TRÙNG TRỊ TỲ NI
SỰ NGHĨA TẬP YẾU
CỔ
NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích
Việt
dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH
Nhuận văn
và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
---o0o---
TẬP I
QUYỂN THỨ
2
B. VẤN ÐÁP KHẢI BẠCH
-
Tăng
họp
chưa?
-
Tăng
đã họp
-
Hòa hiệp
không?
-
Hòa hiệp.
-
Người
chưa
thọ
giới
Cụ
túc
đã ra chưa?
-
Người
chưa
thọ
giới
Cụ
túc
đã ra rồi.
(Nếu có thì bảo
họ ra rồi
trả lời
như vậy.
Nếu không thì trả
lời):
-
Trong
đây không có người
chưa
thọ
giới
Cụ
túc.
-
Các Tỳ-kheo
không
đến có thuyết
dục
và thanh tịnh
không?
-
Tỳ-kheo...
thuyết
dục
và thanh tịnh.
(Nếu có người
thuyết dục
thì trả lời
như vậy,
bằng không thì trả
lời):
-
Trong chúng
đây không có người
thuyết
dục
và thanh tịnh.
-
Có ai sai Tỳ-kheo-ni
đến thỉnh
giáo giới
không?
-
Không có Tỳ-kheo-ni
đến thỉnh
giáo giới.
-
Tăng
nay hòa hiệp
để làm gì?
-
Thuyết
giới
Yết-ma.
-
Ðại
đức Tăng
xin lắng
nghe:
Hôm nay là Bạch
(hay Hắc) nguyệt
ngày thứ 15 (hoặc
14) chúng Tăng
thuyết
giới.
Nếu
thời
gian thích hợp
đối với
Tăng,
Tăng
chấp
thuận
hòa hợp
thuyết
giới.
Ðây là lời
tác bạch.
Kiền-độ thuyết
giới
nói:
Ðại
Ca-tân-nậu
ở tại
trú xứ Tiên nhơn,
bên núi Hắc thạch
(trong vườn nai), yên lặng
suy nghĩ, với
ý nghĩ như
sau: “Nay ta nên
đến
thuyết
giới hay không. Ta thường
là người thanh tịnh
bậc nhất”.
Lúc bấy
giờ,
đức Thế
Tôn biết ý niệm
của Ðại
Ca-tân-nậu, nên trong khoảnh
khắc như
người tráng sĩ
co duỗi cánh tay, thoạt
nhiên biến mất
khỏi núi Kỳ-xà-quật, Thế
Tôn hiện
đến
trước mặt
Ca-tân-nậâu, trải
tọa cụ
ngồi. Khi
ấy,
Ca-tân-nậu lễ
sát chân
đức Thế
Tôn, rồi ngồi
qua một bên. Ðức
Thế Tôn biết
mà vẫn hỏi:
“Vừa
rồi
ở nơi
đây, thầy
có nghĩ như
vậy phải
không?”
Ca-tân-nậu
đáp:
“Bạch
Thế
Tôn! Ðúng như vậy”.
Phật
dạy:
“Pháp thuyết
giới, nên phải
cung kính, tôn trọng,
thừa
sự. Nếu
thầy không cung kính Bố-tát,
tôn trọng thừa
sự thì ai là người
cung kính tôn trọng
thừa
sự.
Thầy nên
đến
thuyết giới,
không
được không
đến.
Nên
đi bộ
đến, không nên dùng Thần
túc
đến. Tôi cũng
sẽ
đến”.
Tùy theo mỗi
trú xứ, người
nhiều hay ít, cùng tập
hợp lại
một chỗ
để thuyết
giới. Không hòa hợp
thuyết giới,
phạm Ðột-kiết-la.
Tỳ-kheo
tuổi
nhỏ,
đến
ngày Bố-tát, phải
đến trước
nơi nhà thuyết
giới, lau quét, trải
tọa cụ,
múc
đầy nuớc
nơi bình tịnh
thủy, bình rửa
chân,
đốt
đèn
và
đem thẻ
hành xá-la. (Xá-la Hoa dịch
là trù. Luật
Ngũ
phần nói: Thẻ,
không
được lớn
hơn ngón tay, không
được nhỏ hơn
chiếc
đũa).
Nếu
họ không biết
thì Thượng tọa
phải dạy
họ. Không dạy,
hay không nghe theo lời
dạy,
đều phạm
tội Ðột-kiết-la. Thuyết
giới rồi
nên dọn dẹp.
Nếu
trú xứ
nào chỉ có một
Tỳ-kheo,
đến
ngày Bố-tát nên
đến
nhà thuyết giới,
lau quét... như
trước.
Nếu
có khách Tỳ-kheo
đến, bốn
vị hay trên bốn
vị, trước
nên tác bạch rồi
sau thuyết giới.
Nếu có ba vị,
hai vị, mỗi
một vị,
hướng vào nhau
để
nói:
“Nay ngày thứ
15 (hay 14) Tăng thuyết
giới, tôi... thanh tịnh”.
Nói như
vậy
ba lần. Nếu
có một vị,
nên tâm niệm miệng
nói cũng như
vậy, ba lần.
(Chiếu theo các bộ
khác thì nếu
ba vị
nên nói: Nhị
Ðại
đức
ức
niệm... Nếu
2 vị nên nói: Ðại
đức
ức
niệm).
Không nên phi pháp biệt
chúng, phi pháp hòa hiệp,
và pháp biệt
chúng Yết-ma thuyết
giới. (Giải
thích trong pháp Yết-ma).
Nên nói pháp hòa hiệp
Yết-ma thuyết
giới.
Nếu
Tỳ-kheo có bệnh
và bận việc
của Tam bảo
cho phép dữ dục
thanh tịnh.
Nên nói bằng
lời, hay biểu
hiện nơi
thân tướng
để
dữ dục
thanh tịnh. Nếu
không biểu hiện
nơi thân tướng,
hay không nói thành lời,
không thành dữ dục
thanh tịnh. Trường
hợp người
nhận dục
thanh tịnh rồi,
liền qua
đời
cho
đến bị
diệt tẫn
v.v... Không thành dữ
dục
thanh tịnh; nhưng
nếu ngủ,
vào
định, hoặc
quên không tác bạch,
vẫn
thành dữ dục
thanh tịnh. Nếu
người nhận
dục cố
ý không nói, phạm Ðột-kiết-la. Nếu
không thể thực
hành như vậy,
thì nên dìu Tỳ-kheo bệnh
đến trong Tăng.
Nếu lo sợ
hoặc có thể
bị chết,
tất cả
Tăng nên
đến
chỗ Tỳ-kheo
bệnh, xoay quanh cùng tác
Yết-ma.
Nếu Tỳ-kheo
bệnh nhiều,
có thể tập
hợp lại
một chỗ
càng hay. Trường hợp
không thể làm như
vậy, thì các Tỳ-kheo
nên ra ngoài giới
tác Yết-ma.
Không có phương tiện
nào
được phép biệt
chúng tác pháp Yết-ma.
Không nên xưng sự dữ dục thanh tịnh. Cho phép như pháp Tăng sự dữ dục thanh tịnh. (Xưng sự là nói: Tôi dữ dục việc này, không dữ dục việc kia).
Cho phép nhận
nhiều người
dữ dục,
thanh tịnh.
Người nhận
dục có việc,
cho phép chuyển dữ
dục, thanh tịnh,
nếu xong việc
nên tự
đến.
Khi thuyết
giới, có tám nạn
khởi
đến,
và có các duyên khác, cho phép thuyết giới
lược.
Tám nạn
là: Vua, giặc, nước,
lửa, bệnh,
ác trùng, nhơn, phi nhơn.
Các duyên khác là: Hoặc
đại chúng họp,
chỗ ngồi
chật
- chúng nhiều vị
bị bệnh
- hoặc chỗ
che không
đầy
đủ
gặp trời
mưa, hoặc
việc
đấu
tranh, hoặc ban
đêm
nói pháp
đã khuya, nên Yết-ma
thuyết giới
khi mặt trời
chưa xuất
hiện.
Có 5 cách thuyết
giới:
1) Nói bài tựa,
còn bao nhiêu cáo tri bằng
câu:
Tăng
thường
nghe.
2) Nói bài tựa
và bốn pháp khí (Ba-la-di).
3) Nói
đến
pháp Tăng tàn.
4) Nói
đến
pháp nhị Bất
định. Ngoài ra còn bao
nhiêu, cáo tri bằng
câu: Tăng thường
nghe.
5) Nói từ
bài tựa cho
đến
hết.
Trong 8 nạn,
nạn nào khởi
đến, tùy theo gấp
hay hoãn, gần
hay xa mà thuyết rộng,
hẹp tùy theo
đó.
Nếu không có nạn
duyên thì không
được
nói lược.
Nếu
Tỳ-kheo tâm loạn,
cuồng si, hoặc
nhớ thuyết
giới, hay không nhớ
thuyết giới;
hoặc
đến
hoặc không
đến,
nên tác Yết-ma cuồng
si cho vị
ấy.
Bệnh lành nên giải.
Người
phạm
giới, không
được
thuyết giới,
không
được nghe giới,
không
được
đến
Tỳ-kheo phạm
giới sám hối.
Người phạm
giới không
được
nhận người
khác sám hối, như
pháp
đã sám hối
rồi, sau mới
thuyết giới.
Trường
hợp
khi
đang thuyết
giới, Tỳ-kheo
hoặc biết
có tội hoặc
trong tâm nghi ngờ,
nếu
hướng
đến
chúng nói thì sợ
ồn
ào, nên nói với Tỳ-kheo
ngoài gần, hoặc
tâm niệm rằng:
Phải sám hối
tội
ấy
như pháp khi Bố-tát
xong. Nghĩ như
vậy mới
được phép nghe giới.
Nếu
tất
cả Tăng
đều phạm,
hoặc sanh nghi, nên
đến
Tỳ-kheo khách thanh tịnh
sám hối, quyết
nghi, sau
đó mới
thuyết giới.
Nếu không có Tỳ-kheo
khách
đến, nên sai hai, ba người
đến trú xứ
Tăng thanh tịnh
gần nhất
để quyết
nghi sám hối, rồi
trở về
trú xứ. Tỳ-kheo
trong trú xứ hướng
đến hai, ba vị
ấy sám hối,
sau
đó mới
thuyết giới.
Nếu gần
đó không có Tăng
thanh tịnh, nên tác bạch
phổ
đồng
sám hối, sau
đó
mới thuyết
giới. Nếu
không biết tội
danh, tội tướng,
đợi có Tỳ-kheo
khách trì luật
đến
cầu hỏi
cho rõ rồi như
pháp sám hối.
Hỏi:
- Phổ
đồng sám hối,
pháp thức thế
nào?
Ðáp:
- Một người
tác bạch, rồi
mỗi người
tự cải
hoán thân tâm. Sau
đó
gặp
Tỳ-kheo thanh tịnh,
vẫn cần
phải phát lồ
sám hối
để
trừ tội.
Nếu
Tỳ-kheo
khách nghe thấy
trong trú xứ
có Tỳ-kheo cựu
trú (ở lâu) nên tìm mời
đến
để
tác pháp Yết-ma. Nếu
không tìm, hay tìm không
được,
mà tác pháp liền, hoặc
không mời tác pháp,
đều
không thành Yết-ma, thì mắc
tội. Nếu
tìm không
được, bèn kêu tác pháp
liền,
cũng không thành Yết-ma,
nhưng không mắc
tội. Tỳ-kheo
cựu trú
đối
với khách cũng
vậy. (Tìm tòi khắp
nơi gọi
là tìm. Cao giọng
xướng
kêu gọi là hoán).
Không nên
đối
trước Tỳ-kheo-ni
cho
đến người
chưa thọ
Ðại giới
tác Yết-ma và ngăn
thuyết giới,
trừ trời,
rồng, quỷ,
thần.
Phần
thứ ba của
(luật Tứ
phần)
nói:
Nếu
Tăng bị
phá, hòa hiệp trở
lại
được,
cho phép tác bạch Yết-ma
hòa hiệp Bố-tát.
Văn bạch:
- Ðại
đức Tăng,
xin lắng
nghe: Do nhân duyên kia khiến
cho Tăng
đấu tranh, phỉ
báng, mạ
nhục,
cùng nhau tranh hơn
thua, khiến
Tăng
bị
phá, khiến
cho Tăng
bị
biệt
trụ,
khiến
cho Tăng
bị
trần
cấu.
Do vậy, khiến cho
Tăng bị cử tội. Nay
đã giải quyết
xong,
đã diệt hết trần cấu của Tăng. Nếu thời gian
thích hợp
đối với Tăng, Tăng chấp thuận, Tăng hòa
hợp Bố-tát.
Ðây là lời tác
bạch.
Nếu
có Tỳ-kheo
phạm Tăng
tàn, hoặc nên ban cho Ba-lợi-bà-sa
(Hoa dịch là pháp Biệt
trụ, tùy theo việc
che giấu bao nhiêu ngày, thì
hành Biệt
trụ bấy
nhiêu ngày), hoặc Bổn
nhật trị
(có giải thích nơi
phần pháp trị
tội), hoặc
Ma-na-đỏa (có giải
thích nơi thiên thứ
hai), hoặc xuất
tội,
đều
tùy theo
đó ban cho, sau mới
thuyết giới.
Nếu
có Tỳ-kheo
nào phạm Ba-dật-đề hoặc
trong số Tỳ-kheo
có người nói phạm
Ba-dật-đề,
có người nói phạm
Ðề-xá-ni. Vị
nào thấy phạm
Ba-dật-đề
thì nên hướng dẫn
Tỳ-kheo phạm
đó
đến
chỗ mắt
thấy, tai không nghe, bảo
họ như
pháp sám hối, rồi
đến nơi
vị cho là phạm
Ðề-xá-ni, nói rằng:
Tỳ-kheo
đó
đã như
pháp sám hối.
Nên tác pháp như
vậy rồi
thuyết giới.
Nếu
có Tỳ-kheo
nào phạm Thâu-lan-giá, trong số
Tỳ-kheo, có người
nói phạm Thâu-lan-giá, có người
nói phạm Ba-la-di,
đều
là bậc
đa
văn trí thức.
Trường hợp
như vậy
nên nghĩ rằng:
Nếu thuyết
giới hôm nay, có thể
Tăng bị
phá hoại, cho phép ngăn
thuyết giới.
Khi chưa thuyết
giới, ngăn,
khi
đã thuyết
giới rồi,
ngăn,
đều
không thành ngăn, mà phải
đúng giờ
thuyết giới,
ngăn mới
thành ngăn.
Nếu
người ngăn
thuyết giới,
ba nghiệp không thanh tịnh,
vô trí, không phân minh, không biết
cách hỏi, không thể
trả lời,
tất cả
Tỳ-kheo kia nên bảo
họ: “Trưởng
lão không nên phát khởi
sự
đấu tranh
ở
nơi
đây”.
Nên cứ thuyết
giới, chớ
nghe theo lời nói của
vị
ấy.
Nếu vị
ấy ba nghiệp
thanh tịnh v.v... nên hỏi
rằng: “Do việc
gì mà ngăn, do phá giới,
phá kiến, phá oai nghi; thấy
việc gì, nghe việc
gì, nghi việc gì?” Nếu
không thể trả
lời
đầy
đủ, tùy theo vấn
đề cử
tội không căn
cứ
đó
mà trị tội.
Sau
đó Tăng
thuyết giới.
(Dùng vô căn
của thiên
đầu
‘Ba-la-di’ mà vu khống
để cử
tội, thì dùng tội
Tăng tàn
để
trị phạt.
Dùng vô căn
của
Tăng tàn mà cử
tội, thì dùng tội
Ba-dật-đề
để trị
phạt. Dùng vô căn
của các thiên khác mà cử
tội, thì dùng tội
Ðột-kiết-la,
bảo họ
sám hối).
Nếu
có Tỳ-kheo bệnh
ngăn Tỳ-kheo
bệnh thuyết
giới, hoặc
người không bệnh
ngăn lẫn
nhau, nên khuyên rằng:
“Phật
dạy thế
này, phải
đợi
khi bệnh lành, nên nói như
pháp.” Người kia cũng
sẽ nói như
pháp. Tác pháp như
vậy
rồi, mới
thuyết giới.
Hoặc
có Tỳ-kheo
nơi
trú xứ
khác
đấu tranh không hòa hợp,
muốn
đến
đây
thuyết
giới.
Chúng
ở
đây
thường
ngày 14 hay 15 thuyết
giới,
nếu
nghe họ
đến,
hãy mau mau họp
chúng thuyết
giới.
Nếu
nghe họ
đã
đến
trong giới
nên ra ngoài giới
thuyết
giới.
Nếu
nghe họ
đã
vào trong chùa, nên mời
họ
tắm
rửa
v.v... kín
đáo báo cho nhau ra
ngoài giới
thuyết
giới.
Nếu
khách Tỳ-kheo
yêu cầu
thuyết
giới,
nên trả
lời:
“Chúng tôi
đã thuyết
giới
rồi.”
Nếu
cựu
Tỳ-kheo
đang thuyết
giới,
thì khách không
được quyền
ngăn.
Có thể
dùng phương
tiện
như
vậy,
được
thì càng hay. Nếu
không
được nên tác bạch
hoãn thuyết
giới.
Văn
bạch
như
sau:
- Ðại
đức Tăng, xin lắng nghe, nay không
thuyết
giới,
đến Hắc nguyệt sẽ thuyết giới. Ðây là lời tác bạch.
Nếu
khách
ở lại
không
đi, nên tác bạch
hoãn thuyết giới
lần thứ
hai. Nếu họ
vẫn không
đi,
nên như pháp cưỡng
đặt vấn
đề với
khách.
Luật
Tăng kyø
nói, thuyết giới
có 3 cách:
-
Ngày thứ
14 (tháng thiếu).
-
Ngày thứ
15 (tháng có trăng và tháng
đủ).
-
Trung gian Bố-tát
(hòa hiệp).
Trung gian Bố-tát
là khi Bố-tát Tăng
không hòa hiệp. Một
Tỳ-kheo
ở
giữa Tăng
xướng rằng:
“Nếu khi nào Tăng hòa hiệp
thì sẽ tác pháp Bố-tát”.
Nếu
không có một
Tỳ-kheo xướng
như vậy
thì tất cả
Tăng mắc
tội Việt
tỳ-ni (hoặc
nói là Việt
pháp tội,
tức nên sám Ðột-kiết-la).
Nếu có một
Tỳ-kheo xướng
thì tất cả
Tỳ-kheo không mắc
tội.
Nếu
ngày thứ 15 không hòa hiệp
thì nên ngày mồng một
Bố-tát. Ngày mồng
một không hòa hiệp
thì ngày mồng hai, cho
đến
ngày thứ 12 Bố-tát.
Nếu ngày thứ
14 là ngày chánh Bố-tát
thì ngày thứ
13 không nên tác pháp trung gian Bố-tát,
nên
để
đến
ngày thứ 14 Bố-tát,
cũng là trung gian Bố-tát
và là chánh Bố-tát.
Nếu
tháng
đủ, cho
đến
ngày thứ 13 hòa hiệp
thì
được tác trung gian Bố-tát.
Nếu không hòa hiệp
thì không
được ngày thứ
14 Bố-tát, mà nên
để
đến ngày thứ
15 Bố-tát luôn. Tại
sao vậy? Không
được
hai ngày Bố-tát liền
nhau, phải nên Bố-tát
cách một ngày, mới
gọi là trung gian Bố-tát.
Bố-tát ngày thứ
14 là thường lệ,
thì không nên
định lại
ngày thứ 15. Bố-tát
ngày thứ 15 là thường
lệ, thì không nên lui lại
ngày thứ 14. Nếu
có nhân duyên thì
được.
-
Nên nói rõ
địa
điểm
Bố-tát.
-
Ðược
Bố-tát ban ngày.
Giặc
là vua trong rừng, là hạng
người hay làm việc
không lợi ích. Nếu
khi Bố-tát giặc
vào, liền nên tụng
kệ kinh khác. Nếu
giặc biết
pháp của Tỳ-kheo
và nói rằng: “Sa-môn, ta
đã
biết, nên thuyết
những gì trước
đã thuyết”.
Lúc bấy giờ,
Tỳ-kheo nên tụng
mau, khiến cho chương
cú không rõ ràng, làm cho họ
không biết
đâu
là
đầu, là
đuôi.
Nếu có vua
đến
cũng nên như
vậy.
Tỳ-kheo
thọ
Cụ
túc rồi,
nên tụng
hai bộ
Tỳ-ni.
Nếu
không thể
thì tụng
một
bộ,
cho
đến nên tụng
một
Diên kinh (nghĩa
là 4 việc
của
thiên
đầu). Bố-tát
nên nói
đủ 5 Diên kinh (nghĩa
là 5 thiên, 250 giới).
Nếu
có duyên sự
không thể
tụng
hết,
thì nên tụng
bốn
Ba-la-di và kệ.
Ngoài ra nói: “Tăng
thường
nghe”. Nếu
không tụng
mà tác pháp Bố-tát,
thì mắc
tội
Việt
tỳ-ni.
Nếu
cả
chúng không thuộc,
nên sai một
Thượng
tọa
ra ngoài giới,
tâm niệm
miệng
nói tác Bố-tát. Còn ba người
ở
lại trong giới
tác Tam ngữ Bố-tát,
tức là phạt
Thượng tọa.
Không cho phép tụng
chung Bố-tát. Nếu
khi tụng, người
đó quên thì những
người kia
được
nhắc.
Không có phép tụng
ngược lại,
khi tụng có quên sót,
được
phép tụng bổ
túc, theo thuận chiều.
Nếu
Bố-tát,
tụng gần
hết, có Tỳ-kheo
khách
đến, kịp
thời ngồi
xuống, tức
gọi là
được
Bố-tát, không nên tụng
lại. Nếu
Tỳ-kheo khách nói: “Tôi
chưa
từng nghe rộng
nói Ba-la-đề-mộc-xoa,
xin vì tôi rộng
nói”. Ðợi
Tăng giải
tán rồi, sau mới
tụng.
Không cho phép hướng
đến người
chưa thọ
Ðại giới
nói năm thieân tội.
Ðược phép dạy
rằng: “Ông không
được
làm phi phạm hạnh,
không
được
ăn
trộm, không
được
sát sanh, không
được
nói láo”. Nói như
vậy thì
được.
Không
được
Bố-tát sớm.
Nếu Tỳ-kheo
ở một
mình nên
đợi Tỳ-kheo
khách
đến cùng Bố-tát.
Nếu không có khách
đến,
mà có tội, nên nghĩ
như vầy:
Nếu
được
gặp Tỳ-kheo
thanh tịnh sẽ
như pháp sám hối
tội này. Nghĩ
như vậy
rồi, tâm niệm
và miệng nói: “Nay ngày thứ
15, Tăng tác pháp Bố-tát,
tôi Tỳ-kheo... thanh tịnh
thọ Bố-tát.”
Nói như vậy
ba lần.
Nếu
Bố-tát rồi
có Tỳ-kheo khách
đến,
nên tùy hỷ, nói: “Trưởng
lão
đã Bố-tát,
tôi Tỳ-kheo... xin tùy hyû”.
Nếu
không tùy hỷ, nên ra ngoài giới
tác Bố-tát.
Một
trú xứ không
được
Bố-tát hai lần
trong một ngày. Nếu
Tỳ-kheo cần
đi xa,
đến
ngày Bố-tát, Tỳ-kheo
ở trong trụ
xứ Bố-tát
rồi, không nên làm thinh
đi,
nên dặn Sa-di hay người
giữ vườn,
hoặc kẻ
chăn bò rằng:
“Có Tỳ-kheo nào
đến
nói cho họ biết,
trong
đây
đã
Bố-tát rồi”.
Nếu không có người
thì nên viết giấy
dán nơi trụ
cây hay nơi cửa
hoặc rải
hoa làm dấu. Người
đến sau nên hỏi,
nên tìm dấu... không
được
vội tác Bố-tát.
Khi gởi
dục, nên gởi
cho người
đem
dục vào trong Tăng
trình bày
được. Khi nhận
dục nên tự
tư duy rằng:
Có thể truyền
dục
được
chăng?
Không
được
nhận dục
cả chúng,
được
nhận tối
đa ba người.
Không cho phép nhiều
người gởi
dục mà ít người
tập họp,
không cho phép số
người
dữ dục
và số người
tập họp
bằng nhau. Nên dữ
dục ít, tập
họp nhiều.
Tỳ-kheo-ni
gởi dục,
Tỳ-kheo nên nhận.
Nếu là bậc
Thượng tọa
nên nói: “Tôi là bậc
Thượng
tọa của
Tăng, nên không nhận.”
Nếu là người
giáo thọ Ni, là người
tụng giới,
nên tự nói: “Tôi không nhận.”
Nếu là người
giữ phòng, người
bệnh, nên nói: “Tôi không
đến
trong Tăng nên gởi
người khác.” Nếu
nói: Tôi là khất thực,
tôi là A-lan-nhã, tôi là Tỳ-kheo
mặc y phấn
tảo, tôi là bậc
Ðại
đức
không nhận dục,
thì phạm tội
Việt tỳ-ni.
Bố-tát
không chịu
đến,
mắc tội
Thâu-lan-giá. Nếu vì y bát v.v... các
việc,
không
đến, không dữ
dục, phạm
vượt Tỳ-ni
tội.
Tập
họp
đúng
thời nên gởi
dục thanh tịnh.
Tập họp
phi thời nên gởi
dục Yết-ma.
Tập họp
đúng thời
cũng
được
gởi hai loại
dục.
Nếu
Tỳ-kheo cùng với
khách buôn
đồng
đi,
đến ngày Bố-tát
có nạn khủng
bố, khách buôn
đi
không
đợi
được
vừa
đi
với họ
vừa Bố-tát.
Trước hết
nên trù lượng, không gian ngang bằng
bao nhiêu là tụng xong luật.
Hoặc núi, hoặc
đá, làm biểu
thức, duỗi
cánh tay ra vừa
đụng
nhau, Yết-ma làm ranh giới
để Bố-tát,
sau
đó tác Bố-tát.
Lại nữa,
nếu Tỳ-kheo
nhiều không
đủ
chỗ ngồi,
tất cả
duỗi tay ra vừa
đụng nhau,
được
phép
đứng tác pháp Bố-tát.
Nếu có chỗ
ngồi thì ngồi
tác pháp Bố-tát. Nếu
Tỳ-kheo già, bệnh
không thể vào ngồi
được,
đến
góc giường giáp nhau,
được
phép nằm tác Bố-tát.
Mười
một
việc không gọi
là dữ dục:
1) Nói: Tôi gởi
Trưởng lão dục,
tôi
đến nhận...
dục, gởi
dục chung.
(Hỏi:
- Tứ
phần cho phép chuyển
gởi dục,
cũng
cho nhận
dục nhiều
người. Tăng
Kỳ không cho. Vậy
theo bổn nào?
Ðáp: - Không cho là sợ sai sót. Nếu
có thể khéo ghi nhớ
thì theo Tứ
phần
cũng
được).
2) Ngày mai Bố-tát,
ngày nay dữ dục
(dữ dục
cách
đêm).
3) Ra ngoài giới
dữ dục.
4) Gởi
dục Tỳ-kheo-ni.
5) Gởi
dục cho người
chưa thọ
giới Cụ
túc.
6) Nhận
dục rồi
ra ngoài giới.
7) Gởi
dục rồi
ra ngoài giới.
8) Nhận
dục rồi
hoàn giới.
9) Gởi
dục rồi
hoàn giới.
10) Tỳ-kheo
bệnh gởi
dục rồi,
nghe trong Tăng
thuyết
giới Tỳ-ni,
tự mình
đến
nghe, ngồi lâu
mỏi
mệt,
dùng pháp gởi dục
trước, lặng
thinh bỏ
ra, không gọi là dữ
dục. Cần
gởi lại.
11) Ngày Bố-tát, Tăng
nhóm họp không
đến
gởi
dục
thanh tịnh.
Nếu mưa
to gió lớn, hoặc
lửa,
hoặc
giặc,
các Tỳ-kheo
đều
sợ giải
tán hết,
không gọi
là trì dục
đến
trong Tăng
được.
Trường
hợp
nếu còn lại
một người
thì gọi
đó
là
đến
trong Tăng.
Bố-tát
có bảy việc
nên ngăn:
-
Người
bất cộng
trú.
-
Người
biệt
trú.
-
Người
chưa
thọ Cụ
túc giới.
-
Chưa
thuyết
dục.
-
Chưa
hành trù.
-
Vì nghĩa
hòa hiệp.
-
Hòa hiệp
chưa
xong.
Luật Ngũ phần nói:
Bảo
Sa-di ra, nên
đến
chỗ
không thấy
không nghe, và dùng
đèn soi khắp dưới giường.
Cho phép
đến
nơi Tỳ-kheo
có tội
mà sám hối.
Không cho phép
đến người
đồng
phạm
mà sám hối.
Nếu
Tỳ-kheo
bệnh
thì cho phép
đến người
đồng
phạm
sám hối.
Nếu
kẻ sĩ
cầm
gậy
thủ
hộ
không chịu
đi
thì chỉ
nói tựa
của
giơùi
thôi. Còn bao nhiêu, nói: “Ngoài ra Tăng
thường
nghe”. Cần
tác pháp như vậy
để Bố-tát.
Nếu
có vua
đến, cũng
vậy.
Nếu
có nhân duyên không thể
thuyết
giới
theo 5 cách trên thì nên nói: “Nay là ngày thứ
15, thời
gian Bố-tát,
mỗi người
cần
cùng nhau chánh thân khẩu
ý, chớ
buông lung”. Như
vậy,
cũng
được
gọi
là Bố-tát.
Không
được không Bố-tát.
Khi thuyết
giới
nửa
chừng
bị
quên, người
bên cạnh
nên nhắc,
còn quên nữa,
lại nhắc.
Ba lần
quên thì nên sai người
khác tụng
tiếp,
không
được tụng
lại.
Nếu
đấu
tranh hoặc
thuyết
pháp, thuyết
luật,
luận
nghị,
hay
được nhiều
người
đến
bố
thí, không thể
thuyết
giới,
đều
cho phép
đến sáng ngày
hôm sau.
- Nên thỉnh vị thuyết giới trước.
- Nên tác pháp Yết-ma trước, sau
đó mới thuyết giới
-
Không nên
đồng
tụng giới.
-
Không nên thuyết
giới
bằng giọng
ca vịnh,
nên nói giới
bằng
giọng
đứng
đắn
trịnh
trọng.
Luật
Thập
tụng
nói:
Cho phép hai thời
gian Bố-tát:
1) Ngày thứ
14 (nếu
tháng thiếu).
2) Ngày thứ
15 (nếu
tháng
đủ hay có trăng),
hay:
-
Trước
bữa
ăn.
-
Sau bữa
ăn.
Hoặc
ban ngày, ban
đêm.
Tỳ-ni mẫu
nói:
Tỳ-kheo
và Tỳ-kheo-ni
được cùng nhau
nghe thuyết
giới,
không
được vì nhau nói giới.
(Hỏi:
Tứ
phần
nói, không nên
đối trước
Tỳ-kheo-ni
và người
chưa
thọ
Ðại
giới
tác Yết-ma
và ngaên thuyết
giới.
Nay lại
nói: Tỳ-kheo
và Tỳ-kheo-ni
được cùng nhau nghe thuyết
giới. Ðâu có trường
hợp nào trước
khi thuyết giới
lại không có Yết-ma
các việc?
Ðáp:
Tác Yết-ma và ngăn
thuyết giới
đều là việc
cử tội
trị phạt,
cho nên không nên cho phép Tỳ-kheo-ni
biết.
Nếu
đã làm Yết-ma
xong,
đến
câu hỏi:
Ai thỉnh giáo giới,
Ni mới
được
vào trong chúng lễ
thỉnh. Từ
đây chỉ
có một việc
Bố-tát, chỉ
ngồi nghe nên không có lỗi).
Những
người trước
đó có sự
cơ hiềm
với nhau, không nên cho gởi
dục thanh tịnh,
không nên cùng nhau sám hối.
Không nên vì một
nhân duyên nhỏ mà
đứng
giữa
đường
thuyết giới,
nên
đứng trên chỗ
cao, quán sát xem gần
đó
có trú xứ nào hay không? Nếu
có, nên vào trong trú xứ
đó mà Bố-tát
thuyết giới.
Nếu
cùng
đi với
khách buôn, khách buôn dừng
lại lâu thì thuyết
giới
đầy
đủ. Nếu
họ dừng
thời gian ngắn
thì thuyết giới
lược. Nếu
họ không dừng
thì tam ngữ thuyết
(giới). Nếu
mọi người
không cho phép dừng
thì mỗi
người, miệng
nói: “Nay là ngày Bố-tát
thuyết
giới”. Nếu có hàng bạch
y
đi trong
đoàn
Tỳ-kheo, không
được
nói ra lời, nên một
lòng nghĩ: “Nay là ngày Bố-tát
thuyết giới”.
Nếu có nạn
giặc, nạn
rồng, nạn
quỷ cũng
y như vậy
mà thực hành.
BIỆN
MINH:
Hỏi:
Tăng kỳ
cho phép vừa
đi
vừa Bố-tát,
còn
ở
đây
không giống. Cuối
cùng nên theo bên nào?
Ðáp:
Tăng
kỳ
cho phép vừa
đi
vừa nói giới
chú trọng về
ngôn thuyết. Thập
tụng
phân ra chỗ rộng
chỗ lược,
ý
ở chỗ
tùy cơ. Nay cũng
tùy lực tùy cơ,
có thể
được
vậy.
Hỏi: Pháp tạng
Tỳ-ni là quy giới
của Tỳ-kheo,
không
được
nói cho tất cả
người chưa
thọ Cụ
túc nghe, còn Phạm
võng thì dành riêng cho phép quốc vương.
Bộ Phát
ẩn
lại vin vào Thập
tụng tỳ-ni
tựa
làm chứng. Cho
đến
Tăng kỳ,
Ngũ phần
thảy
đều không cho pheùp.
Không biết
theo bên nào?
Ðáp:
Nếu luận về con
đường quy thức chung thì nên theo Tăng
kỳ và Ngũ
phần.
Ðôi khi có cơ duyên ngoại
cách thì có thể áp dụng
Thập tụng
tỳ-ni.
Ðến
như kinh Phạm
võng là của
Bồ-tát, chứ
không phải của
Tỳ-kheo.
Căn bản ni-đà-na nói:
Không
được gởi
dục cho người
thọ
học
nhưng
được
nhận
dục
của
họ.
Luật nhiếp
nói:
Bao-tát-đà:
Bao-tát
nghĩa
là trưởng
dưỡng.
Ðà nghĩa
là giữ
gìn. Tức
là do tập
họp
chúng thuyết
giới,
nên có thể
trưởng
dưỡng
pháp lành, và giữ
gìn
được
tự
tâm. Lại
nữa,
Ðà nghĩa
là tịnh
trừ.
Tức
là tăng
trưởng
thiện
pháp, trừ
sạch
bất
thiện
vậy.
Nếu
trong trú xứ
chỉ
có bốn
người,
đều
có thể
tập
họp,
không nên biệt
trú, cũng
không nhận
dục.
Nếu
ở
nơi
trú xứ
không có thuyết
giới,
nên
đến trú xứ
khác
để trưởng
tịnh.
Nếu
trú xứ
không có người
thuyết
giới,
tiền
an cư,
không
được quá hai kỳ
trưởng
tịnh.
Phải
tìm
đến trú xứ
có người
thuyết
giới.
Nếu
chúng bị
phá mà hòa hợp
lại
được,
có thể
tác Kiết
tường
trưởng
tịnh.
Ðược
phép chấm
dứt
pháp xả
trí, nên khất
đại
chúng tác pháp Biệt
thời
trưởng
tịnh.
PHỤ LUïC:
Tỳ-kheo
5 tuổi
(hạ)
nên tụng
giới,
tụng Yết-ma
cho thuộc.
Cho phép nương
nơi
vị
có thể
tụng
luật
hạ
an cư.
Vị
tụng
luật
trong khi an cư
mạng
chung, cho
đến phạm
ngũ
nghịch
v.v... nếu
chưa
đến
hậu
an cư,
thì nên
đến trú xứ
gần
nhất
kiết
hậu
an cư.
Hoặc
thỉnh vị
ở trú xứ
gần nhất
có thể tụng
luật, qua an cư
với mình (trú xứ
mình). Nếu
đã
kiết hậu
an cư rồi,
các Tỳ-kheo nên
đến
trú xứ gần
nhất
để
học bài tựa,
hay tụng 4 việc,
13 việc, 2 Bất
định, 30 việc,
90 việc. Hoặc
tụng những
pháp còn lại. Vị
ấy tụng
những gì có thể
tụng
được,
sau
đó trở
về trụ
xứ mình, dạy
một vị
tụng, nếu
một người
không thể tụng
hết, tùy theo chỗ
đã tụng
rồi, mỗi
người tuần
tự tụng
tiếp theo, không
được
tụng trở
lại. Nếu
được như
vậy thì tốt,
không
được thì chỉ
nói pháp, tụng kinh.
Luật
Thập tụng
nói:
Tỳ-kheo
thuyết
giới, phải
tụng thuộc
lòng trước,
đừng
để khi tụng
giữa chúng mà nhầm
lẫn.
Tỳ-ni
mẫu
nói:
Không nên tụng
luật bằng
giọng ca hát. Nên tụng
với giọng
rõ ràng. Tụng giọng
ca vịnh có 5
điều lỗi:
1) Tâm
đắm
nơi âm thanh ca hát.
2) Bị
người
đời cơ
hiềm.
3) Cùng người
đời không khác.
4) Phòng phế
cuộc hành
đạo.
5) Phòng phế
việc nhập
định.
Xuất
gia
đến
5 lạp, cốt
yếu là phải
tụng giới
cho thuộc lòng. Không tụng
giới
được,
có 4
điều
lỗi:
1) Không
được
nuôi
đệ tử.
2) Không
được
lìa y chỉ.
3) Không
được
làm Hòa thượng.
4) Không
được
làm A-xà-lê.
Pháp của
Tỳ-kheo,
cốt yếu
là tụng Ba-la-đề-mộc-xoa. Nếu
không tụng thì trú xứ
nào có tụng Tỳ-ni,
ba thời phải
đến trú xứ
đó. Tại
sao vậy? - Nếu
có phạm có nghi, sám hối,
giải nghi,
đặng
trừ tội.
Tại sao gọi
là Bố-tát? Ðoạn
là Bố-tát. Tức
là có khả năng
đoạn
các tội lỗi,
các phiền não,
đoạn tất
cả pháp bất
thiện gọi
là Bố-tát. Thanh tịnh
gọi là Bố-tát.
Mục
hai, vấn
đáp khải
bạch
đã
xong.
C. CHÍNH NÓI BÀI TỰA CỦA GIỚI
Thưa
các Ðại
đức,
nay tôi sẽ tụng
giới Ba-la-đề-mộc-xoa, các Ðại
đức cùng tập
họp tại
một chỗ.
Hãy lắng nghe suy nghiệm
kỹ. Nếu
ai tự biết
có phạm, hãy tự
phát lồ. Ai không phạm
thì im lặng. Do sự
im lặng, tôi biết
các Ðại
đức
thanh tịnh. như
một người
được kẻ
khác hỏi riêng
điều gì, thì như
thật mà trả
lời. Cũng
vậy, Tỳ-kheo
nào
ở trong chúng sau khi
đã ba lần
hỏi, nhớ
nghĩ mình có tội
mà không phát lồ, vị
ấy mắc
tội cố
ý vọng ngữ.
Phật dạy:
Cố ý vọng
ngữ là pháp chướng
đạo, Tỳ-kheo
nào nhớ nghĩ
mình có tội, muốn
cầu thanh tịnh,
hãy tự phát lồ,
do phát lồ mà an lạc.
NGUYÊN DO:
Ngài Xá-lợi-phất,
ở
chỗ nhàn tịnh
nghĩ thế
này: Tại sao có các vị
Ðẳng Chánh Giác tu phaïm
hạnh,
Phật pháp cửu
trụ? Tại
sao có các vị Ðẳng
Chánh Giác cũng tu phạm
hạnh Phật
pháp không cửu trụ?
Rồi
đến
hỏi
đức
Thế Tôn. Phật
nói:
-
Ðức
Phật Tùy-diếp,
đức Phật
Câu-na-hàm, không vì các
đệ
tử rộng
nói 12 bộ kinh, không kiết
giới, không nói giới.
Lúc
đức Phật
và các Thanh văn kia còn tại
thế, Phật
pháp rộng lưu
bố. Sau khi Phật
và Thanh văn nhập
diệt, người
trong thế gian,
đủ
các tên gọi,
đủ
các họ hàng,
đủ
các gia thế xuất
gia, do vậy mau tiêu diệt,
Phật pháp không cửu
trụ. Tại
sao? Vì không dùng kinh pháp nhiếp
hóa. Cũng như
các loại hoa
đem
rải trên bàn, bi gió thổi
bay tứ hướng.
Còn
đức
Phật
Tỳ-bà-thi,
đức
Phật Thức-khí,
đức Phật
Câu-lưu-tôn,
đức
Phật Ca-diếp
vì các
đệ tử
rộng nói kinh pháp, cũng
kiết giới,
cũng thuyết
giới. Các
đức
Phật và chúng Thanh văn
kia, khi còn
ở
đời,
Phật pháp
được
lưu bố.
Sau khi các Phật và Thanh văn
nhập diệt,
các người trong thế
gian,
đủ các tên gọi,
đủ các họ
hàng,
đủ các gia thế,
xuất gia,
đã
không khiến cho Phật
pháp mau diệt
độ.
Tại sao? - Vì dùng kinh
pháp khéo nhiếp
hóa. Cũng như
các loại hoa trải
trên mặt bàn, dùng chỉ
xâu lại, tuy bị
gió thổi, nhưng
không bị phân tán.
Lúc bấy giờ,
ngài Xá-lợi-phất
liền thỉnh
Thế Tôn kiết
giới, nói giới.
Phật dạy:
“Thôi
đi! Phật
tự biết
thời. Nếu
có Tỳ-kheo nào phạm vào pháp hữu
lậu, nhiên hậu
Thế Tôn mới
kiết giới,
để
đoạn trừ
pháp hữu lậu
kia. Tỳ-kheo nếu
vì
được lợi
dưỡng, nếu
vì
được danh xưng,
được nhiều
người biết,
học nhiều,
nhiều tài nghiệp,
lúc
đó sanh ra pháp hữu
lậu. Khi pháp hữu
lậu
đã
sanh, thì Ta sẽ vì họ
kiết giới”.
(Câu: “Ðoạn
trừ pháp hữu
lậu” là cương
tôn của giới
học. Ðể
mắt vào
đó
thì hầu hết
khai, giá, trì, phạm
từ
đó
mà sanh).
CHỨNG
MINH:
Luật
Căn bản
nói:
Cây chuối
khi kết trái, cây trúc vĩ
lúc mọc mầm,
con loa
mang thai
đều
tự hại
mình. Cũng vậy,
lợi dưỡng
và danh dự người
ngu
ưa thích, chúng có khả
năng phá hoại
các pháp lành, như
lưỡi
kiếm chặt
đầu người.
Luật
Nhiếp
nói:
Có 5
động
cơ
khiến mình tạo
tội:
1) Không có tâm biết
xấu hổ.
2) Không kính trọng
lời dạy.
3) Lòng ôm sự
phóng dật.
4) Bẩm tánh ngu
độn.
5) Quên mất
chánh niệm.
GIẢI
THÍCH:
Pháp chướng
đạo là chướng
ngại cho Sơ
thiền, Nhị
thiền, Tam thiền,
Tứ thiền,
Không, Vô tướng, Vô nguyện.
Trở ngại
quả Tu-đà-hoàn,
cho
đến A-la-hán. Nếu
sám hối thì
được
an lạc,
đắc
Sơ thiền
cho
đến A-la-hán.
Luật
Nhiếp
nói:
Trước
có phạm,
nay nín thinh không nói, lại
chiêu lấy tội
lỗi. Nếu
như trong một
lúc nào
đó, có người
khác hỏi, như
thật mà
đáp.
Ở
đây
cũng như
vậy. Nếu
có tội mà không hề
nhớ thì không mắc
tội vọng
ngữ. Nhưng
nếu nhớ
mà nín thinh tức là vọng
ngữ, vì chúng hiện
trên thân tướng, biểu
hiện nơi
ngữ nghiệp.
Pháp chướng ngại,
một là
đối
với
đời
này chướng ngại
các pháp lành, hai là
đối
với
đời sau trở
ngại sanh vào
đường
lành.
Dục
cầu
thanh tịnh: Thanh tịnh
tức là Niết-bàn.
Vì cầu mong quả
Niết-bàn, nên không sợ
người khác gạn
hỏi, trách cứ,
trị phạt,
mà nói tội của
mình. Phát lồ tức
an lạc, có 5 cách thực
hiện nơi
tướng:
1) Do siêng năng
cần mẫn
trị các biếng
nhác.
2) Do không có tội,
trị các tội
lỗi.
3) Do kính trọng,
trị tâm kiêu mạn
thức xoa.
4) Do không hối
hận, trị
các ác tác.
5) Do tịch
định, trị
tâm tán loạn.
Luật
Ngũ phần
nói:
Ba-la-đề-mộc-xoa dùng giới
này phòng hộ các căn,
tăng trưởng
pháp lành. Ðối với
các pháp lành, nó là cửa
ngõ ban
đầu
vậy.
Mục
3, nói về
bài tựa của
giới xong.
D. NÓI ÐỂ KẾT THÚC
Thưa các Ðại
đức, tôi
đã
thuyết xong tựa
Giới kinh. Nay hỏi
các Ðại
đức
trong
đây có thanh tịnh
không? (3 lần).
Các Ðại
đức
trong
đây thanh tịnh,
vì im lặng.
Tôi ghi nhận
như vậy.
GIẢI
THÍCH:
Luật
Nhiếp
nói:
Hỏi
3 lần
là vì, nếu hỏi
ít hơn thì người
ám
độn không hiểu
kịp. Nếu
hỏi nhiều
hơn sợ
mất thì giờ,
khiến cho chúng mỏi
mệt.
Xong phần
hỏi
để
kết thúc của
mục bốn.
Phần
chính văn
chia làm ba.
Mục
ban
đầu
đã nói xong về
tựa của
giới.
Mục
thứ
hai, liệt kê về
giới tướng:
Chia làm 8:
I.
Bốn
pháp khí (Ba-la-di).
II.
Mười
ba pháp Tăng
tàn.
III.
Hai pháp Bất
định.
IV.
Ba mươi
pháp Xả
đọa.
V.
Chín mươi
pháp Ba-dật-đề.
VI.
Bốn
pháp Hối
quá.
VII.
Một trăm pháp Chúng học.
VIII.
Bảy pháp Diệt tránh.
Tám khoa này gọp
chung lại thành 5 thiên:
1) Khoa thứ
nhất tức
là thiên ban
đầu.
2) Khoa thứ
hai tức là thiên thứ
hai.
3) Khoa thứ
ba, trong
đó gồm
có thiên
đầu, thiên thứ
hai và thiên thứ ba, gọi
là Bất
định.
Khoa thứ tư,
khoa thứ năm
đều thuộc
về thiên thứ
ba.
4) Khoa thứ
sáu thuộc về
thiên thứ tư.
5) Khoa thứ
bảy, khoa thứ
tám thuộc về
thiên thứ năm.
Nói thất
tụ, là y vào thiên thứ
nhất và thiên thứ
hai phương tiện
và
đẳng lưu,
lập riêng tụ
Thâu-lan-giá. Nhân ba thiên sau, các phương
tiện
đẳng
lưu nhẹ,
lập riêng ra tụ
ác thuyết.
I. BỐN PHÁP KHÍ:
Chia
làm ba:
A. NÊU CHUNG:
Thưa các Ðại
đức,
đây
là bốn pháp Ba-la-di, rút từ Giới
kinh, mỗi nửa
tháng tụng một
lần.
GIẢI
THÍCH:
Luật
Tăng kỳ
nói:
Ba-la-di tức
là pháp của người
trí bị thối
một (chìm),
đọa
lạc, không dự
phần vào
đạo
quả
được.
Như vậy:
Vị tri trí, Ðẳng
trí, Tha tâm trí, Khổ,
tập,
tận,
đạo
trí, Tận trí, Vô sanh trí,
đối
với các trí
đó
bị thối
một,
đọa
lạc, không
được
dự phần
vào
đạo quả.
Ðối
với phạm
hạnh thối
một,
đọa
lạc, không dự
vào
phần
đạo
quả
được.
Phạm tội
này không thể phát lồ
sám hối tội
lỗi
đó
được, cho nên nói là
Ba-la-di.
(Một:
Pháp trí, tức
biết
ngũ uẩn
v.v...
đều có tự
tánh riêng.
Hai: Vị
tri trí, cũng
gọi
là Loại trí, biết
Năm uẩn
v.v... tướng sai biệt
tức là khổ,
vô thường, không, vô ngã
v.v...
Ba: Ðẳng
trí; cũng gọi
là Thế tục
trí, biết các loài hưõu
tình tu hành sai biệt
và biết các pháp danh tướng
giống, khác.
Bốn:
Tha tâm trí, biết tâm Bổ-đặc-già-la,
tâm sở
pháp (tâm pháp), không hề
nghi trệ.
Năm:
Khổ
trí, năm
ấm
vô thường, khổ,
không, vô ngã, quán
được
trí Vô lậu.
Sáu: Tập
trí, cũng gọi
là tập (họp),
biết nhân của
các pháp, nhân nhóm họp
và sanh ra duyên, quán trí Vô lậu.
Bảy:
Tận
trí, cũng gọi
là Diệt trí, chấm
dứt sự
sanh diệt,
đạo
quả vi diệu
xuất hiện,
quán
được trí Vô lậu.
Tám: Ðạo
trí, tức
đạo
chánh hạnh, quán
được
Vô lậu trí.
Chín: Tận
trí, ta thấy
khổ
rồi,
đoạn tập
rồi, chúng diệt
rồi, tu
đạo
rồi. Khi nghĩ
như vậy,
chứng Vô lậu
trí huệ,
đắc
tuệ giác.
Mười:
Vô sanh trí, ta thấy
khổ rồi,
không trở
lại
nữa, cho
đến
tu
đạo rồi,
không còn tu nữa.
Khi nghĩ
như vậy,
chứng Vô lậu
trí huệ,
đắc
tuệ giác. Ðó là 10 trí
đức
của Thanh văn.
Niết-bàn tức
là Ðoạn
đức
của Thanh văn.
Phạm hạnh
tức là thanh tịnh
giới phẩm,
là nhân của
Trí
đức
và Ðoạn
đức
để
đi
đến Quả
đức, nay
đều
bị thối
thất,
đọa
lạc, không có cái nhân xuất
thế
để
đưa
đến
quả phần).
Luật
Ngũ phần
nói:
Ba-la-di là pháp
đọa,
là pháp ác, là pháp
đoạn
đầu, là không phải
pháp của Sa-môn. Như
cây kim bị sứt
đít không còn dùng
được. Như người
mạng tận
không thể sống
được. Như
đá bị
vỡ hai không thể
hiệp lại
được. Như
chặt ngọn
của cây
đa-la,
không thể sống
được.
(Ða-la xưa
gọi bối
đa. Trung Hoa phiên là
Ngạn
(cây Ngạn),
hình dáng thẳng
mà cao, lá có thể viết
kinh. Cây này nếu
bị
chặt cái tim ngọn,
liền khô chết).
Luật
nhiếp
nói:
Ba-la-thị-ca
(Ba-la-di) nghĩa
là cực
ác. Lại còn có nghĩa
là tha thắng. Khi vừa
phạm giới
liền bị
người tịnh
hạnh khinh khi, vì họ
hơn. Lại
bị phiền
não xô ngã, vì nó
đã
thắng.
Xuất gia cận
viên là
để trừ
phiền não, nay phá giới
cấm, ngược
lại bị
nó hàng phục. Nó cũng
hay làm hại thiện
phẩm, khiến
cho bị tiêu diệt.
Và cũng hay sanh ra tội,
rơi vào
đường
ác nên gọi là Ba-la-thị-ca.
(Cận
viên, viên là Niết-bàn.
Thọ giới
Tỳ-kheo, có khả
năng gần
Niết-bàn, cho nên gọi
là cận viên. Cũng
gọi là cụ
viên. Vì cụ
giới
này là chánh nhân duyên của
Niết-bàn.)
B. KÊ RIÊNG:
Có 4: 1) Giới
dâm; 2) Giới trộm;
3) Giới sát; 4) Giới
vọng.
Luật
Nhiếp
nói:
Trước
giới
dâm sau giới sát,
đây
là y theo duyên phạm
trước
sau mà trình bày. Lại
cũng
y theo việc trước,
nên dẫn
đến
việc sau, lấy
đó làm thứ
tự. Do không tịnh
hạnh nên làm việc
trộm cắp.
Ðã làm việc
ăn
trộm rồi
bèn giết oan gia. Giết
rồi bị
hỏi, lại
nói dối. Hơn
nữa,
đối
trước sức
mạnh xí thạnh
của phiền
não mà chế cấm.
-
Bốn
cái tha thắng này tướng
của nó thế
nào? Không nhàm chán, không xa lìa, không nhẫn
chịu, không chứng
đắc. Song không nhàm
chán, không xa lìa vì chúng hết sức
là cường thạnh,
nên
đặt vào thứ
nhất. Thứ
hai,
đối với
dâm dục,
đối
với của
cải vì không biết
từ khước
cho nên sát sanh và vì không chứng
đắc cho nên vọng
ngữ.
THỨ
NHẤT:
GIỚI
DAÂM
Ðại
thừa
đồng
chế. Ðại
thừa tuy cho phép sám hối,
nhưng cần
phải thấy
hảo tướng.
Hoặc nhờ
được gặp
Phật, Bồ-tát
v.v... vì họ nói thâm pháp, khiến
họ bừng
phát
đại tâm. Như
trong kinh Tịnh
nghiệp
chướng,
kinh Duy-ma-cật
nói: Song,
ắt
phải
đầy
đủ tâm
đại
tàm quý, sanh
đại yểm
ly, tuyệt nhiên không hề
phú tàng. Dốc hết
lòng tha thiết sám hối
tội lỗi,
mới có thể
thừa
đương
được.
Vấn
đề
này cùng với pháp thọ
học vốn
có sự phỏng
theo nhau. Nếu không có tâm sợ
sệt, không có tâm quyết
đoán,
tuy là Ðại thừa
nhưng cũng
đâu vội
thông cho sám hối? Nếu
luận rằng:
“Kiến cơ
đắc tác”, chỉ
gọi là tại
gia Bồ-tát, chớ
chẳng gọi
là Tỳ-kheo Bồ-tát.
Giới bổn
đã trình bày
đầy
đủ vấn
đề này, xin xem lại
cho rõ.
Hỏi: - Bồ-tát Tỳ-kheo, căn bản nếu
đã phá, một khi
đã mất thì mất luôn, không
được gọi là
Bồ-tát, Tỳ-kheo,
Sa-di. Nếu
Ðại
thừa
cho phép sám hối,
cốt
phải
thấy
hảo
tướng,
mới
có thể
cho thọ
lại.
Còn Tiểu
thừa
thì quyết
định
không cho thọ
lại.
Tiểu
thừa
đã
không cho phép thì
đâu có gọi
đơn
Bồ-tát
(Bồ-tát
không)?
Ðáp: - Ðại
thừa
cho thọ
lại,
tuy lấy
hảo
tướng
làm kỳ
vọng,
nhưng
trong pháp của
Tỳ-kheo
hoàn toàn không
được dùng vào việc
của
Tăng.
Nay giả
thiết
Bồ-tát
Tỳ-kheo
phá căn
bản
sau y theo Ðại
thừa
sám trừ,
được
thấy
hảo
tướng.
Nếu
trước
đó
đã
tác Yết-ma
dữ
học,
tức
là Bồ-tát
dữ
học
Tỳ-kheo.
Nếu
trước
đó
đã
tác Yết-ma
diệt
tẫn,
tức
là Bồ-tát
Ưu-bà-tắc,
chứ
không gọi
là
đơn
Bồ-tát.
Hỏi:
- Pháp sám hối
có ba: Tác pháp, thủ
tướng,
vô sanh. Trường hợp
có vi phạm trọng
giới hoặc
vì vấn
đề
thể diện,
hoặc vì không có Tăng
thanh tịnh, không y theo tác
pháp mà sám, chỉ
y nơi thủ
tướng, vô sanh. Như
vậy hai pháp sám này có
thể
tiêu tội chăng?
Ðáp:
- Phạm tội
là ác pháp, còn không nghĩ
đến vấn
đề thể
diện mà lại
làm. Sám hối là vấn
đề thiện
pháp, tại sao lại
vì vấn
đề
thể diện?
Nếu trong
tâm có ý vì thể
diện thì hoàn toàn
đoïa
vào phân biệt vọng
thức; tuy
muốn
thủ
tướng
nhưng
dứt
khoát không cảm
thông, tuy quán vô sanh nhưng dứt
khoát khó khế hội.
Trường
hợp vì thiếu
Tăng thanh tịnh,
không có chỗ nào
để
tác pháp, thì dùng tâm tịnh
đầy
đủ,
chuyên tu hai pháp sám thủ
tướng và vô sanh. Khi
đã
không có ý muốn che giấu,
thì quyết
định
cũng có thể
diệt trọng
tội. Cổ
đức nói: Thà thiếu
hai món trước,
đừng
thiếu hai món sau, chính là
cái nghĩa
đây vậy.
Không phải vì vấn
đề thể
dieän mà thiếu món trước
được!
Hỏi:
-
Pháp thọ học
in tuồng phỏng
theo Ðại thừa.
Song cuối cùng cũng
không thể dùng vào việc
của Tăng
được. Không biết
y theo Ðại thừa
hành sám, thấy
được
hảo tướng
rồi, có
được
tính vào Tăng số
không?
Ðáp:
- Trong
bộ
Phụ
hành ký
của
Ðại sư
Kinh Khê nói rằng: Giáo môn của
Tiểu thừa
còn không khai cho sám hối,
tuy nói là hoàn sanh, nhưng
không dùng vào việc
của
Tăng.
Còn Sa-di
đã phạm,
phải
sám hối
mới
thành tấn cụ
(thọ Cụ
túc giới). Vấn
đề hứa
khả của
Ðại thừa
theo sự có thể
thông hành. Thảng như
cho phép
được vào trong Ðại
Tăng,
nhưng
cũng
tự
chiêu lấy
sự
gian dối
mà thôi. Huống nữa
tính vào túc số của
bậc khuôn vaøng thước
ngọc làm sao
được?
Nên tin rằng Ðại
thừa Tiểu
thừa có sự
khu biệt, cho phép và cấm
chế khác nhau. Tiểu
thừa không hề
nói phạm trọng
mà sám hối, nên trọng
tội không mất.
Vì
vậy, làm sao có thể
dùng lời dạy
sám hối của
Ðại thừa
mà cho phép tính vào Tăng
số
của Tiểu
thừa? Y theo Ðại
thừa sám hối
rồi, tự
mình tấn tu
đạo
hạnh,
đâu
phải là hổn
lạm
để
mê hoặc tình người?
Luận rằng:
Thâm
đàm huyền
diệu không
đâu
hơn tông Thiên thai. Việc
xiển dương
giáo môn hoàn toàn không phá hư
sự tướng.
Khéo léo khai quyền
hiển
thật thì sự
tức là chơn.
Cho nên pháp của Tạng
giáo, không thể bỏ
được. Thảng
như muốn
dùng Ðại thừa
để phá Tiểu
thừa thì không phải
là
điều
hay
đẹp
để
mong muốn vậy.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo nào,
đã thọ trì học xứ và chấp nhận
đời sống của Tỳ-kheo, chưa hoàn giới, giới sút kém nhưng không phát lồ, mà hành pháp dâm dục, cho
đến cùng với loài súc sanh Tỳ-kheo
ấy là kẻ Ba-la-di, không
được sống chung.
NGUYÊN DO:
Ðức
Phật
ở tại
Tỳ-xá-ly, khi
ấy
nơi thôn Ca-lan-đà,
có con của ông Tu-đề-na,
của cải
đầy kho, lòng tin bền
vững, xuất
gia hành
đạo. Gặp
lúc mất mùa, gạo
thóc rất quý, Tỳ-kheo
khất thực
khó
được. Con ông Tu-đề-na
dẫn các Tỳ-kheo
đến thôn Ca-lan-đà
khất thực.
Mẹ của
ông nghe con về,
đến
khuyên ông bỏ
đạo
về lại
nhà, ba lần khuyên, ông
đều
không chấp nhận.
Bà bảo con bà làm thế
nào cho vợ ông có thai
để
khỏi tuyệt
giòng họ. Ông bèn nắm
tay vợ mình dẫn
vào trong vườn, ba lần
hành bất tịnh.
Khi
ấy trong vườn
có con quỷ vừa
chết, liền
đầu thai vào
đó.
Sau chín tháng sanh
đứa
con trai
đặt
tên là Chủng Tử,
sau cũng xuất
gia thành
đạo. Khi Tu-đề-na
hành bất tịnh
rồi, thường
ôm lòng sầu
ưu.
Bạn
đồng
học hỏi
biết vấn
đề, trình bày
đầy
đủ với
Ðức Thế
Tôn. Thế Tôn tập
hợp các Tỳ-kheo,
dùng voâ số phương
tiện trách rằng:
“Việc ông làm là quấy,
không phải oai nghi, không phải
Sa-môn, không phải
tịnh
hạnh, không phải
hạnh tùy thuận,
điều
ấy là
đieàu
không nên làm. Tu-đề-na,
tại
sao ông
ở trong pháp thanh tịnh
của Ta mà làm... cho
đến
ái hết thì chứng
Niết-bàn. Ông cùng với
vợ cũ
làm việc bất
tịnh chăng
?...”
Phật
bảo
các Tỳ-kheo thà
đem
nam căn
để
vào miệng rắn
độc, chứ
không nên
đem nó
để
trong nữ căn.
Tại sao vậy?
Vì làm như thế
sẽ không
đọa
vào
đường ác. Còn nếu
phạm
đến
nữ nhơn,
thân hoại mạng
chung,
đọa vào ba
đường
ác. Tại sao vậy?
Ta
đã dùng vô số
phương tiện
nói pháp
đoạn
dục
đoạn tư
tưởng
đối
với dục,
trừ sức
nóng tán dục, dứt
niệm về
dục, vượt
lên trên sự ràng buộc
bởi ái. Ta nói dục
như lửa,
vật tạm
bợ, như
xương khô, cũng
như cục
thịt, như
cảnh trong mộng,
như dao bén dưới
chân, như
đồ
gốm mới
đựng nước
để dưới
ánh nắng mặt
trời, như
đầu rắn
độc, như
kiếm bén
đâm.
Thật là uế
ác. Phật quở
trách. Quở trách rồi
cùng các
đệ tử
kiết giới,
gồm
đủ
10 nghĩa:
1) Nhiếp
hóa lấy Tăng
(sự, lý nhị
hòa).
2) Khiến
Tăng hoan hỷ.
(Mỗi
người
đều giữ
ba nghiệp,
không xúc não nhau).
3) Khiến
Tăng an vui.
(Mỗi
người
đều giữ
thân, khẩu,
không não loạn
nhau).
4) Khiến
người chưa
tin
được tin.
(Nhập
ngũ
đình tâm và Tứ
niệm
xứ).
5) Người
đã tin thì thêm lớn
lòng tin.
(Do Tứ
chánh cần
được quán noãn pháp).
6) Người
khó
điều,
khiến
được
điều
thuận
(Do giới
tịnh
nên có thể
được Tứ
như
ý túc, tiến
lên quán
đảnh pháp, chiết
phục
phiền
não).
7) Người
biết xấu
hổ
được
an lạc.
(Tàm là nghĩa
thứ
nhất
của
cõi trời,
Quí là trong người
phàm thành tựu
5 căn,
trụ
vào nhẫn
pháp, không bị
thối
chuyển).
8) Ðoạn
hữu lậu
hiện tiền.
(Năm
lực
có khả
năng
dẹp
năm
chướng.
Thế
đệ nhất
pháp, phục
đạo
đầy
đủ).
9) Ðoạn
hữu lậu
đời vị
lai.
(Bảy
giác chi, Tám chánh
đạo, phát khổ
nhẫn
chơn
minh, hoàn thành tám kim cang
đoạn
tất
cả
hạt
giống
kiến,
tư
hoặc).
10) Chánh pháp
được
lâu bền.
(Bậc
A-la-hán làm xong việc,
khiến
thắng
nghĩa
Chánh pháp không chấm
dứt.)
Muốn
nói giới sẽ
nói như sau:
“Nếu
Tỳ-kheo
nào phạm hạnh
bất tịnh,
hành pháp dâm dục,
Tỳ-kheo
ấy phạm
Ba-la-di không
được sống
chung.” Sau khi kiết
giới như
vậy rồi,
khi
ấy có Tỳ-kheo
Bạt-xà-tử,
sầu
ưu,
không vui sống nếp
sống tịnh
hạnh, liền
trở về
nhà, cùng với vợ
cũ hành dâm dục.
Các Tỳ-kheo bạch
Phật, Phật
dạy: “Ông là kẻ
ngu si, phạm Ba-la-di không
được
sống chung. Nếu
Tỳ-kheo nào không vui sống
nếp sống
tịnh hạnh,
cho phép xả giới
về nhà. Nếu
sau
đó muốn
xuất gia tu phạm
hạnh, nên
độ
cho xuất gia thọ
Ðại giới.
Lại thêm câu: “Không xả
giới, giới
sút kém không tự phát lồ”.
Lại
có một
Tỳ-kheo khất
thực, nương
ở trong rừng,
cùng hành bất tịnh
hạnh với
con vượn cái. Các Tỳ-kheo
đi kiểm
tra biết
được,
bạch
đầy
đủ với
đức Thế
Tôn, nên kiết văn
giới như
trên.
GIẢI THÍCH:
Tỳ-kheo
gồm
có:
-
Tỳ-kheo Danh tự.
-
Tỳ-kheo Tương
tợ.
-
Tỳ-kheo Tự
xưng.
-
Tỳ-kheo Thiện
lai.
-
Tỳ-kheo Khất
cầu.
-
Tỳ-kheo
trước cát tiệt
y.
-
Tỳ-kheo
Phá kiết sử.
- Tỳ-kheo
thọ Ðại
giới do Bạch
tứ yết-ma
như pháp thành tựu
hợp cách.
Chữ
Tỳ-kheo, nói
ở
trong văn giới
này là chỉ loại
Tỳ-kheo sau cùng, cùng với
Tỳ-kheo
đồng
giới. Khi Phật
vì các
đệ tử
kiết giới
rồi, thà chết
chứ không phạm.
Trong
đây
cùng với
các Tỳ-kheo khác một
giới (giới
thể không hai),
đồng
giới (giới
tướng không khác),
đẳng
giới (thọ
trì riêng một cách
đầy
đủ). Như
vậy gọi
là
đồng giới.
Thế
nào gọi
là không xả
giới?
Xả
giới
vì
điên cuồng,
xả giới
vì tâm tán loạn, xả
giới vì thống
não, xả giới
câm, xả giới
điếc,
xả giới
câm
điếc,
hay
đứng trước
những người
điên cuồng,
tâm loạn, thống
não,
điếc
câm mà xả giới
thì gọi là không xả
giới.
Người thành phố
đối trước
người quê dã, người
quê dã
đối trước
người thành phố
xả giới.
Không vắng lặng
tưởng là vắng
lặng xả
giới. Vắng
lặng xả
giới tưởng
là không vắng lặng
xả giới.
Giỡn chơi
xả giới.
Ðối truớc
loài thiên, long, dạ
xoa, ngạ
quỷ, ngủ
nghỉ, người
chết, người
vô trí xả giới.
Hoặc tự
mình không nói, hoặc
nói trước
người không hiểu
như vậy
v.v... không gọi là xả
giới.
Thế
nào gọi
là xả
giới?
Tỳ-kheo
nhàm chán pháp Tỳ-kheo,
bèn nói: Tôi xả
Phật,
xả Pháp, xả
Tỳ-kheo Tăng
v.v..., nói như vậy
một cách rõ ràng, gọi
là xả giới.
Giới
sút kém, hoặc có giới
sút kém mà không xả
giới,
hoặc có giới
sút kém mà xả giới.
Nếu Tỳ-kheo
nhàm chán pháp Tỳ-kheo,
trong lòng thường
xấu hổ,
ý
ưa sống
taïi gia v.v... chỉ
nói như
vầy: Tôi nghĩ
đến cha mẹ,
anh em, chị em, vợ
con, xóm làng, nhà cửa,
ruộng
vườn, hồ
ao, tôi muốn bỏ
Phật, Pháp, Tăng
cho
đến học
xứ. Tôi muốn
nhận giữ
gia nghiệp, cho
đến
muốn làm pháp phi Sa-môn,
phi Thích tử.
Như vậy
gọi là giới
sút kém, không xả
giới.
Nếu
tư duy rằng:
Tôi muốn xả
giới, rõ ràng thành xả
giới. Như
vậy gọi
là giới sút kém mà xả
giới.
Thế
nào gọi là Ba-la-di?
Như
người
bị chặt
đầu không thể
sống lại
được. Tỳ-kheo phạm
pháp này, khoâng trở
lại
thành Tỳ-kheo, cho nên gọi
là Ba-la-di.
Cộng
trú là cùng một
Yết-ma, cùng một
thuyết giới,
sống với
nhau mà không cùng nhau làm hai việc
ấy gọi
là bất cộng
trụ.
Luật
Tăng kỳ
nói:
Nếu
hướng
đến 5 chúng và hàng bạch y v.v... nói: Tôi bỏ
Phật, bỏ
Pháp, bỏ Tăng,
bỏ
học (xứ),
bỏ thuyết
(giới), bỏ
cộng trụ,
bỏ chung lợi
(dưỡng), bỏ
kinh luận, bỏ
Tỳ-kheo, bỏ
Sa-môn, bỏ Thích chủng,
không phải Tỳ-kheo.
Toâi là Sa-di, là ngoại
đạo, là người
thế tục.
Ngũ dục
vốn coù, tôi thọ
dụng trọn
vẹn. Ðó gọi
là hoàn giới.
Thế
nào gọi
là xả
Phật?
Bỏ
Chánh giác, bỏ Tối
thắng, bỏ
nhất thiết
trí, bỏ nhất
thiết kiến,
bỏ vô dư
trí kiến, bỏ
cha La-hầu-la, bỏ
chơn kim thân, bỏ
viên quang, bỏ 32 tướng,
bỏ 80 vẻ
đẹp. Nếu
bỏ tất
cả danh hiệu
của Phật,
đều gọi
là xả Phật,
tức là xả
giới. Nếu
nói bỏ quá khứ,
vị lai Phật,
không gọi là xả
giới, mắc
tội Thâu-lan-giá.
Lại
nữa, các ngoại
đạo cũng
đều gọi
có Phật. Nếu
thật muốn
xả Phật,
giả như
nói: bỏ Phật
ngoại
đạo,
không gọi là xả
giới, mắc
tội Thâu-lan-giá. Nếu
giỡn
chơi nói: Xả
Phật, phạm
tội Việt
tỳ-ni. Nếu
nhầm lẫn
nói, tâm cuồng thì vô tội.
Thế
nào gọi
là xả
Pháp?
Pháp, không thuộc
về ba
đời
mà tướng của
nó là thường trụ.
Như nói: Vô vi Niết-bàn,
lìa các phiền
não, tất
cả khổ
hoạn, vĩnh
viễn không còn. Nếu
nói: Xả pháp này, hoặc
nói: Xả quá khứ
vị lai pháp,
đều
gọi là xả
giới.
Nếu
như nói xả
pháp ngoại
đạo,
mắc tội
Thâu-lan-giá.
Nếu giỡn
chơi nói, phạm
tội Việt
tỳ-ni.
Thế
nào gọi
là xả
Tăng?
Tăng
là chỉ
cho
đệ tử
Thế Tôn. Tăng
tức là tư
song bát bối:
- Ðã thành tựu tín
- Ðã thành tựu giới
- Ðã thành tựu văn
- Ðã thành tựu tam muội
- Ðã thành tựu huệ
- Ðã thành tựu giải
thoát
- Ðã thành tựu
giải thoát tri kiến.
Nên họ
là bậc cần
cung kính cúng dường,
là ruộng
phước Vô thượng.
Nếu nói: Tôi xả
bỏ Tăng
này, gọi là xả
giới. Nếu
nói: Xả bỏ
quá khứ, vị
lai Tăng, hoặc
nói xả bỏ
nhiều Tỳ-kheo
Tăng,
đều
không gọi là xả
giới, mắc
tội Thâu-lan-giá. Nếu
nói: Xả bỏ
quá khứ vị
lai nhiều Tỳ-kheo,
hoặc nói xả
bỏ một
Tỳ-kheo, mắc
tội Việt
tỳ-ni. Hoặc
nói : Xả bỏ
quá khứ, vị
lai, một Tỳ-kheo,
mắc tâm hối
Việt tỳ-ni
(Tức là Ðột-kiết-la tự
trách tâm mình). Tỳ-kheo-ni
cũng
như vậy,
Hoặc nói: Xả
bỏ Hòa thượng,
gọi là xả
giới. Hoặc
nói: Xả bỏ
A-xà-lê, không gọi là xả
giới, mắc
tội Thâu-lan-giá. Quá khứ,
vị lai sai biệt
và giả nói, giỡn
chơi v.v...
đồng
như trên.
Thế
nào gọi
là xả
học?
Học
có 3 loại:
-
Tăng thượng
giới học,
tức là nói Ba-la-đề-mộc-
xoa rộng
hay lược.
-
Tăng thượng
ý học, tức
là chín thứ lớp
chánh
thọ.
-
Tăng thượng
huệ học,
tức là 4 Chơn
đế.
Nếu
nói: Xả
học này,
đều
gọi là xả
giới.
Giả
như
nói, giỡn chơi
v.v...
đồng như
trước.
Thế
nào gọi là xả
thuyết?
(tức là ba thứ
thuyết giới:
15 ngày, 14 ngày và trung gian Bố-tát).
Hoặc
nói: Tôi xả
thuyết này, gọi
là xả giới.
Thế
nào gọi
là xả
cộng trú?
Cộng
trú có hai thứ:
-
Thanh tịnh
cộng trú, chúng
đều
thanh tịnh,
cùng tác Bố-tát.
-
Tương
tợ cộng
trú, không thanh tịnh,
hiện
tướng
thanh tịnh,
cùng
ở với
người thanh
tịnh,
cùng tác Bố-tát.
Hoặc
nói: Tôi xả
cộng trú, gọi
là xả giới.
Thế
nào gọi
là xả
cộng lợi
(dưỡng)?
Lợi
có 2 loại:
-
Pháp lợi,
tức thọ
trì,
đọc tụng,
vấn
đáp.
-
Lợi
về y thực,
tức
đồng
nhận phẩm
vật cúng
dường.
Hoặc
nói: Tôi xả
lợi này, gọi
là xả giới.
Nếu chỉ
nói: Tôi xả lợi
về y thực,
không gọi là xả
giới, mắc
tội Thâu-lan-giá.
Thế
nào là xả
kinh luận?
Kinh luận
có 9 bộ (tức
là 12 bộ, trừ
Phương quảng,
Thọ
ký và Vô vấn
tự thuyết).
Nếu
nói: Tôi xả kinh luận
này, gọi là xả
giới.
Hoặc
nói: Xả kinh luận
quá khứ vị
lại, không gọi
là xả giới,
mắc tội
Thâu-lan-giá. Lại nữa,
nếu Tỳ-kheo
nói: Tôi bỏ Phật,
Phật bỏ
tôi. Tôi lìa Phật, Phật
lìa tôi. Tôi xa Phật,
Phật
xa tôi. Tôi chán Phật,
Phật
chán tôi. Tôi thôi Phật,
Phật
thôi tôi. Như vậy
đều gọi
là xả giới.
Cho
đến kinh luận
cũng như
vậy. Như
vậy gọi
là hoàn giới (trả
giới lại).
Nếu
giận nói, gấp
nói, nói một mình nói không rõ,
nhân tranh cãi nói, tưởng một
mình nói, nói với người
ngủ, nói với
người cuồng,
nói với trẻ
nít, nói với phi nhơn,
nói với súc sanh, nói
với
người không hiểu
biết,
đều
không gọi là xả
giới. Giới
sút kém tức là người
kia nghĩ: Tôi thà xả
bỏ Phật,
Pháp, Tăng cho
đến
xả bỏ
các kinh luận. Lại
nghĩ rằng:
Tôi sẽ làm Sa-di, làm người
thế tục,
làm ngoại
đạo.
người kia tâm nghĩ
miệng nói, chứ
chưa quyết
định
đến
người khác nói,
đó
gọi là
giới sút kém (giới
luy). Hoặc nói sự
việc của
giới sút kém, mỗi
lời nói phạm
một tội
Thâu-lan-giá.
Lại,
khởi tâm nghĩ,
miệng nói: Tốt
hơn, tôi xả
bỏ Phật,
cho
đến tốt
hơn tôi làm theo nếp
sống người
thế tục.
Như vậy,
gọi là nói sự
việc của
giới sút kém, mỗi
lời nói phạm
một tội
Thâu-lan-giá.
Luật
Ngũ phần:
Nếu
nói, “Tôi sẽ
làm theo nghi pháp của
ngoại
đạo”, mỗi
lời nói phạm
một tội
Thâu-lan-giá. Hoặc
nói: “Tôi sẽ
làm theo nghi pháp của
bạch
y”, phạm Ðột-kiết-la, không gọi
là xả giới.
Miệng nói: “Tôi xả
giới”, gọi
là xả giới.
Luật
nhiếp
nói:
Hạnh
là chỉ
cho Thánh
đạo. Tịnh
tức chỉ
cho Niết-bàn. Do Bát chánh
đạo
mới có thể
chứng hội.
Làm hạnh bất
tịnh là nghịch
lại với
Chánh lý vậy.
TƯỚNG TRẠNG
CỦA TỘI
Vấn
đề phạm
trong
đây là:
Nếu
nơi
đường
đại tiện,
tiểu tiện
và miệng: với
tất cả
nhơn, phi nhơn,
súc sanh, nam, nữ,
hai hình, huỳnh
môn, hoặc của
mình hay của người
khác mà vào như
đầu
mảy lông, trong ba thời
gian: Sơ, trụ,
xuất, tùy theo
đó,
nếu có lạc
tưởng
đều
phạm Ba-la-di. Chuẩn
bị mà không vào, phạm
Thâu-lan-giá. Ðối với
căn bị
hư hoại
và hành dâm không
đúng
chỗ,
đều phạm
Thâu-lan-giá. Dạy người
khác, phạm Thâu-lan-giá. Dạy
người mà
họ không làm phạm
Ðột-kiết-la.
Tỳ-kheo-ni phạm
Ba-la-di. Thức-xoa-ma-na, Sa-di,
Sa-di-ni phạm
Ðột-kiết-la,
tẫn xuất.
Trường
hợp không phạm
là: Người ngủ,
không hề có giác tri, không thọ
lạc, hay tất
cả những
trường hợp
không có dâm ý và lúc ban
đầu
chưa chế
giới, si cuồng,
tâm loạn, thống
não ép ngặt.
Luật
Thập Tụng
nói:
Có 5 trươøng
hợp làm cho người
cuồng:
- Thân bằng
quyến thuộc
bị chết
hết nên cuồng.
- Của
cải mất
hết nên cuồng.
- Sự
nghiệp, nhân dân mất
hết nên cuồng.
- Tứ
đại rối
loạn biến
động nên cuồng.
- Nghiệp
báo
đời trước
nên cuồng.
Tuy có bệnh
cuồng như
vậy, nhưng
tự biết
ta là Tỳ-kheo, làm việc
dâm dục, cũng
mắc Ba-la-di tội.
Có 5 nhân duyên khiến
tâm tán loạn:
- Bị
Phi nhơn
đánh
nên tâm tán loạn.
- Bị
Phi nhơn khiến
cho tâm tán loạn.
- Bị Phi nhơn
ăn tinh khí của
tâm nên tâm tán
loạn.
- Bị
tứ
đại
rối loạn
nên tâm tán loạn.
- Bị
nghiệp báo
đời
trước nên tâm tán loạn.
Tuy có tâm tán loạn
như vậy,
nhưng tự
biết mình là Tỳ-kheo,
hành dâm dục cũng
phạm Ba-la-di.
- Có 5 món bệnh
hoại
tâm (tức
thống
não ép ngặt):
- Do gió phát khởi,
nên có bệnh hoại
tâm.
- Do nóng phát khởi,
nên có bệnh hoại
tâm.
- Do lạnh
phát khởi, nên có bệnh
hoại tâm.
- Do ba thứ
đều phát khởi,
nên có bệnh hoại
tâm.
- Do khí thời
tiết phát khởi,
nên có bệnh hoại
tâm.
Tuy có bệnh
hoại tâm như
vậy, nhưng
nếu tự
biết là Tỳ-kheo,
hành dâm dục cũng
mắc Ba-la-di. Nếu
không tự biết
thì không phạm.
Luật
Thiện
kiến
nói:
Thấy
lửa
mà cầm
như
cầm
vàng không khác. Thấy
phẩn
mà cầm,
như
cầm
gỗ
hương
(chiên-đàn)
không khác. Ðiên cuồng
như
vậy,
phạm
giới
không có tội.
Luật
Tăng kỳ
nói:
Nếu
Tỳ-kheo
với tâm nhiễm
ô, muốn xem người
nữ, mắc
tội tâm hối
Việt tỳ-ni.
Nếu mắt
thấy, nghe tiếng,
phạm tội
Việt tỳ-ni.
Xúc chạm nhau, phạm
Thâu-lan-gia, cho
đến
chỉ
chạm nhau như
hột mè, phạm
Ba-la-di. Nếu thân hình (nam căn)
lớn, tuy vào nhưng
chỉ
ở
mé (nữ căn),
mắc tội
Thâu-lan-giá. Nếu thân hình của
người nữ
bị cắt
làm hai phần,
đến
nơi hai phần
hành dâm, phạm tội
Thâu-lan-giá, hoặc
đem
buộc cho hiệp
lại
để
hành dâm phạm Ba-la-di.
Thế
nào gọi
là thọ lạc?
Như
đói
được
ăn,
như khát
được
uống.
Thế
nào gọi
là không thọ lạc?
Như
người
đẹp
đẽ
dùng các loại thây chết
cột nơi
cổ. Lại
như trường
hợp mổ
mụt nhọt,
lấy lưới
nóng bao quanh mình.
Lại
nói: Nếu
vì dục tâm,
đi
theo sau người nữ
thì mỗi bước
phạm một
tội Việt
tỳ-ni. Vì dục
tâm, cùng với người
nữ cách vách nói chuyện,
mỗi lời
nói phạm một
tội Việt
tỳ-ni.
PHỤ:
Luật
Thiện kiến
nói:
Bậc
Trưởng
lão nghe những hạnh
bất tịnh
này chớ nên kinh quái. Tại
sao vậy? Ðức
Như Lai thương
xót bọn ta, vì kiết
giới vậy,
cho nên nói những lời
không tốt này. Nếu
không nói thì làm sao biết
được tội
Ba-la-di, Thâu-lan-giá, Ðột-kiết-la khác nhau thế
nào. Nếu Pháp sư
vì người giảng
dạy, người
nghe chớ nên cười
cợt giỡn
chơi. Nếu
ai cười cợt
thì
đuổi
ra. Tại sao vậy?
Ðức Phật
lân mẫn chúng sanh, từ
kim khẩu nói ra, chúng ta nên
sanh lòng hổ
thẹn khi nghe, tại
sao cười?
TRÙNG TRỊ
TỲ-NI
SỰ
NGHĨA
TẬP
YẾU
HẾT QUYỂN THỨ HAI
Bổ-đặc-già-la
補特伽羅:
Skt. Pudgala, dịch
là người,
chúng sanh.
--- o0o ---
Mục
Lục |
01
|
02
|
03
|
04
|
05
|
06
|
07
|
08
|
09
|
10
11
|
12
|
13
|
14
|
15
|
16
|
17
|
18
|
19
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-6-2007