TRÙNG TRỊ TỲ NI
SỰ NGHĨA TẬP YẾU
CỔ
NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích
Việt
dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH
Nhuận văn
và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
---o0o---
TẬP II
QUYỂN THỨ 14
I. PHÁP VỀ Y
Cho phép dùng 10 loại y
phấn tảo sau đây:
1) Y trâu nhơi.
2) Y chuột gặm.
3) Y bị cháy.
4) Y nguyệt thủy.
5) Y sản phụ.
6) Y trong miểu thần.
7) Y nơi gò mả, do chim
tha, gió thổi bay các nơi.
8) Y cầu nguyện.
9) Y nhận vương chức.
10) Y vãng hoàn.
- Không nên dùng y của
người chết nơi huyệt mả.
- Không nên dùng y phấn
tảo phơi trên tường trên rào (vì có thể là cư sĩ giặt phơi).
- Không nên dùng y nơi chỗ
người bị xử tử. (đao phủ hành sự rồi, cởi áo của tử thi bỏ đó rồi lấy).
- Không nên lấy y của
người chết chưa mục hư. Người chết chưa mục hư không nên đạp cho hoại để lấy y.
- Không nên lấy y của
người ta chất đống
(tức y của cư sĩ cởi ra).
- Y phấn tảo không có chủ
thì thuộc người nào lấy trước. Nếu cùng lấy thì cùng chia.
- Không nên lấy y trang
nghiêm cúng dường nơi tháp.
- Cho phép dùng y cắt rọc
may thành. Y ấy chưa giặt cho phép tự giặt, hay nhờ người giặt. Cho phép sắm đồ
để giặt, tấm ván để giặt, dao để cắt rọc.
- Nên dùng y 5 điều, không
nên dùng y 6 điều. Nên dùng 7 điều, không nên dùng 8 điều. Cho đến 19 điều không
nên dùng 20 điều. Nếu quá số lượng điều số này thì không nên chứa.
- Cho phép dùng chiều dài
4 khuỷu tay, rộng 2 khuỷu tay làm y An-đà-hội. Rộng 3 khuỷu tay, dài 5 khuỷu tay
làm y Uất-đa-la-tăng và Tăng-già-lê. (Rộng là bề đứng, dài là bề ngang).
HỎI:
- Ba y của Tỳ-kheo, các bộ đều dùng mức lượng đứng 3 khuỷu tay, ngang 5 khuỷu
tay. Nay may pháp y mức lượng đâu phải không vượt quá, vậy có tội hay không? Hơn
nữa, luật Tứ phần nói y Tăng-già-lê không quá 19 điều, luật Tăng kỳ
nói không quá 15 điều. Chỉ có luật Căn bản cho phép đến 25 điều. Nay
đều gọi y 25 điều là thượng thượng y. Ðó là định lượng chăng?
ÐÁP:
- Ba khuỷu tay, năm khuỷu tay, quyết không thể vượt qua định mức ấy. Cho nên
Luật nhiếp nói rằng: “Quá mức lượng này đều mắc tội ác tác”. Thời nay, may
pháp y bề đứng tuy chưa chắc đã quá 3 khuỷu tay, nhưng bề ngang thì đâu không
hơn 5 khuỷu tay. Lại ngụy biện rằng: “Tùy theo phong tục địa phương”. Nên biết
thọ trì như vậy, đắp mặc thì mỗi bước phạm một Ðột-kiết-la. Hơn nữa, y bên Tây
quốc, hoặc là y phấn tảo, hoặc là do Ðàn-việt dâng, có trường hợp nhận được dài
và rộng mà điều cách có thể ít. Có trường hợp nhận được y tạp toái
thì điều cách lại nhiều. Không những luật Tăng kyø, luật Tứ phần
không quý trọng nhiều điều cách, mà luật Căn bản cũng chỉ nói ba cấp đầu,
ba cấp kế, ba cấp sau, chứ chưa từng gọi là thượng trung hạ vậy. Huống nữa, kinh
Phạm võng chỉ nói: Cà-sa
9 điều, 7 điều, 5 điều. Ðức Phật phú cho Tổ Ca-diếp truyền đến ngài Di-lặc, cũng
chỉ là cà-sa bằng tơ vàng 13 điều mà thôi. Nay dùng 25 điều thì tốn công phí của
biết chừng nào. Thật đáng buồn cười!
- May y mới, An-đà-hội và
Uất-đa-la-tăng thì may một lớp, Tăng-già-lê thì hai lớp. Nếu vải cũ thì
An-đà-hội và Uất-đa-la-tăng hai lớp, còn Tăng-già-lê thì bốn lớp. Nếu là y phấn
tảo thì nhiều hay ít lớp tùy ý.
- Trường hợp nhận được man
y,
dài rộng vừa đủ, cắt rọc ra thì thiếu, cho phép may ép lá vào làm điều số.
- Không nên không mặc y
cắt rọc vào xóm làng. Không nên mặc y lật ngược vào xóm làng. Ngoài xóm làng cho
phép mặc lật ngược.
- Không được mặc một y,
trừ đến chỗ đại tiểu tiện.
- Không nên mặc y 5 màu, y bằng cỏ, y bằng da, y bằng vỏ cây,
y bằng lá cây, y bằng châu anh lạc, y bằng lông chim Thứu, y bằng tóc người, y
bằng lông đuôi
ngựa, y bằng lông đuôi trâu Mao.
- Y rách cho phép may vá
lại, cho phép mặc y chằm vá nhiều lớp, tùy theo chỗ rách lớn nhỏ vuông tròn mà
vá lại.
- Có cư sĩ đem y đến nói:
“Y này cho Tỳ-kheo tên là...” Tỳ-kheo nói: “Tôi không cần dùng”. Cư sĩ nên đem y
đến đặt trước mặt Tỳ-kheo rồi đi. Trường hợp như vậy cho phép vì thí chủ nên
dùng tay xếp lấy. Ðến khi cần dùng cho phép thọ trì.
- Y quý giá trải dưới đất,
không nên bước lên trên đó mà đi. Không nên dùng y quý giá trải phủ trên mặt
đất. Cho phép dùng làm mền nằm, tòa ngồi, gối đầu, đắp lên trên y.
- Không nên làm trướng
(dùng treo bốn bên trong phòng). Không nên làm hiên (treo quanh nhà).
Cho phép sắm đại cà-sa có
màu sắc, rộng ba ngón tay, quấn quanh lưng ba vòng. Nếu dây quá nhỏ, thường cột
dễ đứt nên làm cái khuy để cột, không nên dùng vật quý báu để làm.
- Lạnh cho phép mặc áo ấm
(may hai lớp vải bên trong độn bông vào), quốc độ có sương giá lạnh cho phép
mang bít tất, cho phép đội mũ ấm.
- Thân thể có ghẻ hôi thúi
cho phép sắm khăn lau thân, mặt nhớp cho phép sắm khăn lau mặt. Bệnh chảy nước
mắt cho phép sắm khăn lau nước mắt.
Luật Tăng kỳ
nói:
Y phi thời mà dư nên biếu
cho Tăng. Y đúng thời nhiều quá, nên lấy phân nửa biếu cho Tăng.
Trì ba y, bình bát tức là
thiểu dục thiểu sự.
May đường viền đường nẹp
rộng nhất bằng 4 ngón tay, hẹp nhất như bề ngang của hột lúa lớn. Y
5 điều phải 1 dài 1 ngắn, 7 điều đến 13 điều 2 dài 1 ngắn, 15 điều 3 dài 1 ngắn.
Luật Căn bản
nói:
Bảo vệ pháp y, như bảo vệ
da của mình. Cần nên giặt nhuộm chằm vá tùy từng việc mà sử dụng.
Tăng-già-chi (Tăng-già-lê)
có 9 loại. Từ 9 đến 25 điều. Ba loại thứ nhất 2 dài 1 ngắn, ba loại thứ hai 3
dài 1 ngắn, ba loại thứ ba 4 dài 1 ngắn, nên may nên mặc. Quá số ấy trở lên tức
thành phá nạp.
Loại thượng (cao nhất) bề
đứng 3 khuỷu tay, bề ngang 5 khuỷu tay. Loại hạ (thấp nhất) bề đứng 2 khuỷu
rưỡi, bề ngang 4 khuỷu rưỡi. Khoảng giữa 2 loại ấy là thuộc loại trung.
Ốt-đát-la-tăng-già (Uất-đa-la-tăng) và An-đát-bà-ta (An-đà-hội) mức lượng cũng
như Tăng-già-chi (Tăng-già-lê). Lại có 2 loại An-đát-bà-ta:
1) Ðứng 2 khuỷu tay, ngang
5 khuỷu tay.
2) Ðứng 2 khuỷu tay, ngang
4 khuỷu tay.
Trong bộ Tạp sự
nói:
Trên vai may một cái khâu,
trước ngực may một cái khâu. Tướng của lá có ba cỡ: lớn nhất bề rộng bốn ngón
tay, hoặc như cái chân con chim sòe ra. Cỡ nhỏ bằng 2 ngón tay, hoặc như móng
tay cái, khoảng giữa của hai cỡ này là bậc trung.
Không nên mặc ba y mà cạo
tóc, nên sắm cái y riêng để cạo tóc. Hay là dùng Tăng-cước-kỳ
để che thân mà cạo.
Nên dùng một cái đồ đựng
y, cái y nào thường dùng thì để trên, cái ít dùng thì để dưới.
Cái mùng che muỗi để ngồi
thiền giáp vòng 12 khuỷu tay, bên trên may một cái trần mùng. Bề dài bốn khuỷu
tay, bề rộng hai khuỷu tay. Tùy theo thân người cao thấp mà xổ xuống cho vừa.
Treo trên một sợi dây để nó rũ xuống. Làm một cái cửa giáp lại, nóng thì dùng
quạt để quạt. Bên dưới lấy biên của chiếc chiếu đè lên trên để muỗi khỏi chui
vào.
Y Tăng-già-chi đóng vai
chủ trong các y, không nên đắp mặc bừa bãi mà nên dùng vào các việc như: khi vào
tụ lạc, khi khất thực, khi thọ trai, lúc nhập chúng, lễ bái tháp, lễ bái Phật,
Pháp, lễ bái hai thầy và đồng phạm hạnh có thể mặc đại y. Y Ốt-đát-la-tăng-già
nên mặc nơi sạch sẽ và khi ăn v.v.. y An-đát-bà-ta có thể đắp mặc lúc nào cũng
được.
Bộ Mục-đắc-ca
nói:
Bọn giặc cướp đoạt của cải
(vải v.v...) của đoàn con buôn, bỏ sót lại, không được lấy. Nếu người chủ của
đoàn buôn tùy ý cho thì được nhận. Trường hợp người chủ của bãi tha ma và thần
miếu cũng vậy.
Luật cho phép các Tỳ-kheo
chứa cất 13 vật dụng như sau:
1) Y Tăng-già-chi
(Tăng-già-lê).
2) Y
Ốt-đát-la-tăng-già (Uất-đa-la-tăng).
3) Y An-đát-bà-ta
(An-đà-hội).
4) Ni-sư-đãn-na
(Ni-sư-đàn).
5) Quần (y tắm).
6) Quần cụt
(Niết-bàn-tăng).
7) Tăng-cước-kỳ (áo
lót).
8) Tăng-cước-kỳ phụ
(áo lót cụt tay).
9) Khăn lau mặt.
10) Khăn lau thân.
11) Y che ghẻ.
12) Y cạo tóc.
13) Y uống thuốc.
Tùy theo mỗi món đều có
tên riêng để gọi mà thọ trì. Ðối trươùc một Tỳ-kheo nói thế này: “Cụ thọ ghi
nhận cho, đây là y Tăng-già-chi, nay tôi thọ trì. Ðã may thành y, thành đồ thọ
dụng”. Nói như vậy 3 lần. Bao nhiêu y khác, căn cứ theo đây mà thưa để thọ trì.
Chỉ có y uống thuốc thì nên thêm “vì bệnh duyên”. Ngoài ra, nếu thêm loại y nào
nên đối trước hai thầy mà thưa gởi, phân biệt để thọ trì. Ðối trước một Bí-sô
thưa như thế này: “Cụ thọ ghi nhận cho. Tôi Tỳ-kheo... Có cái y dư này, chưa vì
nó mà phân biệt, nay để hợp thức hóa vấn đề phân biệt. Tôi nay đối trước Cụ thọ
vì nó phân biệt, dùng để ký gởi cho Tỳ-kheo... Tôi nay thọ trì”. Nói như vậy 3
lần (đây là vấn đề tịnh thí).
Trường hợp y bị rách nên
dùng chỉ chằm vá lại. Nếu lủng lỗ nên vá lại. Nếu bên trong bị hư mục nên dùng
hai miếng vải vá ép lại. Nếu hư mục quá không thể vá được, nên xé ra làm tim
đèn. Hoặc có thể bằm nhỏ trộn với hồ để trét, trám vào những lỗ trống, hay là
trét vào vách tường. Sử dụng như vậy làm cho người thí chủ phước đức được tăng
thêm.
Luận Tát-bà-đa
nói:
Ba y bị rách không kể lỗ
lủng lớn hay nhỏ, nhưng đường viền không bị đứt đoạn vẫn phải thọ trì. Nếu y lâu
bị phai màu, vẫn cứ thọ trì. Sau nhuộm lại màu cuõng không mất việc thọ trì.
Hỏi:
- Hiện nay, tương truyền rằng: Nếu ba y bị rách không cho phép tự chằm vá, và
việc Tỳ-kheo viên tịch, đem y treo trên cây là thế nào?
Ðáp:
- Những gì luật cho phép thì y theo mà làm, những gì không phải luật chế thì
không nên tự chế. Nếu tự chế thành phi pháp. Vấn đề y rách không cho phép tự vá
rút từ Ngũ bách vấn kinh.
Bộ sách này đa phần là nhầm, như trong quyển đầu của bộ Luật này đã nói rõ:
Tỳ-kheo viên tịch ba y của đương sự cho người nuôi bệnh. Như văn trong Luật đã
nói rõ ràng, làm sao có thể làm khác đi được? Giả như muốn tránh khỏi nạn kim-sí
điểu,
thì ắt cần Long vương đến cầu xin. Hoặc muốn cột sau cổ trẻ nhỏ cũng phải cần
cha mẹ nó đến cầu xin. Trường hợp đem treo cao trên cây, thật sự không lợi ích
gì; không thấy luật nào ghi chép như vậy. Thật là buồn cười! Tổn hao của tín thí
làm sao tránh khỏi tội?
Bộ Ma-đắc-lặc-già
nói:
Không được cất chứa y phấn
tảo nhơ nhớp, không sạch. Trường hợp nhận được y phấn tảo nên giặt nhuộm sửa
sang cho sạch sẽ tử tế rồi mới thọ trì.
Luật Thập tụng
nói:
Ba y không nên thiếu,
không nên dư, thiếu thì mắc tội Ðột-kiết-la, chứa nhiều thì mắc tội Xả đọa.
Nếu là y phấn tảo, hay y
cư sĩ khéo cắt rọc tu bổ, chằm vá cho tử tế, dùng làm nhân duyên riêng biệt để
bố thí. Nếu vải (may y) thiếu, không nên cắt rọc, nên may trên mặt vải đươøng
viền làm điều số của y: 5 điều, 7 điều, 9 điều cho đến 15 điều.
Luật Ngũ phần
nói:
Mặc y ngoại đạo mắc tội
Thâu-lan-giá. Nếu không biết đó là y ngoại đạo mà là thứ y không phải Phật cho
phép đắp mặc thì nên phá hủy đi. Nếu biết là y ngoại đạo nên xé và trải dưới đất
bảo người đạp lên trên khiến cho mau hư hoại.
Cách may: Ðiều số phía bên
trái thì phủ qua phía bên trái, điều số bên mặt thì phủ qua phía bên mặt, điều
chính giữa thì phủ qua hai bên.
Mùng che muỗi nên tùy theo
cái giường lớn hay nhỏ mà may.
Giây lưng ngồi thiền không
nên rộng quá 8 ngón tay, hẹp không dưới năm ngón tay.
Ba y nên thọ trì. Áo lót,
áo ngủ, áo tắm mưa, áo che ghẻ, mùng, vải trải chỗ đi kinh hành, y ngăn rận, y
trải giường nhỏ, tọa cụ, y bảo vệ tay, y bảo vệ chân, y bảo vệ đầu, y lau thân,
y lau mặt, đãy đựng kim chỉ, đãy đựng bát, đãy đựng guốc dép, đãy lọc nước. Các
loại y như vậy, hình thể giống y, tất cả đều nên thọ trì.
Sợ đầu lạnh mắc bệnh, cho
phép dùng y trùm lên, cũng cho phép may mão. Khi ấm rồi thì thôi.
Khăn Phú-la không nên may
quá dài, cho phép may đến trên mắc cá thôi.
Nhận được vải mới, trước
hết nên giặt, rồi căng ra đo, sau mới cắt, may, nhuộm, như pháp mà thọ trì.
Không được dùng để gói đồ vật, chỉ nên dùng để hộ lớp da mỏng nơi thân hình mà
thôi.
Luật Thiện kiến
nói:
Thọ trì ba y khỏi phải
thuyết tịnh. Áo mưa thọ trì 4 tháng, quá 4 tháng thì thuyết tịnh. Thọ trì
Ni-sư-đàn khỏi phải thuyết tịnh. Y che ghẻ khỏi phải thuyết tịnh, ghẻ lành rồi
thuyết tịnh. Thọ trì phu cụ khỏi phải thuyết tịnh. Thọ trì y tạp toái khỏi phải
thuyết tịnh. Thọ trì ba y, xả rồi, khi thọ trì y mới phải dùng thân khẩu đối
trước Tỳ-kheo nói thuyết tịnh. Nếu không có Tỳ-kheo thì tự lấy tay cầm y tự nói
để thuyết tịnh. Nếu tay không cầm y mà nói thuyết tịnh thì không thành. Nên nói
tên gọi của mỗi y để thuyết tịnh. Ba y đã xả, làm y tạp toái nên thuyết tịnh.
Ni-sư-đàn thọ trì một cái; không được thọ trì hai cái. Phu cụ thì chứa nhiều ít
tùy ý, y che ghẻ thì chứa một cái không nên chứa nhiều. Khăn lau tay thì chứa
hai cái. Y tạp toái tùy theo có nhiều ít nói để thọ trì thì không phạm. Mền
chiếu v.v.. đều thuộc về vật của phòng khỏi phải thuyết tịnh.
Luật nhiếp
nói:
Phàm đắp mặc y phục nên bỏ
ba loại tâm:
1) Tâm ưa thích xem ngắm
làm đẹp.
2) Tâm thọ dụng một cách
khinh thường.
3) Mặc với tâm tìm cầu
danh vọng. Trá hiện mặc y xấu rách, muốn cho người khác gọi mình có đức có hạnh.
Ấy là ba tâm không nên
khởi niệm, chỉ nên mong cầu hoại sắc, đủ bảo hộ thân thể, thuận theo lời dạy của
vị Ðại sư, tấn tu thiện phẩm. Nên phát sanh năm loại tâm:
1) Biết cân nhắc, sử
dụng có độ lượng, không để thương tổn.
2) Biết thay đổi, không
nên mặc luôn một y để nhớp, mau hư mục.
3)
Biết suy nghĩ quán sát, nhờ khó khăn mới có được. Nghĩ trả ơn khi thọ dụng, chớ
làm điều phi pháp.
4) Biết đúng thời, nóng
lạnh sử dụng đúng lúc.
5) Biết số lượng, trong
13 món tư cụ, đủ dùng để
giúp thân; nếu cất chứa nhiều y sẽ nuôi lớn lòng tham, phế bỏ đạo nghiệp.
II.
PHÁP VỀ BÌNH BÁT
Phần thứ tư
nói:
Nếu có vị Tỳ-kheo nào vào
trong Tăng thọ trai mà không có bình bát thì vị ngồi gần cho mượn, hay là Tăng
trong trú xứ đó cho mượn.
Không nên bát không rửa mà
dùng để ăn.
Bát bằng cây là bát của
ngoại đạo không nên chứa. Bát bằng đá là bát của Như Lai không nên dùng. Bát
bằng vàng, bạc, lưu ly, bảy báu là bát của bạch y, không nên dùng.
Cho phép Tỳ-kheo làm bát
bằng thiếc, cho phép chứa tất cả vật dụng để làm bát, cho phép xông bát.
Không nên dùng bát chứa
vật gì khác, ngoài vật thực.
Không nên không rửa bát mà
đem cất.
Cho phép làm đãy đựng bát,
làm dây để đeo bát nơi vai, để bát thòng dưới nách, miệng của bát hướng ra phía
trước.
Luật Tăng kỳ
nói:
Không cho phép ngăn từng ô
trong bát. Nếu dùng bánh hay cơm ngăn không tội.
Luật Căn bản
nói:
Bảo vệ bình bát như bảo vệ
tròng con mắt, nên trét thì trét, nên xông thì xông.
Luật Thập tụng
nói:
Bình bát là tiêu biểu cho
hằng sa các đức Phật, không nên đựng đồ bất tịnh.
Luật Ngũ phần
nói:
Quá ngọ không nên dùng
bình bát để uống, cho phép làm đồ đựng uống, hoặc bằng đồng, bằng thiếc, bằng
đất. Cho phép làm riêng một cái để dùng cháo.
III. PHÁP VỀ ĂN VÀ UỐNG THUỐC
Kiền-độ dược (thuốc)
nói:
Trường hợp thời dược
hòa với thời dược hay là phi thời dược,
thì nên dùng như thời dược. Trường hợp phi thời dược hòa với thất nhâït dược,
nên thọ dụng như phi thời dược. Trường hợp thất nhâït dược hòa với tận hình thọ
dược,
nên dùng như thất nhâït dược. Trường hợp tận hình thọ dược được hòa với tận hình
thọ dược thì nên dùng như tận hình thọ dược.
Không nên tự nấu tự uống.
Không được trong giới cùng ngủ với đồ ăn, cùng nấu đồ để ăn. Nên ở bên phòng
hoặc chỗ vắng kiết nhà tịnh trù để nấu.
Cư sĩ nhà vườn, chở mọi
thứ đồ ăn, thức uống, trên đường đi cúng Phật và Tăng. Trường hợp qua đồng hoang
mông quạnh, đồ ăn cũ, bảo người đem cúng hết cho Tỳ-kheo. Tỳ-kheo bạch Phật,
Phật cho phép khởi niệm Ðàn-việt rồi thọ nhận, sai tịnh nhơn lấy chớ không nên
tự lấy. Khi cần tùy ý sử dụng.
- Có tám loại nước trái
cây:
1) Nước trái lê.
2) Nước diêm-phù.
3) Nước trái táo.
4) Nước mía.
5) Nước trái thị.
6) Nước xá-lâu-già.
7) Nước trái bà-lâu-sư.
8) Nước trái nho.
Nếu không làm say người
thì uống khi phi thời, nếu làm say người thì không nên uống. Cũng không nên ngày
nay nhận nước trái cây để đến ngày mai mới uống.
Không nên ăn loại quả bất
tịnh, nên áp dụng năm thứ tịnh pháp (pháp làm cho sạch):
1) Tác tịnh bởi lửa (Hỏa
tịnh).
2) Tác tịnh bởi dao (Ðao
tịnh).
3) Tác tịnh bởi mụt nhọt
(Sang tịnh).
4) Tác tịnh bởi chim mổ ăn
(Ðiểu trác phá tịnh).
5) Tác tịnh bởi một loại
hột trỉa mà không mọc (Bất trung chủng tịnh).
Tác tịnh bởi dao, mụt
nhọt, chim mổ ăn nên bỏ hột mà ăn; tác tịnh bởi lửa, hột trỉa không mọc thì ăn
hết.
Có người cúng vườn cây ăn
trái thì Tăng nên nhận rồi giao cho dân trong Tăng-già-lam hay Ưu-bà-tắc liệu lý
(trông coi). Họ muốn chia phần thì tính theo giá thuê mà chia cho họ. Sa-di lo
liệu cũng được.
Khi ăn, nuốt luôn hột, sau
khi đại tiện, hột ấy mọc cây, không phạm.
Tỳ-kheo trồng rau quả,
gieo vãi, bứng trồng chỗ này sang chỗ khác, sau đó đều cho phép dùng để ăn.
Bình đựng tô, bình đựng
dầu cho phép đậy. Nếu ai không có tịnh nhơn thì cầm cái dây cột trên nắp, không
nên dùng tay chạm vào (đây là loại tô, du ‘dầu’ trong Tăng chứ không phải loại
thuốc uống bảy ngày vậy).
Không nên ăn thứ rau bất
tịnh, không nên tự tác tịnh. Không nên tự tay cầm bảo người tác tịnh, nên để
dưới đất khiến tịnh nhơn tác tịnh. Tác tịnh rồi nên nhận để dùng.
Không nên cố ý xúc chạm đồ
ăn tịnh kia để trở thành bất tịnh. Xúc chạm phạm Ðột-kiết-la. Người kia không
xúc chạm thì không phạm.
Trường hợp Cư sĩ đem đồ ăn
đến gởi cho Tỳ-kheo, sau đoù nếu tự họ ăn, hay đem về; hoặc cho Tỳ-kheo thì cho
phép nhận. Tỳ-kheo bệnh cần cháo, bảo tịnh nhơn lấy nước, lấy gạo vo sạch, rửa
tay sạch nhận lấy, sau đó tự đun nấu cho chín.
Không được cùng ngủ với
cháo trong giới, trong cùng giới nấu cháo, hoặc tự mình nấu. Trường hợp cháo
nguội hâm lại thì cho phép. (Kiết giới tịnh trù thì tránh được 2 cái tội: cùng
ngủ, cùng nấu).
Muốn nhận tô (váng sữa) mà
nhận nhầm dầu, muốn nhận dầu nhận nhầm tô v.v.. đều không thành thọ nhận.
Lúc lúa gạo khan hiếm, cho
phép Tỳ-kheo được làm tám việc:
1) Trong giới cùng ngủ với
đồ ăn.
2) Nấu đồ ăn trong giới.
3) Tự tay mình nấu đồ ăn.
4) Tự tay nhận đồ ăn.
5) Sớm mai nhận đồ ăn, ăn
no rồi, không làm pháp dư thực được ăn thêm.
6) Từ chỗ nhận thức ăn,
bưng bao nhiêu thức ăn đến cũng được.
7) Ăn trái nho v.v.. cũng
được.
8) Trong nước có vật thực
có thể ăn được, cũng được ăn.
Nếu lúa gạo dễ dàng trở
lại thì không cho phép.
Không thể ăn theo sở
thích, theo ý muốn. Tỳ-kheo có bệnh, thuốc tận hình thọ nên uống.
Kiền-độ
Ni
nói:
Ni được
phép nhận thức ăn của
Tỳ-kheo. Thức ăn cách đêm (túc thực) của Ni trao cho Tỳ-kheo trở thành tịnh.
Tỳ-kheo cũng được phép nhận thức ăn từ Ni. Thức ăn cách đêm của Tỳ-kheo trao cho
Ni cũng trở thành tịnh .
Phần thứ tư
nói:
Ðồ ăn thức uống dành cúng
dường Tháp, thì Sa-di, Ưu-bà-tắc, hay là người xây dựng nên dùng.
(Ðồ ăn thức uống dành cúng Tháp phải đủ tam đức lục vị;
nếu rau trái còn tươi thì phải tác tịnh. Thời nay dùng đậu nành nấu cả trái lẫn
xác, không dùng rau để cúng là điều rất lạ. Ðồ vật cúng Tháp, tất cả không cho
phép Tỳ-kheo dùng. Vấn đề này không những chỉ trong Mật bộ mà thôi).
Luật Tăng kỳ
nói:
Tỏi củ, tỏi lá, tỏi tép,
tỏi sống, tỏi chín đều không được ăn. Trường hợp dùng để trị ghẻ thì cho phép
dùng để trị. Thời gian trị bệnh ghẻ phải ở nơi vắng, không nên ở trong chúng.
Khi bệnh ghẻ lành, tắm rửa sạch sẽ, mới trở vào phòng Tăng. Khi bệnh, không nên
dùng tỏi, nếu bệnh không lành thì cho phép dùng. Dùng rồi, bảy ngày không được
nằm trên nệm giường của Tăng, đi tiêu nơi nhà xí của Tăng. Vào trong nhà tắm của
Tăng, nhà sưởi, nhà giảng, nhà ăn, không được nhận sự thỉnh mời theo thứ tự của
Tăng, cho đến thuyết pháp Bố-tát, tất cả đều không được có mặt. Không được nhiễu
Tháp, nếu Tháp ở nơi đất trống thì được phép ở dưới đuôi gió hướng về Tháp để lễ
bái. Ðến ngày thứ tám tắm rửa, quần áo xông ướp rồi mới được vào trong chúng.
Luật Căn bản
nói:
Không vì việc gì mà đoạn
thực (nhịn ăn) thì mắc tội Việt pháp.
(HỎI: -
Như Phó Ðại Sĩ, người đời xưng là Di-lặc hóa thân, mỗi lần tuyệt thực làm các
khổ hạnh. Ngài Trí Tích Bồ-tát lại uống nước không. Người đời sau bắt chước
theo lại có tội hay chăng?
ÐÁP:
- Phó Ðại Sĩ khổ hạnh tuyệt thực vì muốn thay thế cái khổ cho chúng sanh. Ngài
Trí Tích Bồ-tát giảm ăn chỉ uống nước là muốn điều phục thói quen của phiền não.
Cho đến y vào Mật tông, lại có bao nhiêu phương pháp đều không phải là vô cớ mà
đoạn thực cho nên không có tội vậy. Song hoặc mượn vấn đề uống nước không, tuyệt
thực v.v... để mong cầu danh lợi thì thuộc về loại tà mạng, mắc tội hết sức nặng
vậy).
Bộ Ni-đà-na
nói:
Nên bảo tịnh nhơn chia
trái cho Tăng. Nếu không có tịnh nhơn nên sai Sa-di. Sa-di không có, thì trước
hết phải tác tịnh rồi Bí-sô thọ lấy, tức là được phép tự chia.
Luật Thập tụng
nói:
Ðồ ăn uống chưa chín nên
nấu lại, nếu đồ ăn còn sống thì cho phép hỏa tịnh rồi mới được nấu. Thế nào gọi
là hỏa tịnh? Nghĩa là cho nó chạm với lửa.
Tỳ-ni tựa nói:
Có 5 trường hợp cho phép
ăn thạch mật:
1) Ði xa về.
2) Bệnh.
3) Ăn ít.
4) Ăn không được.
5) Chỗ chỉ thí nước lã.
Nếu không uống nước thì
không cho phép ăn.
Luật Ngũ phần
nói:
Không nên leo lên trên cây
rờ hái trái cây.
Trường hợp ghe hay xe chở
đồ ăn uống, nếu không có tịnh nhơn cầm cương điều khiển (hay lái) thì cho phép
Tỳ-kheo tự cầm cương (hay lái).
Trường hợp Tăng dùng xe
chở lúa, có một Bà-la-môn lấy một nắm lúa chưa tác tịnh của Tăng liệng vào trong
xe, Phật bảo: “Nếu được, nên lựa riêng ra mà bỏ đi, nếu không thể lựa riêng thì
cho hốt một nắm mà bỏ đi.”
Ðồ ăn bằng gốc (căn
根)
có năm caùch làm cho sạch (tịnh pháp):
1) Bát tịnh (gọt).
2) Tiệt tịnh (chặt).
3) Phá tịnh (làm cho
bể).
4) Tẩy tịnh (rửa).
5) Hỏa tịnh (hơ lửa).
Ðồ ăn bằng cọng, lá (hành,
diệp 莖葉)
có ba cách làm cho sạch:
1) Ðao tịnh (dao)
2) Tẩy tịnh (rửa).
3) Hỏa tịnh (hơ lửa).
Ðựng trong một cái gì hay
nhóm thành một đống, trong đó một đơn vị tịnh thì gọi là tổng tịnh (một đơn vị
sạch tức là tất cả đều sạch).
Trong gạo có thóc, cho
phép sắm cối chày, bảo tịnh nhơn giã giùm.
Luận Tát-bà-đa
nói:
Nếu dùng thời dược v.v...
trợ giúp để thành thất nhật dược, dùng như thất nhật dược thì không lỗi. Hoặc
dùng thất nhật dược v.v... trợ giúp để thành chung thân dược, dùng như chung
thân dược thì không có lỗi. Hay là dùng thất nhật dược v.v... trợ giúp để thành
thời dược, dùng như thời dược. Theo số lượng nhiều, cùng nhau trợ giúp mà thành
vậy.
IV. PHÁP NHẬN THỨC
ĂN
Kiền-độ pháp
nói:
Nếu muốn
thọ thỉnh nên đến trong Tăng, vào bữa cơm sáng hay bữa ngọ, Ðàn-vieät đứng chỗ
thấy được bạch: “Thời đáo”. Thượng tọa đầy đủ oai nghi đi trước
dẫn đầu. Nếu có việc Tam bảo hay là nuôi bệnh, nên bạch Thượng tọa rồi đi trước.
Hoặc vì mạng nạn, phạm hạnh nạn, cho phép không thưa hỏi cứ đi. Ðến chỗ thọ
trai, không nên ngồi lẫn lộn, phải ngồi theo thứ tự thượng, trung, hạ tọa. Phải
xem xét oai nghi cho nhau. Nếu có người ngồi không như pháp, không khéo che
thân, nên búng móng tay cảnh giác họ. Hoặc nhờ người nói cho họ biết. Không nên
tham cầu sự cung kính mà có ý đến sau, để các Tỳ-kheo khác phải đứng dậy.
Nếu có Ðàn-việt đem trái
đến dâng cho Thượng tọa, nên hoûi trái đó đã tác tịnh chưa? Nếu chưa tác tịnh,
nên bảo họ tác tịnh, nếu họ tác tịnh rồi nên
hỏi: “Ðưa đến cho vị nào?” Nếu nói: “Xin dâng cho Thượng tọa”, thì được phép tùy
ý nhận. Nếu nói: “Vì Tăng mà dâng.” thì bảo trao khắp trong chúng. Ðem canh đến
cũng vậy.
Trường hợp có Tỳ-kheo
không nhận được đồ ăn, cho phép vị ngồi gần nhắc tín chủ. Nếu không có vị ngồi
gần thì sớt bớt phân nửa phần ăn của mình cho vị ấy.
Không được nhận thức ăn
rồi ăn liền mà phải đợi khi công bố rằng: “Tất cả đều đã nhận rồi”. Sau đó mới
ăn.
Không nên co khuỷu tay mà
ăn, đề phòng trở ngại người ngồi gần.
Không nên khạc nhổ lớn
tiếng, phải khạc nhổ nhè nhẹ, nếu cần.
Trong thức ăn có vật gì
cần loại bỏ, nên tập trung bỏ gần bên gót chân, khi đi đem ra bỏ bên ngoài.
Thọ trai xong, nên vì
Ðàn-việt nói pháp cầu nguyện, cho đến chỉ một bài kệ. Các vị Tỳ-kheo khác không
nên đi trước, nếu vì việc Tam bảo hay nuôi bệnh, nên thưa rồi sau mới đi.
Ðàn-việt muốn nghe bài
pháp nào nên tùy nghi mà trình bày.
Phần thứ tư
nói:
Không nên hai người ăn
chung một bát.
Không nên nằm dựa trên bàn
mà ăn (thân dựa vào bàn như trâu nằm ăn vậy). Tỳ-kheo nào già bệnh cho phép để
bát góc đầu giường hay để trên cái bình mà ăn.
Luật Tăng kỳ
nói:
Không cho phép cùng ăn
trong một bát. Nếu không có bát thì nên dùng đồ sứ, sành hay bằng đất để ăn. Nếu
lại không có nữa, thì nên để trong lá mà ăn với nhau. Không được cùng một lúc
đưa tay xuống bốc đồ ăn, trừ năm món thức ăn chính, năm món thức ăn tạp, còn bao
nhiêu thứ bánh, trái rau ... cùng ăn không có tội.
Không bệnh không nên dựa
ghế để ăn.
Thượng tọa nên từ từ ăn,
không nên ăn mau, ăn rồi ngồi ngó làm cho hàng thiếu niên vội vã không no.
Bộ Căn bản tạp sự
nói:
Không được mặc một quần
(An-đà-hội) mà ăn. Tỳ-kheo già bệnh khi ăn nên mặc Tăng-cước-kỳ mỏng nhẹ. Trường
hợp bệnh nặng, lúc ăn, nếu ở chỗ vắng vẻ thì chỉ cần mặc một cái quần, cũng
được.
Khi lưu thực phổ thí quần
sanh, không nên giới hạn vào một loài nào. Cơm thì nên dùng nước rưới lên, bánh
bún thì xé nhỏ ra, rải dưới đất, tùy ý chúng dùng không nên ngăn chặn.
Ăn xong, nên vì họ mà nói
pháp. Hoặc Thượng tọa hay thứ tọa nói, hay là tùy vị nào có khả năng thì nên mời
trước.
Khi đang nói pháp ban kệ
tụng, không nên ăn, đợi nói kệ tụng rồi, sau đó mới ăn không lỗi.
Luật Ngũ phần
nói:
Cư sĩ thỉnh Tăng thọ trai,
không thỉnh không nên đến. Nếu có duyên sự, không vì vấn đề thọ trai mà đến thì
không sao. Có khách Tỳ-kheo đến nên hỏi thí chủ, mời vào được không. Nếu họ
không bằng lòng, thì nên nói với họ rằng: “Phần ăn của chúng tôi, chúng tôi sẽ
chia nhau mà dùng.” Nếu thí chủ vẫn không chịu, thì mỗi người dùng bát nhận lấy
phần ăn của mình rồi bưng ra ngoài chia cho nhau cùng dùng. Trường hợp này nếu
không được nữa thì trong kho của Tăng có vật thực gì đem ra trao cho Tỳ-kheo
khách ấy.
Không nên cùng với bạch y
ăn chung một bát. Trường hợp về nhà bà con, họ nói: “Chúng ta không phải ai xa
lạ, cũng không phải bất tịnh, tại sao không cùng ăn với nhau một mâm một bát?”
Trường hợp như vậy thì cho phép buộc niệm tại tiền cùng ăn, chỉ đừng để đụng tay
với nhau mà thôi.
V. PHƯƠNG PHÁP NUÔI
BỆNH
Phần thứ ba
ghi rằng:
Một hôm, Phật đi thăm các
phòng, thấy một Tỳ-kheo bệnh, không có người chăm sóc, nằm trong vũng nước tiểu
và phân. Ðức Phật hỏi:
- Taïi sao không có ai
chăm sóc?
Vị Tỳ-kheo bệnh thưa:
- Khi con không có bệnh,
con không chăm sóc bệnh những vị khác, nên nay con bệnh, không có ai chăm sóc.
Phật dạy:
- Ông không chăm sóc cúng
dường người bị bệnh đó là một điều không lợi ích, là một điều mất mát. Các ông
không chăm sóc cho nhau, lỡ khi bệnh ai sẽ chăm sóc cho?
Ðức Phật liền đỡ Tỳ-kheo
bệnh ngồi dậy, lau đồ bất tịnh nơi người của vị ấy. Sau khi lau rồi rửa sạch,
Phật vì ông ta mà giặt y phơi khô, vất bỏ những lá lót hư mục, quét sạch chỗ ở,
lau nước sạch sẽ. Phật lót lại lá mới, và trải lên trên bằng một cái y. Ðể vị
Tỳ-kheo nằm lại chỗ cũ, rồi lấy một cái y phủ lên trên vị Tỳ-kheo bệnh ấy, mới
ra khỏi phòng. Sau bữa ăn, vì nhân duyên này, đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
- Cho người thăm bệnh,
không nên không cho người thăm bệnh. Phải cử người chăm sóc bệnh, không nên
không cử. Nếu có người muốn cúng dường Tôi (Như Lai) thì nên cúng dường người
bệnh. Cho phép Hòa thượng và đệ tử chăm sóc lẫn nhau, nếu không có người chăm
sóc thì Tăng nên cho người chăm sóc. Trường hợp không ai chịu chăm sóc thì theo
thứ tự sai, nếu theo thứ tự sai mà không ai chịu nhận, thì y như pháp mà trị.
Trường hợp không có Tỳ-kheo thì Tỳ-kheo-ni, cho đến Ưu-bà-tắc v.v... nên chăm
sóc. Trong khi chăm sóc nếu là Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni, Ưu-bà-di
không nên xúc chạm thân thể của Tỳ-kheo.
Người bệnh có năm việc khó
chăm sóc:
1) Những thức ăn không nên
ăn, lại muốn ăn.
2) Không chịu uống thuốc.
3) Người muôi bệnh coù chí
tâm, mà không nói như sự thật.
4) Trường hợp nên đi mà
không đi, nên đứng mà không đứng.
5) Cơ thể có sự đau nhức,
không thể cam chịu. Việc nhỏ có thể làm được, mà không chịu làm, lại nhờ người.
Hơn nữa không thể ngồi im,
nín thinh trong lòng. Ngược lại năm điều nói trên thì gọi là dễ nuôi.
Người có năm pháp sau đây
mới nuôi bệnh được:
1) Biết người có bệnh có thể ăn thứ gì, không thể
ăn thứ gì, thứ có thể ăn thì nên cho ăn.
2) Không nhờm gớm đơøm, dãi, đại tiểu tiện của
người bệnh.
3) Có lòng từ mẫn chứ không vì y thực.
4) Có khả năng chu toàn
thuốc thang cho đến bệnh lành hay qua đời.
5) Có khả năng vì bệnh
nhơn mà nói pháp khiến cho họ vui mừng.
Cho phép người nuôi bệnh
nhận sự thỉnh mời hay không nhận sự thỉnh mời, và ăn những thức ăn của người
bệnh không dùng.
Phần thứ tư
(luật Tứ phần) nói:
Cho phép cùng người bệnh
tùy ý ăn, tùy bệnh uống thuốc, và chăm sóc tốt người bệnh.
Tỳ-kheo bệnh không nên để
ở ngay phòng lớn trên tầng lầu.
Luật Tăng kỳ
nói:
Lúc Phật còn tại thế, ở
phương Nam có hai vị Tỳ-kheo, trên đường cùng nhau đến yết kiến đức Phật. Một vị
Tỳ-kheo bệnh, sau hai, ba ngày chờ đợi, vị Tỳ-kheo kia nói:
Tôi muốn đi trước để yết
kiến đức Phật. Thầy mạnh rồi đến sau. Thầy Tỳ-kheo bệnh nói:
- Chờ tôi mạnh rồi cùng
đi.
Tỳ-kheo kia nói:
- Ðã lâu tôi không thấy
đức Thế Tôn, lòng tôi rất khao khát, không cho phép tôi đợi thầy mạnh rồi cùng
đi. Vị Tỳ-kheo ấy nói như vậy rồi liền đến chỗ đức Phật, Phật biết mà vẫn hỏi:
- Thầy ở đâu đến?
Thầy Tỳ-kheo kia thưa rõ
đầy đủ nhân duyên như trên với đức Phật. Phật dạy:
- Ðó là một việc làm ác.
Tỳ-kheo nào buông lung, giải đãi, không tinh tấn, không hộ trì các căn, chạy
theo sáu món dục, vị ấy tuy gần Ta mà không thấy ta, Ta không thấy vị ấy.
Tỳ-kheo nào hộ trì các căn tâm không buông lung, chuyên niệm cầu giải thoát, tuy
cách xa Ta mà lại thấy Ta, Ta cuõng thấy vị ấy. Tại sao vậy? Vì vị ấy đã tùy
thuận Pháp thân của Như Lai, phá hoại các điều ác, xa lìa sự tham dục, tu pháp
tịch tịnh vậy. Các thầy đồng xuất gia tu phạm hạnh, mà các thầy không chăm sóc
cho nhau thì ai chăm sóc cho? Thầy nên trở lại chăm sóc và nuôi dưỡng vị Tỳ-kheo
bệnh ấy đi.
Trường hợp Tỳ-kheo cùng đi
với người lái buôn đến nơi khoáng dã (đồng không mông quạnh) bị bệnh. Ðồng bạn
nên thay thế mang y bát cho họ, gần gũi dìu dắt họ đi, không nên đi cách xa.
Trường hợp vị ấy không thể đi được nên nhờ đến phương tiện chuyên chở của người
lái buôn, hoặc lương thực để giúp đỡ họ. Không được chuyên chở bằng xe do súc
vật loại cái kéo. Nên trở bằng xe do súc vật loại đực kéo. Trường hợp bệnh nặng
trầm trọng không còn sự phân biệt thì chở không sao (tức là không mắc tội). Nếu
không thể thực hiện được bằng phương tiện chuyên chở, thì nên để lại một, hai,
ba người có khả năng chăm sóc bệnh, rồi vào trong xóm làng tìm phương tiện
chuyên chở để rước về. Nên để lương thực cho những người ở lại đủ dùng. Nếu
không có vị nào chịu ở lại trong khoáng dã thì không được bỏ đi liền, phải làm
một cái nhà tranh, trải cỏ làm nệm, nhúm lửa, để củi nước, thức ăn, thuốc men,
thuốc ngày, đêm, thuốc bảy ngày, thuốc suốt đời (tận hình dược), tất cả đầy đủ,
và nói với người bệnh rằng: “Trưởng lão an tâm ở lại đây, tôi đến xóm trước để
tìm phương tiện ra đón ngài vào”. Khi đến tụ lạc không cần nhiễu Tháp, hay chào
hỏi hai thầy (Hòa thượng, A-xà-lê) theo nghi thức, mà nên nói liền với Tỳ-kheo
trong tụ lạc rằng:
- Trong khoáng dã có vị
Tỳ-kheo bệnh nặng, chúng ta nên tìm cách đến đón vị ấy về.
Nếu trong tụ lạc họ nói:
- Chỗ khoáng dã ấy có
nhiều hổ lang thú dữ, sợ rằng chúng đã ăn thịt rồi.
Tuy nghe nói như vậy,
nhưng chúng ta cần phải đến xem. Nếu đã chết thì cúng dường tử thi. Nếu còn sống
thì đem về làng xóm, và nói với vị cựu Tỳ-kheo nơi tụ lạc rằng:
- Vị Tỳ-kheo bệnh này, ở
trú xứ... tôi đã chăm sóc cúng dường trong khoáng dã, nay đem về đây, đến phiên
Trưởng lão chăm sóc.
Nếu không chăm sóc thì mắc
tội vượt qua luật định (Việt tỳ-ni).
Trường hợp không có
Tỳ-kheo, nên nói với vị Ưu-bà-tắc: “Trường thọ! Nơi khoáng dã có Tỳ-kheo bệnh,
chúng ta nên tìm phương tiện chở về.” Ðưa đến nhà Ðàn-việt, và để nằm nơi riêng
biệt, kín đáo.
Nếu có nhiều người, nên
nhờ hai, ba người có khả năng để chăm sóc người bệnh. Trường hợp bệnh nhơn cần
nhiều người cùng ở cho vui thì nên ở. Cùng nhau khuyến hóa cung cấp đầy đủ bữa
ăn trước, bữa ăn sau cho đến tận hình thọ dược.
Trường hợp có khách Tỳ-kheo đến, không được
bảo họ chăm sóc người bệnh liền, phải rước y bát họ
để đúng chỗ, chờ đến khi ăn uống nghỉ ngơi xong rồi mới nói: “Trưởng lão thay
tôi tiếp tục chăm sóc giùm cho, nếu vô thường đến thì nên cúng dường xá-lợi.”
Trường hợp Tỳ-kheo và
Tỳ-kheo-ni cùng đi với người lái buôn. Tỳ-kheo-ni bị bệnh, Tỳ-kheo không được bỏ
đi. Nên bảo chị em họ cùng đi chung, cùng thay nhau dắt dìu ngươøi bệnh. Như
trong Tỳ-ni nói: “Chỉ trừ ôm choàng. Nếu cần xoa dầu trong thân thì bảo người nữ
làm việc đó.”
Trường hợp vô thường đến,
Tỳ-kheo-ni bệnh ấy có y bát, nên nghĩ đến người hỏa thiêu. Nếu không hỏa táng
được, nên bỏ đi. Nếu người đời hiềm trách, nên khởi niệm như đất rồi khiêng để
chỗ xa.
Trường hợp Ðại đức Tỳ-kheo
bệnh, nên để nằm nơi phòng thoáng rộng, đệ tử thường hầu hai bên, quét lau phòng
khô sạch, đốt hương, trải tòa ngồi. Nếu có Tỳ-kheo đến thăm bệnh nên lo đủ bữa
ăn chính, bữa ăn phụ, cho đến nước uống phi thời. Nếu có hỏi điều gì, bệnh nhơn
nên trả lời. Nếu bệnh nhơn yếu sức thì người hầu thay lời. Trường hợp Ưu-bà-tắc
đến thăm hỏi nên nói: “Quý hóa thay Phật tử đến thăm!” Bảo họ ngoài rồi nói bài
pháp như sau: “Phật tử công đức rất lớn, như Ðức Thế Tôn dạy: Chăm sóc nuôi
dưỡng Tỳ-kheo trì giới bệnh, như chăm sóc nuôi dưỡng Ta (Phật) không khác.” Nếu
họ có cúng dường thì nên chú nguyện rồi thọ nhận.
Trường hợp người bệnh
phiền lo, người đến thăm hỏi bệnh nhơn, không được cho họ đứng lâu, nên bảo họ
ra về.
Trường hợp người bệnh
không đi ra ngoài được thì nên dùng ba cái bô:
- Một cái đem vào thay cho
người bệnh dùng.
- Một cái mang ra ngoài.
- Một cái rửa sạch bôi dầu phơi khô. Phải có sẵn
như vậy để bệnh nhơn tuần tự dùng.
Phải có người đứng một bên
cửa, đừng cho người vào đột ngột. Một người luôn luôn ở bên bệnh nhơn, tùy thuận
nói pháp.
Trường hợp Tỳ-kheo nhỏ
tuổi bệnh, không nên để chỗ trống trải, mùi hôi thối có thể bay ra ngoài. Cũng
không nên để chỗ chật hẹp vắng vẻ, khi chết không ai biết, mà nên để ở chỗ có
người.
Trường hợp người bệnh có
thầy và đệ tử, thì họ cùng nhau chăm nuôi. Nếu không có, thì Tăng phải sai một,
hai, ba người chăm nuôi.
Trường hợp người bệnh có
thuốc thì nên lấy sử dụng cho họ, nếu không có thì Tăng nên lo liệu. Trường hợp
Tăng không có, thì bệnh nhơn có y bát quý giá nên đổi lấy y bát thường, và lấy
số tiền thừa ra đó dùng vào việc thuốc thang. Nếu bệnh nhơn tiếc y bát không
chịu đổi thì nên bạch với Tăng, Tỳ-kheo bệnh không nghĩ vô thường nên tiếc y bát
quý không chịu trao đổi. Bạch Tăng rồi nên khéo léo giảng nói để bệnh nhơn khai
giải (cởi mở). Sau đó mới trao đổi. Nếu không được nữa thì nên xin tiền mà lo
liệu thuốc men cho bệnh nhơn.
Trường hợp đồ ăn thức uống
xin không được, thì trong bữa ăn của Tăng nên lấy thức ăn ngon để cung phụng
bệnh nhơn. Nếu phương thức đó không được, thì người nuôi bệnh nên dùng hai cái
bát đi khất thực, chọn lấy thức ăn ngon phụng sự bệnh nhơn.
Luật Căn bản
nói:
Không nên sai người vô trí
chăm sóc bệnh nhơn. Ðối với người không rành nuôi bệnh cần phải dạy bảo hướng
dẫn họ. Ðừng để bệnh nhơn bị tai hại một cách phi lý; hoặc bị ngã nơi nước, nơi
lửa, ăn phải các thức ăn độc; hoặc nắm lấy đồ bén nhọn; hoặc bị té nơi hầm hố
hay trèo lên cây cao, ăn phải thức ăn cấm kỵ v.v... những tổn hại như vậy cần
phải ngăn chặn tránh đi.
Chưa hỏi thầy thuốc, không
nên vội cho bệnh nhơn uống thuốc.
Người bệnh và người nuôi
bệnh nằm chung một giường có đèn sáng thì không phaïm.
Luật Thập tụng
nói:
Người nhỏ tuổi nuôi
Tỳ-kheo bệnh được cùng bệnh nhơn ngồi.
Luật Nhiếp
thuyết minh:
Trường hợp người bệnh
nghèo không có thuốc để dùng, thì thầy bạn quen biết v.v... nên vì họ mà lo
liệu, hoặc thí chủ quen thân lo liệu; hoặc dùng vật của Tăng-già; hoặc vật của
Tháp; hoặc dụng cụ trang trí đem bán để mua thuốc. Sau khi bệnh lành nên trả
lại. Nếu không có khả năng để trả lại, thì không tội; vì con của vị Ðại sư là
cha đẻ ra của cải vậy.
Nếu vì lý do chăm sóc bệnh
cho Bí-sô, cung cấp người bệnh, thì trừ việc của tánh tội, ngoaøi ra đều có thể
làm được.
Hỏi:
- Các bộ luật vì
vấn đề bệnh quyền khai và quy định pháp nuôi bệnh, để có định mức. Duy chỉ có
Luật nhiếp nói: Trừ tánh tội, ngoài ra đều có thể làm được. Như vậy, tất cả
giá tội, đều không phạm hay chăng?
Ðáp:
- Khi cần bảo vệ mà không nghiêm túc bảo vệ thì cái tội do khinh giới vẫn thành.
Khi nạn duyên mà thiếu quyền biến thì người mắc bệnh đau khoå e phải lâm nguy.
Nên biết: Trừ tánh tội, ngoài ra đều có thể làm được là một cách nói cùng tột
chứ không phải là một lời nói để tha hồ buông xuôi.
VI. PHÒNG XÁ
Phần thứ tư
nói:
Tùy theo nhu cầu làm phòng
đúng như pháp, tất cả đều cho phép.
Cho phép làm nhà lớn để
Bố-tát, cho phép làm giường lớn.
Cho phép làm nhà đi kinh
hành. Tỳ-kheo già bệnh suy nhược ốm yếu quá cho phép dùng dây bện thành cái
giường cột hai đầu khiêng đi. Nắm tay khiêng đi, nếu tay bị đau, cho phép làm
thành cái cuốn, hoặc bằng ống tre, hoặc lấy dây xâu qua ống tre, dùng tay khiêng
đi. Khi đi kinh hành mỏi mệt, cho phép để giường hai đầu lối đi kinh hành để
ngồi nghỉ.
Không nên làm hình con
rồng, con rắn hai bên cánh cửa. Cho phép làm hình dây nho hay hình bông sen. Cho
phép trên cửa làm hình cành lá, không cho phép làm hình binh mã.
Không nên suốt đời chỉ lo
sửa sang một phòng, nếu muốn làm một cái lầu to lớn sang trọng, thì cho phép xây
cất trong vòng 12 năm. Trong vòng 6 năm phải lợp hết. Còn bao nhiêu cỡ khác, tùy
theo đó mà lượng nghi.
Không nên lúc nào cũng
nhận lấy phòng của Tăng rồi sửa sang. Cho phép ba tháng hạ xong, tùy Thượng tọa
chia phần cho.
Không nên chỗ nào cũng
nhận phòng của Tăng sửa sang để nghỉ ngơi, mà phải 90 ngày trở lên mới nhận lấy
một chỗ ở.
Người lo liệu công việc
không nên ở nơi trú xứ đông người.
Không nên vì việc làm nhỏ
mà lấy một cái phòng sửa sang để ở.
Tỳ-kheo
lo liệu công việc qua đời, phòng này tùy ý Tăng giải quyết. Tỳ-kheo lo liệu công
việc nhờ người bạch Tăng để nhận phòng rồi qua đời, phòng ấy cũng
tùy Tăng giải quyết. Kẻ sứ giả kia qua đời, phòng đó giao cho người lo liệu công
việc,
Tỳ-kheo lo liệu công việc,
khi chưa chia phòng đã đi vắng, nhờ người nhận, nên chỉ rõ nơi chốn phòng ấy.
Cho phép làm nhà tắm,
phòng tắm.
Một Tỳ-kheo làm phòng, cho
phép thay nhau ở, nhưng Thượng tọa ở trước.
Hạ an cư, nhận phòng sửa
sang xong, không nên nhận lại phòng khác.
Phòng của Tăng cũ hư, có
người cư sĩ nói: “Xin giao cho tôi, tôi sẽ tu bổ lại”. Cho phép Bạch nhị yết-ma
giao cho họ.
Ông La-hầu-la, thời gian ở
trong rừng Na-lê, một cư sĩ phát tâm làm một cái phòng cúng cho ông ta. Khi
La-hầu-la đi du hành trong nhân gian, cư sĩ ấy lại lấy cái phòng cúng cho Tăng.
La-hầu-la trở về đem vấn đề ấy bạch Phật. Phật bảo La-hầu-la đến chỗ cư sĩ hỏi
rằng: “Ông có thấy tôi đây không? Tôi có điều gì đáng trách không? Có điều gì
không phải pháp Sa-môn không? Hoặc (có lỗi) do miệng nói, hoặc bằng haønh động
của thân hay chăng?”. Cư sĩ đáp: “Không”.
La-hầu-la về bạch lại Phật. Phật bảo Tỳ-kheo:
“Trường hợp có người tự tâm vui mừng làm phòng thí cho một người, hoặc thí cho
nhiều người, hoặc thí cho Tăng rồi, lại thí cho người khác hay thí cho nhiều
người, hay thí cho Tăng, hoặc thí cho đồng bộ, hoặc thí cho khác bộ, đều gọi là
thí phi pháp, nhận phi pháp, ở phi pháp. Trường hợp có người vui mừng làm phòng
thí cho một người, hoặc thí cho nhiều người hay thí cho Tăng, thí cho hai bộ
Tăng, đều gọi là thí như pháp, nhận như pháp, ở như pháp.”
Trường hợp có Sa-di nhỏ,
cho phép ngăn trong phòng cho Sa-di ấy ở.
Cho phép làm cái phòng sau
ở bên trong, làm cửa, làm tường vách hay ½ tường vách.
Cho phép dùng đá, gạch,
cây, làm đường đi. Cho phép đóng cừ, làm ao, dùng đá, gạch, cây, ngăn hai bên.
Luật Tăng kỳ
nói:
Khi khởi công xây cất
Tăng-già-lam, trước hết quy hoạch chỗ đất nào tốt nhất để làm Tháp. Tháp nên làm
nơi hướng Ðông, hướng Bắc. Ðất dành cho Phật, đất dành cho Tăng ở phải có giới
hạn rõ ràng; không được để nước chảy từ đất Tăng vào đất Phật, nước nơi đất Phật
được chảy qua đất Tăng. Tháp nên cất chỗ cao ráo. Không được ở trong Tháp viện
giặt, nhuộm, hong phơi y, mang giày dép, trùm đầu, trùm vai, khạc nhổ trên đất.
Bông hoa trong vườn của Tháp nên cúng dươøng Tháp. Nếu Ðàn-việt nói: “Hoa thì
cúng Phật, trái thì cúng Tăng”, thì theo ý kiến của Ðàn-việt. Trường hợp hoa
nhiều, được phép đưa cho nhà làm tràng hoa, bảo họ: “Làm tràng hoa cho tôi, còn
bao nhiêu nên cho tôi biết giá.” Số tiền thu được mua nhang đèn cúng Phật, hoặc
tu bổ Tháp. Nếu thu hoạch được nhiều thì bỏ vào quỹ phẩm vật vô tận của Phật.
Hoa trong ao của Tháp cũng vậy. Trong ao của Tháp không được giặt y, tắm, rửa
tay, rửa mặt, rửa bát. Chỗ cuối dòng nước thoát ra thì được sử dụng
tùy ý.
Nhà xí không được xây cất
nơi hướng Ðông, hướng Bắc, ở giữa phải có vật ngăn cách để hai bên không cùng
trông thấy nhau.
Bộ Căn bản tạp sự
nói:
Làm nhà xí nên làm góc
Tây-Bắc, phía sau chùa.
Dưới cây trụ nơi 4 góc
chùa nên để ống nhổ, nhổ đàm dãi.
Luật Thập tụng
nói:
Nếu có nước hoa (dung dịch
bằng nước hoa) nên rảy trong nhà, nơi giường, nơi vách, trên đất. Bố thí tràng
hoa cho Tăng dùng đinh đóng trên vách, phòng xá có mùi hoa, người thí được
phước.
Luật Ngũ phần
nói:
Trong các phòng cho phép
trong ngoài và trên đều trét bùn. Tăng nên sắm đầy đủ các thứ búa, đục, dao,
cưa, thang v.v... các dụng cụ để làm phòng ốc.
VII. PHÁP VỀ NGỌA CỤ
Phần thứ tư
nói:
Cho phép làm cái nệm, hoặc
bằng lông mịn, hay bằng kiếp bối, làm cái nệm có độn bên trong nếu sợ nhớp nên
dùng dạ bọc bên ngoài.
Cho phép làm cái gối, hoặc
vuông, hoặc tròn hay ba góc.
Không được đem ngọa cụ của
Tăng mà dùng riêng, cho phép làm cái dấu hiệu để nhớ. Không được vật riêng của
mình làm dấu hiệu của Tăng. Cho phép vật riêng nhuộm làm dấu hiệu, như làm một
đường nước chảy trên đất hay làm một bánh xe để phân biệt.
Không được dời ngọa cụ đã
để nhất định trong phòng qua một phòng khác, chỗ khác.
Không được hai người nằm
ngủ chung trên một giường trừ người bệnh. Không được hai người nằm chung và đắp
một cái mền, nếu chỉ có một cái mền, cho pheùp cả hai phải mặc áo lót.
Căn bản tạp sự
nói:
Cái giường nằm hay cái ghế
dựa tốt nhất được cúng, Tăng-già nên thọ nhận, cá nhân không được phép.
Luật Ngũ phần
nói:
Cho phép trong 10 cái y
dùng một cái làm mền đắp. Dùng lông dê, lông ngựa, bông gòn cho đến các loại cỏ
mềm mại độn vào bên trong để làm nệm bông, nệm dày nhất là 8 ngón tay mà thôi.
VIII. PHÁP VỀ ÐỒ VẬT
Phần thứ ba
nói:
Cho phép chứa nồi bằng
đồng, nồi bằng thiếc, nồi bằng đất, bình bằng đồng, bằng thiếc, bằng sành, cái
ngao nấu bánh, cái ấu bằng đồng, cái mác. – Cho phép làm cái giá móc áo.
Cho phép đốt đèn, cho phép
làm đèn bằng thiếc.
Tỳ-kheo già bệnh, cho phép
để đồ đại tiện và đồ nhổ đàm trong phòng.
Ở chỗ đông người, không
được bắt rận bỏ dưới đất. Cho phép làm cái ống bằng đồng bỏ nó trong đó.
Cho phép sắm dao cạo tóc,
chứa đồ hứng tóc.
Nhiếp nhổ lông mũi, dao
cắt móng tay. Cho phép làm ống đồng để đựng, làm nút (nắp) để đậy. Không nên làm
bằng đồ quý.
Không nên cầm dù tròn lớn
đẹp. Không nên nắm loại quạt tròn lớn của vua. Trường hợp nhận được vật đã hoàn
thành thì cho phép thọ, nhưng nên chuyển cho tháp.
Không nên cất giữ cây quạt
dệt bằng lông đuôi chim.
Cho phép sắm cái phất
trần.
Cho phép nhận những đồ làm
do thợ lò gốm sản xuất. Coù ba thứ không nên cất giữ: Giường ngồi bằng sành, hộc
bằng sành, ghế bằng sành.
- Cho phép sắm đồ cạo
lưỡi, cây xỉa răng, cái móc lỗ tai.
Luật Tăng kỳ
nói:
Không nên cất giữ riêng
bát bằng đồng, cho tịnh nhơn rồi mượn dùng thì không có lỗi.
Luật Căn bản tạp sự
nói:
Cho phép dùng ba cái đãy:
Một cái đựng bát, một cái đựng thuốc, một cái đựng đồ vật. Ðể đồ vào đãy phải
theo thứ tự, dài ngắn tương xứng, cần để cho rộng rãi ngăn nắp. Bên trong lót đồ
mềm mại, dùng dây cột lại, đừng để cho nó cong.
Cư sĩ tịnh tín đem cúng
chén bát, Phật cho phép vì đại chúng nhận, nhận rồi cất trong kho, nhưng vẫn ăn
bằng bình bát. Thí chủ thắc mắc, chỉ được phước thí cúng, chứ không được phước
thọ dụng. Phật bảo: “Cho phép vì họ mà đem dùng”.
Quạt có hai loại: Một loại
làm bằng tre, một loại làm bằng lá. Loại quạt có vẽ vời rực rỡ, Tăng-già được
phép nhận.
Phủ phất (Phất trần: phủi
bụi) có năm loại:
1) Làm bằng lông dê
sòe ra.
2) Làm bằng dây gai.
3) Làm bằng vải mịn
xé ra.
4) Làm bằng vật cũ
phá ra.
5) Làm bằng nhánh
cây.
Nếu dùng vật quý báu mà
làm, mắc tội ác tác.
Có hai trường hợp cho phép
đi xe:
1) Già yếu suy nhược.
2) Bệnh tật mất sức.
Cần xách nước giếng, thì
dùng dây dài nhất là 150 khuỷu tay, ngắn nhất là 10 khuỷu tay. Giữa hai cỡ này
là bậc trung.
Hứa khả vì Tăng sắm và cất
giữ dao cạo tóc, kể cả những vật cần dùng vụn vặt.
Luật Ngũ phần
nói:
Mùa lạnh cho phép làm lò
sưởi. Nhen lửa ngoài nhà, chờ hết khói mới đem vào trong. Dùng đồng, thiếc, đất,
đá làm lò.
Cho phép cất giữ ba cây
kim may.
Cho phép cất giữ cái cân,
cái đấu. Không cho phép giữ lấy ruộng đất, quán hàng buôn bán. Nếu có thí chủ
cúng, cho phép Tăng thọ nhận rồi giao cho tịnh nhơn coi ngó. Không cho phép cất
chứa nhiều cái âu nhỏ bằng đồng. Không cho phép cất chứa cái âu lớn bằng đồng.
Nếu cất chứa trên một thăng mắc tội Ðột-kiết-la.
Luật nhiếp
nói:
Dao con, ấn nhỏ Bí-sô được
cất giữ. Dao có ba loại: Loại lớn dài 6 ngón tay, rộng một ngón tay. Loại nhỏ
dài 4 ngón tay. Giữa hai cỡ đó là loại trung; hình dáng của chúng như cánh gà
hay cánh chim. Ấn có bốn loại: Ðồng trắng, đồng đỏ, đá và cây. Tất cả không nên
dùng vật quý giá để làm.
IX. PHÁP VỀ TÍCH TRƯỢNG
Căn bản tạp sự
nói:
Nên làm cây tích trượng,
trên đầu tích trượng treo cái vòng tròn bằng miệng chén. Treo cái vòng nhỏ, mỗi
khi di động tạo thành tiếng, dùng để cảnh giác. Không nên dùng tích trượng để
đánh chó, chỉ nên đưa lên khủng bố nó mà thôi. Nếu chó nổi giận xông tới, nên
lấy một vài hột cơm bỏ dưới đất cho nó ăn. Hai ba lần khua động, mà không coù
người ra hỏi, cần phải đi.
Luật Thập tụng
nói:
Nên khua động tiếng gậy để
xua đuổi độc trùng.
Kinh Tỳ-ni mẫu
nói:
Chỗ đáng sợ ban đêm, cho
phép khua động tích trượng thành tiếng, khiến cho ác độc trùng tránh xa.
Hỏi:
- Nay y cứ theo kinh Ðắc đạo đăng thê,
thì vấn đề làm tích trượng là chú trọng oai nghi nhưng rất khó hộ trì. Vấn đề
này tại sao lại mâu thuẫn với ý của luật?
Ðáp:
- Tích trượng ở trong luật, đặt nặng vấn đề dùng để qua sông, còn trong kinh thì
đặt nặng chỗ tiêu biểu cho Chánh pháp. Biểu pháp thì có một dụng ý, một đường
hướng riêng nào đó. Còn qua sông thì nhằm vào việc lợi ích. Còn việc người thời
nay lại dùng tích, tịnh bình, việc này vốn là của Mật bộ không quan hệ gì đến
Luật tông. Nhưng trong bộ kinh kia cũng nói rằng: Vì lão bệnh nên chứa giữ
trượng. Vấn đề này tuy phù hợp với luật, nhưng không khỏi trước sau tự mâu thuẫn
nhau. Nên biết bộ kinh đó đã mất tên người dịch, có thể xếp vào loại khuyết
nghi.
X. PHÁP VỀ TÒNG LAÂM
Luật Tăng kỳ
nói:
Ngài Ðạt-nị-già tức là
Ðàn-ni-ca nghĩ rằng: “Ta làm một cái phòng, Thượng tọa bảo ta để cho Ngài, buộc
ta phải ra khỏi. Ðến cái thứ hai, thứ ba cũng thế, ta cũng phải ra khỏi thất của
ta. Kế đến ta làm nhà bằng gạch ngói, đức Thế Tôn lại sai các Tỳ-kheo phá mất.
Sau đó ta lấy gỗ của vua cất nhà, lại bị Thế Tôn quở trách. Ta luôn luôn chịu sự
khổ sở, hết việc này đến việc nọ! Từ nay, ta muốn chấm dứt vấn đề khổ sở này,
bằng cách tùy theo chúng Tăng sống thế nào ta sống thế ấy, qua ngày mà thôi.”
Khi ấy, Ðạt-nị-già bèn tập nếp sống vô sự, ngày đêm tinh thành, chuyên tu đạo
nghiệp, đặng các thiền định, thành tựu đạo quả, khởi sáu thần thông, tự tri tác
chứng (tự biết mình đã chứng), hết sức vui mừng. Ngài nói kệ rằng:
- Muốn được vui vô ngã
Phải theo pháp Bí-sô
Thân nương nơi tịnh xá
Như rắn trọ hang cua.
- Muốn được vui vô ngã
Phải theo pháp Bí-sô
Áo cơm cho tứ đại
Ðẹp xấu dở ngon tùy ... (tùy chúng).
- Muốn được vui vô ngã
Phải theo pháp Bí-sô
Trọn đời đều biết đủ
Chuyên luyện đạo vô vi.
Luật Thập tụng
nói:
Tỳ-kheo coi ngó công việc
của Tăng, nên thực hành nguyện thế này: Các Tỳ-kheo chưa đến sẽ đến, các vị đã
đến được cung cấp y phục, ẩm thực, ngọa cụ, thuốc thang, không để thiếu thứ gì.
Vị nào có khả năng thực hành được ý nguyện như vậy, Tăng tùy theo ý nguyện của
họ mà giao công việc. Nếu cần thức ăn thì cung cấp theo ý muốn cùng đồ ăn ngon,
nếu cần phòng xá, ngọa cụ thì cũng nên theo ý muốn của họ mà cung cấp.
Người có phận sự trong một
trú xứ, được phép dùng 19 tiền cung cấp khách Tăng, khỏi phải bạch Tăng. Nếu cần
dùng hơn nữa thì phải bạch Tăng mới được phép sử dụng.
Trong chức năng Duy-na,
nên biết thời hạn, nên biết giờ nào cho việc gì, nên biết đánh kiền chùy, biết
lau quét tu bổ nhà giảng, nhà ăn, biết thứ lớp tiếp tục trải giường, chõng, biết
dạy cách tác tịnh rau trái, biết xem xét côn trùng trong thức ăn chua và đắng;
biết lúc nào ăn lúc nào uống, để phân phối nước, và lúc chúng ồn ào náo loạn
biết búng móng tay để họ im lặng.
Phần thứ ba
nói:
Hiện tiền tăng thu nhận
được nhiều y vật, cho phép Bạch nhị yết-ma kiết giới kho tàng, bạch nhị Yết-ma
sai người giữ. Trường hợp có Tỳ-kheo không chịu nhận làm người giữ vật của Tăng,
nên dành phần bồi dưỡng cho họ, như thêm phần cháo v.v... Nếu họ cố ý không nhận
thì tất cả những vật thu nhận được chia cho họ hai phần. Nếu họ vẫn không chịu
giữ thì nên như pháp trị họ.
Luật Thiện kiến
nói:
Lợi dưỡng từ bên ngoài thu
nhận được, Tỳ-kheo tri khố nhận được hai phần. Nếu là Tỳ-kheo đầu-đà, tuy ở
trong chùa, nhưng không ở phòng của Tăng, không ăn thức ăn của chúng. Ðàn-việt
tự xây cất phòng cho ông ta, Tăng không được sai ông ta làm Duy-na hay tri sự.
Ðối với Tỳ-kheo trong bộ môn đọc tụng, giáo hóa thuyết pháp thường thu nhận được
lợi dưỡng có lợi cho chúng Tăng, Tăng không được sai họ làm tri sự Tăng. Có
phòng xá y bát nên trước dùng vật trao cho các vị ấy, thức ăn cây trái nên cấp
thêm phần cho họ.
Trường hợp có người đến
chùa, không luận sang hèn tốt xấu nên hỏi han sức khỏe họ, nếu họ cần gì, mình
có, thì cung ứng cho họ. Nếu là vật của Tăng thì phải thưa Tăng trước mới trao
cho họ, nếu Tăng đồng ý. Trường hợp có người ác dùng sức mạnh đến xin, người giữ
vật của Tăng, vì bảo vệ trú xứ, được quyền tùy ý trao cho họ. Trao cho họ rồi
sau đó Tăng không được quở trách.
Phần thứ tư
nói:
Có bốn hạng người đoán sự:
1) Hạng ít học mà
không tàm quý.
2) Hạng học nhiều mà
không tàm quý.
3) Hạng ít học mà có
tàm quý.
4) Hạng học nhiều mà
có tàm quý.
Trong số này hạng ít học
mà không tàm quý và hạng học nhiều mà không tàm quý, ở trong Tăng nói việc đoán
sự, Tăng nên dùng mọi cách để khiển trách họ một cách tích cực để cho hạng người
không tàm quý đó không làm việc ấy nữa.
Nếu hạng người có tàm quý
mà ít học, trong Tăng nói chuyện xử đoán, Tăng nên yểm trợ cho họ để sáng tỏ vấn
đề, cho hạng người có tàm quý này tiếp tục làm việc đoán sự cho Tăng. Ðối với
hạng người có tàm quý mà học nhiều, trong Tăng làm việc xử đoán, Tăng cho phép
họ nói rồi nên khen ngợi họ, khiến hạng người có tàm quý này sau này vẫn ở trong
Tăng nói việc đoán sự.
Phần thứ ba
nói:
Khách Tỳ-kheo muốn vào
trong chùa. Khi đến cửa ngõ, tay đẩy cửa ra, nếu cửa có then khóa thì nên mở.
Nếu mở không được thì nên gõ thong thả để người bên trong nghe. Nếu không có ai
nghe thì nên gõ mạnh. Nếu không có ai mở, thì đến dưới bờ tường hay rào, tìm
cách vào để mở, không nên đi quanh phía bên tả của Tháp. Nên hỏi: Tôi bao nhiêu
tuổi đó, có phòng cung cấp cho tôi không? Lại nên hỏi: Phòng này có ai ở không?
Có đầy đủ tiện nghi như mền, đoà dùng, ngọa cụ và y không? Nếu nói có, mà cần
nhaän thì nên nói: Tôi sẽ nhận phòng này. Nhận xong nên đến chỗ phòng, mở cửa.
Nếu có trùng hay rắn, đuổi ra, lau quét, rửa sạch, khô ráo, trải lại giường nằm,
ghế ngồi, và phải đầy đủ bình nước sạch, nước rửa, đồ đựng nước uống. Nên hỏi:
Chỗ đại tiểu tiện ở đâu? Chỗ nào là tịnh địa, chỗ nào là bất tịnh địa? Tháp Phật
chỗ nào? Tháp Thanh văn ở đâu? Phòng Thượng tọa thứ nhất chỗ nào? Cho đến phòng
Thượng tọa thứ tư ở đâu? Phải theo thứ tự lễ chào. Nên hỏi chỗ nào là chỗ ăn
trưa, chỗ nào là chỗ ăn sáng, chỗ nào tập hợp buổi tối, chỗ nào thuyết giới,
người nào được Tăng sai nhận vật thực do Ðàn-việt dâng đồ aên mồng tám, rằm,
mồng một? Ðàn-việt mời ăn ngày kế đến chỗ nào? Có Ðàn-việt nào Tăng vì họ tác
phú bát không? Ai là kẻ học gia? Chỗ nào có chó dữ, chỗ nào người tốt? Kẻ xấu ở
đâu?
Cựu Tỳ-kheo nghe có khách
Tỳ-kheo đến nên ra ngoài để đón rước vào, vì họ cầm y, mang bát, mời ngồi; trao
đồ múc nước rửa chân, cùng nước nóng. Nên hỏi: “Ðại đức bao nhiêu tuổi?” Nếu họ
nói bao nhiêu tuổi rồi, nên nói: Ðây là phòng, đây là giường dây, giường cây,
mền, gối, khăn trải đất, ống nhổ, đồ tiểu tiện, đây là chỗ đại tiểu tiện, đây là
tịnh địa, cho đến đây là chỗ người tốt, đây là chỗ người xấu.
Luật Thập tụng
nói:
Khách Tỳ-kheo đến, nên lễ
bốn vị Thượng tọa. Nếu thời gian có thể gặp thì lễ, còn khoâng gặp (Ngài bận)
thì thôi.
Luật Ngũ phần
nói:
Ðánh chuông trống thổi ốc
và 3 lần xướng, “thời đến”. Nên bảo Sa-di và người coi vườn làm, đánh kiền chùy,
nếu không có Sa-di thì Tỳ-kheo cũng đánh được.
Nếu có Tỳ-kheo gởi y, sau
12 năm không trở lại lấy, họp Tăng bình phẩm giá trị dùng làm vật của bốn phương
Tăng. Sau đó Tỳ-kheo kia trở lại đòi, dùng vật của bốn phương Tăng trả lại. Nếu
họ không nhận thì tốt.
Nếu có lúa gạo cúng dường
cho bốn phương Tăng, khi tứ phương Tăng làm, cho phép họ tùy ý dùng.
Trừ tháp của Phật và
Bích-chi Phật, còn bao nhiêu vật dư của Tháp khác, cho phép dùng làm vật bốn
phương Tăng. Nếu Tháp ấy thời gian sau, cần dùng thì lấy vật của bốn phương Tăng
trả lại.
Luật Căn bản
nói:
Bí-sô nên trợ giúp trong
công việc tạo tác của chùa, nhưng không nên làm trọn ngày. Mùa lạnh nên làm sau
giờ ngọ. Mùa nóng nên làm trước giờ ngọ. Tùy theo thời gian của ngày, nên nghỉ
sớm. Người có trách nhiệm coi ngó công việc, biết sáng ngày ấy có người làm công
tác thì nên lo liệu bữa ăn sáng cho họ. Nếu sau giờ ngọ làm thì nên tìm nước
buổi chiều (phi thời tương) và dầu thoa tay chân. Không vậy thì mắc tội Việt
pháp.
Trọng lượng người đời gánh
một gánh thì Bí-sô nên chia làm hai gánh.
Tạp sự
nói:
Tăng-già
không nên lập phi pháp chế. (không phải Phật chế thì gọi là phi pháp chế. Như
triều Nguyên phụ hội Bách Trượng thanh quy v.v... ).
Người lo liệu công việc
nên cho thọ dụng vật chùa.
Ny-đà-na
nói:
Tịnh địa của Tăng-già mà
bỏ tóc, móng tay... mắc tội ác tác.
Làm tượng Bồ-tát chỉ trừ
xuyến và bông tai còn bao nhiêu đồ trang sức khác đều cho phép làm.
Luật nhiếp
nói:
Tháp của đức Như Lai nên
làm tròn trịa đầy đủ. Nếu là Tháp của Ðộc giác thì trên không có bảo bình. Nếu
là Tháp của A-la-hán thì đặc tứ tướng luân.
Còn ba quả kia, mỗi quả giảm bớt một luân. Nếu là vị Tỳ-kheo thuần thiện trên
không có luân nào gọi là “bình đầu chế-để” (Tháp đầu bằng).
Bộ Mục-đắc-ca
nói:
Trường hợp tạo Tháp nếu
nhỏ có thể tăng thêm cho lớn, nếu lớn không nên giảm cho nhỏ. Nếu có người thế
tục có khả năng làm lớn thì càng tốt. Bằng không thể làm được thì Bí-sô nên
khuyến hóa trợ giúp cho họ làm. Nếu lâu năm bị hư hao nên tu bổ. Nếu tượng Phật
bằng đất, bằng tơ trắng... hư hoại, hoặc muốn cho lớn hơn, hoặc tương tợ tùy ý
làm. Các tượng vẽ không được sáng sủa trang nghiêm, nên xóa đi làm lại tượng
mới. Các bộ kinh Phật bằng lá hay bằng giấy bị mòn hư cũ kỹ nên xóa cái cũ in
lại cái mới. Vị nào thông suốt Kinh bộ, Luật bộ, Luận bộ, không nên sai họ làm
người tri sự của Tăng.
Vì Tăng-già nên có thể
nhận ruộng, hoa lợi thu hoạch được nên thọ dụng. Phải y vào luật của nhà nước mà
trả công cho người cày cấy ruộng đất ấy.
Tỳ-kheo có trách nhiệm coi
ngó lo liệu công việc, trước nên báo trình với vị Kỳ túc trong chùa, sau mới cho
người vay mượn, hay lập bằng khoán bảo chứng phân minh.
Luật Tăng kỳ
nói:
Ruộng đất của chúng Tăng
không được cho mướn hay bán đứt, không được thọ dụng riêng. Nếu ruộng đất vườn
tốt, có kẻ ác muốn xâm chiếm, thì được phép nói với Ðàn-việt nên biết đất này.
Nếu Ðàn-việt nói: Ðây là ruoäng vườn tốt, Sao phải biết? Nên nói với Ðàn-việt
rằng: Ruộng vườn này tuy tốt, nhưng có người ác muốn xâm chiếm, tùy ý Ðàn-việt
chuyển đổi.
Tăng có đất trống, có
người đến xin Tăng để cất Tăng phòng, nên nói trước khi làm những điều cần yếu
như: Thời gian làm bao lâu? Nếu họ nói bao lâu đó là làm xong, thì nói họ là:
Nếu thời gian ấy mà không làm xong, hay không làm thì sẽ giao cho người khác.
Trường hợp có hai người
xin làm. Một người nói: “Tôi vì Tăng làm một tầng lầu”. Một người nói: “Tôi làm
hai tầng lầu”. Tăng nên giao cho người làm hai tầng lầu. Như vậy cho đến bảy
tầng. Nếu cả hai đều nói xây bảy tầng, thì nên giao cho người có khả năng làm
thành. Nếu cả hai đều có khả năng làm thành thì nên giao cho người có quyến
thuộc đông hơn. Nếu không nói những đều cần yếu, trước khi giao cho họ thì mắc
tội Việt tỳ-ni.
Pháp (tư cách) của cựu
Tỳ-kheo, không được tự mình ở phòng tốt, giường, nệm, gối tốt, còn để đồ xấu,
hư, nhơ nhớp đãi khách.
Bộ Nam hải ký quy
nói:
Y phục của Bí-sô, phần
nhiều do thường trụ Tăng, hoặc là do của ruộng vườn thừa ra, hoặc là do huê lợi
nơi cây trái, hằng năm dùng một phần vào việc y phục. Bởi vì bổn tâm của thí
chủ, khi dâng cúng đất đai là để cung cấp tế độ cho chúng Tăng, đâu phải chỉ
dùng cho việc ẩm thực, mà không dùng vào việc y phục hay sao? Ngoài việc ăn
uống, dùng vào y phục có gì tổn hại đâu?
Ðây là một vấn đề mà chúng
Tăng bên Tây quốc bàn luận rộng rãi, sôi nổi. Hơn nữa nơi đạo tràng Thần Châu
hoặc có chỗ vừa cung cấp y phục, vừa nhận được vật thực, kể cả kẻ đạo lẫn tục,
đây là căn cứ theo tâm phát nguyện của thí chủ. Giả như, kể cả vấn đề ăn uống
cho chúng Tăng, thật sự không có gì là điều đáng lo ngại. Trường hợp ban đầu có
ý nghĩa vô tận vô chướng, thì tuy bố thí cho nhà chùa mà sự thật trong đó gồm
tất cả. Chỉ dùng vào việc ăn chứ không dùng vào việc gì là do thí chủ, ban đầu
có phân định vậy.
Nhà chùa làm ruộng, phải
cùng làm “ăn chia” với tịnh nhơn. Tăng cung cấp trâu và đất, ngoài ra không biết
các việc khác. Nếu vì lòng tham, không cùng với cư sĩ làm, tự mình thuê người,
coi ngó việc cấy cày thì Bí-sô hộ trì giới không nên ăn nuốt miếng ăn như vậy.
Tăng tự làm lụng, nuôi thân bằng tà mạng, sai khiến người làm thuê, nóng giận là
điều không tránh khỏi. Phá hoại hột giống, cày phá đất đai, tổn hại trùng kiến.
Mỗi ngày ăn không quá một thăng, ai là người phải chịu trăm lỗi. Kẻ sĩ có khí
tiết phải tránh những phiền phức như vậy. Người cầm trượng mang bát, xa tránh
đường đời, riêng ở nơi rừng sâu vắng vẻ, sống cùng chim thú hươu nai, cắt đứt
vấn đề ồn ào danh lợi, tu tịch diệt Niết-bàn. Nếu vì chúng Tăng, kinh doanh cầu
lợi, điều đó thì luật cho phép, còn cày đất hại mạng, giáo môn đâu hứa khả, tổn
hại loài trùng, thì trở ngại đạo nghiệp, nhận lấy điều sai lầm tội lỗi vậy.
TRÙNG TRỊ TỲ-NI SỰ
NGHĨA TẬP YẾU
HẾT QUYỂN THỨ MƯỜI BỐN
--- o0o ---
Mục
Lục |
01
|
02
|
03
|
04
|
05
|
06
|
07
|
08
|
09
|
10
11
|
12
|
13
| 14
|
15
|
16
|
17
|
18
|
19
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-6-2007