TRÙNG TRỊ TỲ NI
SỰ NGHĨA TẬP YẾU
CỔ
NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích
Việt
dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH
Nhuận văn
và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
---o0o---
TẬP I
QUYỂN THỨ 1
Toàn văn bộ Luật này chia làm hai phần,
đề mục
và giải
thích bản
văn.
PHẦN
ÐẦU
LÀ ÐỀ
MỤC
TỨ
PHẦN
GIỚI
BỔN
- Giải
thích
đề
mục của
bộ
Luật
này là phỏng
theo giới
Phạm
võng nghĩa
sớ,
lược
thuật
theo ba lớp
huyền
nghĩa
:
– Giải thích tên gọi.
– Trình bày bản thể.
– Ðịnh liệu vấn
đề giản
đơn.
A.GIẢI THÍCH TÊN GỌI:
Chia làm ba:
-Nói rõ Tứ
phần
giới
bổn.
-Rút ra từ bộ Luật
nào.
-Giải
thích sự
nghĩa
tập yếu.
I. TỨ PHẦN GIỚI BỔN LÀ GÌ?
-Luật
Tứ Phần
Giới
Kinh của
Tỳ-kheo.
Bộ
Luật
này rút ra từ
bộ
luật
Ðàm-vô-đức.
Tiếng
Phạn
gọi
là Ðàm-vô-đức,
Hoa dịch
là Pháp Mật.
Bộ
Luật
này có 4 phần:
-
Phần
thứ
nhất,
thuyết
minh việc
của
Tỳ-kheo.
-
Phần thứ hai, thuyết minh việc của Tỳ-kheo-ni và pháp thọ giới, pháp thuyết giới.
-
Phần
thứ
ba, thuyết
minh các pháp An cư
và
tự tứ...
-
Phần
thứ
tư,
thuyết
minh các pháp phòng xá
và tạp
pháp...
Giới
bổn
này thuộc
phần
thứ
nhất.
Ðức
Như
Lai nhân sự
việc
mà kết
thành giới
kinh.
II. Rút ra từ
bộ
luật
nào?
Rút ra từ
nhiều
bộ
Luật,
trong
đó có thông và biệt.
Thông nghĩa
là tất
cả
đều
gọi
là Luật.
Biệt
chỉ
cho Tăng
kỳ,
Ngũ
phần
v.v... Chúng
được rút ra từ
sự
quan hệ
của
Kinh sách số
mục
mà gọi
tên. Tỳ-ni
hay Tỳ-nại-da,
phiên âm từ
tiếng
Phạn,
Hoa dịch
là Thiện
trị
cũng
dịch
là Ðiều
phục,
hay là Diệt,
gọi
chung là Luật,
luật
là pháp vậy.
Kinh Giới
nhân duyên nói:
Chữ
“Tỳ”
ngôn ngữ
nhà Tần
gọi
là “Khử”,
“Nại-da”
gọi
là “Chơn”,
nghĩa
là loại
bỏ
bao nhiêu cái sai quấy
để
còn lại
cái chơn,
cho nên gọi
là chơn.
Hàng phục
tâm này, chấm
dứt
tâm này, nhẫn
nhục
không
để tâm này sinh khởi,
nên gọi
là chơn.
Hàng phục
là giới,
chấm
dứt
là
định,
nhẫn
là tuệ.
Nêu lên một
pháp là gồm
thâu cả
ba môn Vô lậu
học.
Nếu
không có giới
thiện
thì
định tuệ
không phát khởi.
Giới
pháp này có ba loại:
- Luật
nghi giới,
cũng
gọi
là Ba-la-đề-mộc-xoa
giới.
- Ðịnh
cộng
giới,
cũng
gọi
là Thiền
giới.
- Ðạo
cộng
giới,
cũng
gọi
là Vô lậu
giới.
1) Luật
nghi giới: Luật
là ngăn
ngừa
và
đình
chỉ;
Nghi là hình nghi, nó có khả năng
đình chỉ các việc ác, thể hiện nơi thân gọi là giới, cũng gọi là oai nghi. Oai là thanh bạch
trang nghiêm khả
kính. Nghi là phép tắc
đáng
làm mô phạm,
cũng
gọi
là
điều
ngự,
tức
là hướng
dẫn
tâm làm
điều
lành. Ba-la-đề-mộc-xoa:
Hoa dịch
là bảo
giải
thoát, cũng
dịch
là biệt
biệt
giải
thoát, vì nó có khả
năng
bảo
đảm
hành giả
ra khỏi
biển
sanh tử.
Hơn
nữa,
tùy theo sự
giữ
gìn không phạm
giới
nào
đó thì
ở nơi
đó
có sự
giải
thoát, tức
chỉ
cho 250 học
xứ,
và tùy luật
oai nghi.
2) Ðịnh
cộng
giới:
Ðịnh
là vắng
lặng,
khi vào
định tự
nhiên
điều
phục
tâm thiện,
chận
đứng
các
điều
ác.
3) Ðạo
cộng
giới:
Ðạo
có khả
năng
thông suốt,
sau khi chơn
tâm
được phát khởi,
tự
nó không hủy
phạm,
như
người
chứng
được
sơ
quả,
khi cày
đất thì loài trùng xa
lìa bốn
tấc,
đó
là cái sức
của
Ðạo
cộng
giới.
Hai pháp giới
này chỉ
cho cái dụng
thắng
diệu
trên bản
tâm, chúng có khả năng phát sanh giới,
hơn
nữa
Ðạo,
Ðịnh
và Luật
nghi, cả
ba cùng phát khởi
nên gọi
là cộng.
Tạng
Tỳ-ni
này chính là nói rõ luật
nghi, nhưng
nhiếp
cả
Ðịnh
và Ðạo.
Do công
đức
trì tịnh
giới
nên thiền
định, trí tuệ
mới
phát sanh. Như
vậy,
Luật
nghi là nhân, Ðịnh,
Ðạo
là quả.
Hoặc
do thiền
định
và sức
của
Vô lậu
mà tánh nghiệp,
giá nghiệp
đều
thanh tịnh,
cho nên Mộc-xoa
là quả,
Ðịnh,
Ðạo
là duyên.
Luận
Tát-bà-đa nói: Giới
Ba-la-đề-mộc-xoa
này nếu
Phật
xuất
thế
thì có, Phật
không xuất
thế
thì không, nhưng
Thiền
giới,
Vô lậu
giới
lúc nào cũng
có. Giới
Ba-la-đề-mộc-xoa
từ
nơi
lời
dạy
mà có
được; còn Thiền,
Vô lậu
giới
không từ
nơi
lời
dạy
mà có
được. Cho nên luận
ấy
nói: Giới
Ba-la-đề-mộc-xoa
chỉ
đệ
tử
Phật
mới
có, còn Thiền
giới
thì ngoại
đạo
cũng
có.
Luận
rằng: khả
năng
duy trì Phật
pháp, gồm
cả
bảy
chúng
ở thế
gian,
đạo quả
ba thừa
nối
tiếp
nhau không dứt
đoạn,
đều
dùng Ba-la-đề-mộc-xoa
làm căn
bản.
Thiền
và Vô lậu
giới
thì không vậy.
Do
đó, trong ba giới
nó là hơn
hết.
Luận Thiện kiến
cũng
nói:
Tỳ-ni tạng là mạng sống của Phật pháp. Tỳ-ni tạng có mặt, Phật pháp cũng có mặt. Ðó là lược giải nghĩa tên chung.
Kế
đến tên riêng chỉ
cho luật
Tăng
kỳ,
Ngũ
phần, Tát-bà-đa, Thật
tụng,
Thiện
kiến, kinh Giới
nhân duyên, luận
Tỳ-ni
mẫu v.v... Tại sao lại dùng các bộ Luật này? Xét theo kinh Xá-lợi-phất
hỏi Phật, Ðức Phật tự huyền ký rằng: Sau khi pháp diệt, cháu Vua Thâu-kha (A-dục)
là Phất-sa-mật-đa-la,
một
vị
vua
đức
tính hiền
lương
đã
chấn
hưng
Phật
pháp.
Khi
ấy,
các Tỳ-kheo
tham
đắm
theo danh khen, rất
ưa tranh luận,
sao chép sửa
đổi
giới
luật
của
Như
Lai, thêm bớt
gia giảm.
Ðối
với
những
gì ngài Ca-diếp
kiết
tập,
họ
chia làm từng
phe nhóm riêng, cùng nhau nói phải
nói quấy.
Họ
yêu cầu
nhà vua phán quyết.
Vua tập
họp
hai bộ
lại,
rút thăm.
Số
người
thủ
cựu
nhiều
gọi
là Ma-ha Tăng
kỳ;
số
người
theo chủ
thuyết
mới
thì ít, mà là bậc
Thượng
tọa,
gọi
là Tha-tỳ-la,
tức
Thượng
tọa
bộ.
Về
sau do sự
tranh luận
lại
chia làm nhiều
bộ,
trong thời
gian ba bốn
trăm
năm,
sau khi Phật
diệt
độ,
lần
lượt
phân chia thành nhiều
giáo phái. Như
vậy
truyền
mãi về
sau, phải
có, quấy
có. Ngoài ra chỉ
có 5 bộ,
theo sở
trường
của
mình, dùng sắc
phục
để
nói lên
điều
đó.
a) Bộ
Ma-ha Tăng
kỳ,
siêng học
kinh
điển,
truyền
giảng
chơn
nghĩa,
theo chỗ
ở
của
mình nên mặc
áo màu vàng.
b) Bộ
Ðàm-vô-cúc-đa-ca
(tức
là Ðàm-vô-đức)
thông suốt
ý nghĩa
của
giáo lý, mở
bày hướng
dẫn
việc
lợl
ích, nêu lên
điểm
thù thắng,
nên mặc
áo màu
đỏ.
c) Bộ
Tát-bà-đa,
rỗng
không, mẫn
đạt,
dùng pháp hướng
dẫn
để
giáo hóa, nên mặc
áo màu
đen.
d) Bộ Ca-diếp-di, siêng năng mạnh mẽ, nhiếp hộ chúng sanh, nên mặc áo màu lam.
e) Bộ Di-sa-tắc, tư duy thiền quán
đến chỗ vi diệu, cứu xét
đến chỗ tận cùng u mật, nên mặc áo màu xanh.
Ma-ha Tăng
kỳ
ý vị
thuần
chánh, còn các bộ
kia cũng
như
trang bị
thêm cam lồ.
Như
chư
thiên khi uống
thì chỉ
uống
cam lồ,
loại
bỏ
nước
thường,
còn người
đời
khi uống
thì cam lồ
và nước
đều
dùng, có khi tiêu hết
bệnh,
có khi lại
sanh bệnh.
Người
đọc
tụng
cũng
như
vậy,
người
nhiều
trí huệ
có khả
năng
thủ
xả,
còn kẻ
ngu si không thể
phân biệt
được.
Lại
xét, trong tập
Phiên dịch
danh nghĩa ghi rằng:
Ðức
Thế
Tôn thành
đạo 38 năm,
một
hôm
đến thành Vương
Xá thọ
trai, khi thọ
trai xong, Ngài bảo
La Vân rửa
bát (La-vân là La-hầu-la,
phiên dịch
là phú chướng
‘ngăn
che’,
ở trong thai 6 năm
là con của
Tất-đạt-đa)
rủi tay làm bể
cái bát thành 5 mảnh.
Phật
dạy:
Ðó là
điềm
báo sau khi Ta diệt
độ,
trong khoảng
500 năm
đầu,
các Tỳ-kheo
chia Tạng
luật
thành năm
bộ.
Sau quả
là như
vậy.
Năm
bộ
là:
1) Ðàm-vô-đức
bộ.
2) Tát-bà-đa
bộ,
Hoa dịch
là Thuyết
nhất
thế
hữu.
Tên của
luật
là Thập
Tụng.
3) Ca-diếp-di bộ, Hoa dịch là Trùng không quán.
Chỉ
có một
quyển
kinh Giải
thoát giới
bổn truyền
đến
Trung Hoa mà thôi.
4) Di-sa-tắc
bộ,
Hoa dịch
là Bất
trước
hữu
vô quán. Tên luật
là Ngũ
phần.
5) Bà-ta-phú-la bộ. Hoa dịch là Ðộc tử. Bộ này không truyền
đến
nước
Trung Hoa.
Năm
bộ là biệt,
Ma-ha Tăng
kỳ
là tổng.
Chung lại
là sáu bộ.
Lại
xét, Nam hải ký qui truyện
có nói:
Sự lưu truyền
của
các bộ
phái, sanh khởi
không
đồng nhau. Sự
tương
thừa
bên Tây Vức
đại
cương
chỉ
có 4:
1) Thánh Ðại
chúng bộ,
chia ra thành bảy
bộ.
2) Thánh Thượng
tọa
bộ,
chia ra thành ba bộ.
3) Thánh Căn
bản
thuyết
nhất
thiết
hữu
bộ,
chia ra làm 4 bộ.
4) Thánh Chánh lượng bộ, chia ra làm 4 bộ.
Trong thời
gian
đó, vấn
đề
phân chia
đã xuất
hiện
hay còn
ẩn khuất,
riêng tên gọi
từng
bộ
không phải
là một,
nơi
đây
không phiền
để
thuật
lại.
Hữu
bộ
chia ra làm ba bộ
khác nhau:
1) Pháp hộ
bộ.
2) Hóa
địa bộ.
3) Ca-nhiếp-tì
(Ca-diếp-di)
bộ.
Thập
tụng,
Tứ
phần, phần nhiều gần với kinh, và lấy
đó làm
đề mục, song Thập tụng
chính là Căn
bản hữu
bộ.
Vua Tần-bà-sa-la
nằm
mộng
thấy
một
thớt
lụa
bị
xé thành 18 miếng,
một
cây trượng
bằng
vàng bị
chặt
thành 18
đoạn.
Nhà vua sợ,
đến
hỏi
Phật,
Phật
dạy:
“Hơn
100 năm
sau, khi Ta diệt
độ,
có vua A-thâu-ca, oai lực
ở
cõi Thiệm-bộ,
khi
ấy các Bí-sô
đem giáo pháp của
Ta chia thành 18 bộ.
Nhưng
pháp môn giải
thoát thì chỉ
có một.
Ðây tức
là
điềm
báo trước,
việc
đó
vua chớ
nên lo.” Những
gì vừa
trình bày
đều khác nhau không
đồng bởi
cách Phật
quá xa, cho nên sự
truyền
thừa
có thể
bị
sai lạc.
Nay nếu
câu nệ
nơi
dấu
vết
dị
đồng
thì sự
mâu thuẫn
nảy
sanh, không phải
là ít. Nhưng
nếu
ta nắm
lấy
ý nghĩa
thì sẽ
có
điều
hay tốt
tiện
dụng.
Tuy Thánh tâm khó lường
nhưng
sự
so sánh có thể
y cứ
vào
được.
Miễn
nắm
được
ý nghĩa
thì sự
việc
không phải
nhọc
nhằn
để
giải
quyết.
Phần
nguyên
ủy của
các Bộ
đã
nói xong.
III. Giải
thích về
sự
nghĩa
tập
yếu
Sự
là duyên khởi
để
chế
giới.
Nghĩa
là tùy theo tội
phạm
nặng
nhẹ,
kiết
tội
sám hối.
Yếu
tức
là văn
của
Luật
nghi phần
nhiều
phiền
phức
nay chỉ
lấy
chỗ
cốt
yếu.
Tập
là tuy riêng
tôn luật Tứ
phần, nhưng vẫn tham khảo và dụng lấy nghĩa của các Bộ phái. Tại sao chỉ riêng tôn luật
Tứ
phần? Vì 250 giới tướng, không thể thêm bớt
được và vì
đã nhiều
đời lưu hành. Tại sao phải tham khảo dùng nghĩa của các bộ khác? Vì “Sư”ï là khi nói rõ, có khi nói lược.
“Nghĩa”
là có sở
trường,
sở
đoản,
nên không ngại
gì việc
làm sáng tỏ
cho nhau.
Phần
giải
thích tên gọi
xong.
B. TRÌNH BÀY BẢN THEÅ
1) Trước
hết
biện
minh danh từ
“Vô tác”:
Ngài Thiên Thai
đại
sư
nói: “Giới
thể
không phát thì thôi, phát khởi
thì thuộc
về
tánh”. Cũng
trong hướng
ấy,
Khánh Công giải
thích “Vô tác giả
sắc”
như
sau: “Giới
thể
này không phát khởi
thì thôi, nếu
phát khởi
thì hoàn toàn thuộc
về
tánh”. Tánh và tu kết
hợp
với
nhau mà thành (giới
thể)
chắc
chắn
có vô tác giả
sắc. Vô tác một khi phát khởi, tự nó ngăn
điều ác và làm
điều lành. Cho nên sau khi phát khởi
rồi
không hề
phát khởi
lại,
nên gọi
là vô tác.
Nói vô tác giả
sắc,
là chỉ
cho 11 sắc
pháp, chúng có giả
và thật
nên pháp xứ
là nơi
dung nhiếp
các sắc.
Ở
đó
chỉ
có
định quả
sắc
gọi
là thật
sắc,
còn Biểu,
vô biểu
sắc
đều gọi
là giả
sắc.
Hai giới
thiện
và ác
đều có biểu
và vô biểu;
biểu
chỉ
cho tác, vô biểu
chỉ
cho vô tác.
Nay giải
thích thiện
giới:
Khi quỳ gối một
cách chí thành gọi
là thân biểu. Ba lần nói lên sự xin giới, gọi là ngữ biểu. Chúng Tăng
hòa hợp
đồng nhóm họp
nơi
giới
trường
cũng
gọi
là thân biểu. Bạch tứ yết-ma cũng gọi là ngữ biểu. Do
đây,
khi tác pháp nhận
được giới
thể
thanh tịnh
của
Tỳ-kheo
thì
đó là cảnh
sở
duyên của
ý, tự
nó hằng
được
hai pháp thiện
“chỉ
và hành”. Cho nên nói sau khi phát khởi
rồi không hề
phát lại,
gọi
đó
là vô tác giả
sắc
vậy.
Vô tác giới
thể
này, khi Yết-ma
lần thứ
ba xong liền
được.
Khi
ấy,
đối
với
tất
cả
nam nữ
được
cái sắc
thái không dâm. Ðối
với
tất
cả
hữu
tình, phi tình
được cái sắc
thái không trộm
cắp.
Ðối
với
tất
cả
loài hữu
tình
được cái sắc
thái không giết
hại.
Ðối
với
tất
cả
loài hữu
tình
được cái sắc
thái không khi cuống.
Cho
đến
đối
với
tất
cả
đất
đai
được
cái sắc
thái không
đào bới.
Ðối
với
tất
cả
cỏ
cây
được
sắc
thái không phá hoại.
Ðối
với
tất
cả
rượu
được
cái sắc
thái không uống.
Như
vậy
250 giới
pháp mỗi
mỗi
đều
hiện
hữu
khắp
cả
pháp giới.
Cho nên trong kinh Xuất
gia công
đức, nói rõ công
đức
trì giới
một
ngày môt
đêm không thể
cùng tận.
Chính là do thiện
vi diệu
của
giới
này biến
khắp,
và lấy
pháp giới
làm cảnh
sở
duyên.
Như vậy thì vô tác giới
thể
là Pháp xứ
sắc,
là Vô lậu
sắc.
Thành thật
luận gọi là “phi sắc phi tâm hội tụ”, vì nó ngăn tâm không còn có
đắc thất, quả không còn có bất thiện, mà chúng là hai món nạn
vậy.
(Bộ Nghĩa sớ nói: Hỏi
đề vô tác giả sắc, kinh luận cùng nhau thuyết
minh, kẻ
nói có, người
nói không. Một
chủ
thuyết
cho rằng
chỉ
thề
không làm ác, tức
gọi
là thọ
giới
hoàn toàn không có cái sắc
vô tác. Nếu
trong nhân riêng có cái bất
thiện,
cùng nhau làm cái nhân thành Phật,
thì nơi
Phật
địa cũng
phải
riêng có cái thiện
này cùng làm Phật
quả.
Ở
đây vì cái quả
không có bất
thiện,
nên sự
trở
ngại
đối với
giới,
chính là sắc
pháp, vì Tiểu
thừa,
vọng
cho vô tác là thật
sắc
ở ngoài tâm. Một
chủ
thuyết
cho rằng:
Kinh luận
Ðại,
Tiểu
thừa
đều có
đề cập
đến vô tác. Có thể
dùng thắng
tâm làm giới,
thì khi phát tâm liền
đắc giới.
Nếu
vậy
thì tại
sao có bảy
thứ
ngăn
ngại,
không thể
đắc giới?
Hơn
nữa,
nếu
hoàn toàn không có vô tác, thì tại
sao khi phạm
trọng
tội
liền
gọi
là mất
giới?
Do tâm không có
đắc thất
nên sự
trở
ngại
đối với
giới,
chính là tâm pháp. Thành thật
luận
lập
“phi sắc
phi tâm hội
tụ”
với
mục
đích là dùng hai cái
này
để ngăn
hai nạn
trên. Xưa
nay, các Luật
sư
đều dựa
vào
đó mà dụng
nghĩa.
Nếu
Ðại
thừa
thuyết
minh giới
là giả
sắc,
nương
vào Bổn
sư,
một
khi thọ
lãnh giới
pháp cho
đến chứng
quả
Bồ-đề,
tùy theo Ðịnh
cộng
giới,
Ðạo
cộng
giới
mà thề
tu các thiện,
thệ
nguyện
độ hàm thức
(hữu
tình), cũng
dùng cái khả
năng
lớn
mạnh
của
tâm này. Riêng phát khởi
thiện
giới
để làm cảnh
sở
duyên cho hành giả,
chấm
dứt
các
điều
ác.)
Thật
sự là do tâm cảm
mà
được,
nên mượn
sắc
để
tiêu biểu
thôi. Cho nên Ðại
thừa
nói: Yết-ma
lần
thứ
nhất
thành tựu,
vì do nghiệp
lực
của
tâm mà diệu
thiện
giới
pháp trong mười
phương,
thế
giới
thảy
đều
chấn
động.
Yết-ma
lần
thứ
hai thành tựu,
thì diệu
thiện
giới
pháp trong mười
phương
thế
giới,
ở
giữa
hư
không như
mây, như
bảo
cái (lọng
báu) bao trùm trên
đảnh người
thọ
giới.
Yết-ma
lần
thứ
ba thành tựu,
thì diệu
thiện
giới
pháp trong mười
phương
thế
giới,
từ
đảnh
môn của
người
thọ
giới,
trôi chảy
vào trong thân tâm, sung mãn chánh báo, bao trùm cả
đời vị lai, luôn luôn là hạt giống Phật. Tuy trong Tạng Tỳ-ni không nói vieäc này, nhưng
cũng
nói rằng:
“Yết-ma
thành tựu
gọi
là
đắc
xứ
sở”.
Nên biết
hữu
lậu
ngũ
uẩn,
sắc
thân là chỗ
nương.
Vô lậu
ngũ
uẩn,
giới
thân là chỗ
nương.
Hữu
lậu
sắc
thân từ
tinh cha huyết
mẹ
hòa hợp
mà thành là sắc
xứ
giả
sắc; còn Vô lậu giới thân từ Tam sư Thất chứng yết-ma mà
được,
đó là pháp xứ giả sắc. Sở dĩ, Hòa thượng
gọi
là lực
sanh, vì chính từ
cái khả
năng
này sanh ra giới
thân, nên dùng nghĩa
đó
mà gọi
tên vậy.
Ðược giới thân này, liền
đồng với Tăng bảo, thường khiến cho Thiên long tôn phụng,
quỷ
thần
khâm phục
tuân theo. Nếu
tâm không vui sống
với
đạo thì gọi
là giới
luy (giới
yếu
kém). Nếu
hướng
đến
người
nào nói xả
giới
thì gọi
là hoàn giới.
Nếu
không có cái vô tác giới
thể
này, thì thiện
thần
dựa
vào
đâu mà quý kính, làm
sao gọi
là yếu
kém, làm sao gọi
là xả
giới?
Hỏi:
- Ðã là yếu
kém, có xả
lại
có phá, vậy
tại
sao gọi
là nhậm
vận
chỉ,
hành?
Ðáp:
- Thí như
cầu,
đò
có công năng
đưa
người
qua sông, ao giếng
có công năng
cho nước
dùng. Nếu
như
phá bỏ
cầu
đò,
lấp
bằng
ao giếng
thì công năng
kia liền
mất.
Nếu
không như
vậy,
thì lúc nào cũng
sử
dụng
được,
khỏi
đợi
phải
làm lại,
cho nên gọi
là vô tác.
2) Thuyết
minh chỉ
và hành:
Ðây là hai pháp hành.
Như
Bách luận nói:
Dứt
điều
ác không làm gọi
là chỉ,
tin thọ
tu tập
gọi
là hành.
Phật
giáo tuy bao la, nhưng
hai chữ
“chỉ
và hành” thâu nhiếp
cả.
Nay nói về
giới
thiện,
nếu
không phát khởi
thì thôi, còn phát khởi
thì chận
đứng
ngay các
điều
ác,
đó là nghĩa
chữ
“chỉ”.
Và từ
đó
tiến
lên thực
hiện
điều
lành,
đó là nghĩa
chữ
“hành”. Chận
đứng
điều
ác từ
căn
Tùy phiền
não, khởi
lên thân, khẩu
thất
chi là nhân ác, trong ba
đường chịu
khổ
khốc
là quả
ác.
Thập
cú nghĩa
sẽ
giải
bày
đầy
đủ
ở
sau.
Mỗi
khi các Tỳ-kheo
kiết
giới,
có khả năng khiến
cho người
thọ
trì, khi nhân ác
đã trừ,
quả
ác sẽ
tiêu hết,
đó
là “phạt
ác”. Tiến
lên nhiếp
trì các căn,
không cho niệm
tán loạn,
thường
nhất
tâm tu tập
các pháp lành, nhậm
vận
cảm
được
hoa báo cõi nhơn
thiên, cho
đến khi
đạt
đến
thật
quả
xuất
thế
giải
thoát,
đó là nghĩa
“tấn
thú”. Phần
trình bày về
bản
thể
đã
xong.
C. ÐỊNH LIỆU VẤN ÐỀ GIẢN ÐƠN:
Chia làm hai:
- Ðối
với Ðại
thừa
thì biện
chỗ
được
(đắc) và bỏ (xả)
- Ðứng
trên giáo tướng
thì biện
chỗ
cạn
và sâu.
1) Biện
chỗ
được và boû:
Ðại
thừa
chú trọng
nội nhân, Tiểu
thừa
chú trọng
ngoại
duyên. Vì chú trọng
nội
nhân cho nên cần
phải
phát tâm Bồ-đề
mới
có thể
thọ
giới
được.
Nếu
ở
trong tâm bất
thiện,
vô ký không phát khởi
vô tác, ngàn dặm
tìm thầy
không có, thì cho phép
đối trước
Phật
tượng
tự
thọ.
Vì chú trọng
ngoại
duyên nên cần
phải
có Sư,
Tăng,
Giới,
Pháp, mọi
việc
hợp
lại
để
chế.
Nếu
các duyên có một
cái nào không
đủ thì không
đắc giới,
còn các duyên
đầy
đủ
thì cả
ba tâm
đều
đắc
giới
(thiện,
bất
thiện,
vô ký
đều phát khởi).
Hơn
nữa, Ðại
thừa
sau khi
được giới
thẳng
đến
thành Phật,
Tiểu
thừa
chỉ
đắc
giới
trong một
đời
thôi.
Ðại
thừa
thì thượng
phẩm
triền,
phạm
thập
trọng,
và thối
thất
tâm
đại
Bồ-đề
thì gọi
là mất
giới.
Tiểu
thừa
phạm
tứ
trọng
cấm
thì gọi
là mất
giới.
Nếu
lòng không vui sống
với
đạo,
đến
trước
một
người
đeå
xả
thì gọi
là hoàn giới.
Ðại
thừa
sau khi mất
giới,
nếu thấy
được
hảo
tướng
thì cho phép thọ
giới
lại.
Tiểu
thừa
mất
giới
rồi,
dứt
khoát không cho thọ
giới
lại.
Trường
hợp
tuyệt
đối
không che giấu
thì cũng
chỉ
có thể
cho Yết-ma
dữ
học.
(Trong pháp trị
tội
có thuyết
minh vấn
đề
này). Trường
hợp
có xả
giới
mới
cho phép thọ
lại,
còn
đủ ba phen hoàn tục,
thì mới
không cho thọ
lại.
Hỏi:
- Giải
thích giới
thể
dựa
vào Ðại
thừa
để
trình bày chỗ
được bỏ,
nhưng
lại
phân ra có
đại có tiểu,
làm sao cho tông chỉ
nghĩa
lý của
nó không trái nhau?
Ðáp: - Vì y vào Ðại thừa
để giải thích vô tác nên không trái với
thể
pháp. Ðối
với
đại
tiểu
để
trình bày chỗ
được
bỏ
thì không làm hủy
hoại
pháp tướng,
nếu
trái với
thể
pháp, thì tướng
không có chỗ
nương
tựa,
làm hoại
pháp tướng
thì thể
không do
đâu hiển
hiện.
Cho nên sau khi khai hiển
của
kinh Pháp hoa,
thì phần phò trì giới luật thuộc về kinh Niết-bàn. Phép tắc
của Tỳ-ni
không hề
có thay
đổi một
mảy
may. Chính biết
nghĩa
“thường”
ở
đây
nên mới
gọi
là nhiệm
mầu
tuyệt
đãi,
do dó tông chỉ
nghĩa
lý
đều
thành, nghĩ
suy có thể
hiểu
được.
Lại
hỏi: - Ðại
thừa
đã chú trọng
nội
nhân, thời
nay, Luật
sư
cho người
thọ
Bồ-tát
giới,
vậy
có thể
biết
nội
nhân của
họ
chơn
thật
không? Giả
như
không chơn
thật
thì có gọi
là
đắc
giới
hay không? Nếu
không
đắc giới,
thì dầu
có phạm
thập
trọng
đi
nữa,
lại
có thể
dùng thập
trọng
để
định
tội
kia
được sao?
Ðáp: - Trong văn
Di-lặc bồ-tát yết-ma, có trình
bày rõ vấn
đề quán sát
đương cơ.
Nếu
không biết
cái nội
nhân kia, sai quấy
tương
truyền
cho thọ
thì không tránh khỏi
cái tội
không hiểu
rõ mà làm thầy.
Song người
thọ
giới
kia trong tâm bất
thiện,
vô ký, tuy không phát khởi
giới
nhưng
mà
đã lạm
nhận
cái tên Bồ-tát,
tự
mình cần
phải
y theo luật
quán xét tội
kia, không
đồng với
không
đắc giới.
Rốt
cuộc
xếp
vào hạng
tặc
trú vậy.
2) Biện
minh chỗ
cạn,
sâu:
Ðây là thuộc
về giáo pháp của
vị
“lạc”
(sữa
đông)
trước
hết
hướng
dẫn
người
phàm phu vào cõi Thánh. Nếu
có thể
dùng 5 vị
để
dung thông, cũng
có thể
dùng tứ
giáo
để giải
thích.
Ðối
với
tất
cả
cấm
giới,
kiên cố
chấp
trì, hằng
xa
lìa hệ
phược,
tức
là pháp của
“Tạng
giáo”. Nếu
đạt
đến
tội
như
bệnh
huyễn,
giới
như
thuốc
huyễn,
trì phạm
vốn
không, thân tâm thanh tịnh,
tức
là pháp của
“Thông giáo”. Nếu
tin theo trung
đạo, tức
dùng giới
này,
đoạn
kiến
tư
hoặc,
kế
đến
nhập
vào
đời làm việc
lợi
ích cho chúng sanh, sau ngộ
nhập
trung
đạo, tức
là pháp của
“Biệt
giáo”. Nếu
gọi
giới
là pháp giới
thì tất
cả
pháp
đều hướng
về
giới,
hướng
này là trụ
nơi
bí tàng của
giới.
Trong mỗi
một
giới
thấy
rõ Phật
tánh, tức
1à pháp của
“Viên giáo”.
Lại
nữa,
đức
Như
Lai dùng Tứ
tất-đàn,
để
lập
ra giới
pháp này. Tùy thuận
thế
gian, bảo
hộ
chúng sanh, khiến
cho họ
hoan hỷ,
tức
“Thế
giới
tất-đàn”.
Sanh thiện
tức
là “Vị
nhơn
tất-đàn”.
Diệt
ác tức
là “Ðối
trị
tất-đàn”.
Hay khiến
cho Chánh pháp cửu
trụ,
tức
là “Ðệ
nhất
nghĩa
tất-đàn”.
Lại
nữa,
sau khi lãnh thọ,
khai hiển
thì giới
này chỉ
là Nhất
thừa,
không thuộc
ba giáo trước.
Cho nên kinh Pháp hoa nói: “Sau khi các
đức Phật diệt
độ, nếu người nào có tâm thiện
thành tựu,
hạng
người
như
vậy
đều thành Phật
đạo”. Lại nói rằng: “Việc làm của các ngươi là
đạo của Bồ-tát vậy”.
Lại
nữa, trước
khi chưa
khai hiển,
Tỳ-kheo
Ðại
thừa
cũng
phải
đồng
học.
Cho nên trong kinh Bồ-tát
giới
bổn nói: “Nếu
Bồ-tát
đối với
Tạng
Ba-la-đề-mộc-xoa
của
Như
Lai mà kiến
lập
Tỳ-ni
thì ngăn
được tội.
Bồ-tát
nên hộ
trì chúng sanh khiến
người
chưa
tin thì tin, tin rồi
thì tăng
trưởng
đồng như
Thanh văn
học.
Tại
sao vậy?
Thanh văn
là tự
độ, nhưng
cũng
không xa lìa
độ tha, huống
chi Bồ-tát
độ sanh là
đệ nhất”.
Lại
nói rằng:
Nếu Bồ-tát
thấy
như
vậy,
thuyết
như
vậy,
và nói: “Bồ-tát
không nghe kinh pháp của
Thanh văn,
không thọ,
không học,
nhưng
tại
sao Bồ-tát
dùng pháp của
Thanh văn
mà làm”. Như
vậy
gọi
là phạm,
phạm
rất
nhiều,
như
vậy
là phạm
tội
khởi
nhiễm
ô.
Than ôi!
Luật
này toàn văn
chia làm hai, phần
một
giải
thích
đề mục
rồi.
PHẦN HAI CHÁNH VĂN
Chia làm ba:
-
Trước
hết
nói về
tựa
của
giới.
-
Thứ
hai là liệt
kê các giới
tướng.
-
Thứ
ba là khuyến,
kết,
hồi
hướng.
Phần
đầu chia làm bốn:
-
Bài kệ
khen ngợi.
-
Hỏi
đáp
khải
bạch.
-
Nói tựa
của
giới
kinh.
-
Kết
thúc hỏi.
Mục
một
lại
chia làm sáu:
-
Quay về
với
Tam Bảo.
-
Bảo
chúng họp
để
nghe.
-
Thầy
trò truyền
thọ.
-
Dùng dụ
khuyên
đừng phá giới.
-
Trình bày giới
điều
đang
nói.
-
Khen giới
là hơn
hết
để
kết
thúc.
A. BÀI KỆ KHEN NGỢI
I. Nay nói về
phần
quy kính
Cúi
đầu lễ
chư
Phật,
Tôn pháp Tỳ-kheo
Tăng.
Trước
khi tác pháp, phải
lễ
kính Tam bảo,
để
cầu
sự
gia bị.
Cúi
đầu là thân nghiệp
thành kính, khi “thân” thành kính thì “miệng”
xưng danh hiệu
công
đức, “tâm” chỉ
có quán tưởng,
tức
là ba nghiệp
cúng dường.
Phật,
Pháp, Tăng
gọi là Tam bảo,
đáng
tôn trọng.
- Phật
nghĩa
là giác. Tự
giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, cho nên gọi là Phật.
- Pháp nghĩa
là quỹ
trì, là tự
nó có tính chất
của nó, và khi
chúng ta tiếp
xúc thì khái niệm
về nó không nhầm
cái khác. (Nhậm
trì tự
tánh, quỹ
sanh vật
giải),
cho nên gọi
là Pháp.
-
Tỳ-kheo
gồm có ba nghĩa:
1) Khất sĩ: xa lìa pháp sống tà mạng, với một chiếc bình bát nuôi thân, xả
bỏ
sự
nhơ
nhớp
vì ngu si, ba huệ
tự
trong sáng.
2) Bố ma: khi vừa
thọ
giới
Cụ túc, yết-ma
thành tựu,
chư
thần
liền
nói lớn
rằng:
Nơi
đây,
lúc này có người
con trai (con gái) lành
đã thọ
giới
Cụ
túc, sẽ
làm cho chư
Thiên mạnh
thêm, Tu-la (A-tu-la) tổn
giảm.
Như
vậy,
các thiên thần
đi
giữa
hư
không nghe
được, lần
lượt
lớn
tiếng
xướng
reo, chỉ
trong giây lát, thấu
đến
Phạm
thiên, ma Ba-tuần
hoảng
sợ.
Cho nên gọi
là ma sợ
(Bố
ma).
3) Phá ác: là người tu Bồ-đề phần,
đoạn kiến tư hoặc.
Trong khi tu hành,
đầy
đủ ba nghĩa,
cho nên trong quả
chứng,
theo
đó
được
danh hiệu
Ứng
cúng, Vô sanh, Sát tặc cũng
gọi
là A-la-hán.
Lại
nữa,
Tỳ-kheo
là Trừ
cẩn.
Làm ruộng
phước
cho
đời, mở
đại
pháp thí, cho nên gọi
là Trừ
cẩn.
Tăng,
gọi
đủ
là Tăng-già.
Trung Hoa dịch
là Hòa hiệp
chúng. Ðó là danh xưng
dành cho bốn
vị
Tỳ-kheo
trở
lên.
Hòa hiệp
có hai nghĩa:
1) Lý hòa, là
đồng chứng
quả
Trạch
diệt.
2) Sự
hòa, có 6 nghĩa:
-
Giới
hòa
đồng tu.
-
Kiến
hòa
đồng giải.
-
Thân hòa
đồng trụ.
-
Lợi
hòa
đồng quân.
-
Khẩu
hòa vô tránh.
-
Ý hòa
đồng duyệt.
Lại
nữa,
luật
Thập
tụng
nói có 5 loại
Tăng:
- Tăng không biết tàm quý, tức là các Tỳ-kheo phá giới.
- Tăng nhụ dương,
là các Tỳ-kheo tập
hợp
ở
một
chỗ,
không biết
Bố-tát,
không biết
Yết-ma
Bố-tát,
không biết
thuyết
giới,
không biết
pháp hội.
- Tăng biệt chúng, là các Tỳ-kheo trong một cương giới, làm các pháp Yết-ma riêng rẽ.
- Tăng thanh tịnh, là các Tỳ-kheo phàm phu giữ giới và phàm phu thắng giả (thất hiền).
- Tăng chơn thật, là các Tỳ-kheo hữu học và vô học.
Trong
đây
nói kính lễ
là kính lễ
hai hạng
Tăng sau.
Vì chơn
thật
Tăng, có khả
năng
làm cho Chánh pháp thắng
nghĩa
cửu
trụ.
Vì Tăng
thanh tịnh,
có khả
năng
khiến
cho Chánh pháp nơi
thế
tục
cửu
trụ.
Ba hạng
Tăng trước
có khả
năng
làm các Yết-ma
phi pháp, khiến
cho Chánh pháp bị
phá hoại,
cho nên không phải
hạng
người
để
ta lễ
lạy.
Lại
nữa, có Trụ
trì Tam bảo,
Nhất
thiết
Tam bảo.
Trụ
trì, tức
là khi Phật
tại
thế,
đắc
đạo
dưới
cây thọ
vuơng
là Phật
bảo,
pháp Tứ
đế
là Pháp bảo,
năm
vị
Tỳ-kheo
là Tăng
bảo.
Sau khi Phật
diệt
độ,
các tượng
bằng
kim loại,
bằng
gỗ,
bằng
đất,
bằng
giấy
có màu sắc
là Phật
bảo,
kinh sách ba tạng
Thánh giáo là Pháp bảo,
kẻ
cạo
đầu
nhuộm
áo kế
thừa
đạo
pháp là Tăng
Bảo.
Ba món này không chấm
dứt
ở
đời
nên gọi
là Trụ
trì Tam bảo.
Song, tất
cả tượng
đồng
với
chơn
thân, kinh
điển
hieän có tức
là Pháp thân xá-lợi,
phàm Tăng
hiện
có cũng
có thể
gánh vác Chánh pháp, làm ruộng
phước
cho
đời, vì thế
cũng
đều
nên kính lễ.
Lại
nữa, các
đức Phật
là chỉ
cho tất
cả
các vị
Ðại
sư
hiện
tọa
đạo
tràng trong mười
phương.
Bởi
vì giác thể
của
vị
ấy
biến
khắp,
tuy
ở phương
khác, nhưng
họ
có thể
làm người
bạn
lành giúp
đỡ
ở
cõi này, tức
chỉ
chung cho tất
cả
đức
Thế
Tôn tuần
tự
xuất
hiện
trong ba
đời. Do giác tánh thường
tại,
tuy
ở
đời
quá khứ,
vị
lai mà có thể
đối
với
đời
hiện
tại
cũng
dũ
lòng cảm
ứng.
Pháp và Tăng
cũng
thế.
Nhất
thể
là dùng trí huệ
thật
tướng
biết
rõ các pháp không phải
không, không phải
có; cũng
có cũng
không, cả
hai
đều
mất,
cả
hai
đều
chiếu
soi. Ba trí viên giác gọi
là Phật
bảo.
Giác huệ
cùng với
lý, sự
hòa hiệp
gọi
là Tăng
bảo.
Lại
nữa, một
niệm
hiện
tiền,
vốn
đủ
Ba
đế,
vì mê không biết,
chính
đó là Pháp bảo.
Dùng cái trí biết
được
Ba
đế
là Phật
bảo.
Ba
đế, ba trí hiệp
nhau
đó là Tăng
bảo.
Phật,
Pháp, Tăng
là nêu rõ nghĩa
một
thể
Tam bảo.
Lại
nữa, nói lễ
là không ngoài một
thể
mà có trụ
trì, cũng
không lìa tướng
trụ
trì mà có một
thể.
Nếu
không rõ cái lý một
thể
mà hành lễ
kính, chỉ
được
sự
thiện,
không gọi
là chơn
lễ.
Bởi
vì lễ
là nghĩa
của
thể.
Chưa
đạt
được
cái thể
Ba luân
là vắng
lặng, không phải
là nghĩa
của
thể
vậy.
Nếu
lìa tướng
trụ
trì mà bàn nhất
thể,
thì rơi
vào ác thú, không gọi là
đạt lý. Ðem lý
đặt ra ngoài sự, chưa biết toàn sự tức là lý, chẳng phải là nghĩa “một” vậy.
Nói Phật,
Pháp, Tăng
chính là nêu lên
điều
chẳng
phải
một,
chẳng
phải
ba, nhưng
là ba, là một.
Ðó là tôn chỉ
sự
lý, hành bố
viên dung.
II. Bảo
chúng họp
để nghe
Nay diễn
pháp Tỳ-ni
Ðể
Chánh pháp trường
tồn.
Giới
như
biển
không bờ
Như
báu cầu
không chán.
Muốn
hộ
tài sản
Thánh,
Chúng họp
nghe tôi tụng.
Muốn
trừ
Bốn
tội
khí,
Và diệt
tội
Tăng
tàn,
Ngăn
Ba mươi
xả
đọa,
Chúng họp
nghe tôi tụng.
Diễn là rao giảng
cùng khắp.
Pháp Tỳ-ni là nghĩa
như
phần
thích danh (giải
tích danh từ)
đã nói.
Chánh pháp là Thánh
đạo xuất thế. Chánh pháp
ở
đời thì giáo, hạnh, quả cả ba
đều
đầy
đủ. Luật này thì giới thân thành tựu,
định, huệ phát sinh. Ðại Sa-môn quả do
đây
được, khiến cho Chánh pháp cửu trụ.
Nửa
bài kệ
này thuyết
minh nghĩa
nhiếp
chúng sanh.
Như
biển
không bờ:
Trong Thuyết
giới
Kiền-độ
nói rằng:
Nước
biển
có tám pháp
đặc biệt,
cho nên loài A-tu-la thích
ở.
-
Tất
cả
sông ngòi
đều chảy
về
nơi
đó.
-
Thủy
triều
lên không mất
giới
hạn.
-
Sông lớn nhỏ
khi nhập
vào bể
thì mất
cái tên
cũ của
nó.
-
Các sông và mưa
lớn
đều quy về
biển
mà không thêm bớt.
-
Ðồng
một
vị
mặn.
-
Không chấp
nhận
thây chết.
-
Sản
sinh nhiều
trân bảo.
-
Những
vật
có thân hình lớn
ở
nơi
đó.
Trong giáo pháp của
Như
Lai cũng
có tám kỳ
đặc, khiến
các
đệ tử
một
khi gặp
được
rồi,
tự
mình vui sống
trong
đó:
-
Các
đệ tử của Ta, lần lượt học giới,
đều quy về pháp của
Ta,
ở nơi
đó học
các pháp lành.
-
Các
đệ tử của Ta, trụ
ở trong giới,
đến chết không phạm.
-
Bốn giòng họ bỏ nhà
đến
ở với nhau
đều xưng là Sa-môn.
-
Ở trong pháp Ta, với
lòng tin kiên cố,
bỏ
nhà
học
đạo,
vào trong cương
giới
Niết-bàn,
mà cõi
Niết-bàn
không thêm không bớt.
-
Ðồng
một
vị
là giải
thoát.
-
Phạm giới ác pháp, tuy ngồi trong chúng, mà thường
xa lìa Tăng
chúng. Chúng Tăng
cũng xa lìa kẻ
đó.
-
Hiện
hữu
nhiều
Pháp bảo,
như
Tứ
niệm
xứ,
cho
đến tám Thánh
đạo.
-
Thọ
hưởng
thân lớn
như
Tứ
hướng,
Tứ
quả.
Lại
nữa,
khi mới
thọ
giới,
tức
đối
với
khắp
pháp giới
được
sắc
thái không dâm, không trộm,
không sát... Như
vậy
cho
đến 250 giới,
3.000 oai nghi, 80.000 tế
hạnh,
đều
thanh tịnh
giới
sắc,
khắp
cả
pháp giới.
Lại
nữa,
từ
đó
trong mỗi
niệm,
nhậm
vận
thành tựu,
giới
pháp thiện
sắc,
khắp
cả
pháp giới,
không cùng tận.
Cho nên gọi
là như
biển
không bờ
vậy.
Như
báu cầu
không chán: Báu là vua châu Như ý. Thứ báu này
ở trong mỗi niệm, có khả năng mưa
đầy cõi Diêm-phù-đề,
đầy
đủ tất cả sự vui, mà thể của nó trọn không tổn giảm. Giới cũng như vậy,
ở trong mỗi niệm, sanh tất cả niệm xứ như, Chánh cần, Như ý, Căn lực, Giác
đạo, các pháp, cho
đến Tam thừa và tất cả Thánh quả mà giới thể không biến
đổi.
Hơn
nữa,
giới
này càng học
càng thấy
cái tinh ba của
nó, càng tu càng
được cái thiện
lợi.
Cho nên nói rằng
như
báu cầu
không chán.
Tài sản
Thánh lược
có 7 chủng
loại:
Tín, Giới,
Văn,
Xả,
Huệ,
Tàm và Quý.
Nói rộng
có: Lục
độ, Vạn
hạnh,
Thập
lực,
Tứ
vô sở
úy, Bách bát tam-muội,
Thập
bát bất
cộng
pháp v.v...
Các pháp tài này do giới
mà
được giữ
gìn. Giới
như
binh giỏi
tướng mạnh,
cũng
như
thành chắc,
hào sâu, cũng
như
hiến
chương,
phép tắc,
cũng
như
vua Chuyển
luân có
đại thần
chủ
kho tàng, gìn giữ
biên cương
không
để bị
xâm lược,
đề
phòng kẻ
gian tặc,
không
để bị
cướp
trộm,
chỉnh
lý một
cách an
ổn, không cho hủy
hoại.
Xuất,
nạp,
thủ,
giữ,
khiến
được
tăng
trưởng.
Nghĩa
chữ
“hộ”
là vậy.
Một
bài kệ
này thuyết
minh nghĩa
của nhiếp
thiện
pháp. Trừ
khí, diệt
tàn, ngăn
xả
đọa,
thuyết
minh nghĩa
của
Nhiếp
luật
nghi. Khí v.v... trình bày
ở văn
sau.
Hỏi: - Tên gọi của Ba tụ, không cộng với tiểu giáo,
đâu
được
ước theo nơi
đây mà phán
định
để giải thích?
Ðáp:
- Khi chưa
khai hiển
thì có thực
mà không có danh, khi
đã khai hiển
thì danh và thực
đều
có.
Ba nghĩa
rõ ràng
đâu có chuyện
ước
theo nơi
đây
mà phán
định
để
giải
thích.
III. Thầy
trò truyền
thọ
Tỳ-bà-thi,
Thức-khí
Tỳ-xá,
Câu-lưu-tôn.
Câu-na-hàm-mâu-ni,
Ca-diếp,
Thích-ca-văn,
Các Ðại
đức Thế
Tôn,
Vì tôi dạy
sự
này,
Tôi nay muốn
nhắc
rõ,
Các Ngài thảy
cùng nghe.
Tỳ-bà-thi,
hoặc
gọi
là Duy-vệ,
Hoa dịch
Thắng
Quán. Thức-khí,
hoặc
gọi
là Thi-khí, Hoa dịch
là Hỏa.
Tỳ-xá-phù,
hoặc
gọi
là Tùy-diếp,
hoặc
gọi
là Tùy-diếp-la,
Hoa dịch
là Biến
Nhất
Thiết
Tự
Tại.
Ba
đức Thế
Tôn này xuất
hiện
ở
nơi
cuối
kiếp
trang nghiêm. Câu-lưu-tôn,
hoặc
gọi
là Câu-lâu-tần,
Hoa dịch
là Kim Tịch,
hay dịch
là Kim Tiên. Ca-diếp, hoặc gọi là Ca-diếp-ba, Hoa dịch là
Ẩm Quang. Thích-ca-văn hoặc gọi là Thích-ca Mâu-ni, Trung Hoa dịch
là Năng
Nhơn,
lại
dịch
là Năng
Nhơn
Tịch
Mặc.
Bốn
đức
Như
Lai này, giai
đoạn
đầu
của
Hiền
kiếp,
thứ
tự
ra
đời.
Sở
dĩ
chỗ
nào cũng
nói
đến bảy
đức
Phật
này vì:
- Một là
ở trong 100 tiểu kiếp, người và trời
ở cõi Tịnh Cư
đã từng thấy.
- Hai là Bổn sư tu nghiệp hảo tướng, bắt
đầu từ khi
đức Phật Tỳ-bà-thi.
Thế
Tôn có 10 hiệu
đầy
đủ,
chín cõi
đều tôn ngưỡng.
Ðại
đức
là nhân tròn quả
đầy,
người
đời
không thể
bằng
được.
Tỳ-kheo
cũng
có thể
gọi
chung là Ðại
đức,
bởi
vì có quảng
đại
đức
hạnh
vậy.
“Sự
này” là chỉ
cho 4 trọng
tội,
13 Tăng
tàn, cho
đến tùy luật các học xứ.
“Thiện
thuyết” là nói rõ, nói
đúng
như
pháp, và hòa hiệp.
“Thảy
cùng nghe” là người
mới
thọ
giới
cho
đến người
100 hạ
đều
tập
hợp
lại
để
nghe, từ
tựa
của
giới
cho
đến kệ
của
kinh.
IV. Dùng dụ
khuyên
đừng phá giới
Ví như người què chân,
Không thể đi đâu được.
Người phá giới cũng vậy,
Không thể sanh trời, người.
Muốn được sanh lên trời,
Hoặc sanh vào cõi người,
Thường phải giữ chân giới,
Ðừng để bị thương tổn.
Như xe vào đường hiểm,
Lo hư chốt gãy trục,
Phá giới cũng như
vậy
Khi chết lòng sợ hãi.
Hai bài kệ trước khuyên răn vấn
đề trở ngại sanh vào cõi lành. Một bài kệ sau khuyên răn vấn
đề sau khi chết
đọa vào
đường ác. Sanh tử dụ như
đường hiểm.
Giới
pháp dụ
như
chốt
trục
của xe. Hủy
giới
thì khi chết
tướng
của
đường
ác hiện
ra, như
trong
đường hiểm
hư
chốt
gãy trục.
Trước
sau không nhầm
lẫn,
sợ
sệt
khủng
khiếp.
Phẩm
Hạnh
nguyện
nói:
Ðóng chặt tất cả các cửa của
đường ác, mở toang cửa chính vào cõi nhơn thiên, Niết-bàn. Công năng của giới thật sự là như vậy.
Song, trong luật Căn
bản nói:
Hoặc an vui nơi thế gian, hoặc cầu về thiên thượng, cần phải tu phạm hạnh. Ðược sanh vào cõi người, trời tạm thọ khoái lạc, người
đó sau khi mạng chung
đọa vào
địa ngục, cho nên cần cầu về Niết-bàn phải tu phạm hạnh. Ðừng vui cái vui của nhơn, thiên
để rồi phải chịu khổ.
Luận
Nhiếp
nói:
Ðường hiểm có hai:
-
Sanh lên cõi trời.
-
Sanh vào
đường ác.
Tuy sanh lên cõi trời, thọ các thứ vui
đẹp, sau khi báo hết, lại
đọa vào
đường ác. Cho nên cõi trời, người không phải là nơi cần mong cầu.
Bài kệ thứ hai nói như vậy, lược có hai nghĩa:
a) Chân giới cần giữ gìn, không nên phá hủy. Phá hủy thì nhơn thiên còn không có phần
huống
là Niết-bàn.
b) Nhiếp thọ hạng người thấp kém, nói Niết-bàn thì sợ mà nói cõi trời người thì vui. Cho nên trước cần khuyến dụ, sau mới khiến cho họ vào trí Phật.
Hơn
nữa, căn
cứ
vào sự
để
nói, nếu
trì giới
không bị
phá hủy,
dầu
không có
định huệ,
quyết
định
cũng
không mất
thọ
thân nơi
cõi nhơn
thiên.
Lại
nữa, nên biết,
dùng cái chân
để dụ
cho giới
thì không nơi
nào chẳng
đến
được.
Nếu
muốn
siêu thoát lên phẩm
trên của
đài
sen, hay muốn
thừa
sự
mười
phương
các
đức Phật,
hoặc
muốn
nghiêm tịnh
vô biên cõi Phật,
hay muốn
nhập
vào huyền
môn của
pháp giới,
đâu
không dùng giới
này làm phương
tiện
đầu
tiên.
V. Trình bày học
xứ
sẽ
nói
Như người tự soi kiếng
Ðẹp xấu sanh vui, buồn.
Thuyết giới cũng như vậy,
Vẹn, hỏng sanh mừng, lo.
Như hai trận xáp chiến,
Gan, nhát có tiến thối.
Thuyết giới cũng như vậy
Tịnh, nhiễm sanh vui, sợ.
Vui buồn
thuộc
ý, lo sợ
hiện
nơi
thân hành. Giới
được
hoàn toàn sạch
thì bên trong không hổ
với
mình, bên ngoài không thẹn
với
người,
cho nên tâm vui là thân an. Giới
bị
phá hủy
nhơ
nhớp
thì bên trong có tỳ
vết
đối
với
mình, bên ngoài bị
nhớp
nhúa
đối với
Tăng,
cho nên ôm lòng lo sợ
chúng vậy.
VI. Khen giới
là hơn
hết
để kết
thúc
Thế gian vua là lớn,
Sông ngòi bể rộng hơn.
Các sao, trăng sáng nhất,
Các Thánh, Phật trên hết.
Trong tất cả các luật,
Giới kinh là tối thượng.
Như Lai lập cấm giới,
Nửa tháng tụng một lần.
Thọ
giới
này gọi
là Ðại
Sa-môn. Chữ “đại” tiếng
Phạn
gọi
là Ma-ha, gồm
có ba nghĩa:
1) Lớn,
lớn hơn
hết
trong cõi trời,
người.
2) Nhiều,
có nhiều
phước
huệ.
3) Hơn,
vượt hơn
các ngoại
đạo.
Câu
đầu
dùng ngôi vị lớn
để khen. Câu thứ
hai dùng số
nhiều
để
khen. Câu thứ
ba dùng vấn
đề
trội
hơn
để
khen. Câu thứ
tư
dùng ví dụ
chung
để khen.
Nửa
bài kệ dưới, chính dùng
pháp
để
hiệp.
Chỉ
có Giới kinh này là
hơn, nên thọ
Giới
này cũng
thành hơn
hết.
Tất
cả các Luật, nghĩa là thế gian và ngoại
đạo cũng
đều có luật.
Lại
nữa,
năm
giới,
tám giới,
mười
giới,
cũng
không bằng
giới
Tỳ-kheo.
Giới
Tỳ-kheo
là hơn
hết.
Hơn
nữa, thiền
giới,
vô tận
giới,
cũng
không bằng
Ba-la-đề-mộc-xoa
giới.
Nó là cương
lĩnh
của
Phật
pháp.
Lại
nữa, Tam tạng
12 bộ
cũng
chỉ
có Giới
kinh là hơn
hết.
Nếu
không kiên trì cấm
giới,
dầu
hiện
tiền
có
thiền
định
đa
trí
đi nữa
cũng
thành nghiệp
của
ma. Vì vậy
nên luật
Căn
bản nói: “Phật dạy ba tạng giáo, pháp Tỳ-nại-da là
đứng
đầu”.
Lại
nữa, câu thứ
nhất
dùng dụ
để
khen “giáo” của
kinh, chỉ
có
đức
Như
Lai tự
nói. Câu thứ
hai, dùng dụ
để
khen “hạnh”
của
kinh, tất
cả
pháp
đều hướng
về
giới.
Câu thứ
ba, dùng dụ
để
khen “lý” của
kinh, giới
thể
vô tác, mát mẻ
như
mặt
trăng,
nhân nơi
trì phạm
có
đầy
và khuyết,
nhưng
sự
thật
không có tăng
giảm.
Câu thứ
tư,
dùng dụ
để
khen “quả”
của
kinh, không những
chỉ
thành quả
của
Thanh văn
mà còn thành tựu
đạo
quả
của
Như
Lai.
Hỏi:
-
Vô tác giới
thể
từ
nơi
Thầy
mà
được.
Nếu
phạm
thiên ban
đầu,
tuy hoàn toàn không có tâm che giấu, cũng chỉ cho “dữ học” mà thôi, không dùng vào việc
của
Tăng.
Nếu
dùng cái thể
của
mặt
trăng
dụ
cho thể
vô tác, thì cùng với
bản
tánh có gì phân biệt?
Nếu
từ
nơi
Thầy
thọ
mà
được,
gọi
là vô tác, như
vậy
có thêm bớt
ư?
Ðáp:
-
Vô tác là cái thể của
đương thể. Bản tánh thanh tịnh là cái thuộc sở y. Vô tác thuộc về tu, bản tánh thuộc về tịnh. Vô tác là sự, bản tánh là lý. Thể của vô tác là tôn, thể của bản tánh là thể. Song, tôn cùng với thể không phải một, không phải hai.
Thấu
triệt
nơi
tôn mà ngộ
được
thể.
Ngu muội
nơi
thể
mà mê luôn cả
tôn. Nay
đã dùng mặt
trăng
để
dụ
mà khen lý của
kinh, chính là chỉ
cái thể
của
vô tác giới
sở
y. Nên biết,
được
hay
mất
là do vấn
đề
đầy
hay khuyết,
chứ
không thể
gọi
tánh có tăng
có giảm.
Lại
nữa, từ
câu: “Ví như
người
què chân” cho
đến câu “Giới
kinh là tối
thượng”,
đầy
đủ
4 loại
Tất-đàn:
Mở
đường
cõi trời
người,
đóng
cửa
nẻo
thú dữ
là “Thế
giới
tất-đàn”.
Hai ví dụ
soi kiếng
là “vị
nhân” và “đối
trị”
hai tất-đàn,
tùy theo
đó
để
được
hai món ích lợi
sanh thiện,
diệt
ác. Giới
dụ
cho cái hơn
hết,
tức
“Ðệ
nhất
nghĩa
tất-đàn”.
Thể
của
giới
này là tịnh
Pháp thân.
Như Lai lập cấm giới: Trong cõi
đại
thiên, Phật
là Pháp chủ.
Luật
do Phật
chế,
và chỉ
có Phật
chế lập, ngoài ra các vị dưới
chỉ
có thể
y thừa.
Bởi
vì chỉ
có hạnh
quả
viên mãn của
đức
Như
Lai mới
thấu
triệt
được
nghiệp
tánh nhẹ
nặng
của
chúng sanh, còn bậc
Ðẳng
giác trở
xuống
không thể
làm
được.
Hỏi:
- Khế
kinh có thể
do 5 hạng
người
nói.
Riêng Tỳ-ni
thì chỉ
có
đức
Phật
mới
đủ thẩm
quyền
nói, cũng
giống
như
vấn
đề
lễ
nhạc,
chinh phạt...
chỉ
có thiên tử
ra lệnh
chư
hầu
mới
vòng tay cúi
đầu nghe theo. Nay Ðại
minh luật
do thiên tử
chế,
văn
võ bá quan
đều
được
xem. Vậy
thì, tại
sao Pháp của
Tỳ-kheo,
chỉ
cho Tỳ-kheo
học
tập,
mà không cho Sa-di, bạch
y xem?
Ðáp:
- Luật
chỉ
do Phật
chế,
là
để
trình bày cái pháp tôn quý của
đạo. Song không phải
chỉ
có pháp của
Tăng mới
gọi
là luật,
mà năm
giới,
mười
giới,
Bồ-tát
giới
đều
gọi
là luật
cả.
Những
thứ
luật
đó,
phổ
biến
cho cả
7 chúng, cũng
như
đại
luật,
ban hành chung cho thiên hạ.
Còn
đối với
giới
pháp của
Tỳ-kheo,
cũng
như
sách bí mật
trong nội
phủ,
chỉ
dành các quan có trọng
trách mới
được
xem.
Chẳng
phải
thứ
dân
được
phép dự
vào
để
nghe.
Câu “nửa tháng tụng một lần” là chỉ
cho hai phần
của tháng có trăng
và không trăng,
tiêu biểu
cho hai nghiệp
thiện
và ác. Bạch
là muốn
cho trắng
trong, hắc
là muốn
cho hết
tội.
Lại nữa, bạch là tiêu biểu cho Trí
đức, hắc là tiêu biểu cho Ðoạn
đức. Trong khi thuyết giới tự mỗi người xét lấy.
Cho nên luật Thập tụng nói rằng:
Pháp Bố-tát vào nửa tháng, nửa tháng các Tỳ-kheo hòa hợp một chỗ, tự cân nhắc lấy mình, ngày làm tội gì,
đêm làm tội gì, từ ngày thuyết giới trước
đeán nay, có làm tội gì không? Nếu có tội phải
đến người
đồng tâm, Tỳ-kheo tịnh giới, như pháp sám hối. Nếu không gặp
được Tỳ-kheo tịnh giới, nên nghĩ, sau này ta gặp, sẽ như pháp sám hối. Nhờ vậy an trụ trong thiện pháp, xa lìa pháp bất thiện.
Căn
bản
tạp
sự
nói:
Ta bảo
các thầy
mỗi
nửa
tháng, nói Ba-la-đề-mộc-xoa.
Nên biết
đây
là Ðại
sư
của
các thầy,
là chỗ
nương
tựa
của
các thầy.
Nếu
Ta
ở
đời,
không có khác vậy.
PHU:
Phần
thứ
tư
nói có 5 pháp gọi
là trì luật:
1) Biết
phạm. 2)
Biết
không phạm.
3) Biết
tội
nhẹ
4) Biết
tội nặng.
5) Rộng
tụng
2 bộ
luật.
Lại
có 5 pháp, 4 pháp trước như trên, pháp thứ
5 là: trụ nơi Tỳ-ni,
không bị
lay
động.
Lại
có 5 pháp, 4 pháp trước như trên, pháp thứ
5 là: Sự
tranh cải khởi
lên có thể
diệt
trừ.
Người
trì Luật
có 5 công
đức:
1) Giới
phần
bền
vững.
2) Nhiếp
phục
được
oán thù.
3)
Ở
trong chúng, quyết
đoán
không sợ
sệt.
4) Nếu
có nghi hối,
có thể
khai giải.
5) Khiến
Chánh pháp bền
vững.
Lại
nói rằng
có 5 pháp khiến
Chánh pháp mau hoại
diệt:
1) Không lắng
nghe thọ
tụng,
ưa
quên nhầm
lẫn.
Văn
không
đầy
đủ
mà dạy
người
khác. Văn
đã
không
đủ nghĩa
lý phải
khuyết.
2) Là người
hơn
hết,
bậc
Thượng
tọa
trong Tăng,
cả
nước
tôn trọng,
mà không trì giới,
chỉ
tu các pháp không lành, buông lung xả bỏ
giới
hạnh,
không siêng năng
tinh tấn.
Khiến
cho các Tỳ-kheo
niên thiếu
hậu
sanh, bắt
chước
cái hạnh
đó.
3) Ða văn
trì pháp, trì luật,
trì ma-di, mà không dùng những
gì mình biết
để
dạy
cho chúng,
để rồi
ôm nó qua
đời.
(Trì pháp là biết Tu-đa-la-tạng, như A-nan... Trì Luật là biết tạng Tỳ-ni, như
Ưu-ba-ly... Trì-ma-di nghĩa
là khéo léo vấn
đề dạy
dỗ,
đứng
đầu về
trách nhiệm
huyền
cơ,
như
Ma-ha Ca-diếp...).
4) Có hạng
Tỳ-kheo
khó có thể
giáo dục,
không nhận
lời
hay, không thể
nhẫn
nhục,
các thiện
Tỳ-kheo
khác liền
bỏ
không dạy
họ.
5)
Ưa
đấu
tranh, mắng
chửi
lẫn
nhau, hai bên tranh nhau bằng
lời
nói, buông lời
ra như
gươm
như
kiếm,
tranh cãi hơn
thua.
Nếu
ngược
lại
5
điều
trên thì khiến
cho Chánh pháp
được lâu bền.
Lại
nữa,
sau khi Như
Lai diệt
độ,
nếu
Tỳ-kheo
không kính Phật,
Pháp, Tăng
và giới
định
thì Chánh pháp mau tiêu diệt.
Hoặc
xuất
gia trong pháp luật,
không hết
lòng vì người
nói pháp, không hết
lòng vì người
nghe pháp nhớ
giữ.
Dù có kiên trì, không hay tư
duy nghĩa
thú, không biết
nghĩa,
cũng
không thể
tu hành như
pháp.
Không tự lợi,
cũng
không lợi
cho ai. Vì nhân duyên như
vậy,
khiến
Chánh pháp mau tiêu diệt.
Ngược
lại
những
điều
trên, Chánh pháp
được lâu bền.
Luật
Ma-ha Tăng
kỳ
nói:
Nếu
có kẻ
Thiện
nam tử
nào giàu lòng tin, muốn
được
5 việc
lợi
ích, nên tận
tâm thọ
trì luật
này. Năm
điều
lợi
ích là:
1) Kiến
lập
Phật
pháp.
2) Khiến
Chánh pháp lâu bền.
3) Không có nghi hối,
thỉnh
vấn
người
khác.
4) Có các Tỳ-kheo,
Tỳ-kheo-ni
phạm
tội
sợ
sệt,
làm chỗ
nương
tựa
an
ủi
cho họ.
5) Ði du hóa khắp
nơi
không hề
bị
trở
ngại.
Tất
cả
đều
phải
hết
mình thọ
trì luật
này.
Lại
nữa, ngài Ðại
Ca-diếp
bảo
các Tỳ-kheo
rằng:
“Vấn
đề
phân chia xá-lợi
của
Thế
Tôn chẳng
phải
việc
làm của
chúng ta. Quốc
vương,
Trưởng
giả,
Bà-la-môn, chúng cư
sĩ,
người
cầu
phước
tự
họ
sẽ
lo việc
phân chia xá-lợi
để
cúng dường.
Việc
của
chúng ta là kiết
tập
Pháp tạng,
đừng
để
cho pháp của
Phật
mau tiêu diệt”.
Luật Thập tụng
nói:
Nếu
Tỳ-kheo nào biết
Bố-tát,
biết
Yết-ma
Bố-tát,
biết
thuyết
Ba-la-đề-mộc-xoa,
biết
nhóm họp,
thì nên cung cấp
cúng dường
cho họ. Tại
sao vậy?
Vì khi không có Phật,
người
này thay thế
vậy.
Lại
nói, tùy theo các Tỳ-kheo
thanh tịnh
không phá hoại
Chánh pháp, khi thuyết
giới,
gọi
là pháp trụ
thế.
Lại
nói: Trì luật
có 5
điều
lợi:
1) Biết
pháp xuất
gia.
2) Biết
Yết-ma.
3) Biết
oai nghi.
4) Biết
y chỉ.
5) Biết
trở
ngại
đạo
hay không.
Căn
bản
ni-đà-na
nói:
Có Bỉnh
pháp Yết-ma,
có như
pháp thi hành thì gọi
là Chánh pháp trụ
thế.
Không như
vậy,
thì gọi
là Chánh pháp hoại
diệt.
Phật
Bảo các Tỳ-kheo:
“Các thầy
nếu
dùng lòng tin, xuất
gia, tinh cầu
Niết-bàn,
tu tịnh
hạnh,
các Bí-sô như
vậy
mặc
y phục
đáng
giá
ức kim tiền,
phòng xá nghỉ
ngơi,
giá
đáng 500 kim tiền,
ăn
uống
đầy
đủ
100 món mỹ
vị,
các việc
như
vậy
Như
Lai
đều
cho phép thọ
dụng,
các vị
ấy
đều
kham năng
thọ
dụng
được.
Nếu
có Bí-sô phá hủy
trọng
giới,
ở trong trú xứ
của
Tăng
cho
đến một
miếng
ăn
cũng
không tiêu
được. Trong
đất Già-lam không có một
chỗ
để
bước
một
bàn chân, cho một
Tỳ-kheo
phá giới.
Các ông nên biết người phá giới có 10
điều mất mát tội lỗi:
1) Tự biết mình là người ác phá giới.
2) Người khác cũng biết mình như vậy.
3) Thiên thần
không lui tới
giúp
đỡ.
4) Bậc
đồng phạm hạnh, người lành biết pháp
đều khinh rẻ.
5) Tiếng vang tội ác nghe khắp bốn phương.
6) Ðiều chưa chứng không chứng
được.
7) Pháp
đã
chứng,
thảy
đều
thối
thất.
8) Những gì
đã nghe
đều bị quên hết.
9) Sau khi mạng chung tâm sanh hối hận vì không yên tâm, hoang mang lo sợ.
10) Sau khi boû mạng
sống
này sanh vào
địa ngục.
Lại
các Bí-sô, nên biết
có 5 loại
thọ dụng:
1) Như chủ thọ dụng, tức là vị A-la-hán, trừ
hết
ba
độc.
2) Như thọ dụng của cha mẹ, tức là các học nhơn,
còn có các hoặc
nghiệp.
3) Ðược phép thọ dụng, tức là bậc thuần thiện dị
sanh, thanh tịnh
giới,
siêng tu thiền
tụng,
không hề
biếng
nhác.
4) Thọ
dụng
như
người
mắc
nợ.
Nghĩa
là tuy có phòng cấm giới mà không siêng tu giác phẩm
thiện
pháp.
5) Thọ
dụng
như
kẻ
trộm.
Nghĩa
là
đối
với
4 trọng
cấm,
tùy phạm
một
tội
nào.
Cho nên các thầy
nên tu học.
Thiện
kiến
tỳ-bà-sa
nói:
Thiện
nam tử
hảo
tâm xuất
gia, Luật
tạng
là cha mẹ.
Tại
sao vậy?
Bởi
Luật
tạng
cho người
xuất
gia
được giới
Cụ
túc, dạy
học
oai nghi, y chỉ
nơi
Luật
tạng.
Tự
thân trì giới
có khả năng
đoạn
nghi hoặc
cho người,
nếu
vào trong Tăng
không có sợ
sệt.
Nếu
có phạm
tội
y luật
quán xét, khiến
cho Chánh pháp cửu
trụ.
Người
trì giới
luật
tức
là nguồn
gốc
của
công
đức. Nhân nơi
cội
gốc
cho nên nhiếp
lãnh các pháp lành.
Bộ
Nam hải
ký qui nói:
Luật
Ðại
thừa,
Tiểu
thừa
không khác,
đều chế
Năm
thiên, thông tu Bốn
đế.
Nếu
lễ
Bố-tát,
đọc kinh Ðại
thừa
gọi
là
đại.
Không thực
hành
điều
này gọi
là tiểu.
Có chỗ
nói: Ðại
thừa
không ra ngoài hai thứ:
Trung quán, Du-già.
Trung quán thì Tục
đế
có, Chơn
đế
không, thể
của
nó như
huyễn.
Du-già thì bên ngoài không,
bên trong có, mọi việc
đều Duy thức. Ðây
đều tuân theo Phật chế, phải, quấy
đều hợp với Niết-bàn,
đâu có chơn,
đâu có ngụy. Chủ ý là
ở chỗ
đoạn hết các phiền não, tế
độ chúng sanh. Ðâu phải muốn rộng
để
đến nỗi phân vân, lại thêm nhũng tạp về vấn
đề kiết chế. Y theo
đó mà tu hành thì
đủ
điều kiện
đến bờ bên kia. Ngược lại
đều phải
đắm chìm nơi bến sanh tử.
Bên Tây Trúc
đều song hành, lý không
chống
trái... Lại
nói: Phao nổi
không bị
lủng
là bổn
tâm của
Bồ-tát.
Ðừng
khinh cái lỗi
nhỏ,
để
rồi
lại
phải
có tiếng
kêu cứu
sau cùng. Lý hiệp
cả
đại
lẫn
tiểu
để
tu, mới
thuận
theo lời
dạy
của
đức
Từ
Tôn.
Ngừa
cái lỗi
nhỏ,
quán
đại
không, nhiếp
vật, lắng
lòng, như
vậy
làm gì có lỗi.
Chỉ
sợ
tự
mình mê, rồi
lại
mê người,
theo giaùo lý tạm
trình bày
ở một
khía cạnh
đối
với
pháp Không rồi
tin Luật
điển
quá
ư trống
rỗng
(cho là không có) thì sao thấy
được
sự
phóng túng, biếng
nhác của
mình!
Tri môn cảnh huấn
nói:
Luật
chế Tỳ-kheo, năm
hạ
về
trước,
chuyên tinh Luật
bộ,
nếu
đạt
được
vấn
đề
trì phạm,
biện
bạch
được
việc
của
Tỳ-kheo,
thì sau
đó mới
học
tập
kinh luận.
Thời
nay, vượt
thứ lớp mà học,
việc
làm
đã mất
thứ
tự
làm sao vào
đạo
được?
Ðại
Thánh quở
trách, trọn
không phải
là
đệ
tử
của
Phật
vậy.
Vả lại, vừa
mới
thấm
nhuần
giới
phẩm,
liền
cho nghe Thánh giáo, tham thiền.
Nếp
sống
của
Tỳ-kheo
không hề
hiểu
biết.
Huống
chi khinh khi giới
luật,
hủy
báng Tỳ-ni,
biếm
nhẻ
kẻ
học
luật
cho là Tiểu
thừa,
nói người
trì giới
là chấp
tướng.
Cứ
mãi buông lung theo trần
tục,
phóng túng theo thói ngu ác ham
ăn ngon mặc
đẹp,
tự
gọi
là thức
thời,
hành dâm nộ
khí lại
xưng
là
đạt
đạo,
chưa
hiểu
được
tôn chỉ
của
Thánh, ngộ
nhập
chơn
thừa.
Vả
lại,
nếu
giới
đã
khinh, tại
sao ông
đăng
đàn
thọ
giới?
Luật
ắt
hủy
báng, tại
sao lại
cạo
tóc nhuộm
y? Như
vậy,
khinh giới
tức
là tự
khinh, hủy
luật
lại
thành tự
hủy.
Vọng
tình dễ
quen, chí
đạo khó học.
Vấn
đề
bạt
tục
siêu quần,
vạn
phần
không có một.
Xin rõ lời
Thánh dạy,
sao lại
không theo?
Lại
nói: Phật
pháp - Hai bảo
đều
nhờ
Tăng
hoằng,
Tăng
bảo
tồn
tại
là nương
vào giới,
ngoài giới
ra không biết
lấy
gì
để
thành lập.
Cho nên trong kinh Hoa nghiêm nói: “Thọ
trì
đầy
đủ oai nghi, giáo
pháp, khiến
cho ngôi Tam bảo
không bị
đứt
đoạn”.
Qui Sơn cảnh
sách nói:
Pháp tịch
Tỳ-ni
chưa
từng
bước
đến,
liễu
nghĩa
Thượng
thừa
đâu
hay phân biệt.
BIỆN
MINH:
Hỏi: - Hạng người ham thịt rượu, hành dâm nộ
khí, không
đủ
để bàn
đến, nếu
như
không phạm
trọng
cấm,
căn
bản
không sứt
mẻ.
Từ
đây
nghe giáo pháp, tham thiền,
chuyên cầu
Thượng
thừa
lại
có lỗi
gì? Ðâu cần
phải
đợi
đến
sự
tướng
vụn
vặt
mới
hiệp
với
lời
dạy
của
Phật?
Hạng
người
bỏ
đại
hướng
tiểu,
không tập
học
Phật
cùng các giới
điều
của
Phật,
vậy
thông
ở chỗ
nào?
Ðáp:
- Nếu
là kẻ
thượng
căn
lợi
trí có khả
năng
đạt
được
pháp nghĩa
thì Luật
nghi là giáo là thiền,
đâu
thể
coi là sự
tướng
vụn
vặt
mà riêng tìm cầu
Thượng
thừa.
Nếu
là hạng
trung và hạ,
sự
tướng
còn chưa
biết,
làm sao có khả
năng
xa cầu
thiền
giáo? “Củi
không thấy
mà mong tìm sợi
lông tơ”
là
đây vậy.
Kẻ
bỏ
đại
theo tiểu,
lòng mong cầu
tự
lợi,
không tập
học
theo Phật,
gọi
là kẻ
thối
mất
tâm Bồ-đề;
năm
đức
của
Sa-di còn nói: “Chỉ
cầu
Ðại
thừa
vì
độ
người
vậy”,
huống
là giới
pháp của
Tỳ-kheo
đâu phải
là Tiểu
thừa
mà cho là không tập
học
theo Phật
ư?
Phần
đầu
trình bày về
bài kệ
khen ngợi
xong.
TRÙNG TRỊ
TỲ-NI
SỰ
NGHĨA
TẬP
YẾU
HẾT QUYỂN THỨ NHẤT
Cổ
Ngô: là huyện
Ngô xưa, nay là thành phố
Tô Châu tỉnh
Giang Tô.
Ðoạn
này ngài Trí Húc viết
gọn
lại theo ý riêng
(Trùng trị
tỳ-ni sự
nghĩa tập
yếu 1, tr. 351b01, Vạn
‘Tục tạng’
40n719). Trong nguyên văn
có chút sai khác, xem “Xá-lợi-phất vấn
kinh”, tr. 900a15, Ðại
(Ðại
Chánh) 24n1465.
Phiên dịch
danh nghĩa tập
1, tr. 1064a05, Ðại
54n2131.
Nam hải
ký qui nội pháp
truyện 1,
tr.205a25, Ðại
54n2125.
Nhụ dương 羺..羊?: Kẻ phàm phu
độn căn, không có trí tuệ,
như
loài dê câm.
Ba luân: người lễ,
đối tượng
được lễ,
và sự lễ.
Thích-ca-văn: tên gọi
tắt nhưng
không
đúng của
Thích-ca Mâu-ni.
5 hạng
người nói: Phật
pháp có thể có 5 hạng
người nói
được:
1. Từ miệng
Phật nói; 2. Ðệ
tử của
Phật nói; 3. Tiên nhơn
nói; 4. Chư thiên nói; 5. Hóa người
nói.
Tứ
phần luật
59, phần thứ
tư Tỳ-ni
tăng nhất
(phần năm
pháp), tr. 1004b17, Ðại
22n1428.
Ðoạn trong ngoặc
này nguyên chánh văn
Tứ
phần luật
không có, ngài Trí Húc phụ
chú thêm. Tứ phần
luật 59, phần
thứ tư
Tỳ-ni tăng
nhất, tr. 1006b26, Ðại
22n1428.
Ðoạn này ngài Trí Húc
lược
bớt (Trùng trị
tỳ-ni sự
nghĩa tập
yếu 1, tr. 356c28, Vạn
40n719). Nam hải
ký qui nội
pháp truyện 1, tr. 205c10, Ðại
54n2125: Nguyên văn
“Ðại
tiểu thừa
tạp hành, khảo
kỳ trí dã tắc
luật kiểm
bất thù
大i小乘雜行,考其致渎也則律撿不殊瞖2
...” pháp hành của
Ðại thừa
và tiểu thừa
xen lại, nhưng
khảo xét hai bộ
phái
đó thì về
luật kiểm
chứng không khác...
Hán: Tân bất kiến
nhi dục sát thu hào
薪不見而欲婝察秋毫.
“Thu hào”: Có một
loài chim lông cánh của
chúng
đến mùa thu mới
mọc, do lông nhỏ
và mịn nên gọi
là thu hào. Nghĩa
bóng câu này: Việc dễ
chưa
làm
được sao làm
được
việc khó.
--- o0o ---
Mục
Lục |
01
|
02
|
03
|
04
|
05
|
06
|
07
|
08
|
09
|
10
11
|
12
|
13
|
14
|
15
|
16
|
17
|
18
|
19
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-6-2007