
đi bị
khát mà không có nước.
Phía trước có một
giếng nước,
một Tỳ-kheo xách nước
uống liền,
một Tỳ-kheo
thấy nước
có trùng, khoâng uống.
Vị Tỳ-kheo
kia hỏi: “Tại
sao thầy không uống?”
đáp: “Thế
Tôn chế giới,
không được uống
nước có trùng.” Vị
kia khuyên: “Trưởng
lão nên uống,
đừng
để bị
chết khát, không
được thấy Phật.”
Vị nọ
đáp: “Tôi thà bỏ
mạng, chứ không phá hủy
lời Phật
đã dạy.”
Sau đó, vị
ấy chết.
Vị kia
đi
đến chỗ
Phật. Phật hỏi:
“Từ
đâu
đến?” Lại
hỏi: “Thầy
đi một mình sao?” Vị
kia trình bày đầy
đủ vấn
đề. Phật
daïy: “Thầy là kẻ ngu si, không
được thấy
Ta, mà gọi là thấy Ta. Vị
Tỳ-kheo chết
khát đã thấy
Ta rồi.
(Luật Thập
tụng nói: “Vị
trì giới kia, không
uống bèn chết,
liền sanh cõi trời
thứ Ba mươi
ba đặng thân trời
đầy
đủ. Vị
ấy
đến trước
chỗ Phật,
lễ chân Phật,
nghe pháp, đặng con
mắt pháp thanh tịnh,
thọ Tam quy y cho
nên nói là đã “thấy
Ta trước”. Trong luật
Căn bản
cũng nói việc
này cũng vậy.)
Nếu
Tỳ-kheo phóng dật,
giải
đãi, không nhiếp
các căn, tuy cùng sống
một chỗ
với Ta mà xa cách
Ta. Vị
ấy tuy thấy
Ta mà Ta không thấy
vị
ấy. Nếu có Tỳ-kheo
ở bờ biển
bên kia không hề
phóng dật, tinh tấn không biếng
nhác, thúc liễm các
căn,
tuy cách xa Ta, Ta thường
thấy vị
ấy, vị
ấy thường
gần Ta”.
(Ðây
luận về
không gian có gần
có xa, nếu luận
về thời
gian thì người
phóng dật, tuy sanh
đời có Phật,
chẳng khác nào
đời mạt
pháp. Người không
phóng dật tuy sanh
đời mạt
pháp, chẳng khác
nào như Chánh pháp.
Phật thân chơn
thường, vốn
không xuất thế,
cũng không diệt
độ. Xin kẻ
sĩ hào kiệt
đừng khởi
tưởng tượng
pháp, pháp diệt hết
mà tự buông trôi.
Thế nên tinh tấn
không biếng nhác,
thúc liễm các căn,
nghiêm tịnh Tỳ-ni,
chớ khinh tội
nhỏ. Thường
nghĩ như mình
đang diện
kiến tôn nhan
đức Cha lành, thân
thừa lời dạy
sáng suốt của
Ngài. Tu trì không mệt
mỏi, sẽ
thấy hội
Linh Sơn nghiễm
nhiên chưa tan vậy.)
63.
GIỚI CỐ
Ý LÀM PHIỀN NGƯƠØI
Ðại
thừa
đồng học.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào, cố
ý gieo nghi ngờ
cho Tỳ-kheo
khác, dù chỉ
khiến cho họ không yên
tâm trong chốc lát, Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Thập
thất quần Tyø-kheo hỏi
Lục quần
Tỳ-kheo: “Thế
nào là nhập Sơ
thiền, Nhị
thiền, Tam thiền,
Tứ thiền?
Thế nào nhập
Không, Vô tướng, Vô
nguyện? Thế nào
đặng tứ
quả?” Ðáp rằng:
“Như những
câu các ông hỏi là
đã phạm
Ba-la-di, chẳng phải
Tỳ-kheo”. Khi
ấy, Thập
thất quần
đến hỏi Thượng
tọa, vị
Thượng tọa
biết là họ bị
gieo nghi ngờ, phiền
não, bạch Phật,
chế giới.
GIẢI
THÍCH:
Gieo
nghi ngờ phiền
não: tức là dựa vào năm
sanh, tuổi tác, thọ
giới, Yết-ma,
phạm phi phạm, hay pháp phi pháp cũng
vậy. Dựa
vào năm sanh mà nghi ngờ,
như hỏi: “Ông sanh bao lâu rồi?”
Bảo rằng: “...bao nhiêu năm?”
Lại nói: “Ông không
phải sanh bao nhiêu
năm
đó. Ông sanh như
bao nhiêu người
khác, chẳng phải như
ông nói”. Cho đến
pháp v.v... cũng vậy.
TƯỚNG TRẠNG CỦA
TỘI
Nếu
cố ý dùng vấn
đề này
để gây nghi ngờ,
phiền não, noùi rõ ràng, phạm Ba-dật-đề;
nói không rõ ràng, phạm
Ðột-kiết-la.
Tỳ-kheo-ni, phạm
Ba-dật-đề.
Ba chúng dưới phạm Ðột-kiết-la.
Không
phạm: Sự
thật là như
vậy, không cố
ý gây phiền não. Cho
đến nói nhầm
v.v...
Luật
Ngũ phần
nói:
Khiến
cho bốn chúng nghi
hối, phạm Ðột-kiết-la.
Ni khiến cho hai
chúng nghi hối, phạm Ba-dật-đề.
Khiến cho ba chúng khác nghi hối, phạm
Ðột-kiết-la.
64.
GIỚI CHE TỘI THÔ ÁC CỦA
NGƯỜI
Ðây là
tánh tội. Ðại
thừa
đồng chế.
Tức là: “Giới
không dạy
ăn năn
tội vậy”.
Hỏi: - Không
che tội của
người, tức là nói cái lỗi
của bốn chúng sao?
Ðáp: - Chỉ
cấm không
được nói với
người ngoài chứ
không cấm nói trong Tăng,
đúng như
pháp cử tội
vậy. Nếu
như dung túng việc
phi pháp để trở
thành việc
đại ác hay sao! Khiến
cho họ tội
càng tăng,
mà kể cả
pháp môn cũng bị
tiếng xấu.
Ai có lòng từ, lại
cam tâm ngồi nhìn sự
việc như
vậy?!
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào, biết
rõ Tỳ-kheo
khác phạm
tội thô ác mà cố ý che giấu, Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Bạt-nan-đà
thường phạm
tội,
đến nói với
Tỳ-kheo quen thân,
bảo
đừng nói với
ai. Sau đó, hai người kình nhau, Tỳ-kheo
kia đến nói những
tội phạm
của Bạt-nan-đà
với các Tỳ-kheo
khác. Các Tỳ-kheo
khác hỏi, biết lý do, bạch
Phật, chế
giới.
GIẢI
THÍCH:
Thô tội:
tức tội
tứ khí và thập
tam Tăng tàn.
TƯỚNG TRẠNG CỦA
TỘI
Biết
khi tiểu thực, sau bữa
ăn nói, cho
đến
đầu
đêm biết,
giữa
đêm nói, phạm
Ðột-kiết-la. Giữa
đêm biết,
sau đêm muốn
nói mà chưa nói, tướng
mặt trời
hiện, phạm
Ba-dật-đề.
Che các tội khác, tự
che thô tội của
mình, che thô tội của
người,
đều phạm
Ðột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni
che tội khí của
Ni phạm Ba-la-di; che tội
Tăng tàn của
Ni, phạm Ba-dật-đề.
Ba chúng sau, phạm
Ðột-kiết-la.
Không
phạm: Trước
không biết, hoặc không có người
để nói, hay phạm
hạnh nạn,
mạng nạn.
Luật
Thập tụng nói:
Thấy
tội của
người khác,
đến người khác nói, bèn thôi. Nếu nghe, nếu
nghi, không nên nói.
Luật
Tăng kỳ
nói:
Không
nên đến nói với
người thế tục
mà nên đến thiện
Tỳ-kheo nói. Nếu
Tỳ-kheo có tội là kẻ
hung ác, hoặc dựa
vào thế của
vua, của
đại thần hay bạn
ác, muốn tạo
nhân duyên để
đoạt
mạng sống,
thương tổn
đến phạm
hạnh thì nên nghĩ
rằng: “Người
kia tạo nghiệp
ắt có quả
báo, họ tự
biết lấy.
Ví như lửa
cháy, chỉ tự
cứu mình,
đâu biết
đến việc
khác.” Như vậy
vô tội.
PHỤ:
Phần
thứ ba (luật
Tứ phần)
nói:
Tự
thân có
đủ
5 pháp mới cử
tội của
người:
1)
Nói đúng lúc, không
nói phi thời.
2)
Chơn thật không phải
hư ngụy.
3)
Có ích không phải tổn
giảm.
4)
Nhu nhuyến không phải thô lỗ.
5)
Từ tâm không phải
sân hận.
Phần
thứ tư
(luật Tứ phần)
nói:
Phật
bảo
Ưu-ba-ly: “Thân,
oai nghi không thanh tịnh;
nói, không thanh tịnh,
mạng không thanh tịnh.
Ít học không biết
Tu-đa-la (kinh), ít
học không biết Tỳ-ni
(luật), biện
luận không rõ ràng, dụ
như “bạch
dương” (dê câm). Người
như vậy không nên cử
tội kẻ khác.
Nếu
các pháp đầy
đủ, nên dùng
đúng thời,
dùng đúng pháp, cử
tội người
khác. Hơn nữa,
Tỳ-kheo nào có ái,
cung kính đối với Ta, thì nên cử
tội họ. Hoặc
không ái, có cung kính, hoặc
không cung kính, có ái, thì nên cử
Hoặc tuy không có
kính mà có thể bỏ ác làm lành, nên cử.
Hoặc lại
có chỗ trọng
Tỳ-kheo, tôn kính
tín nhạo, có thể khiến
xả ác hành thiện
thì nên cử tội
họ. Nếu hoàn toàn không có, Tăng neân xả
trí đuổi
đi, nói rằng:
Trưởng lão tùy
ý đi chỗ khác, nơi
đó sẽ vì ngài tác cử,
tác ức niệm,
tác tự ngôn, giá xuất
tội, giá thuyết
giới, giá tự
tứ. Thí như
điều
mã sư (người
dạy ngựa)
đối với
con ngựa khó dạy liền
buông cương lẫn
nọc thả
đi. Tỳ-kheo
như vậy không nên
đến họ
cầu thính. Ðây tức
là thính rồi.
Tát-bà-đa ma-đắc-lặc-già
nói:
Dùng
Thiên nhãn cử tội
người khác, phạm
Ðột-kiết-la.
Thiên nhĩ cũng
như vậy.
65.
GIỚI TRUYỀN
GIỚI KHÔNG ÐÚNG PHÁP
Ðại
thừa, Tỳ-kheo,
đồng học.
GIỚI
BỔN:
Người
đủ 20 tuổi nên cho thọ
Ðại giới, nếu
Tỳ-kheo biết người
chưa
đủ
tuổi 20 mà cho thọ Ðại
giới, Ba-dật-đề.
Người
ấy
không
đắc
giới, các Tỳ-kheo
đáng
bị khiển trách, vì
si.
NGUYÊN DO:
Thập
thất quần
đồng tử,
trước là bạn thân với
nhau, lớn nhất
là 17 tuổi, nhỏ
nhất là 12 tuổi,
cùng nhau cầu xuất gia, các Tỳ-kheo
cho thọ Ðại
giới. Không kham vấn
đề
ăn một
bữa, nửa
đêm
đói bụng, kêu lớn,
la khóc. Phật
nghe và hỏi, A-nan
thưa
đầy
đủ, Phật
kiết giới
này.
TƯỚNG TRẠNG CỦA
TỘI
Nếu
Hòa thượng biết
hay nghi mà cho thọ
giới, ba lần
Yết-ma xong, phạm
Ba-dật-đề;
hai lần Yết-ma
xong, phạm ba Ðột-kiết-la;
một lần Yết-ma
xong, phạm hai Ðột-kiết-la. Bạch
xong, phạm một
Ðột-kiết-la.
Từ khi tác phương
tiện cho
đến nhóm Tăng,
đều phạm
Ðột-kiết-la. Chúng Tăng
nếu biết
hoặc nghi, tất
cả
đều phạm
Ðột-kiết-la.
Tỳ-kheo-ni phạm
Ba-dật-đề.
Không
phạm: Trước
không biết, tin người thọ
giới nói, hoặc
người gần
gũi làm chứng,
hoặc tin lời
cha mẹ.
Thọ giới
rồi nghi, cho phép
tính năm tháng
ở trong thai, hoặc
tính tất cả
là 14 ngày thuyết
giới,
để làm số
năm của
tuổi. (Nửa
tháng, nửa tháng
nói giới, mỗi
năm côïng có 24 lần.
Tháng có trăng và
tháng không trăng
đủ,
đều 15 ngày nói giới. Tháng không trăng nếu
thiếu thì 14 ngày
nói giới. Một
năm chỉ
có 6 lần là 14 ngày
nói giới, sẽ
có 18 lần là 15
ngày nói giới. Nay
dùng quyền xảo phương
tiện,
đều
ước chỉ
có 14 ngày nói giới.
Dùng số tháng
để tính thì một
năm có 18 ngày, 10 năm có 180 ngày. Như người
kia có 19 tuổi, cộng
thêm 342 ngày có thể
tính là một tuổi,
tức có thể
gọi là
đủ 20 tuổi
vậy).
Kiền-độ
thọ giới
nói:
Nếu
đắc A-la-hán tức
gọi là thọ
Cụ túc.
Luật nhiếp
nói:
Nếu khi cận
viên, tuổi thật chưa
đủ mà tưởng
là đủ; sau
đó bạn
thân
cho biết “chưa
đủ”, nên tính tháng
trong thai, tháng nhuần,
nếu
đủ thì tốt,
nếu không
đủ, lui làm cầu
tịch, sau thọ
cận viên lại. Nếu
không như vậy
thì thành tặc trụ. Nếu
tuổi
đủ 19 mà tâm nghĩ
là 20, thọ cận
viên. Sau một năm,
bạn thân
đến nói là không
đủ. Hoặc tự
nhớ biết
là không đủ. Hoặc tuổi
18 mà thọ cận
viên, sau hai năm,
đồng như
trước nhớ biết.
Những trường
hợp như
thế,
đều gọi
là thiện thọ.
Vì Chánh giáo khó gặp,
nên khai cho vậy.
66.
GIỚI PHÁT KHỞI LẠI
SỰ TRANH CÃI
Ðại
thừa
đồng chế.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào, biết
sự tranh cãi
đã
được
như pháp giải quyết
rồi, sau
đó lại
khơi dậy,
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Lục quần
biết sự
tranh cãi đã như
pháp diệt rồi,
lại nói như
vầy: “Ông không
khéo quán, không thành quán, không khéo giải, không thành giải,
không khéo diệt,
không thành diệt.”
Do đó, khiến cho Tăng
chưa có sự
tranh cãi thì khởi
lên sự tranh cãi,
đã có sự
tranh cãi thì không chấm
dứt
được, cho nên chế
cấm.
GIẢI
THÍCH:
Như
pháp là đúng pháp,
đúng luật,
đúng như
lời Phật
dạy. Tránh có 4 loại:
Ngôn tránh, sự
tránh, mích tránh, phạm
tránh.
TƯỚNG TRẠNG CỦA
TỘI
Khơi dậy,
nói rõ ràng, phạm
Ba-dật-đề;
không rõ ràng, phạm
Ðôït-kiết-la... Khơi dậy
bao nhiêu việc
đấu tranh mạ nhục
khác và việc
đã
đấu tránh, hay bao
nhiêu người khác
đấu tranh,
đều phạm Ðột-kiết-la.
Tỳ-kheo-ni, phạm
Ba-dật-đề.
Ba chúng sau phạm Ðột-kiết-la.
Không phạm: Thật
không khéo quán v.v...
Luật nhiếp
nói:
Nếu chúng vì chúng
tác Yết-ma,
mắc Tốt-thổ-la
(thâu-la-giá) tội.
Bởi
đây là phương
tiện phá Tăng vậy.
Nếu
đã dùng pháp trừ
hết, hay khởi
tưởng trừ
hết, nghi mà hủy
phá, mắc tội
đọa. Không như
pháp trừ hết,
khởi tưởng
như pháp, nghi mà ngăn
chận, mắc
tội ác tác. Pháp
cùng với phi pháp,
tác tưởng phi pháp
mà hủy phá. Hai
điều
này không phạm.
67.
GIỚI ÐỒNG
ÐI VỚI GIẶC
Ðây là
giá tội. Ðại thừa
đồng chế.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, biết
đó là bọn giặc
cướp, mà giao hẹn cho cùng
đi chung một
đường,
dù chỉ
trong khoảng
một xóm
đến một
xóm, Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Tỳ-kheo
cùng với khách buôn
làm bạn
đi qua chỗ
quan thuế, tất
cả
đều bị
quan thuế bắt
vì vấn
đề thuế. Vua Ba-tư-nặc
quở trách rồi
thả các Tỳ-kheo,
quần thần
bất phục
nhà vua, Phật nghe,
chế giới.
GIẢI
THÍCH:
Làm bạn
với giặc: tức
là người làm giặc
trở về,
hay mới chuẩn
bị
đi làm giặc.
TƯỚNG TRẠNG CỦA
TỘI
Phạm
nhẹ nặng
như giới
cùng đi với
phụ nữ. Tỳ-kheo-ni
Ba-dật-đề.
Ba chúng dưới, phạm Ðột-kiết-la.
Không
phạm: không biết,
không kết thân và bị
bắt phải
đi v.v...
Luật Ngũ
phần nói:
Cùng với ác Tỳ-kheo
đồng
đi, phạm
Ðột-kiết-la.
Nếu vì nạn
duyên thì không phạm.
Luật
Thập tụng nói:
Nếu
chỗ hiểm
nạn, cùng giặc
để vượt
qua, không phạm.
TRÙNG TRỊ
TỲ-NI SỰ
NGHĨA TẬP
YẾU
HẾT QUYỂN THỨ
TÁM
--- o0o ---
Mục
Lục |
01
|
02
|
03
|
04
|
05
|
06
|
07
|
08
|
09
|
10
11
|
12
|
13
|
14
|
15
|
16
|
17
|
18
|
19
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-6-2007