TRÙNG TRỊ TỲ NI
SỰ NGHĨA TẬP YẾU
CỔ
NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích
Việt
dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH
Nhuận văn
và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
---o0o---
TẬP I
QUYỂN THỨ
7
13.
GIỚI Cơ
HIỀM HỦY
MẠ
Ðây là
tánh tội. Ðại
thừa
đồng chế.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào, biếm
nhẽ và mắng chửi,
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Ðạp-bà-ma-la-tử,
trong chức năng
phân phối ngọa
cụ và mời
chư Tăng
đi thọ
trai. Từ Ðịa
Tỳ-kheo
ở
nơi chỗ
mắt thấy
tai không nghe nói ngài có ái, nhuế,
bố, si cho nên Phật
chế Cấm.
Sau
đó lại
ở nơi
chỗ tai nghe mắt
không thấy, nói ngài có ái,
nhuế,
bố, si cho nên Ðức
Phật kiết
lại lần
thứ hai.
TƯỚNG TRẠNG
CỦA TỘI
Hoặc
nói xấu trước mặt,
hoặc chê bai sau lưng,
nói một cách rõ ràng, phạm
Ba-dật-đề;
nói không rõ ràng, phạm
Ðột-kiết-la.
Tỳ-kheo-ni phạm
Ba-dật-đề.
Ba chúng sau phạm Ðột-kiết-la.
Trường
hợp không phạm
là: Người
ấy có sự
thật như vậy,
sợ sau này có lời
hối hận,
khiến cho như pháp sám hối,
và nói giỡn chơi,
nói một mình, nói trong mộng,
nói nhầm lẫn.
Luật
Thiện kiến
nói:
Cơ
hiềm người
được Tăng
sai, phạm Ba-dật-đề.
Cơ hiềm người
khác, phạm Ðột-kiết-la.
14.
GIỚI TRẢI NGỌA
CỤ CỦA TĂNG
MÀ KHÔNG CẤT
Ðây là
tội ngăn
ngừa. Ðại
thừa
đồng chế.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào, mang giường
giây, gường
cây, hoặc
ngọa
cụ,
đệm (nệm)
ngồi
của
Tăng
bày ra chỗ
đất trống,
hoặc
khiến
người
bày; khi bỏ
đi không tự
mình dọn
cất,
không khiến
người
dọn
cất,
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Trong
thành Xá-vệ có một
Trưởng giả
thỉnh chư
Tăng thọ
trai. Thập thất
quần Tỳ-kheo
lấy tọa cụ
của Tăng trải
nơi chỗ
đất trống,
đi kinh hành,
để chờ
đến bữa
thọ trai. Ðến
giờ không dọn
dẹp, bèn
đi
phú trai.
Tọa cụ
của Tăng
bị gió,
đất,
bụi, trùng, chim cắn
hư, dơ
nhớp không sạch,
cho nên Phật chế.
GIẢI
THÍCH:
Giường
giây, giường caây,
loại nào cũng có 5 thứ:
chân xoay, chân thẳng,
chân cong, chân có lỗ
mộng, và loại không chân.
TƯỚNG
TRẠNG CỦA
TỘI
Vừa
ra khỏi cửa,
phạm Ba-dật-đề.
Một chân trong
cửa, một chân ngoài cửa,
muốn
đi mà chưa
đi, lại hối
hận, tất
cả
đều phạm
Ðột-kiết-la.
Nếu hai người
cùng nằm một
giường, bậc
Hạ tọa nên dọn
dẹp rồi mới
đi. Hạ tọa
nghĩ Thượng
tọa sẽ
dọn dẹp, mà Thượng
tọa không dọn
dẹp, Hạ
tọa phạm
Ba-dật-đề,
lại còn mắc
tội phi oai nghi,
phạm Ðột-kiết-la.
Thượng tọa
bảo Hạ tọa
sẽ dọn dẹp,
mà Hạ tọa
không dọn dẹp,
Thượng tọa
phạm Ba-đật-đề.
Nếu hai người
không ai trước ai
sau cả hai
đều phạm
Ba-dật-đề.
Nếu bao nhiêu thứ
giường khác như
võng, giường gỗ,
ghế ngồi,
ghế ngồi
tắm, hoặc
đồ lót bên trong ngọa
cụ, hoặc
đồ trải
dưới
đất, hoặc
dây gai tơ lụa,
bỏ dưới
đất, không dọn
dẹp bèn
đi, phạm
Ðột-kiết-la.
Trải ngọa
cụ của Tăng
nơi
đất trống,
không dọn dẹp
mà vào trong phòng ngồi
tư duy, phạm
Ðột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni
phạm Ba-dật-đề.
Ba chúng dưới phạm
Ðột-kiết-la.
Luật
Thiện kiến
nói:
Vật
riêng của người khác không dọn
dẹp, phạm
Ðột-kiết-la.
Luận
Tát-bà-đa nói:
Sa-di lớn,
khéo giữ giới
cũng
được dặn
dò vấn
đề này.
Ma-đắc-lặc-già
nói:
Ngọa
cụ của
mình không dọn dẹp,
không bảo người
dọn dẹp, phạm
Ðột-kiết-la.
Luật
Thập tụng nói:
Các Tỳ-kheo
ăn xong, có bạch
y ngồi liền
trên ngọa cụ
của Tăng,
nên đợi bạch y
ăn xong nếu
có người bệnh không thể
chờ lâu
được thì nên
đi, người nào thấy,
nên dọn. Nếu
mất cây gài cửa,
khóa cửa, không có
chỗ
để dọn
dẹp, hay tám nạn
xảy
đến, không dọn
dẹp thì không phạm.
Luật
nhiếp nói:
Có 5 hạng
người không kham
phú chúc:
1) Hạng
người không biết
hổ thẹn.
2) Hạng
người có thù
địch.
3) Hạng
người già yếu.
4) Hạng
người thân có bệnh.
5) Hạng
chưa thọ viên cụ.
Nhớ
mà không dẹp, mắc bổn
tội. Nếu
quên thì chỉ phạm
ác tác.
Tăng-già có y phục,
không đem vật khác thế
vào, vì việc sử
dụng không hợp.
(Nếu
được) vật
thế
ấy không phải
là vật hư
rách. Nếu phu cụ
của Tăng
có chỗ hư
hỏng, cần
phải vá lại.
Nếu bị
đứt
đoạn hư
rách nên vá nối tiếp
lại. Nếu
không thể vá
được thì dùng làm tim
đèn hay làm khăn
lau, hoặc vằm
ra trộn hồ
dùng để trét tường,
trám lỗ hổng,
khiến cho thí chủ
được thêm phước.
Khi nghe pháp, không nên cùng với
Tỳ-kheo-ni, người
thế tục,
cầu tịch,
thọ học
nhơn, cùng ngồi
gần. Nếu
có nạn duyên thì
không phải tội.
Người không hạ
không được cùng ngồi
với người
ba hạ. Người
một hạ không
được cùng với
người bốn hạ
đồng ngồi.
Người hai hạ
trở lên
được cùng với người
trên ba hạ
đồng ngồi. Nếu
trong nhà bạch y chỗ
ngồi tạm,
tuy cùng với Ô-ba-đà-đa,
cùng ngồi, không phạm.
Không được một
giường hai người
cùng nằm, có người
tàm quý, không phạm.
Nếu trên
đường
đi nhận
được áo choàng ngăn
ở chặng giữa,
đồng nằm,
chẳng phạm.
Nếu có thí chủ
dùng y (vải) trải trên
đất thỉnh
chúng Tăng
đi lên trên, hoặc
đồ quý báu trang
hoàng trên tòa sư tử,
dùng áo của người
tục trải
phủ lên
để trần thiết,
nên sanh lòng mẫn
niệm, nghĩ tưởng
vô thường,
đi lên trên, không
phạm. Nếu thí chủ
mượn mền
chiếu của
Tăng thì nên cho.
Việc xong bảo họ
mau trả lại,
nhớp thì giặt.
Nếu chùa bị
cháy, trước hết
đem
đồ dùng y bát ra trước,
rồi
đến
đem tài sản
thường trụ
ra sau, sai một người
yếu
đứng giữ.
Lửa cháy mạnh không
được vội
vào. Bị nước
lụt cũng nên áp dụng
như vậy.
15.
GIỚI KHÔNC DỌN DẸP
NGỌA CỤ
TRONG PHÒNG TĂNG
Ðây là
giá tội. Ðại
thừa
đồng học.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào,
ở
trong Tăng
phòng, tự
mình hoặc
bảo người trải
ngọa cụ
của Tăng
để ngồi,
hoặc nằm,
khi
đi
không tự
mình dọn
cất, không khiến người dọn
cất, Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Ðức
Phật
ở nơi
Ky-hoàn, có khách Tỳ-kheo,
nói với
vị cựu
trú: “Tôi trải ngọa
cụ một
bên trong Tăng phòng
để
ngủ.” Sau
đó
không nói với vị
cựu trú bèn bỏ
đi. Ngọa
cụ của
Tăng bị
mục hư,
trùng cắn. Thời
gian lâu, vị cựu
trú không thấy khách Tỳ-kheo,
đến nơi
phòng xem, thấy sự
việc như
vậy, cơ
hiềm, bạch
Phật, kiết
giới.
TƯỚNG TRẠNG CỦA
TỘI
Ra khỏi
giới, phạm Ba-dật-đề.
Một chân ra ngoài giới
v.v... Ðột-kiết-la.
Không
phạm: Ði không lâu
trở lại
và các nạn duyên v.v...
16.
GIỚI CƯỠNG
ÐOẠT CHỖ
ÐỂ NGỦ
Ðây là
tánh tội. Ðại
thừa
đồng học.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào,
đã biết
đó là chỗ
nghỉ
của
Tỳ-kheo
khác, mình
đến sau cố
chen vào giữa
trải
ngọa
cụ
đeå ngủ
nghỉ,
với
ý nghĩ
rằng:
“Vị
ấy nếu
hiềm
chật
sẽ
tự
tránh
đi chỗ
khác.” Hành
động với
nhân duyên
ấy chớ
không gì khác, không phải
oai nghi khác, Ba-đật-đề.
NGUYÊN DO:
Lục
quần cùng với
Thập thất
quần, trên
đường
đi,
đến trú xứ
không có Tỳ-kheo.
Thập thất
quần nói với
lục quần
rằng: “Quý ngài là
bậc Thượng tọa
của chúng tôi, nên
tìm chỗ yên nghỉ trước”.
Lục quần
trả lời:
“Các ông tự
đi tìm nơi nghỉ
đi, chúng tôi không
cần tìm nơi nghỉ”.
Thập thất
quần liền
đến tìm chỗ,
trải ngọa
cụ yên nghỉ.
Lục quần
bèn đến nói: “Các
ông phải thức dậy,
cần phải
nằm theo thứ
tự lớn
nhỏ”. Thập
thất quần
không chịu. Lục
quần cưỡng
bức trải
ngọa cụ.
Thập thất
quần la lớn: “Các ngài
đừng làm vậy!”
Các vị Tỳ-kheo
thiểu dục
nghe, cơ hiềm,
bạch Phật,
kiết giới.
Trường
hợp có Tỳ-kheo
không biết, trước
đó
đã có ai
định chiếm chỗ
hay chưa, sau
đó mới
biết
đã có người
định chiếm, sám Ba-dật-đề,
có người vì cẩn
thận sợ,
bạch Phật,
Phật nói: “Không biết,
không phạm”.
GIẢI
THÍCH:
Chặng
giữa là bên
đầu, hay bên chân,
hay bên hông.
TƯỚNG
TRẠNG CỦA
TỘI
Tỳ-kheo-ni
phạm Ba-dật-đề.
Ba chúng dưới phạm
Ðột-kiết-la.
Không
phạm: Rộng
rãi không phòng ngại
gì nhau, hay có người
thân quen bảo, hoặc bị
bệnh ngã, bị
trói buộc v.v...
Luật
Tăng kỳ
nói:
Nếu
trú xứ nhỏ
chật, một
Tỳ-kheo chiếm
một nơi
nào, vừa phải,
trải giường
nệm, lấy
Ni-sư-đàn
phủ lên trên, rồi
đến nơi
hai vị Thầy
hoặc lễ
bái hỏi chào hoặc
thọ
đọc tụng.
Sau đó có Tỳ-kheo
khác đến, kề bên Ni-sư-đàn
mà vị trước
đã trải, tự
trải Ni-sư-đàn
để ngồi, tụng
kinh tiếng nhỏ.
Vị Tỳ-kheo
trước kia trở về
thấy vậy,
nghĩ rằng:
Ai đã chiếm
chỗ người
khác thế này, liền
cuốn Ni-sư-đàn
đi chỗ
khác; vị Tỳ-kheo
đến sau phạm
Ba-dật-đề.
Ngồi thiền,
bệnh, cũng
như vậy. Nếu
đến nơi giường
người khác ngủ,
vị
đó laø bậc
Thượng tọa,
nên nói: “Trưởng
lão không biết Thế
Tôn chế giới
sao?” Nếu vị
ngủ
đoù là Hạ
tọa nên quở
trách: “Ông không tốt,
không biết giới tướng,
tại sao
đến sau mà ngủ
trên giường người
khác?” Nếu Tỳ-kheo
muốn kinh hành nơi
chỗ lạ, thấy
Tỳ-kheo
đến trước mình thì nên tránh
đi. Nếu
ban đêm khi ngủ, tiếng
ngáy, mớ chấn
động, không có ý tạo
nhiễu loạn, thì không có tội.
Luật
Thập tụng nói:
Người
có khả năng
trải, mắc
Ba-dật-đề,
không khả năng
trải mắc
Ðột-kiết-la.
Nếu làm phiền người
khác, đóng cửa
mở cửa,
đóng cửa
này, mở cửa
kia, đốt lửa,
dập lửa,
đốt
đèn, tắt
đèn,
đọc kệ,
đọc kinh, nói pháp,
vấn nạn,
tùy theo người khác
không bằng lòng việc
ấy như
thế nào, mỗi mỗi
phạm một
Ba-dật-đề.
17.
GIỚI KÉO NGƯỜI RA KHỎI
PHÒNG
Ðại
thừa
đồng chế.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào, giận
hờn, không
ưa Tỳ-kheo
khác, tự
mình lôi kéo ra khỏi
Tăng phòng, hay khiến người khác lôi
ra, Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Cũng
do bởi lục
quần kéo Thập
thất quần
ra khỏi phòng nên
Phật chế.
TƯỚNG
TRẠNG CỦA
TỘI
Tùy
theo vấn
đề kéo ra nhiều
hay ít, tùy theo vấn
đề ra khỏi
cửa nhiều hay ít, mỗi
mỗi phạm
một Ba-dật-đề.
Nếu cầm
vật của người
khác bỏ ngoài cửa,
đóng cửa
lại,
đều phạm
Ðột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni
phạm Ba-dật-đề.
Ba chúng sau, phạm
Ðột-kiết-la.
Không
phạm: không có tâm
giận dữ,
theo thứ tự
đi ra. Hay là bảo
người chưa
thọ giới
Cụ túc, sau ba
đêm
đã ngủ chung phòng ra ngoài. Hoặc kẻ
phá giới, phá kiến
cho đến kẻ
cần diệt
tẫn v.v...
Luật
Ngũ phần nói:
Nếu
hướng dẫn người
không vui với nhau
đến
ở chung một
phòng, muốn khiến cho họ
tự
đi ra, họ
ra hay không đi ra
đều phạm Ðột-kiết-la.
Kéo bốn
chúng khác phạm Ðột-kiết-la.
Ni kéo Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni ra, phạm
Ba-dật-đề.
Kéo ba chúng sau ra, phạm
Ðột-kiết-la.
Nếu kéo người
không biết tàm quý,
hay muốn hàng phục
đệ tử,
kéo ra không phạm.
Luật nhiếp
nói:
Nhà muốn sập
đổ, khiên người
bệnh ra, không phạm.
Nếu có Tỳ-kheo
ưa
đấu tranh,
đối với
phép tắc luật lệ
hầu hết là sai trái; Người
như vậy vì giận
mà kéo ra, không có thiện
tâm, cũng mắc
ác tác. Nếu chỗ
đó không phải
là Tăng phòng, lôi
Tỳ-kheo thanh tịnh
ra, mắc tội
ác tác. Nếu là người
phá giới,
đại chúng nên cùng
nhau đuổi
ra. Nếu họ
dựa nơi
cửa hay ôm
trụ cột,
tất cả
nên chặt
để xô họ ra. Sự
việc xong, những
chỗ hư
hại, Tăng
nên tu bổ lại.
Vì chúng môn đồ
mong muốn họ
từ bỏ
điều
ác, kéo ra khỏi
phòng không phạm.
Song không được khiến họ
ra khỏi trú xứ,
nếu không phải
tội phá giới, mà chỉ
không chịu nghe lời
thôi, nên dùng phép kéo lôi mạnh
để chiết
phục họ.
Nên nhờ người
trí đến khuyên can họ,
khiến họ
chấm dứt
điều
ác, lại sám hối
tạ tội.
(Pháp kéo lôi mạnh
có giải nói nơi
giới 64). Nếu
ở nơi
trú xứ, rắn
bỗng nhiên
đến, nên khaûy móng
tay nói: “Hiền thủ, ngươi
nên đi nơi
khác, chớ làm phiền
bận Tỳ-kheo.” Nếu
nói rồi mà nó không
đi, nên dùng dây mềm
cột
để nó không bị
thương tích. Ðem nó
bỏ trong rừng,
cỏ,
đợi nó chui vào lỗ,
hang, rồi mới
đi. Nếu bỏ
rận rệp, nên bỏ
nơi cỏ mềm,
xem thời tiết
lạnh nóng, tùy
đó mà bỏ
nó nơi thuận
lợi. Nếu
không thì để nó nơi lỗ
vách, lỗ cột,
mặc tình nó tự
sống.
Luật
Tăng kỳ
nói:
Lạc
đà, trâu, ngựa,
ở trong Tháp, sợ
nó phá hư Tháp,
đuổi
ra, không tội.
18.
GIỚI TRÊN GÁC NGỒI
GIƯỜNG SÚT CHAÂN
Ðại
thừa
đồng chế.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào, tại
Tăng phòng, trên tầng gác, nằm hay ngồi
trên giường,
ghế,
bằng chân lắp,
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Có một
Tỳ-kheo
ở trên tầng
gác, ngồi trên giường
chân đã sút,
ngồi không an toàn,
chân giường rớt
xuống tầng
dưới, trúng một
thầy Tỳ-kheo
bị thương
đến máu chảy,
nên Ðức Phật chế
cấm.
GIẢI
THÍCH:
Tầng gác: là chỗ
ở, người
đứng quá
đầu.
TƯỚNG TRẠNG
CỦA TỘI
Ngoài
loại giường
chân lắp bị
sút ra, nếu ngồi
trên giường riêng một
mình, hoặc trên bộ
ván, hay ghế ngồi
tắm, tất
cả
đều phạm
Ðột-kiết-la.
Tỳ-kheo-ni phạm
Ba-dật-đề.
Ba chúng dưới phạm Ðột-kiết-la.
Trường
hợp không phạm:
ngồi trên giường
chân xoay, chân thẳng,
chân cong hay không chân mà tầng
lầu có ván bảo
vệ...
Luật
Tăng kỳ
nói:
Dưới
lầu không có người,
ngồi không phạm.
Luận
Tát-bà-đa nói:
Pháp nằm
ngồi, tất cả
đều phải
coi kỹ cẩn
thận. Nếu
không coi kỹ cẩn
thận
ắt phải
bị thương, lại
mất oai nghi.
19.
GIỚI NƯỚC
CÓ TRÙNG, TRỘN HỒ
TRÉT VÁCH
Ðây là
tánh tội. Ðại
thừa
đồng chế.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào, biết
nước có trùng, tự mình hoặc bảo
người tưới
lên bùn hoặc
cỏ, Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Xiển-đà
xây cất nhà lớn,
dùng nước có trùng
trộn hồ,
dạy người
trộn. Các Trưởng
giả thấy,
cơ hiềm
chê trách, nên đức
Phật chế cấm.
TƯỚNG
TRẠNG CỦA
TỘI
Tỳ-kheo-ni
phạm Ba-dật-đề.
Ba chúng dưới Ðột-
kiết-la.
Không
phạm: không biết
có trùng. Nếu trùng
lớn dùng tay khua
động nước
cho nó tránh chỗ
khác. Hoặc
nước
đã lược
tưới
đất.
Luật
Ngũ phần nói:
Nước
có trùng là nước phải
dùng đãy lọc
mới thấy
có trùng, hay dùng mắt
thịt trông thấy.
Nếu có trùng hay tưởng
là có trùng, nghi, đều
phạm Ba-dật-đề.
Không có trùng, tưởng
là có trùng, nghi, đều
phạm Ðột-kiết-la.
Dùng, có dùng bên trong, dùng bên ngoài. Dùng bên trong là
để
ăn uống. Dùng bên ngoài là dùng
để tắm,
tưới giặt,
rửa...
Luật
Thập tụng nói:
Tùy
theo trùng bị chết,
mỗi con là một Ba-dật-đề.
Luật
Tăng kỳ
nói:
Nếu
Tỳ-kheo trong chức
năng xây cất
phòng nhà, cần nước,
nước ao, nước
sông, nước giếng,
đem lược
đựng
đầy lu, xem không
có trùng mới dùng.
Nếu vẫn
còn có trùng, thì may cái
đãy lọc hai
lớp
để lọc.
Hai lớp mà còn có
trùng thì dùng cái đãy
ba lớp
để lọc.
Nếu vẫn
có trùng thì nên đào
giếng, xem cho kỹ
như trước
đã nói. Nếu vẫn
có trùng thì phải
đình chỉ công tác,
đến chỗ
khác xây cất. Trùng
sanh bất thường, hoặc
trước không nay có,
hoặc nay có sau
không, cho nên Tỳ-kheo
hằng ngày xem cho kỹ,
không có trùng mới
dùng.
Luận
Tát-bà-đa nói:
Nếu
làm đãy lọc nước
bằng ba lớp
vải mà lược
còn có trùng thì không nên
ở chỗ như
vậy.
20.
GIỚI LỢP
PHÒNG QUÁ BA LỚP
TRANH
Ðây là
giá tội. Ðại
thừa
đồng học.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào, làm phòng xá lớn,
cánh cửa,
khung cửa
sổ,
và các thứ
trang trí khác, chỉ
bảo
người
lợp
tranh ngang bằng
hai, ba lớp
nếu
quá, Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Xiển-đà
cất phòng lớn,
lợp tranh còn dư,
bảo lợp
thêm lớp nữa.
Ba lần lợp
thêm như vậy
mà không thôi, nhà bị
sập xuống, các cư
sĩ thấy, cơ
hiềm chê trách, cho
nên Phật chế cấm.
TƯỚNG TRẠNG CỦA
TỘI
Tỳ-kheo-ni phạm
Ba-dật-đề.
Ba chúng dưới phạm
Ðột kiết-la.
Luật Ngũ
phần nói:
Nếu lợp
đến lớp
thứ tư, hoặc
tranh, hoặc ngói,
hay ván mỗi mỗi
đều phạm
Ba-dật-đề.
Khi tiến hành và
chuẩn bị
đều phạm
Ðột-kiết-la.
Luật Căn
bản nói:
Nếu là ngói chín và
cây, đá mà thí chủ
muốn làm mau thành,
tuy quá số lượng
đã
ấn
định bao nhiêu lớp,
đều không phạm.
21. GIỚI TỰ
TIỆN ÐẾN
DẠY NI
Ðây là giá tội. Ðại
thừa Tỳ-kheo
đồng học.
Giới này cần
quán sát căn cơ,
xét thấy có lợi
ích lớn thì không phạm.
Tuy nhiên, đời mạt
pháp cần phải
thận trọng.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào, không
được
Tăng sai mà giáo thọ Tỳ-kheo-ni,
phạm
Ba-dật-đeà.
NGUYÊN DO:
Ðức
Phật
ở Ky-hoàn, bà Ðại
Ái Ðạo cầu
Phật cho phép các Tỳ-kheo
giáo giới, thuyết
pháp cho Ni. Phật bảo
ngài A-nan theo thứ
tự sai các Thượng
tọa
đến dạy.
Khi ấy, Tôn giả Ban-đà
đến dạy, mà ngài chỉ
tụng một
bài kệ. Ba lần
nói kệ xong, ba lần
nhập
đệ tứ
thiền. Các La-hán
Ni đều rất vui mừng.
Lục quần
Ni chế nhạo
chê bai. Tôn giả hiện
thần thông trở
về. Khi
ấy, lục quần
Tỳ-kheo tự
đến giáo giới,
không nói Chánh pháp, chỉ
nói chuyện thế tục,
cho đến múa hát nhảy
nhót v.v... Lục quần Ni rất
vui mừng. Bà Ðại
Ái Ðạo bạch
Phật, Phật
chế rằng:
“Tăng phải
Bạch nhị
yết-ma, sai người
đến giáo thọ
Tỳ-kheo-ni.” Lúc
ấy, Lục
quần lại
ra ngoài giới cùng
nhau sai đến dạy. Bà Ðại
Ái Ðạo thưa
Phật lần
nữa. Phật
bảo phải
thành tựu 10 pháp mới
đến dạy
Tỳ-kheo-ni:
1) Giới luật
đầy
đủ.
2) Ða văn, tụng
hai bộ giới
cho rành
3) Quyết
đoán không nghi.
4) Thuyết
pháp giỏi.
5) Tộc tánh
xuất gia.
6) Nhan sắc
đoan chánh.
7) Ni chúng thấy
hoan hỷ.
8) Ðủ khả
năng thuyết
pháp khiến Ni chúng
hoan hỷ.
9) hông vì Phật xuất
gia mà mặc áo pháp, không phạm
trọng tội.
10) Ðủ 20 hạ
hay nhiều hơn.
Ðầy
đủ 10
điều
trên mới giáo giới
cho Ni. Ðức Phật bèn kiết
giới này.
Luật
Căn bản nói:
Ðủ
7 pháp này chúng nên sai giáo giới
Ni:
1) Trì giới.
2) Ða văn.
3) Bậc kỳ
túc.
4) Rành ngôn ngữ
thành thị.
5) Chính mình chưa
hề làm
ố Ni.
6) Khéo phân biệt 8
tha thắng
(Ba-la-di).
7) Ðối với
8 pháp tôn kính có khả
năng giải
thích hay và rành rẽ.
GIẢI
THÍCH:
Giáo thọ
là dạy 8 pháp
“Không được trái phạm”
của Tỳ-kheo-ni:
1) Tỳ-kheo-ni
100 hạ, thấy
Tỳ-kheo mới
thọ giới
phải
đón tiếp,
hỏi chào, lễ
bái, mời ngồi.
2)
Không được mạ
nhục hủy
báng Tỳ-kheo.
3)
Không được cử
tội Tỳ-kheo
và ngăn tìm tội, thuyết
giới, Tự
tứ.
4) Phải
đến
đại Tăng
cầu thọ Ðại
giới.
5) Phạm
Tăng tàn phải giữa
hai bộ Tăng,
hành pháp Ma-na-đỏa
trong nửa tháng.
6) Nửa tháng phải
đến giữa Tăng
cầu thầy
giáo thọ.
7) Không nên an cư chỗ
không có Tỳ-kheo.
8) An cư xong phải
đến Tỳ-kheo Tăng
cầu ba việc
Tự tứ,
kiến, văn, nghi.
Tám việc
trên, nên tôn trọng
cung kính, khen ngợi,
trọn
đời không
được trái phạm.
TƯỚNG
TRẠNG CỦA
TỘI
Không
phải ngày giáo thọ
mà đến nói 8 pháp
“không được trái phạm”
trên, phạm Ðột-kiết-la.
Nếu Tăng
sai đến, nên nói rõ
thời gian. Ni chúng
phải nhớ rõ thời
gian để nghinh
đón. Hẹn giờ
đến mà không
đến phạm Ðột-kiết-la.
Luật
Tăng kỳ
nói:
Từ
lúc mặt trời xẩm
tối, cho
đến tướng mặt
trời chưa
hiện rõ, không
được giáo giới
Ni, không được dạy chỗ
tạp nhạp
ở nơi
khuất kín, không
được dạy chỗ
trống trải.
Nên dạy chỗ
không trống trải
quá, không kín đáo
quá, hoặc nơi
giảng
đường hay dưới gốc
cây, không được
đến giáo giới những
ngày 14, 15, mồng
1, 2, 3, mà nên đến
giáo giới từ
ngày mồng 4
đến ngày thứ 13. Không
được giáo giới
cho Ni chúng không hòa hiệp.
Sau khi đến, nên hỏi Ni chúng có hòa hiệp
không? Nếu nói hòa
hiệp thì mới bảo
họ tập họp.
Người nào không
đến
được, phải
gởi dục
giáo giới. không
được giáo giới
một cách thiên lệch,
không được giáo giới
một cách dài dòng.
Luật Ngũ
phần nói:
Nếu không
được Tăng
sai mà đến giáo giới
Ni, thì mỗi lời
phạm Ba-dật-đề.
Giáo giới hai chuùng dưới
phạm Ðột-kiết-la.
Luật
Thiện kiến
nói:
Nếu không nói Bát
kính pháp trước khi
nói pháp khác, phạm
Ðột-kiết-la.
Luật
Thập tụng
nói:
Tỳ-kheo
nên tụng giới
của Ni,
đừng
để quên mất.
Tại sao vậy?
Phật dạy:
“Các người nữ
ưa quên, trí tuệ
tán loạn. Sau khi Ta
nê-hoàn (Niết-bàn)
các Ni nên
đến
đại
Tăng hỏi
giới pháp.
PHỤ:
Luật
Ngũ phần
nói:
Nếu
Tỳ-kheo
không
được Tăng
sai làm giáo thọ
mà cố
vào trong trú xứ
của
Ni, trừ khi có nhân duyên,
phạm
Ba-dật-đề.
Nhân duyên là Tỳ-kheo-ni
bệnh.
Nếu Tăng
không sai làm giáo thọ
mà cố vào trú xứ
Ni, tùy theo vào nhiều
hay ít, mỗi
bước phạm
một Ba-dật-đề. Một
chân trong cửa, phạm
Ðột-kiết-la.
(Luật Tăng
kỳ cũng
có giới này nên phụ
nơi
đây).
22.
GIỚI DẠY
NI ÐẾN CHIỀU
TỐI
Ðại
thừa
đồng học.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào, tuy
được
Tăng sai, nhưng giáo thọ Tỳ-kheo-ni
cho
đến
mặt trời lặn,
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Nan-đà
âm thanh tốt (Luận
Tát-bà-đa
nói không phải Nan-đà em Phật)
vì Ni nói pháp, thính giả
thích nghe, nên kéo dài đến
chiều tối.
Ni ra khỏi Ky-hoàn
để vào thành, cửa
thành đã
đóng, nên phải
ngủ ngoài thành, sáng ngày vào thành sớm
hơn mọi
người. Các Trưởng giả
hủy báng cho là
cùng ngủ với
Tỳ-kheo, nên Phật
chế cấm.
TƯỚNG
TRẠNG CỦA
TỘI
Trừ
giáo thọ, nếu
thọ kinh, tụng
kinh v.v... các việc,
cho đến chiều
xẩm tối, phạm
Ðột-kiết-la.
Không
phạm: trên thuyền
chỗ
đông người
nói pháp cho Ni nghe. Cùng với
khách buôn đi, ban
đêm nói pháp
cho Ni nghe. Hoặc
đến trong chùa Ni
nói pháp, hoặc ngày
thuyết giới
đến thỉnh
vị giáo giới, gặp
nói pháp bèn nghe.
Luật
nhiếp nói:
Tuy
đúng thời
mà Ni đứng không ngồi,
hoặc bận
rộn công việc
chưa xong, hoặc có việc
trở ngại
mà vì họ nói pháp, cũng
gọi là phi thời.
Chiều xẩm,
hay tưởng chiều
xẩm v.v... sáu câu,
2 nặng, 2 nhẹ,
2 không phạm hoặc nói pháp suốt
đêm, hoặc
cửa chùa gần
nhau, hoặc cửa
thành không đóng,
hoặc
đồng
ở trong thành, hoặc
Ni chúng ở nhà bạch y,
đều không phạm.
Người
giáo thọ Ni,
được sai một
lần rồi, suốt
đời giáo thọ
khỏi phải
sai lại.
23.
GIỚI CƠ
HIỀM LUẬN
BÀN VIỆC DẠY
NI
Ðại
thừa
đồng học
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào, nói với
các Tỳ-kheo
như
vầy: “Tỳ-kheo vì sự
ăn uống
mà giáo thọ
Tỳ-kheo-ni”, Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Ni nghe
thầy giáo thọ
đến, cách xa nửa
do-tuần
đón tiếp,
mời vào phòng khang
trang, đồ
ăn có sẵn,
có chỗ tắm
rửa. Lục
quần không
được Tăng
sai, lòng sanh đố kỵ,
nói như vậy,
nên Ðức Phật
chế cấm.
TƯỚNG TRẠNG CỦA
TỘI
Nói một
cách rõ ràng, phạm
Ba-dật-đề;
không rõ ràng phạm
Ðột-kiết-la. Bốn
chúng dưới, phạm
Ðột-kiết-la.
Không
phạm: Sự
thật là vậy,
cho đến nói trong mộng,
nói nhầm v.v...
Luật Ngũ
phần nói:
Nếu nói vì cúng dường
nên Tỳ-kheo giáo giới,
ba chúng dưới phạm Ðột-kiết-la.
Nếu noùi Tỳ-kheo
hành 12 hạnh
đầu-đà,
tọa thiền,
tụng kinh, làm các công
đức
đều vì sự
cúng dường, mỗi
lời nói phạm
một Ðột-kiết-la.
24.
GIỚI CHO Y NGƯỜI NI KHÔNG PHẢI
BÀ CON
Ðại
thừa không
đồng học. Song
đời mạt
pháp, nên phải xét
cẩn thận.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào, cho y cho Tỳ-kheo-ni
không phải
thân quyến,
trừ
trao
đổi,
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Thành
Xá-vệ có một
Tỳ-kheo
đi khất
thực, oai nghi
đầy
đủ. Lúc bấy
giờ, có một Tỳ-kheo-ni
thấy, bèn sanh thiện
tâm, bao nhiêu lần
thỉnh Tỳ-kheo
kia, nhưng Tỳ-kheo
kia không nhận lời.
Sau đó, trong chúng
chia y vật, Tỳ-kheo
ấy
đem phần
y của mình ra khỏi
cửa Ky-hoàn, thấy
cô Ni kia liền
đưa cho, với
ý nghĩ là cô
ấy không nhận,
nhưng không ngờ
cô Ni ấy lại
nhận. Tỳ-kheo
đó thường
đến người
để cơ
hiềm, nên
đức Phật
chế cấm.
TƯỚNG TRẠNG
CỦA TỘI
Bốn
chúng dưới phạm
Ðột-kiết-la.
Luật
Ngũ phần
nói:
Nếu
cho y cho cô Ni phá giới,
tà kiến, mà laø bà
con, phạm Ðột-kiết-la.
Luật
Căn bản
nói:
Nếu
cho y cho người bà
con, tưởng bà con,
không phải bà con tưởng là bà con, không phạm. Hay gặp
phải nạn,
không có y để mặc,
nên cho; hoặc nhân
thọ giới
mà cho y, không phạm.
Luận
Tát-bà-đa nói:
Cho y
cho hai chúng nữ
khác, đồng phạm.
25. GIỚI MAY Y CHO
NI KHÔNG PHẢI BÀ
CON
Ðại
thừa
đồng học.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào, may y cho Tỳ-kheo-ni
không phải
thân quyến,
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Ca-lưu-đà-di
vì một cô Ni may y, bèn làm tượng nam nữ
hành dục, may xong
xếp y giao cho Ni,
với lời
dặn rằng: “Ðừng
trương ra xem, cũng
đừng cho ai coi;
khi thời
đến, bận y này
đi sau Ni chúng”. Vị
Ni kia làm theo lời
dạy... Các cư sĩ
thấy, cơ
hiềm chê cười.
Bà Ðại Ái Ðạo hiểu
biết sự
việc. Các ni bạch
với các Tỳ-kheo, nhờ
bạch
đức Thế
Tôn, kiết giới.
TƯỚNG TRẠNG CỦA
TỘI
Bốn
chúng dưới phạm Ðột-kiết-la.
Luật
Ngũ phần nói:
Khi lấy
y, phạm Ðột-kiết-la.
Khi cắt, khi nhuộm
đều phạm
Ba-dật-đề.
26. GIỚI CÙNG VỚI NI NGỒI
CHỖ VẮNG
Ðại
thừa
đồng học.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào, ngồi
một mình với một
Tỳ-kheo-ni tại chỗ khuất
kín, Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Ca-lưu-đà-di
đến chỗ
ở của Thâu-lan-nan-đà,
cùng ngồi một
chỗ
ở bên ngoài cửa.
Cư sĩ
cơ hiềm nên Phật
chế.
GIẢI THÍCH:
Chỗ
khuất kín như
trong pháp Bất
định
đã trình bày.
TƯỚNG TRẠNG
CỦA TỘI
Ðui mà
không điếc,
điếc mà không
đui, phạm
Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Có hẹn, hay
đi
qua bất ngờ
bị
té v.v..
Luật
Ngũ phần nói:
Cùng với
hai chúng nữ khác
ngồi choã vắng cũng
phạm Ba-dật-đề.
Luật
nhiếp nói:
Dầu
là các oai nghi khác cũng
đều phạm như
nhau.
27.
GIỚI CÙNG NI ÐỒNG
ÐI
Ðây là
giá tội, Ðại
thừa
đồng học.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào, hẹn
và cùng
đi chung
đường với
Tỳ-kheo-ni,
từ
một
xóm
đến một
xóm, trừ
trường
hợp
đặc biệt,
Ba-dật-đề.
Trường
hợp
đặc biệt
là: cùng
đi với
khách buôn, hoặc
khi có nghi ngờ,
có sợ
hãi. Ðây gọi
là trường
hợp
đặc biệt.
NGUYÊN DO:
Lục
quần cùng với
Lục quần
Ni du hành trong nhơn
gian, cư sĩ
cơ hiềm cho nên Phật
cấm. Giữa
đường tình cờ
gặp, vì cẩn thận
sợ không dám cùng
đi, Phật dạy:
“Không hẹn, không
phạm”. Lại nữa,
chúng Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni
từ nước
Xá-vệ
đến Tỳ-xá-ly, do bởi
không được cùng
đi chung, nên Ni phải
đi sau, bị
bọn cướp,
cướp
đoạt
tư cụ, nên Phật
lại khai cho trường
hợp
đặc biệt.
GIẢI
THÍCH:
Luật
Thập tụng nói:
Nghi có
hai loại:
- Nghi mất
y bát.
- Nghi mất
lương thực.
Nếu
nghi sợ Ni mất
y bát thì Tỳ-kheo
nên mang hộ cho Ni
mà đi;
đến chỗ
an toàn nên đưa lại và nói: “Các cô tùy ý, không thể
cùng đi”.
TƯỚNG
TRẠNG CỦA
TỘI
Nếu cùng Ni hẹn
đi, cho
đến khoảng cách một
thôn, tùy chúng nhiều
ít, cương giới thôn nhiều
ít, mỗi mỗi
phạm Ba-dật-đề.
Nơi khoảng
trống không,
đi 10 dặm
phạm một
Ba-dật-đề.
Nếu dưới
một thôn hay dưới
10 dặm, hoặc
chuẩn bị
muốn
đi,
đều phạm
Ðột-kiết-la.
Bốn chúng dưới
phạm Ðột-kiết-la.
Không
phạm: Bị
thế lực
buộc phải
đi v.v...
Luật
Tăng kỳ
nói:
Nếu
cùng đi xe với bạn,
xe ngừng, khi xe
đi lại,
nên gọi Ni, nếu
để họ
đi không kịp,
phạm Ba-dật-đề.
Trường hợp
đó, nếu
kêu: “Ði đi kẻo
trễ”. Không có tội.
Cho đến hỏi
đường, hỏi
nhà Ðàn-việt cũng
vậy.
Luật
nhiếp nói:
Rủ
nhau đi
đường bộ,
sau đó lại
nương nơi
không mà đi, hiện thân cùng hẹn,
ẩn hình mà
đi,
đều mắc
tội ác tác. Ði thuyền
cũng vậy.
Luận
Tát-bà-đa nói:
Không hẹn
mà tình cờ gặp
cùng đi, nên bảo
đi cách nhau trong
tầm của
tiếng nói.
Nếu
đi gần
nhau trong vòng tầm
nghe của tiếng
nói, phạm Ðột-kiết-la. Cùng với
hai chúng nữ khác hẹn
đi,
đồng phạm.
Luật
Thập tụng nói:
Nếu
có vương phu nhơn cùng
đi, không phạm.
PHỤ:
Luật
nhiếp nói:
Tỳ-kheo
có sự hiềm
khích không nên cùng đi.
Nếu có nhân duyên
phải cần
đi với nhau, nên sám hối
rồi mới
đi. Trên
đường
đi với
nhau nên nói pháp lành, không nên buông ra những
lời thô ác. Hoặc
là im lặng như
Thánh nhơn, chớ
khiến tâm tán loạn.
Nếu
đến miếu
thờ Thiên thần,
tụng Già-đà
của Phật,
khảy móng tay mà
đi qua. Tỳ-kheo không nên cúng dường
Thiên thần. Nếu
trên đường
đi gặp
chỗ có thể tạm
nghỉ, hoặc
chỗ ao hồ,
suối cần
lấy nước,
đều tụng Già-đà.
Chỗ cần nghỉ
lại
đêm cần
tụng ba biến.
Giây xách nước cũng nên mang theo. Nếu
có cơ duyên cùng với
Ni đồng hành, vật
thực của
Ni, Tỳ-kheo nên mang
đi,
đến bữa
ăn trao cho họ.
Nếu có Tỳ-kheo bệnh
nên cùng nhau khiêng đi;
nếu ít người, Ni cũng
tiếp tay
để khiêng. Ðến
thôn xóm nên tìm thuốc
chữa. Khi khất
thực, bảo
họ coi
đồ
đạc. Khất thực
về chia phần
cho họ. Ni có bệnh
theo đây nên biết.
28.
GIỚI ÐI ÐỒNG THUYỀN
VỚI NI
Ðại
thừa
đồng học.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào, hẹn
và
đi chung thuyền với
Tỳ-kheo-ni dù
đi ngược dòng hay
xuôi dòng, trừ qua ngang,
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Duyên
khởi
đồng như
giới trước.
Trừ qua ngang, vì
có chúng Tỳ-kheo và
Ni cần
đi qua sông Hằng,
các Ni phải
đi chuyến
đò sau, nước lớn,
trời
đã chiều
tối,
đò chưa
đến, bị
giặc cướp,
nên khai cho.
TƯỚNG
TRẠNG CỦA
TỘI
Hẹn
cùng đi chung thuyền,
ngược dòng hay xuôi dòng, bước vào trong thuyền,
phạm Ba-dật-đề.
Một chân trong thuyền
sắp sửa
bước vào v.v... phạm
Ðột-kiết-la.
Bốn chúng
khác phạm Ðột-kiết-la.
Không
phạm: không cùng hẹn
và bị bắt
buộc....
Luật
Thập tụng nói:
Nếu
đi
đò ngang mà bị
trôi xuống, không
phạm.
29.
GIỚI NHỜ NI KHEN MÀ ÐƯỢC
ĂN
Ðại
thừa
đồng học,
thuộc về
tà mạng.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào,
ăn
thức
ăn
mà
được biết là do Tỳ-kheo-ni
khuyến
hóa, trừ
Ðàn-việt
có chủ
ý trước, Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Một
Trưởng giả
ở thành Xá-vệ,
thỉnh ngài Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên
thọ trai. Thâu-lan-nan-đà
hủy báng, cho hai
ngài là người hạ tiện,
và khen ngợi Ðề-bà-đạt là bậc
vua trong loại rồng.
Trong chốc lát hai
ngài đeán,
Thâu-lan-nan-đà lại
trở lời: “Vua trong loài rồng
đã
đến”. Cư
sĩ cơ hiềm
Thâu-lan-nan-đà.
Hai ngài dùng trai rồi,
trở về
bạch Phật,
Phật bèn quở
trách Ðề-bà-đạt...
kiết giới.
Sau đó, Tỳ-kheo
không biết có Ni
khuyến hóa hay
không có Ni khuyến
hóa Phật dạy:
“Không biết không
phạm.”
Lại
nưõa, nơi thành La-duyệt
có vị
đại Trưởng giả
muốn
đợi Lê-sư-đạt
đến, rồi
cúng dường chúng Tăng.
Sau đó Lê-sư-đạt
đến thành La-duyệt,
có Ni đến nói cho Trưởng
giả biết,
Trưởng giả
liền thiết
trai soạn, cúng dường.
Lê-sư-đạt
sợ phạm
giới nên không thọ
thực. Do
đó, lại
trừ Ðàn-việt
có ý thỉnh trước.
GIẢI
THÍCH:
Khuyến hóa: là nói
vị
ấy tu 12 hạnh
đầu-đà,
cho đến
đa văn,
Pháp sư, trì luật, tọa
thiền vậy.
Thực: là từ
khi minh tuớng xuất hiện
đến giữa
trưa,
được phép
ăn.
TƯỚNG
TRẠNG CỦA
TỘI
Biết
do Ni khen ngợi
được
đồ
ăn mà
ăn, mỗi miếng
là phạm Ba-dật-đề.
Ðược bao nhiêu thứ
khác như y,
đèn dầu
v.v... phạm Ðột-kiết-la.
Bốn chúng dưới
phạm Ðột-kiết-la.
Luật Ngũ
phần nói:
Bốn chúng khác khen
ngợi
được
ăn, phạm
Ðột-kiết-la.
Luận Tát-bà-đa
nói:
Nếu không khen ngợi
bằng cách quanh co
mà chỉ nói: “Bố
thí cho Sa-môn phước
đức rất
nhiều.” Như vậy
ăn không tội.
30.
GIỚI CÙNG ÐI VỚI
PHỤ NỮ
Ðại thừa
đồng học.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào, hẹn
và
đi chung
đường với
người nữ,
dù chỉ
trong khoảng
giữa hai xóm, Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Có người
con gái ở thành Tỳ-xá-ly
lấy chồng
người nước
Xá-vệ, cùng với
mẹ chồng cãi lộn,
giận trở
về nước.
Khi ấy, ngài
A-na-luật từ
Xá-vệ
đến Tỳ-xá-ly, người
phụ nữ kia xin
được cùng
đi, Tôn giả
hứa khả.
Người chồng tìm vợ,
đuổi theo kịp
đánh Tôn giả
gần chết,
Tôn giả tìm chỗ yên tĩnh
nơi vệ
đường ngồi
kiết già nhập hỏa
quang tam-muội. Người
chồng chờ
Tôn giả xuất
định, lễ
bái sám hối. Tôn giả vì ông ta nói pháp rồi
đi. Về
đến chùa báo cáo
cho chúng biết, bạch
Phật, kiết giới.
Không hẹn
thì không phạm.
Nhân duyên như giới
trước.
TƯỚNG TRẠNG
CỦA TỘI
Phạm nhẹ
nặng như
giới trước.
Bốn chúng dưới
phạm Ðột-kiết-la.
Luật
Căn bản nói:
Nếu
người khác bảo người
nữ dẫn
đường, hoặc
không biết
đường nhờ
người nữ chỉ
cho, không phạm.
31.
GIỚI THỌ QUÁ MỘT
BỮA
ĂN
Ðại
thừa
đồng học.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào, tại
trú xứ
cúng một
bữa
ăn,
Tỳ-kheo không bệnh chỉ nên
ăn
một bữa;
Nếu thọ nhận
quá một
bữa, Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Có thôn không có trú xứ,
cư sĩ
vì Tỳ-kheo cất
trú xứ thường
cung cấp
đồ
ăn thức
uống, hạn
định một
bữa
ăn.
Lục quần
được thức
ăn ngon, lại
ở
đến
đêm thứ
hai, hay là cứ
đến
ăn mãi. Cư
sĩ cơ
hiềm cho nên Phật
chế cấm.
Sau, ngài Xá-lợi-phất
bị bệnh
nơi
đó,
sợ phạm
giới này, phải
dìu
đi chỗ
khác, do
đây bệnh
trầm troïng, cho nên lại
thêm chữ “vô bệnh”.
GIẢI
THÍCH:
Luật
Thập tụng
nói:
Lá tre
làm thương tổn
cũng gọi
là bệnh.
TƯỚNG
TRẠNG CỦA
TỘI
Tỳ-kheo-ni
phạm Ba-dật-đề.
Ba chúng dưới phạm
Ðột-kiết-la.
Không
phạm: Có người
mời
ở lại
và gặp các nạn v.v...
Luật
Thập tụng
nói:
Ngủ
quá một
đêm mà không
ăn lần
thứ hai phạm
Ðột-kiết-la.
Ngủ chỗ
khác mà ăn nơi
đó phạm
Ba-dật-đề.
32.
GIỚI
ĂN NHIỀU
LẦN
Ðây là
giá tội, Ðại
thừa Tỳ-kheo
đồng học.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào,
ăn nhiều
lần,
trừ
các trường
hợp
khác, Ba-dật-đề.
Các trường
hợp
khác là: Khi bệnh,
khi thí y.
Ðây gọi
là trường
hợp
khác.
(Luật Căn
bản nói: Trường
hợp khác là, khi bệnh,
khi làm việc, khi
đi
đường, khi thí y.)
NGUYÊN DO:
Bà-la-môn Sa-nậu
dùng 500 cỗ xe chở
đầy lương
thực,
đi theo
đức Thế
Tôn, trải qua hết
mùa đông
đến mùa hạ, chờ
ngày nào không có ai cúng dường
thì cúng dường, nhưng
ngày nào cũng có người cúng. A-nan thấy
vậy bạch Phật,
Phật cho phép làm
bánh, cháo cúng Tăng.
Lúc bấy giờ,
cư sĩ
nghe Phật cho phép
Tăng dùng cháo,
bánh, đều rất vui mừng.
Có một vị
đại thần
mới tin Phật, thấy
Phật và Tăng
được cúng dường
nhiều, liền sanh ý tưởng
ruộng phước,
sắm thức
ăn ngon béo thỉnh
Tăng
để cúng dường.
Tăng lúc
ấy
đã dùng cháo
đặc nên không dùng
được nhiều,
vì thế
đại thần
cơ hiềm.
Cũng lúc
ấy nơi
thành La-duyệt, vị
nhạc sư
mới tin Phật,
thỉnh Tăng
cúng dường, cũng
xảy việc
như vậy
nên Phật mới
kiết giới.
Ðối
với các Tỳ-kheo bị
bệnh, nơi
mời thọ
trai không có thức
ăn và thuốc
cho người bệnh thì không nói, nhưng
trường hợp
có thức
ăn và thuốc
cho người bệnh, các Tỳ-kheo
lại cẩn thận
sợ không dám dùng.
Phật cho phép Tỳ-kheo
bệnh
được dùng nhiều
lần. Lại có một
cư sĩ
đã thỉnh
Phật và Tăng, sau có một
cư sĩ cũng
lại thỉnh
Phật và Tăng
cúng thức
ăn và y, Tỳ-kheo
cẩn thận sợ,
bạch Phật,
Phật cho phép khi thí y
được
ăn nhiều
lần.
GIẢI
THÍCH:
Cháo
đặc: là cháo lấy
cọng cỏ rạch
ngang mà nó không hiệp
lại.
Ăn nhiều
lần là
được mời
ăn nhiều
lần vậy.
Mời có hai loại:
mời theo thứ
tự của Tăng
và mời riêng. Khi
thí y như trong
thiên Xả
đọa thuyết
minh.
TƯỚNG
TRẠNG CỦA
TỘI
Nếu
trong một ngày
được nhiều
chỗ mời thọ
trai, nên nhận một
chỗ, còn những
chỗ khác cúng cho
các vị khác. Nói như
thế này
để cúng: “Trưởng
lão, lẽ ra, tôi nên
đến chỗ
đó, nay cúng cho Ngài”. Nếu không cúng lại
chỗ thỉnh
trước, nhận
chỗ thỉnh
sau, mỗi miếng
ăn là một
Ba-dật-đề.
Nếu không cúng lại
chỗ thỉnh
sau, nhận chỗ
thỉnh trước,
mỗi miếng
ăn là phạm
một Ðột-kiết-la.
Không
phạm: Nếu
thỉnh cúng không phải
đồ
ăn, hoặc
thức
ăn không
đủ, hoặc
không thỉnh
ăn, hoặc
đã
ăn rồi,
lại
được thức
ăn. Hoặc
một chỗ
mà có bữa
ăn trước,
bữa
ăn sau.
Luật
Thập tụng nói:
Tỳ-kheo
bệnh, nếu một
chỗ thỉnh
không đủ no, nên nhận
hai chỗ thỉnh
vẫn không
đủ no, thì
được nhận
chỗ thứ
ba. Nếu chỗ
thứ ba không
đủ no, nên nhận
hết phần
ăn rồi
từ từ dùng, cho
đến nửa
ngày, không nên nhận
chỗ thứ
tư. Cho phép ngày
tiết hội
ăn nhiều
lần.
Tỳ-ni
tự nói:
Tôn giả
A-nan, trước
đã nhận lời
mời của người
khác, vì quên, nên cùng với
đức Thế Tôn nhận
lời mời của
vua Ba-tư-nặc.
Khi thức
ăn vừa
vào miệng, Tôn giả liền
nhớ là
đã nhận hai lời
mời mà không cúng lại
cho vị khác một
chỗ. Tôn giả
không dám nhả
đồ
ăn ra vì cung kính
Phật, không dám nuốt
đồ
ăn vào vì trì giới
vậy. Ðức
Phật biết Tôn giả
A-nan đang hối
hận, nên Ngài bảo
tâm niệm cúng cho
người khác một phần,
rồi
ăn... Tôn giả
Ưu-ba-ly hỏi
Phật: “Người
khác cũng
được như vậy
chăng?” Phật
dạy: Trừ
năm người:
1) Người
ngồi thiền (chuyên tâm nơi
đạo vậy).
2) Người
độc cư (không có nguời
thứ hai
để nói).
3) Người
đi xa (bận lo việc
đi
đường cho nên quên, hoặc
giả như
Căn bản bộ
cho thường
ăn).
4) Bệnh
lâu ngày.
5) Lúc
đói khát, nương
ở với
thân quyến.
Ngoài
ra không cho phép.
Ma-đắc-lặc-già
nói:
Có người nói với
Tỳ-kheo: “Ðến
đó, sẽ
vì ngài tìm y thực”.
Như vậy
ăn không phạm.
Hay nói: “Ðây là bữa
ăn thong thả,
bất cứ
chỗ nào tùy ý
ăn”. Như vậy
ăn không phạm.
Luật nhiếp
nói:
Ở trong nhà hay
trong chùa, hoặc
A-lan-nhã, vì mong cầu
mập béo, ngon miệng
mà ăn mãi, mắc
tội ác tác. Với
tâm khinh khi, e ngại
dối trá không
ăn cũng
mắc tội
ác tác.
33. GIỚI
ĂN RIÊNG CHÚNG
Ðây là
giá tội. Ðại
thừa Tỳ-kheo
đồng học.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào,
ăn
riêng chúng, trừ
các trường
hợp khác, Ba-dật-đề.
Các trường
hợp khác là: khi bệnh, thời gian làm
y, thời
gian thí y, khi
đi
đường, khi
đi thuyền,
khi
đại
chúng tập
hợp, khi Sa-môn thí thực. Ðây là các trường hợp khác.
NGUYÊN DO:
Ðề-bà-đạt
vì lợi dưỡng
bị
đoạn
tuyệt, nên cùng năm
Tỳ-kheo kết
bạn, khất
thực khắp
mọi nhà, nên Phật
chế cấm.
GIẢI
THÍCH:
Ăn riêng chúng: là
bốn người
hay trên bốn người.
Ăn: là chỉ
cho cơm, bún, bánh
khô, cá thịt. Bệnh: là như
chân bị
đi cà nhắc. Khi may y, khi thí y: như giới
trước
đã nói. Ði
đường: là
đi khoảng
nửa do-tuần trở
lên. Ði thuyền: cũng
vậy. Sa-môn thí thực:
là ngoài Sa-môn Thích tử
ra, còn chỉ cho các
giới người xuất
gia thuộc ngoại
đạo.
Luật
Thập tụng
nói:
Ðại
chúng tập hợp,
ít nhất là 8 người,
bốn người
cựu Tỳ-kheo,
bốn người
khách Tỳ-kheo.
Luật
Ngũ phần
nói:
Nếu
ở trong giới,
thỉnh riêng 4 người
trở lên gọi
là ăn riêng chúng. Nếu
theo thứ tự
thỉnh thì không phạm.
Luật
Căn bản
nói:
Biệt
chúng thực laø
ăn riêng từng người
một.
Luật
nhiếp nói:
Biệt
chúng là không ăn
đồng một chỗ.
Hoặc bốn
Tỳ-kheo
đồng trong một
giới, cho
đến một
người không cùng
đồng
ăn,
đều gọi
là biệt chúng.
Trong đây
nói thức
ăn là chỉ
cho món ăn chính,
thức
ăn không chính thì
không phạm.
BIỆN
MINH:
Vấn
đề biệt chúng có hai nghĩa:
1) Lập
riêng một
chúng, như Tứ
phần
v.v...
nói rõ.
2)
Riêng đối với
chúng, như trong
Luật nhiếp
giải thích. Song, phép khất
thực không
được 4 người
đồng
đi. Thọ
thỉnh thì cần
phải theo Tăng sai mà
đến. Thọ
tịnh thực
nơi Tăng, cần
phải
đánh kiền
chùy. Mời
ăn riêng phòng,
không có duyên sự
thì không cho phép. Phật
dạy rằng
không nên vượt quá.
TƯỚNG
TRẠNG CỦA
TỘI
Không
có nhân duyên mà riêng chúng
ăn, mỗi
miếng
ăn phạm
một Ba-dật-đề;
có nhân duyên mà không nói, Ðột-kiết-la.
Tỳ-kheo-ni phạm
Ba-dật-đề.
Luật
Thập tụng nói:
Vì hai
điều
lợi nên ngaên không
cho ăn riêng chúng:
- Tùy
theo sự bảo
hộ của
Ðàn-việt vì lân mẫn.
- Phá
các Tỳ-kheo ác dục
có thế lực.
Nếu
3 Tỳ-kheo cùng
ăn một
chỗ, người
thứ tư
lấy phần
ăn riêng, không phạm.
Ði đường,
đi thuyền,
ngaøy hôm qua đến,
ngày nay ăn; ngày
mai đến, ngày nay
ăn
đều Ba-dật-đề.
Luật
Tăng kỳ
nói:
Ba người
ăn, một người
không ăn, hay ba người
viên cụ (Cụ
túc giới), một
người chưa
viên cụ,
đều không phạm.
Nếu dùng thức
ăn
đưa
đến bên trú xứ
kia, cho đến một xỉ
muối cho chúng kia
dùng đều không phạm.
Hoặc thí chủ
nói: “Vị nào vào,
tôi xin cúng”; hoặc
thí chủ làm riêng
phòng cúng, nói: “Ở
phòng tôi, tôi đều
cúng”, ở
đây tất
cả
đều không phạm.
Kinh Giới nhân duyên nói:
Nếu trong chúng Tỳ-kheo
không xướng lên mà
riêng đến dự trai soạn,
phạm tội
đọa. Nguyên do từ
bà Tỳ-xá-khư Mẫu
thỉnh riêng 500
Tăng nên Phật chế
cấm. Muốn
biệt thỉnh
các vị Ðại
đức v.v... cần
phải thỉnh luôn Tăng-già,
cho đến trong chúng
nếu chỉ có một
người. Theo thứ
lớp thọ
thỉnh, không gọi
là biệt chúng vậy.
PHỤ:
Luật Căn bản
nói:
Có 5 nhân duyên mời
đến
ăn sớm và
ăn trong phòng:
- Khách mới
dến.
- Sắp
đi
đâu.
- Thân có bệnh.
- Người
nuôi bệnh.
- Trong chức
năng tri sự.
Mục-đắc-ca nói:
Người kiểm
tra công việc, bữa
ăn, nhận
phần
ăn trước
không có lỗi.
34.
GIỚI NHẬN
THỨC
ĂN QUÁ BA BÁT
Ðây là
giá tội. Ðại
thừa
đồng học.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào,
đến
nhà bạch
y,
được
mời thọ dụng
vật thực, hoặc
bánh, hoặc
bột, nếu cần
dùng, nên thọ
hai, ba bát, trở
về trong Tăng-già-lam
nên chia cho các Tỳ-kheo khác
ăn. Nếu Tỳ-kheo
không bệnh,
thọ
lãnh quá hai, ba bát mang về
trong Tăng-già-lam,
không chia cho các Tỳ-kheo
khác
ăn,
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Nước
Xá-vệ có một người
con gái ở thôn quê,
lấy chồng bên nước
Uất-thiền,
về nhà cha mẹ
cúng dường thức
ăn cho các Tỳ-kheo,
chồng cô ta kêu về,
nhơn các Tỳ-kheo
nhận hết
lương thực,
nên cô ta phải sắm
lại, người
chồng chờ
không được phải
cưới vợ
khác. Lại nữa,
ngoài thành Ba-la-nại,
các lái buôn cùng với
bạn lái xe cùng ngủ.
Có một Tỳ-kheo
đến trước
một thương
buôn có lòng tin sâu đậm,
nhận
được thức
ăn, lần
lượt bảo
các Tỳ-kheo khác
đến nhận,
đến nỗi lương
thực hết,
người
ấy phải
ra chợ sắm
lại. Các bạn
lái xe phải
đi trước,
do đó, trên lộ trình
đi bị
bọn cướp
đoạt hết,
cho nên Phật chế
cấm.
TƯỚNG TRẠNG CỦA
TỘI
Tỳ-kheo-ni
phạm Ba-dật-đề.
Ba chúng dưới phạm
Ðột-kiết-la.
Không
phạm: Có bệnh
nên nhận. Người
kia tự
đưa
đến.
Luật
Thập tụng nói:
Lấy
quá số lượng
phạm Ba-dật-đề.
Ra ngoài gặp Tỳ-kheo
khác không chia phạm
Ðột kiết-la.
Luật
Căn bản
nói:
Khi nhận
thức
ăn nơi
người khác, quá phần
lượng bốn
thăng rưỡi gạo
nấu cơm trở
lên, đều mắc
tội
đọa. Người
thí chủ tùy ý trao cho, hoaëc ít hoặc nhiều
không phạm.
Luật
nhiếp nói:
Có 5 chỗ
không nên đến khất
thực:
1) Nhà
xướng lệnh (hát).
2) Nhà
dâm nữ.
3) Nhà
nấu rượu.
4)
Trong cung vua.
5) Nhà
Chiên-đà-la.
Nên biết
tánh người nữ
nhiều nhiễm
tâm dâm dục không
nên đến khất thực,
sợ rằng sẽ
sanh hoạn nạn.
Nếu
đối với
phi nhơn và nhà ngoại
đạo, nhận
quá 3 bát, đều mắc ác tác. Cùng một
chỗ ngồi
ăn quá 3 bát, hoặc
trừ bánh, bún, chỉ
tính các thứ khác,
hay thí chủ hoan hỷ tùy ý mời
nhận,
đều không phạm.
Có 3 loại làm cho tín thí bị
hư tốn:
1) Lòng
tin của thí chủ
cúng cho người trì
giới, nhận rồi
đưa cho người
phạm giới.
2) Lòng
tin cúng cho vị
chánh kiến, nhận
rồi cho người
tà kiến.
3) Nhận
quá số lượng
mà mình không dùng hết,
cất chứa
cho đến chỉ
một vắt,
trừ người
thí chủ có thỉnh
cầu tùy ý trước.
Ba
điều
này đều gọi
là lãng phí của tín
thí, sẽ chịu
lấy quả
báo xấu.
35.
GIỚI KHÔNG LÀM PHÉP
DƯ THỰC
Ðây là
giá tội. Ðại
thừa Tỳ-kheo
đồng học.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào,
ăn
đã
đủ,
hoặc khi thọ thỉnh,
không làm phép dư
thực mà
ăn nữa,
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Thế
Tôn khen ngợi pháp
ăn một
lần. Các Tỳ-kheo
phụng hành nghiêm chỉnh
nên sắc thể
có vẻ khô héo.
Phật cho
phép một lần
ngồi
ăn cho
đến khi no
đủ. Lại
cho phép ăn những thứ
bún bằng gạo
và năm thứ
thức
ăn, khiến
cho no đủ. Lại
cho phép Tỳ-kheo bệnh
được
ăn nhiều
lần, nhân bỏ
đồ
ăn thừa,
chim quạ tranh nhau
ăn, vì chỉ
ăn một
lần. Lại
cho phép người nuôi
bệnh
được
ăn
đồ dư
và cho phép lấy thức
ăn làm pháp dư
thực. Lại cho phép các Tỳ-kheo
từ chỗ kia
đem thức
ăn trở
về, làm pháp dư
thực
để
ăn.
Pháp dư
thực bạch
như sau: “Ðại
đức, tôi
ăn no rồi,
biết cho, xem cho!” (Mật
ngữ). Khi tác pháp
dư thực
như vậy, người
kia nên lấy một
ít ăn, rồi
nói: “Tôi thôi, thầy
lấy dùng
đi”. Như
vậy gọi là pháp dư
thực.
Khi
ấy,
ở nước
Xá-vệ có một
Tỳ-kheo tham lam thức
ăn,
ăn không biết
đủ,
ăn mãi; không biết
dư thực,
không làm phép dư
thực, nhận
được liền
ăn, cho nên Phật
chế cấm.
GIẢI
THÍCH:
Có 5
món túc thực (ăn
đủ):
1) Biết
là cơm (tức 5 thức
ăn chính, ngoài ra
không gọi là túc thực).
2) Biết
đem
đến (nhận
từ người
vậy).
3) Biết
ngăn (nói không
dùng nữa vậy).
4) Biết
oai nghi (đi,
đứng, ngồi,
nằm, bốn
oai nghi đều
được phép thọ
thực).
5) Biết
xả oai nghi (đang
đi,
đứng là xả.
Ðang đứng, bước
đi là xả.
Ðang ngồi, lìa tòa
là xả. Ðang nằm, chuyển
mình ngồi dậy
là xả. Như
vậy gọi là oai nghi).
Luật
Thập tụng nói:
Do có
hai điều
lợi cho nên Phật
cho phép ăn
đồ dư
(tức là làm phép dư
thực vậy):
1) Nhân
duyên Tỳ-kheo nuôi
bệnh.
2) Tỳ-kheo
có nhân duyên, ăn
không đủ vậy.
TƯỚNG
TẠNG CỦA
TỘI
Ăn
đủ rồi,
xả oai nghi, không
làm phép dư thực mà
ăn, mỗi
miếng
ăn phạm
một Ba-dật-đề.
Nếu mình
đã túc thực mà vì người
khác làm pháp dư thực,
nếu biết
người khác túc thực
rồi còn hướng
đến họ làm pháp dư
thực, nếu
tự tay mình cầm
lấy thức
ăn làm pháp dư
thực; hoặc
để dưới
đất làm. hoặc
lấy
đồ
ăn không ngon phủ
trên đồ
ăn ngon
để làm, hoặc
thọ pháp dư
thực cho người
khác rồi
đem
đi hết,
đều không thành
pháp dư thực,
phạm Ðột-kiết-la.
Luật
Tăng kỳ
nói:
Khi tác
pháp tàn thực phải
từ bát lớn sang qua bát nhỏ
để làm pháp tàn thực.
Chính nơi bát nhỏ
mới gọi là tàn thực,
để trong bát lớn
không gọi là tàn thực.
Nước nơi
bát nhỏ chảy
qua bát lớn,
đều
được gọi
là tàn thực. Nếu cả
hai bát đều lớn
mà cầu pháp tàn thực,
người kia chỉ
ăn trong một
bát mà thôi. Chính một
bát lớn kia gọi là tàn thực.
Nếu bánh rau dính
trùm lên qua cả hai
bát thì cả hai
đều gọi
là tàn thực. Các thứ
đồ
đựng khác cũng
vậy. Tỳ-kheo
túc thực rồi,
có thí chủ
đem các thức
ăn
đến, nên hỏi
trị nguyệt,
Duy-na, người trị
sự, người
chưa túc thực,
để
đến kẻ
ấy làm phép tàn thực.
Nếu kẻ
ấy cũng túc thực
rồi, nên
đến Thượng tọa
chưa túc thực
xin làm pháp tàn thực.
Nếu Thượng
tọa ngại,
không thể làm trước số
đông người,
nên hiệp tòa
đến chỗ
vắng
để làm. Nếu
Thượng tọa
đã túc thực,
có khách Tỳ-kheo
đến, nên hỏi
vị
ấy, nếu
chưa túc thực,
đến xin làm phép
tàn thực. Nếu vị
khách đã túc thực
rồi, Tăng
nên tạo phương tiện
đừng
để phá thiện
tâm của Ðàn-việt.
Trong chúng có Sa-di nào lớn
tuổi,
đưa
đến giới
trường trao giới
Cụ túc cho họ,
dạy họ
làm pháp tàn thực,
vậy sau sẽ
ăn”. (Luật
Ngũ phần cũng
chủ trương
như vậy).
Luật
nhiếp nói:
Có 5 loại
“Boà-thiện-ny” có
thể
ăn
được: gạo,
đậu, bột,
thịt và bánh.
Lại
có 5 thứ “Kha-đản-ny” có thể
nhai bằng răng:
Căn (gốc
rễ ), hành (thân),
diệp (lá), hoa và
quả.
Nếu
trước
ăn 5 thứ
nhai và sữa, tô,
rau v.v... rồi
sau ăn 5 thứ
“Bồ-thiện-ny”
thì không phaïm. Nếu
trước
ăn 5 thứ
“Bồ-thiện-ny” rồi
sau ăn 5 thứ
nhai và sữa, tô, rau v.v... thì gọi là phạm.
Nên biết
có 5 cách nói để chứng
tỏ rằng
mình ăn chưa
đủ, khi trao vật
ăn
đến mà mình chưa
cần:
1) Khi đưa
đến nói: “Hãy chờ”.
2) Hãy đến nơi
khác.
3) Hãy nhận.
4) Hãy đợi tôi
dùng.
5) Hãy đợi tôi
ăn hết.
Nếu
nói có chữ “hãy” tức là
ăn chưa
đủ. Nếu
không có chữ “hãy”
tức là ngăn vì
đủ. Nếu
trong ý chưa no mà
nói là no, cũng
không thành túc thực,
mắc tội
ác tác, do lời nói
không xứng với pháp vậy.
Nếu
được dư
thực, tác pháp dư
thực, tự
thân vui sống, thí
chủ
được phước.
Khi muốn tác
pháp, rửa tay nhận thức
ăn, bưng
đến vị
Tỳ-kheo
ăn chưa
đủ hay
đã
đủ mà chưa
lìa khỏi chỗ
ngồi,
đối với vị
ấy xin tác pháp. Vị
ấy nếu
chưa ngăn vì
đủ, nên
ăn vài ba miếng,
nếu tự
thấy
đủ rồi
bèn không nên ăn,
nên dùng tay ấn vào
nói: “Ðây là vật của
tôi, tùy ý dùng”.
Có 5
cách không thành tác pháp dư
thực:
1) Thân ở trong
giới
đối với người
ngoài giới.
2) Chỗ
đưa tay không
đụng
đến.
3) Ðứng
ở một bên.
4) Ðứng
ở phía sau.
5) Người
đó
đã rời
chỗ ngồi.
Ngược
lại, 5
điều
trên là tác pháp dư
thực thành tựu. Nếu
một người
tác pháp, dầu bao
nhiêu người khác
ăn,
đều không phạm.
Nếu
đã ngăn
vì đủ hay là khởi
tưởng ngăn
vì đủ, nghi không
làm pháp dư thực
mà ăn, nuốt
vào cổ, mắc
tội
đọa. Tuy chưa
ngăn vì
đủ, tưởng ngăn
vì đủ, nghi,
đều mắc ác tác. Hai
điều
sau không phạm, nếu là trái
ở phương
Bắc, và ngó sen của
Thiên thần... là những
vật khó có, hoặc
gặp lúc mất
mùa, khất thực khó
được, không tác
pháp dư thực,
ăn
đều không phạm
.
CHỨNG
MINH:
Kinh
Tỳ-ni mẫu
nói:
Tỳ-kheo
nhận vật
thí của người
không như pháp, vì
vật thí mà bị
đọa.
Ðọa
có hai loại:
1)
Ăn thức
ăn của
người không như
pháp tu hành phóng tâm buông lung, không làm
điều
gì gọi là thiện.
2) Trao
của thí, chuyển
của thí, thí không
như pháp, nhơn hai trường
hợp này phải
đọa trong tam
đồ.
Trường
hợp nên thí, như
cha mẹ nghèo khổ,
nên trao cho họ Tam
quy, Ngũ giới,
Thập thiện,
vậy sau mới
thí (cung phụng).
Trường hợp không nghèo khổ,
tuy có thọ quy giới
thí vẫn không
đúng cách.
Lại
có những trường hợp
thí: Người bảo
vệ Tháp, người
phụng Tăng, người
tu bổ Tăng
phòng, tính theo công mà trả
cho họ. Nếu
đưa quá số
cũng vì thế
mà đọa.
Thí cho
người bệnh
ăn, nên khởi
lòng từ, tùy theo
chỗ họ
cần
được trao. Nếu
cho thức
ăn nhiều lần,
do thế cũng
bị
đọa. Trẻ
nít, người bị tù, kẻ
bị trói, người
mang thai, nên khởi
lòng từ thí cho họ,
không nên nghĩ việc
trả
ơn. Người
đến Tăng phòng xin nếu
tự mình có, khỏi
dùng của thí mà cho. Nếu
mình không có, dùng của
thí để cho thì
không lỗi.
Tỳ-kheo
không ngồi thiền, không tụng
kinh, không làm việc
Phật, Pháp, Tăng, nhận
của người
thí, do đó bị
đọa. Ðối
với người
không ba hạnh trên,
biết mà chuyển vật
thí. Người trao, kẻ
nhận, do thế
đều bị
đọa. Thà nuốt
hòn sắt nóng mà chết
chứ không vì vô giới
(không trì giới) mà
nhận vật
thực của
thí chủ.
Nếu
ăn
đủ no rồi
mà cố
ăn thêm, thì không
thêm chi về sức
khỏe cả,
mà chỉ thêm bệnh
hoạn. Vậy,
không nên ăn uống
vô độ.
Kinh
Ðại niết-bàn
nói:
Tất
cả pháp vô thường,
khổ, vô ngã, tại
sao vì miếng
ăn mà tạo ba ác nghiệp
thân, khẩu, ý?! Nếu
vì miếng
ăn tạo
ba ác nghiệp, nhận
được tài vật,
thì cả chúng
đều nên nói: “Sau nhận
quả khổ,
không cùng chia phần”.
Lại
quán tất cả
chúng sanh vì ăn uống
nên thân tâm thọ khổ.
Tại sao ta lại
đối với
miếng
ăn mà sanh lòng
tham? Lại nữa,
nhân ăn uống,
thân này tăng trưởng,
ta nay xuất gia, thọ giới
tu đạo, vì muốn
bỏ thân, nay tham
đắm thức
ăn, làm sao bỏ
thân này được?!”
Quán như vậy
rồi, tuy thọ
thực như
(Thần) Khoáng Dã
ăn thịt con, tâm kia nhàm gớm,
đâu có ngon
ăn! Quán xét như
vậy, thấy
rõ “đoàn thực” (thức
ăn) là
điều
gây nhiều tội
lỗi. Lại
quán “xúc thực” như trâu bị
lột da, vô số
côn trùng khoét đục.
Lại quán “tư
thực” như
đống lửa
lớn, “thức
thực” như
300 cây maâu đâm
vào. Nếu có Tỳ-kheo
khất thực,
với ý niệm:
nguyện
được
đồ tốt,
nguyện
được nhiều, nguyện
cho mau được, thì
không gọi là
đối với
thức
ăn sanh trưởng
yểm ly (nhàm chán).
Thiện pháp tu hàng
ngày, bị hao mòn,
pháp không thiện
càng tăng.
Nếu
muốn khất thực,
trước nên nguyện:
Các người xin
đều no
đủ, người
thí được nhiều
phước. Nếu
tôi được
ăn vì chữa
lành bệnh, tu tập pháp thiện,
lợi ích chúng sanh.
Khi nguyện như vậy,
pháp lành đang tu
ngày càng tăng trưởng,
pháp không lành dần
dần tiêu diệt.
36.
GIỚI KHIẾN CHO NGƯỜI
PHẠM PHÁP DƯ
THỰC
Ðại
thừa Tỳ-kheo
đồng học.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào, biết
Tỳ-kheo kia
ăn
đã
đủ, hoặc khi thọ
thỉnh không làm pháp dư thực
mà ân cần
mời vị
kia
ăn, nói rằng: “Trưởng
lão hãy dùng món
ăn
này”. Chỉ
với mục
đích này chứ không gì khác.
Tức là muốn người
khác phạm
giới, Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Tỳ-kheo
tham ăn bị
người chê trách,
lòng ôm giận dữ,
muốn cho vị
khác cũng phạm,
nên chế.
TƯỚNG TRẠNG CỦA
TỘI
Nếu
người kia thọ thực,
mỗi miếng
ăn, cả
hai đều bị phạm
Ba-dật-đề.
Nếu người
kia không ăn, người
trao đó mắc
Ðột-kiết-la.
Tưởng, nghi v.v...
đồng như
giới trước.
Không
phạm: Không biết
đã túc thực, không khiến
cho người kia phạm.
37. GIỚI
ĂN PHI THỜI
Ðại
thừa
đồng học.
GIỚI
BỔN:
Tỳ-kheo
nào,
ăn
phi thời,
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Ca-lưu-đà-di
xẩm tối
đi khất thực,
một phụ
nữ có thai, mang thức
ăn ra cửa ngõ, gặp
lúc trời sấm
chớp, thấp
thoáng thấy mặt
của Ca-lưu-đà-di,
hét to gọi là quỷ, bèn
đọa thai, giận
nói: “Sa-môn Thích tử,
thà tự mổ
ruột không nên
đi khất thực
ban đêm”. Do
đó,
đức Phật
chế cấm.
Luật
Căn bản nói:
Chúng
17 người vào thành
khất thực,
nghe người nữ
nói lời xấu
hổ, bèn nhịn
đói, không
đi khất
thực. Chiều
lại, có các người
bạn thế tục,
từ nơi yến
tiệc trở
về, mang cho thức
ăn
đầy
đủ. Ô-ba-nan-đà
đặt vấn
đề,
được trả
lời: “Trước
ngọ không nhận
được, giữa
ngọ, sau ngọ không
được
ăn, vô lẽ
chúng tôi chịu nhịn
đói
để chết hay sao?” Phật
nghe, quở trách, chế
học xứ
này.
GIẢI
THÍCH:
Thời
thực là từ khi mặt
trời xuất
hiện cho
đến giữa
trưa. Phi thời thực
là từ giữa
trưa cho
đến khi mặt
trời chưa xuất
hiện.
TƯỚNG
TRẠNG CỦA
TỘI
Tỳ-kheo-ni
phạm Ba-dật-đề.
Ba chúng dưới phạm
Ðột-kiết-la.
Không
phạm: Ngậm
hắc thạch
mật;
bệnh uống
thuốc ói ra, nấu
lúa mạch không cho
vỏ nứt
ra, lược lấy
nước uống,
thức
ăn trong cổ
ói ra nuốt vào.
Luật
Căn bản nói:
Phi thời,
tưởng phi thời, nghi,
đều mắc tội
đọa. Thời,
tưởng phi thời,
nghi, đều phạm
ác tác. Thời, tưởng thời,
phi thời tưởng
thời, không phạm.
CHỨNG
MINH:
Kinh
Xá-lợi-phất
vấn nói:
Ngài
Xá-lơïi-phất
lại bạch
Phật rằng:
“Thưa
đức Thế Tôn, có các Ðàn-việt
tạo Tăng-già-lam, cung cấp
đầy
đủ, chư
Tăng, kể
cả
đời sau, có người
giống như
người xuất
gia, phi thời
đến vị
phụ trách vật
thực,
đòi hỏi thức
ăn, người
cho, người
ăn, mắc
tội thế
nào? Người Ðàn-việt
kia được hưởng
phước gì?”
Phật
dạy: “Ăn phi thời
là người phá giới,
người phạm
tội trộm.
Cho phi thời cũng
là người phá giới,
cũng là người
phạm tội
trộm.
Ăn trộm
của Ðàn-việt, không phải
là bản ý của
thí chủ. Thí chủ
không được phước,
vì vật bị
mất vậy. Họ
chỉ phát tâm
để làm
điều
thiện mà thôi.”
Ngài Xá-lợi-phất nói: “Nhận
đúng thời,
ăn
đúng thời,
ăn không hết
còn lại,
ăn phi thời.
Hoặc có trường hợp
nhận
đúng thời
cho đến phi thời
mơùi
ăn,
được phước
hay không?”
Phật
dạy: “Ăn
uống
đúng
thời là tịnh,
là tạo phước
điền,
là xuất gia, là Tăng-già,
là bạn lành của
trời người,
là Ðạo sư
của trời
người. Còn
ăn
phi thời là bất
tịnh trộm
cướp, ngạ
quỷ, là chỗ
chứa tội
lỗi. Phi thời
đòi hỏi,
dùng vật
đúng
thời, hay phi thời,
mà
đưa lúc phi thời
thì người phụ
trách vật thực
gọi là thối
đọa ác ma, gọi
là tam ác
đạo,
đồ
vất bỏ,
người bệnh
hoạn, phá hoại
quả lành vậy.
Các Bà-la-môn còn không
ăn
phi thời, ngoại
đạo Phạm chí cũng
không tà thực, huống
là
đệ tử
của Ta biết
pháp, haønh pháp mà lại
như vậy
sao? Hạng người
như vậy
không phải là
đệ
tử của
Ta. Người phi pháp trộm
cho, trộm nhận,
dù cho một vắt,
một nắm,
hột muối,
miếng chanh có tính
cách thù tạc, chết
cũng
đọa
vào
địa ngục Tiêu tràng, nuốt
hòn sắt nóng. Từ
địa ngục
ra, sanh vào loài heo chó,
ăn
đồ bất
tịnh. Lại
sanh vào loài chim dữ,
người
sợ tiếng
kêu của nó. Sau sanh vào
ngạ
quỷ trở
lại trong Già-lam,
ở trong cầu tiêu,
ăn
nuốt phẩn
uế, trải
qua trăm ngàn vạn
năm. Lại
sanh trong loài người, bần
cùng hạ tiện,
nói không ai tin.
Không như
ăn
trộm vật
của một
người, tội
kia còn nhẹ.
Cướp
đoạt phước
điền
nhiều người,
là
đoạn
tuyệt
đạo
xuất thế
vậy”.
PHỤ:
Căn
bản ni-đà-na
nói:
Tỳ-kheo
có bệnh, thầy
thuốc bảo
dùng nước hòa với
bột, cho dùng lúc
phi thời.
Phật dạy:
Có loại trâu không
có răng
ăn lúa,
đại tiện
ra còn nguyên, dùng làm bột,
phi thời nên dùng.
Dùng mà không lành thì dùng bột
lúa sống, quậy
nhiều nước,
lược rồi
dùng.” Uống như
vậy vẫn
không lành, Phật dạy:
“Thầy thuốc
bảo dùng bột
gạo
để uống,
hoặc
đặc hay vắt,
tùy ý nên dùng. Những
gì Ta vì người bệnh khai cho dùng khi phi thời, sau khi lành bệnh,
đều không nên
dùng”.
Bách nhất yết-ma nói:
Có năm loại trái cây thời,
phi thời, bệnh,
không bệnh
đều
được phép dùng:
1) Trái Ha-lê-lặc,
Hoa dịch là Thiên
chủ trì lai.
2) Trái Tỳ-hê-lặc.
3) Trái Am-ma-lặc,
tức Dư
cam tử
ở Lãnh Nam, hình giống
cây tân lang. Ăn trừ
bệnh phong.
4) Trái Mạt-túc, tức
cây hồ tiêu.
5) Trái Tất-bạt-lợi,
tức trái củ
tương (trầu
cay).
San
bổ yết-ma
nói:
Có nhân
duyên bệnh khát, cho thọ
phi thời tương.
Tức trái tương,
mật tương v.v... lóng lấy
nước trong mà uống.
Có nhân duyên bệnh
phong nhiệt, cho
dùng 5 loại thuốc 7 ngày. Có nhân duyên các bệnh cho dùng thuốc
tận hình thọ
(suốt
đời), tức
tất cả
chất muối,
đắng, chua v.v...
không tùy tiện
ăn
được, như
loại gừng,
tiêu, cho đến các
loại cao,
đơn, hoàn, tán
đều dùng
được.
Nước
phi thời tương
không được
để
đến sáng hôm sau.
Thuốc 7 ngày không
được
để
đến ngày thứ
tám.
Nam
hải ký quy nói:
Cơm
còn dính trong răng,
chất béo còn thừa
trên lưỡi, chưa
dùng nước sạch
súc miệng lại
mà chảy nước
miếng ra thì phải
nhổ ra ngoài, nếu
qua khỏi nửa
ngày bèn phạm phi
thời. Luật sư
là người quán nước
quán thời.
TRÙNG TRỊ TỲ-NI
SỰ NGHĨA
TẬP YẾU
HẾT QUYỂN THỨ BẢY
--- o0o ---
Mục
Lục |
01
|
02
|
03
|
04
|
05
|
06
|
07
|
08
|
09
|
10
11
|
12
|
13
|
14
|
15
|
16
|
17
|
18
|
19
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-6-2007