68) GIỚI KHÔNG BỎ ÁC
KIẾN
Phạm giới trọng của Ðại
thừa, là hủy báng Pháp vậy
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, nói như vầy: “Tôi biết rằng, theo pháp Phật dạy, sự hành dâm dục không
phải là pháp chướng đạo”. Các Tỳ-kheo kia nên can gián Tỳ-kheo này rằng: “Ðại
đức chớ nói như vậy; chớ xuyên tạc Thế Tôn, xuyên tạc Thế Tôn là không tốt.
Thế Tôn không nói như vậy. Thế Tôn dùng vô số phương tiện nói rằng sự hành dâm
là pháp chướng đạo”. Khi được các Tỳ-kheo can gián Tỳ-kheo này vẫn kiên trì
không bỏ. Các Tỳ-kheo can gián đến ba lần cho bỏ sự ấy. Nếu đến ba lần can
gián, bỏ thì tốt, nếu không bỏ, Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Tỳ-kheo A-lê-tra sanh ác
kiến. Các Tỳ-kheo can gián mà không bỏ, bạch Phật, Phật bảo Tăng vì đương
sự bạch tứ Yết-ma quở trách can gián, kiết giới này.
TƯỚNG TRẠNG CỦA TỘI
Ba lần Yết-ma xong, phạm
Ba-dật-đề. Ngăn vị ấy đừng bỏ phạm Ðột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni, phạm Ba-dật-đề. Ba
chúng dưới, phạm Ðột-kiết-la.
Luật Ngũ Phần nói: “Một Tỳ-kheo đến chỗ
vắng can gián, bỏ, phạm một Ðột-kiết-la. Nhiều Tỳ-kheo đến can gián, bỏ, phạm
hai Ðột-kiết-la. Tăng đến can gián, bỏ, phạm ba Ðột-kiết-la. Bạch xong, bỏ,
phạm bốn Ðột-kiết-la. Một lần Yết-ma xong, bỏ, phạm năm Ðột-kiết-la. Hai lần
Yết-ma xong, bỏ, hoặc ba lần Yết-ma chưa xong, bỏ, phạm sáu Ðột-kiết-la. Ba
lần Yết-ma xong, bỏ hay không bỏ, đều phạm Ba-dật-đề.
CHỨNG MINH:
Kinh Ðại Bát Nhã nói: Nếu nhiễm sắc dục,
đối với vấn đề sanh lên cõi Phạm thiên, còn có thể bị chướng ngại, huống chi
đạt được Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Cho nên Bồ-tát đoạn dục xuất gia, có thể
đạt được Vô thượng Bồ-đề, không phải là không đoạn.
Bồ-tát Ma-ha-tát ở trong
ngũ dục rất sanh nhàm chán, lo âu, không để cho tội lỗi của ngũ dục nhiễm hại,
dùng vô lượng pháp môn quở trách, hủy báng các dục: Dục là lửa bừng cháy, đốt
thân tâm. Dục là bẩn thỉu nhơ nhớp nhiễm mình và người. Dục là tên đầu sỏ, xưa
nay, mãi mãi về sau thường tác hại! Dục là oán địch, suốt đêm rình mò làm tổn
hại! Dục là cây đuốc bằng cỏ khô. Dục là trái đắng. Dục là lưỡi kiếm bén. Dục
là đống lửa. Dục là Chiên-đà-la trá hình kẻ thân thích v.v... Xá-lợi-tử! Các
Bồ-tát Ma-ha-tát dùng vô lượng mặt ví dụ như vậy để quở trách, hủy báng các
dục”.
69) GIỚI BÈ ÐẢNG VỚI
NGƯỜI ÁC KIẾN
Ðại thừa đồng chế
cấm.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo nào, biết người nói
lời nhứ thế, chưa được tác pháp (giải), tà kiến như thế chưa bỏ, lại cung cấp
các nhu yếu, cùng Yết-ma, cùng ngủ nghỉ, cùng nói chuyện, Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
A-lê-tra không bỏ ác
kiến, các Tỳ-kheo bạch Phật, Phật bảo Tăng vì đương sự, bạch tứ Yết-ma cử tội
ác kiến không bỏ. Lục quần lại cung cấp các thứ cần dùng, nên chế.
GIẢI THÍCH:
Chưa tác pháp: Tức là bị cử mà chưa giải. Không
bỏ: Có nghĩa là Tăng quở
trách, can gián mà không bỏ. Vật cần dùng có hai: một là pháp, tức là dạy tu
Tăng thượng giới, Tăng thượng ý (định), Tăng thượng trí (tuệ), học vấn tụng
Kinh. Hai là tài, tức cung cấp tứ sự, đồng Yết-ma, đồng thuyết giới.
TƯỚNG TRẠNG CỦA TỘI
Tỳ-kheo-ni, phạm
Ba-dật-đề. (Nếu tùy thuận Tỳ-kheo bị cử, ba lần can gián không bỏ, phạm
Ba-la-di).
Không phạm: Không biết
có người nói như vậy, bị bệnh, ngộ nhận, bị bắt buộc, mạng nạn v.v...
Luật Ngũ Phần nói: “Cùng nói, mỗi lời nói phạm một Ba-dật-đề. Cùng
ngồi, mỗi lần ngồi phạm một Ba-dật-đề. Cùng ngủ, mỗi đêm phạm một Ba-dật-đề.
Cùng làm việc, mỗi việc phạm một Ba-dật-đề. Tuy bỏ ác kiến nhưng Tăng chưa
giải Yết-ma, cũng phạm Ba-dật-đề. Nếu khởi tạo ác kiến, Tăng chưa Yết-ma, phạm
Ðột-kiết-la. Nếu không biết và không Yết-ma như pháp, không phạm.
Luật
Thập Tụng
nói: “Nếu dạy pháp cho người, nếu học pháp nơi người, nếu đem của cho người,
nếu nhận của nơi người, nếu cùng ngủ, tất cả phạm Ba-dật-đề.”
Luật
Căn Bản nói:
“Nếu người kia bệnh, chăm sóc không phạm. Hoặc cùng chung ở để khiến cho họ bỏ
ác kiến cũng không tội”.
70)
GIỚI
NUÔI SA DI BỊ TẪN XUẤT
Ðại thừa đồng học
GIỚI BỔN :
Tỳ-kheo
nào, biết Sa-di ấy nói như vầy: Tôi nghe pháp từ Ðức Phật nói rằng: “Hành dâm
dục không phải là pháp chướng đạo”. Các Tỳ-kheo nên can gián Sa-di ấy như vầy:
“Người chớ xuyên tạc Thế Tôn, xuyên tạc Thế Tôn là không tốt. Thế Tôn không
nói như vậy. Này Sa-di, Thế Tôn dùng vô số phương tiện nói rằng dâm dục là
pháp chướng đạo”. Khi được các Tỳ-kheo can gián như thế mà Sa-di ấy vẫn kiên
trì không bỏ. Các Tỳ-kheo nên can gián ba lần cho bỏ sự ấy. Cho đến ba lần can
gián bỏ thì tốt, nếu không bỏ, các Tỳ-kheo nên nói với Sa-di ấy rằng: “Ngươi
từ nay trở đi hãy đi khỏi đây; không được nói rằng: “Ðức Phật là Thế Tôn của
tôi”. Không được đi theo các Tỳ-kheo khác. Các Sa-di được phép ngủ 2,3 đêm
cùng với các Tỳ-kheo; nhưng ngươi nay không có sự kiện ấy. Ngươi hãy ra khỏi
đây, hãy đi khuất chỗ này, không được sống ở đây nữa”. Nếu Tỳ-kheo biết Sa-di
đã bị đuổi giữa chúng như vậy mà dụ đem về nuôi dưỡng cùng ngủ chung,
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Bạt-nan-đà có 2 Sa-di
khởi ác kiến như vậy. Phật ra lệnh các Tỳ-kheo, vì họ, bạch tứ Yết-ma quở
trách can gián, ba phen can gián, không bỏ, bèn bảo Tăng diệt tẫn cùng bạch tứ
Yết-ma. Lục quần biết Tăng diệt tẫn, dụ dẫn về nuôi cùng chung ngủ, nên
Phật chế cấm.
TƯỚNG TRẠNG CỦA TỘI
Nếu mình nuôi, hoặc cho
người; hoặc tự dụ hay bảo người dụ, hay cùng ngủ chung, đều phạm Ba-dật-đề,
Tỳ-kheo-ni phạm Ba-dật-đề.
Không phạm: Không biết
là bị tẫn, cho đến mạng nạn v.v...
Luật Căn Bản nói: “Nếu khiến cho người ấy
bỏ ác kiến, tuy phương tiện thu nhận, nhưng không phạm”.
PHỤ:
Luật
Nhiếp nói:
“Phàm người không thấy tội, là người bị vất bỏ, mà cùng chung thọ dụng, đều
mắc tội ác tác”.
Luật
Tăng Kỳ nói:
“Nếu có người bị hiềm trách của hai Thầy, các Tỳ-kheo khác không được dụ dỗ,
nói: Tôi cho ông bốn việc cần dùng, ông đến ở với tôi, học Kinh, tụng Kinh.
Nếu quan sát biết người kia sẽ xả giới về nhà, được phép bảo họ về ở với mình,
và khuyên dạy họ: Ông nên biết ơn của hai Thầy rất nặng khó mà trả được, ông
nên trở về ở dưới sự chăm sóc của Hai Thầy”.
71) GIỚI CHỐNG SỰ CAN GIÁN, NẠN VẤN
Ðại thừa đồng chế.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo nào, khi được các
Tỳ-kheo như pháp can gián lại nói rằng: “Tôi nay không học điều giới này, trừ
khi tôi hỏi rõ Tỳ-kheo trì luật có trí tuệ khác”, Ba-dật-đề. Nếu muốn hiểu
biết, muốn học thì nên hỏi.
NGUYÊN DO:
Do Tỳ-kheo Xiển-đà, nên
Phật chế.
TƯỚNG TRẠNG CỦA TỘI
Tỳ-kheo-ni, phạm
Ba-dật-đề. Ba chúng dưới, phạm Ðột-kiết-la.
Không phạm: người can
gián là ngu si.
72) GIỚI COI THƯỜNG VIỆC NÓI GIỚI.
Ðây là tánh tội.
Ðại thừa đồng chế.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo nào, khi tụng giới,
nói như vầy: “Ðại đức nói những giới vụn vặt ấy có ích lợi gì? Khi nói giới ấy
chỉ làm người ta phiền muộn, xấu hổ, hoài nghi”, vì khinh chê giới, Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Chúng Tỳ-kheo tụng Chánh
pháp Tỳ-ni, lục quần
sợ vấn đề rành rẽ để rồi cử tội mình, nên nói: Nếu
cần tụng thì tụng 4 việc và 13 việc, còn bao nhiêu không nên tụng... Các
Tỳ-kheo xét biết ý của họ muốn tiêu diệt Chánh pháp, bạch Phật, kiết giới.
TƯỚNG TRẠNG CỦA TỘI
Hủy báng A-tỳ-đàm và các
Kinh khác, phạm Ðột- kiết-la. Tỳ-kheo-ni, phạm Ba-dật-đề. (Sa-di hủy báng giới
đã thọ... cũng Ðột-kiết-la).
Không phạm: Bảo đợi khi
lành bệnh sẽ tụng. Bảo vì cầu quả chứng, không vì diệt pháp.
Luật
Ngũ Phần nói:
“Nếu muốn cho người xa lìa Tỳ-ni, không đọc, không tụng, mà hủy báng, phạm Ba-dật-đề.
Nếu muốn khiến cho Ba-la-đề-mộc-xoa không được bền lâu mà hủy báng phạm
Thâu-lan-giá. Hủy báng Kinh, cũng như vậy. Hủy báng bốn chúng khác và giới của
hai chúng tại gia, phạm Ðột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni hủy báng hai bộ giới, phạm
Ba-dật-đề. Hủy báng giới của năm chúng phạm Ðột-kiết-la. Nếu sợ người mới thọ
giới sanh tâm
nghi, phế bỏ tu hành, dạy người chưa có thể tụng giới, không phạm.
CHỨNG MINH:
Luận
Tát Bà Ða
nói: “Tại sao chê Giới Kinh thì tội nặng, các Kinh khác thì tội nhẹ? Bởi giới
là đất bằng trong pháp của Phật, vạn điều lành do đó mà sanh. Lại nữa, tất cả
Phật tử đều nương nơi giới mà an trụ. Nếu không có giới thì không có chỗ
nương. Lại nữa, cửa ngõ ban đầu để vào Phật pháp nếu không có giới, không do
đâu mà vào trong nê hoàn. Lại nữa giới là chuỗi anh lạc của Phật pháp, trang
nghiêm Phật pháp. Cho nên chê bai hủy báng thì mắc tội nặng”.
Luật Thiện Kiến nói: Nếu học Tỳ-ni thì sẽ
có 5 đức:
1) Thân tự hộ giới
2) Hay đoạn nghi cho
người
3) Vào trong chúng không
lo sợ
4) Hay nhiếp phục oan
gia
5) Khiến Chánh pháp lâu
bền
Cho đến chỉ có 5 Tỳ-kheo
hiểu rõ luật, sống tại thế gian có thể khiến cho Chánh pháp cửu trụ. Nếu Trung
Thiên Trúc Phật pháp diệt, biên địa có 5 người, nhưng truyền giới phải đủ mười
người.
Họ đến Trung Thiên Trúc vẫn được phép truyền cho người giới Cụ túc, đó gọi là
khiến cho Chánh pháp cửu trụ. Như vậy cho đến 20 người xuất tội, gọi là khiến
cho Chánh pháp cửu trụ.
Lại nữa, trì luật sẽ có
6 đức:
1) Thủ lãnh
Ba-la-đề-mộc-xoa.
2) Biết Bố-tát.
3) Biết tự tứ
4) Biết trao giới Cụ túc cho người.
5) Nhận người y chỉ.
6) Ðược nuôi Sa-di.
Nếu không hiểu luật, chỉ
biết tu Ða-la, A-tỳ-đàm, không được độ Sa-di, nhận người y chỉ. Do Luật sư trì
luật cho nên Phật pháp trụ thế 5.000 năm”.
73) GIỚI KHÔNG BIẾT GIỚI
Ðại thừa đồng học.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo nào, khi nghe tụng
giới, nói như vầy: “Nay tôi mới biết pháp này được ghi trong Giới Kinh, mỗi
nửa tháng tụng một lần, xuất từ Giới Kinh”. Các Tỳ-kheo khác biết Tỳ-kheo này
đã từng ngồi dự tụng giới, hoặc hai hoặc ba lần, huống nữa là nhiều lần.
Tỳ-kheo ấy không phải do vì không biết mà khỏi tội. Nếu có phạm tội, thì phải
được xử trị như pháp, rồi lại chồng thêm tội vô tri, bảo rằng: “Trưởng lão,
thật không lợi ích gì cho ngài, không có sở đắc tốt đẹp gì cho ngài, vì trong
khi tụng giới ngài không dụng tâm, không nhất niệm, lắng tai nghe pháp”. Vị ấy
là vô tri, Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Trong lục quần, một
người tự biết mình có tội chướng, sợ Tỳ-kheo thanh tịnh cử tội, bèn nói trước
rằng: “Tôi nay mới biết...” Các Tỳ-kheo xét biết việc ấy, bạch Phật, kiết
giới.
TƯỚNG TRẠNG CỦA TỘI
Nếu không nêu tội người
kia, phạm Ðột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni, phạm Ba-dật-đề. (Sa-di... không biết giới
mình đã thọ, phạm Ðột-kiết-la).
Không phạm: chưa từng
nghe thuyết giới, nay mới nghe. Chưa từng nghe nói rộng, nay mới nghe. Cho đến
nói nhầm v.v...
Luật
Tăng Kỳ nói:
“Thọ Cụ túc rồi, nên tụng hai bộ Tỳ-ni. Nếu không thể, thì nên tụng một bộ.
Cho đến cũng không thể tụng, thì nên tụng thiên đầu của giới và kệ. Khi Bố-tát
nên nói rộng 5 thiên. Cho đến không thể tụng, thì nên tụng thiên đầu và kệ.
Ngoài ra nên nói: Tăng thường nghe. Không tụng phạm tội Việt-tỳ-ni. Tăng nên
sai vị nào tụng thuộc lòng thì tụng, bao nhiêu vị khác chuyên tâm nghe, không
được tọa thiền và làm các công việc khác. Nếu từ 4 việc cho đến 7 diệt tránh,
khoảng giữa, tùy việc không nghe bao nhiêu thì mắc bấy nhiêu tội Việt-tỳ-ni.
Tất cả không nghe, mắc tội Ba-dật-đề. Tội này không được đến một người sám mà
phải ở giữa chúng, đối với vị trì giới có oai nghi, hết sức kính trọng để sám
hối. Vị ấy nên quở rằng: “Trưởng lão, ngài đã mất hết mọi lợi ích tốt đẹp, khi
nửa tháng nói Ba-la-đề-mộc-xoa, mà ngài không tôn trọng, không một lòng nghĩ
đến, không lắng tai nghe pháp”. Quở trách rồi, bắt sám tội Ba-dật-đề.
74) GIỚI CHỐNG LẠI VIỆC ÐÃ YẾT MA
Ðại thừa đồng học.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo nào, sau khi đã cùng
chúng Yết-ma, lại nói như vầy: “Các Tỳ-kheo theo chỗ thân hậu, mà cho vật của
Tăng”, Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Ðạp-bà-ma-la-tử, trị sự
của Tăng; những nơi thí hội không đến dự được vì bận việc, nên y bị hư rách.
Chúng Tăng bạch nhị Yết-ma cấp y cho ngài. Lục quần cũng có dự Yết-ma, sau lại
nói như trên, nên Phật chế cấm.
TƯỚNG TRẠNG CỦA TỘI
Tỳ-kheo-ni, phạm
Ba-dật-đề. (Sa-di... không được đồng Yết-ma, nếu cơ hiềm riêng, cũng
mắc Ðột-kiết-la).
Không phạm: Việc này
đúng như vậy.
Luận
Tát Bà Ða
nói: “Người lao động vất vả trong Tăng, hoặc Ðại đức nào thiếu thốn, Tăng hòa
hợp (nhất trí) trao cho, thì đều được phép cho. Ai nói không nên cho, đều
phạm”.
75) GIỚI KHÔNG GỞI DỤC
Ðại thừa đồng học.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo nào, khi Tăng đoán sự
chưa xong, không dữ dục mà đứng dậy đi ra, Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Chúng Tỳ-kheo tập hợp
một chỗ, luận pháp Tỳ-ni. Lục quần nghi là vì bọn họ tác Yết-ma, nên đứng dậy
bỏ đi. Chúng Tăng kêu lại mà vẫn đi, nên Phật chế cấm.
GIẢI THÍCH:
Sự: là 18 việc phá Tăng,
từ pháp, phi pháp, cho đến thuyết, bất thuyết.
TƯỚNG TRẠNG CỦA TỘI
Ra ngoài cửa, phạm
Ba-dật-đề. Một chân ngoài cửa v.v...phạm Ðột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni, phạm
Ba-dật-đề.
Không phạm: Bận việc của
Tăng, của Tháp, nuôi bệnh, dữ dục mà đi. Nếu câm không thể nói để dữ dục và
Yết-ma phi pháp v.v...
Luật Tăng Kỳ nói: “Nếu đi đại tiểu tiện,
giây lát trở vào, không bỏ việc của Tăng, không tội. Nếu muốn nói pháp, nói
Tỳ-ni, muốn nghe nhiều Tỳ-kheo tụng Kinh, nghe người khác học Kinh, nghe người
khác tụng Kinh, đều nên thưa để đi. Không thưa mà đi, phạm tội Việt-tỳ-ni. Nếu
đang tụng Kinh, mà nghỉ tụng, nói việc khác, người đi không tội”.
Luật
Ngũ Phần nói:
“Nếu Yết-ma nơi phòng dưới, tùy theo bao nhiêu lần đi ra, là bấy nhiêu lần
phạm Ba-dật-đề. Nếu Yết-ma nơi đất trống, ra đi cách Tăng một tầm, phạm
Ba-dật-đề. Nếu người có thần túc, lìa khỏi đất 4 tấc, phạm Ba-dật-đề. Nếu Tăng
không Yết-ma, đoán sự, ra đi, phạm Ðột-kiết-la. Nếu đoán sự nơi phòng riêng,
đến rồi đi, phạm Ðột-kiết-la. Nếu Tăng không Yết-ma đoán sự và đoán sự nơi
phòng riêng, Sa-di được ở trong đó, ra đi, phạm Ðột-kiết-la. Thức-xoa-ma-na,
Sa-di ni cũng như vậy”.
76) GIỚI DỮ DỤC RỒI SAU ĂN NĂN
Ðại thừa, Tỳ-kheo
đồng học.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo nào, đã dữ dục, sau
đó tỏ sự bất bình, Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Trong lục quần có người
có việc phạm giới, sợ Tăng cử riêng tội, nên lúc nào 6 người cũng cùng đi với
nhau, không xa nhau. Tăng không thể cùng tác Yết-ma được. Sau đó, khi may y,
kêu họ, họ nói: May y không đến được. Tăng nói: Không đến hết được có thể sai
một, hai Tỳ-kheo đem dục đến. Họ liền sai một Tỳ-kheo đến. Tăng liền cùng với
Tỳ-kheo này tác Yết-ma. Tỳ-kheo này trở về, lục quần hối hận nói: “Yết-ma như
vậy không phải là Yết-ma, Yết-ma không thành, Tôi dữ dục việc kia chứ không
phải dữ dục việc này”. Các Tỳ-kheo hiềm trách, bạch Phật, kiết giới.
TƯỚNG TRẠNG CỦA TỘI
Tỳ-kheo-ni, phạm
Ba-dật-đề.
Không phạm: thật chẳng
phải Yết-ma (phi Yết-ma).
Luật
Ngũ Phần nói:
“Tăng đã không tác Yết-ma, đoán sự, mà sau đó quở trách, phạm Ðột-kiết-la”.
77) GIỚI LÉN NGHE VIỆC CÃI CỌ RỒI ÐEM NÓI LẠI
Ðây là tánh tội.
Ðại thừa đồng chế.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo nào, sau khi các
Tỳ-kheo tranh cãi nhau, nghe lời người này đem nói với người kia, Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Do từ lục quần Tỳ-kheo
cho nên Phật chế.
GIẢI THÍCH:
Nghe đây là nghe lén.
TƯỚNG TRẠNG CỦA TỘI
Rình mà có nghe phạm
Ba-dật-đề; rình mà không nghe phạm Ðột-kiết-la. Muốn rình nghe rồi thôi, và
bất cứ ở đâu, hai người đang nói chuyện, không khảy móng tay hay tằng hắng để
cảnh giác, đều phạm Ðột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni, phạm Ba-dật-đề. Ba chúng dưới,
phạm Ðột- kiết-la.
Không phạm: Vì để phá
Yết-ma phi pháp và việc làm không lợi ích.
Luật Ngũ Phần nói: “Lặng thinh nghe bốn
chúng dưới nói, phạm Ðột-kiết-la”.
Luật Thập Tụng nói: “Vì việc hòa hiệp, đến
nghe không phạm”.
Luật
Thiện Kiến
nói:“Ði đến, mỗi bước là một Ðột-kiết-la. Ðến chỗ có thể nghe được, phạm
Ba-dật-đề. Vì muốn tự cải hóa, đến nghe không phạm”.
Luật Tăng Kỳ nói: “Hai Tỳ-kheo đang nói
chuyện riêng trong nhà, nếu Tỳ-kheo khác muốn vào, phải khảy móng tay hay khua
chân có tiếng. Nếu họ yên lặng thì nên trở lui. Nếu vẫn nói không thôi, vào
không tội. Một Tỳ-kheo ngồi trong nhà trước, hai Tỳ-kheo nói chuyện riêng từ
ngoài đến, Tỳ-kheo ngồi trước ấy nên khua động, nếu họ lặng thinh thì Tỳ-kheo
ngồi trong nhà nên đi ra. Ði trước đi sau cũng như vậy. Nếu Tỳ-kheo cùng
với các Tỳ-kheo khác đấu
tranh kết hận, nhiếc mắng:
“Tôi cần giết người ác
ấy”. Tỳ-kheo nghe rồi, được phép nói với người kia để họ đề phòng. Nếu có
khách Tỳ-kheo nói: “Chúng tôi sẽ trộm trong kho... vật trong Tháp... tịnh khố
của Tăng... y, bát của... vị tri sự, nghe rồi, lặng thinh nên về trong Tăng
xướng: “Các Ðại đức! Kho chứa... vật trong Tháp... tịnh khố của Tăng... y, bát
của...cần cảnh giác, tôi nghe có kẻ muốn đoạt”. Nếu Tỳ-kheo có nhiều đệ tử,
cuối ngày nên khéo léo đến xét các phòng, coi nếp sống của họ có như pháp
chăng? Nếu nghe họ nói chuyện thế tục, không nên vào quở trách liền, đợi người
đó đến, rồi sau khiển trách dạy dỗ. Nếu nghe họ luận Kinh, nói nghĩa, vấn đáp,
không được vào khen liền, đợi thời gian sau, vậy mới đúng là khen ngợi”.
78) GIỚI GIẬN ÐÁNH TỲ KHEO
Ðại thừa đồng chế.
Nếu vì trả báo
nhau, phạm tội khinh. Nếu không có cớ mà nổi giận và phẩn hận tăng lên,
không chịu sám hối, phạm tội trọng.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo nào, vì giận hờn,
không hoan hỷ, đánh Tỳ-kheo khác, Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Một vị trong lục quần,
giận đánh một vị trong 17 vị Tỳ-kheo nhỏ. Người bị đánh kêu la lớn: “Ðừng làm
vậy!” Phòng gần nghe, bạch Phật, kiết giới.
TƯỚNG TRẠNG CỦA TỘI
Dùng cây, đá, tay v.v...
đánh, đều phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni, phạm Ba-dật-đề. Ba chúng dưới, phạm Ðột-
kiết-la.
Không phạm: Bệnh cần đấm
bóp... xúc chạm để cho họ nghe mình nói, và xúc chạm nhầm...
Luận Tát Bà Ða nói: “Nếu đánh Sa-di đắc
giới (tức là Sa-di dữ học vậy) người lòa, người mù, điếc câm, Ba-lợi-bà-sa,
Ma-na-đỏa, Tỳ-kheo, đều phạm Ba-dật-đề.” (Mất hai mắt gọi là manh, mất một mắt
gọi là hạt (lòa), nếu trước đã thọ giới rồi sau mắc phải các bệnh ấy, vẫn là
Tỳ-kheo vậy).
Ma Ðắc Lặc Già
nói: “Ðánh ba hạng người
sau đây phạm Ðột-kiết-la:
- Tặc trụ (không đắc
giới).
- Vốn không hòa hợp
(người thọ 5 pháp).
- Vốn đã phạm giới (phạm
trọng cấm, mất tánh Tỳ-kheo).
Nếu cầm cát, cầm đậu,
các vật ném chúng Tỳ-kheo bao nhiêu người đụng, đụng bao nhiêu hạt, bấy nhiêu
Ba-dật-đề; không trúng, phạm Ðột-kiết-la.
Luật
Ngũ Phần nói:
“Ðánh bốn chúng dưới, cho đến súc sanh, phạm Ðột-kiết-la.”
Luật Tăng Kỳ nói: “Nếu các loài voi, ngựa, trâu dê, heo, chó hung dữ
đến, không được đánh. Ðược cầm gậy, cây, sành, đá v.v... đập dưới đất, khủng
bố để nó đi. Nếu súc sanh đến trong Tháp, Chùa, đụng chạm đến hình tượng, phá
hư cây trái, cũng được dùng gậy, cây sành, đá đập dưới đất, khủng bố khiến cho
nó đi.”
79) GIỚI GIẬN ÐÁNH TỲ KHEO
Ðại thừa nhẹ, nặng
đồng như trên đã nói.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo nào, vì giận hờn
không hoan hỷ, khoa tay dọa đánh Tỳ-kheo khác, Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Duyên khởi cũng như giới
trước cho nên Phật chế.
TƯỚNG TRẠNG CỦA TỘI
Tỳ-kheo-ni v.v... đồng
như giới trước.
Không phạm: Người khác
muốn đánh, đưa tay lên đỡ. Ngăn tất cả tai nạn. Ðưa tay lên kêu, nhầm xúc chạm
v.v...
Luật
Thập Tụng
nói: “Dùng tay cầm cú, hướng đến người khác, phạm Ba-dật-đề. Dùng bất cứ bộ
phận nào của thân thể đưa đến người, phạm Ðột-kiết-la.”.
Luật
Ngũ Phần nói:
Tay dọa đến, Ba-dật-đề. Không đến, Ðột-kiết-la.
80)
GIỚI GIẬN KHÔNG CĂN CỨ, HỦY BÁNG NGƯỜI
KHÁC, PHẠM TĂNG TÀN.
Ðại thừa đồng chế. Ðến
người đồng pháp nói, phạm tội khinh, hướng người ngoài nói, phạm tội trọng.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo nào, vì giận hờn, vu
khống Tỳ-kheo khác bằng pháp Tăng-già-bà-thi-sa không căn cứ, Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Duyên khởi cũng như giới
trước cho nên Phật chế cấm.
GIẢI THÍCH:
Ba căn, như trong pháp
Tăng tàn nói.
TƯỚNG TRẠNG CỦA TỘI
Nói rõ ràng hay không rõ
ràng đồng như giới trước. Tỳ-kheo-ni v. v... đồng như giới trước.
Không phạm: Nói đúng sự
thật, khiến cho thay đổi v.v...
81) GIỚI VÀO CỬA CUNG ÐỘT NGỘT
Ðại thừa đồng chế.
Ðời mạt pháp nên thận trọng điều này. Dầu được mời cũng không nên vội vào. Nếu
có đủ thần lực oai đức thì không phạm.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo nào, khi nhà vua quán
đảnh giòng Sát-đế-lỵ chưa ra, bảo vật chưa được thu cất, mà vào cung vua, bước
qua khỏi ngạch cửa, Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Mạt-lợi-phu-nhơn khuyến
hóa vua Ba-tư-nặc, đã thâm tín Phật pháp. Nhà vua cho phép các Tỳ-kheo vào ra
trong cung không có gì trở ngại. Ca-lưu-đà-di vào cung, trong lúc vua và phu
nhơn đang ngủ ban ngày. Từ xa phu nhơn thấy Tôn giả, liền đứng dậy mặc y, vì
vừa mặc y, vừa lau tòa mời ngồi. Phu nhơn bị rớt y lộ hình, hổ thẹn, bèn ngồi
xuống, Tôn giả trở về trong Tăng-già-lam kể lại cho các Tỳ-kheo nghe, Tỳ-kheo
hiềm trách, bạch Phật, kiết giới.
GIẢI THÍCH:
Vương vị xuất: tức là
vua chưa ra, thế nữ chưa về chỗ cũ.
Luận Tát Bà Ða nói: “Vua là chủ của tụ lạc, ngôi vị trên hết.”
TƯỚNG TRẠNG CỦA TỘI
Tỳ-kheo-ni, phạm
Ba-dật-đề. Ba chúng dưới, phạm Ðột-kiết-la.
Không phạm: Vua đã ra,
đã thu dọn vật báu, có việc cần tâu bạch, hoặc được mời thỉnh, hay bị dẫn vào
v.v...
Luật Nhiếp nói: “Vào cung vua có 10 điều lỗi lầm và mất mát:
1) Người trong cung có mang thai, bèn nghi cho
Bí-sô hành bất tịnh hạnh.
2) Bí mật bị lộ.
3) Trong cung mất của
vật.
4) Vương tử bị tổn.
5) Vương thân bị tổn.
6) Cử đại thần.
7) Quốc tướng bị truất
phế.
8) Người trong nước bị
khổ, hại.
9) Kéo quân đánh các
nước.
10) Tập hợp quân binh.
Những việc như vậy xảy
ra đều nghi cho Bí-sô.”
82)
GIỚI CẦM VẬT BÁU
Ðây là giá tội. Ðại
thừa vì chúng sanh, không hỏi nơi chốn, chỉ châm chước theo cơ duyên.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo nào, tự mình cầm lấy
bảo vật hay đồ trang sức bằng bảo vật, hoặc bảo người khác cầm nắm, trừ ở
trong Tăng-già-lam, hay chỗ ký túc, Ba-dật-đề. Nếu ở trong Tăng-già-lam, hoặc
chỗ ký túc mà tự mình cầm nắm bảo vật hay đồ trang sức bằng bảo vật, hoặc bảo
người khác cầm, nên nghĩ như vầy: “Nếu sở hữu chủ nhận ra, sẽ nhận lấy”. Chỉ
với nhân duyên ấy chớ không gì khác.
NGUYÊN DO:
Có một người ngoại đạo
cư sĩ, trên đường đi, bỏ quên một cái đãy đựng ngàn lượng vàng, chúng Tỳ-kheo
thấy bèn cầm đi, với ý định đợi họ nhận lại. Sau đó, cư sĩ nọ trở lui nhận
lại, lại nói là thiếu, kiện đến vua Ba-tư-nặc. Vua vặn hỏi biết họ dối trá,
tịch thu hết gia tài, nhập vào nhà quan, cho nên Phật chế cấm.
GIẢI THÍCH:
Trừ Tăng-già-lam: Vì bà
Tỳ-xá-khư, cởi chuỗi anh lạc để nơi gốc cây, vào yết kiến Ðức Thế Tôn, chú tâm
nơi pháp nên quên lấy về. Tỳ-kheo bạch Phật, nên Phật cho phép lấy cất.
Chỗ ký túc xá: là chỗ
Tỳ-kheo đi đến thôn không có trú xứ ngủ nhờ nơi nhà người thợ. Người thợ để
vàng bạc trong nhà mà đi; Tỳ-kheo vì sợ mất, nên phải bảo vệ, suốt đêm không
ngủ; sau khi trở về bạch Phật, Phật nói: “Trường hợp như vậy cho phép thu
cất”.
Luật Căn Bản nói: “Bảo: chỉ cho bảy báu. Bảo loại: chỉ cho các binh
khí, cung, đao và khí cụ âm nhạc, trống, sáo, các loại”.
TƯỚNG TRẠNG CỦA TỘI
Bảo vật như trên, tự
cầm, dạy người cầm, nên biết rõ hình thức của cái đãy, biết tướng bên trong
của cái đãy, biết cách thức cột, nên mở ra xem, biết bao nhiêu cái dính liền,
biết bao nhiêu chưa dính liền, bao nhiêu cái vuông, bao nhiêu cái tròn; bao
nhiêu cái cũ, bao nhiêu cái mới. Nếu có người đến tìm, nên hỏi: Vật của người
thế nào? Nếu họ nói đúng thì trả lại cho họ. Nếu họ nói không đúng thì nói:
Tôi không thấy vật như vậy. Nếu có hai người đều đến hỏi, cũng vấn đáp như
vậy. Nếu có hai người đều nói đúng đem vật ấy ra trước hai người và nói: Ðây
là vật của các người, tự lấy về. Nếu không
làm như vậy, mắc Ðột-kiết-la, Tỳ-kheo-ni, phạm Ba-dật-đề.
Không phạm: Nếu cúng
dường chùa, Tháp dụng cụ trang nghiêm, để bảo đảm nên thu cất.
Luật Thập Tụng nói: “Cầm ngọc của kẻ trộm,
phạm Ðột-kiết-la. Ðất, giường, đồ đạc bằng vàng bạc, châu báu của nhơn gian,
Tỳ-kheo không nên ngồi và dùng nó. Còn đất, giường đồ đạc bằng vàng bạc châu
báu trên cõi trời, Tỳ-kheo được đi ngồi và dùng nó”.
Căn Bản Tạp Sự nói: “Không nên dùng vật báu
đựng đồ ăn. Nếu lên trên cõi trời hay đến long cung, không có đồ vật gì khác,
thì dầu đồ vật bằng vàng bạc châu báu, cũng cho phép dùng để đựng thức ăn”.
CHỨNG MINH:
Luật
Nhiếp ghi: Ðức Phật ở nơi núi Thứu, đến thành khất thực, gặp lúc mưa lớn,
nước xối, bờ lở, một khối châu báu bày ra. Phật bảo A-nan-đà: Ông nên xem đây
là đồ độc hại. Ông A-nan thưa: Bạch Thế Tôn, thật là rắn độc đáng sợ. Có một
người hái rau trái, gần đó đến xem, thấy một khối châu báu, nghĩ rằng: Xin con
rắn độc này hãy luôn luôn đem nọc độc châm vào cha mẹ vợ con quyến thuộc của
tôi, tôi cũng không từ sự đau nhức đó. Ông bèn lấy đem về, tùy ý sử dụng. Vua
“Vị sanh oán”, thấy người này giàu sang đột ngột, nên sai sứ đến, hỏi: Nhà
ngươi lấy được khối châu báu của vua ở chỗ nào? Người ấy trả lời: không lượm
được. Người ấy bị bắt đem đến vua, vua hỏi, cũng nói không lượm được. Vua liền
căn cứ theo pháp luật, trói cả giòng họ, đem giao cho người giết. Người kia
khóc kể, và đi theo kẻ giết, lớn tiếng kêu rằng: A-nan-đà, đây là rắn độc, đây
là rắn độc. Vị tướng lo việc hình phạt nói: Pháp luật cần xét lại. Vua bèn
kêu, hỏi lại vấn đề. Người kia thưa đầy đủ sự việc như trước. Khi ấy nhà vua
mới tin Phật pháp, xúc động rơi lệ, bảo rằng: Nhà ngươi vịn theo Ðức Thế Tôn
mới được của báu này. Tội ngươi đáng chết, nay ta tha cho nguơi và cả
quyến thuộc, nên đem vật này cúng dường Phật Tăng. Người ấy được phóng thích,
liền lập trai soạn thượng vị cúng dường phụng thỉnh Phật Tăng. Ðức Phật nhân
đó nói pháp cho họ nghe, chứng đặng Sơ quả và cũng nhân đó không cho phép
Tỳ-kheo cầm vật báu.
PHỤ:
Luật Tăng Kỳ nói: “Tỳ-kheo thấy vật báu lấy
cất nếu không có người biết đến nhận, nên để qua 3 tháng. Nếu lượm được vật ấy
trong vườn của Tháp, tức là dùng cho Tháp, trong vườn của Tăng sẽ dùng cho tứ
phương Tăng. Trường hợp Tháp viện Tăng phòng hư nát, cần tu bổ lại. Ðào đất
được của báu mà không có tịnh nhơn đáng tin cậy, nên trình với vua. Nếu vua
cần thì nên giao; nếu cho thì nên dùng. Vật dầu đã sử dụng, vua biết đòi lại,
nên xin vật của Tháp, vật của Tăng để trả lại. Có tịnh nhơn đáng tin được giữ
đến 3 năm, rồi dùng cho việc Tháp, việc Tăng. Trường hợp trên, nếu trên vật
báu có khắc danh tánh, cũng nên như thật mà trả lời. Khi làm Tăng phòng mới,
mà lượm được vật cũng như vậy.”
83) GIỚI VÀO TỤ LẠC PHI THỜI
Ðại thừa đồng học.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo nào, phi thời vào tụ
lạc mà không báo cáo cho Tỳ-kheo khác biết, Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Bạt-nan-đà vào xóm phi
thời, cùng cư sĩ đánh cờ, cư sĩ thua, nên ganh tức nói: Tỳ-kheo sáng vào xóm
để khất thực, còn phi thời vào xóm để làm gì? Cho nên Phật chế.
Hoặc có việc của Tăng,
của Tháp, nuôi bệnh v.v... cho phép dặn các Tỳ-kheo khác rồi đi. Nếu ở một
phòng riêng, nên dặn người phòng kế cận để đi.
GIẢI THíCH:
Phi thời: Chỉ thời gian
từ giữa ngày cho đến tướng mặt trời chưa hiện.
TƯỚNG TRẠNG CỦA TỘI
Vào đến cửa ngõ của
thôn, phạm Ba-dật-đề. Một chân trong thôn và cùng hẹn mà không đi v.v... phạm
Ðột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni, phạm Ba-dật-đề. Ba chúng dưới, phạm Ðột-kiết-la.
Không phạm: Trên đường
đi phải qua thôn, có khải bạch, được mời, thọ thỉnh, cho đến mạng nạn v.v...
Luật Thập Tụng nói: “Tỳ-kheo khác là chỉ cho các vị Tỳ-kheo ở trong tầm
mắt thấy của mình. Nếu bạch rồi vào tụ lạc, trở về trú xứ, lại dùng phép bạch
trước để đến tụ lạc, phạm Ba-dật-đề. Nếu không bạch, vào tụ lạc tùy theo chỗ
kinh qua bao nhiêu đường lớn, lối nhỏ là phạm bấy nhiêu Ðột-kiết-la. Tùy theo
đã vào bao nhiêu nhà bạch y, thì mỗi nhà phạm một Ba-dật-đề”.
Nếu trong 8 nạn, có nạn
nào khởi lên, không phạm.
Luật
Tăng Kỳ nói: “Hai Tỳ-kheo ở nơi A-lan-nhã muốn cùng đi, lần lượt bạch với
nhau. Nếu một người nói rồi đi, người sau lại muốn đi, nên bạch các Tỳ-kheo
khác. Nếu không có Tỳ-kheo khác, nên nghỉ giữa đường hoặc nơi cửa ngõ hay nơi
lề tụ lạc, thấy Tỳ-kheo nào sẽ bạch. Bạch rồi nhiên hậu mới vào”.
Ma Ðắc Lặc Già nói: “Nếu không có Tỳ-kheo, nên bạch bốn chúng kia”.
84) GIỚI LÀM GIƯỜNG CAO
Ðại thừa đồng học.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo làm giường giây hay
giường gỗ, chân phải cao bằng tám ngón tay của Như Lai, đã trừ phần lỗ mộng để
ráp thành giường trở lên, nếu quá, Ba-đật-đề, phải hớt bỏ.
NGUYÊN DO:
Ca-lưu-đà-di bày giường
cao đẹp đẽ ngồi. Thế Tôn quở trách, kiết giới.
GIẢI THÍCH:
Luật Nhiếp nói: “Tám ngón tay của
Phật bằng một khủy tay người cỡ trung bình”
Luận Tát Bà Ða nói: “Tám ngón tay của Phật,
một ngón bằng hai tấc”.
TƯỚNG TRẠNG CỦA TỘI
Mình làm, dạy người làm,
đều phạm Ba-dật-đề; không thành, phạm Ðột-kiết-la. Vì người khác mà làm, thành
hay không thành đều phạm Ðột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni, phạm Ba-dật-đề. Ba chúng
dưới, phạm Ðột-kiết-la.
Không phạm: Người làm
thành rồi cho, bỏ bớt rồi dùng.
Phần thứ ba nói: “Trừ giường báu, bao nhiêu loại giường khác nơi nhà
bạch y, nên ngồi”.
Luật Thâp Tụng nói: “Nên hớt bỏ rồi sám hối tội. Nếu chưa hớt, Tăng nên
bảo họ hớt. Không bảo, không nghe theo, đều phạm Ðột-kiết-la”.
Luật Ngũ Phần nói: “Nhận được cái giuờng
cao, nên nghĩ: đây là cái giường không như pháp, tôi sẽ hớt bỏ. Không nghĩ như
vậy mà nhận, phạm Ba-dật-đề”.
Luật Tăng Kỳ nói: “Nếu tự mình làm, suốt ngày ngồi trên đó, phạm một
Ba-dật-đề; đứng dậy rồi ngồi xuống, mỗi lần ngồi là một Ba-dật-đề. Giường của
người khác mà ngồi trên đó, mắc tội Việt-tỳ-ni. Nếu khách Tỳ-kheo đến, theo
thứ tự, nhận được cái giuờng quá lượng, thì nên nói vị tri
sự: Cho tôi mượn cái cưa. Ðuợc hỏi để làm gì thì trả lời: Cái giường này cao
quá lượng, tôi muốn cưa cho đúng pháp. Nếu bảo: Ðừng cưa, tín đồ thấy họ buồn;
trường hợp ở không lâu thì đào đất chôn chân giuờng xuống cho đúng
lượng định. Nếu ở lâu thì ngang bằng chỗ chôn phải dùng cây hay đồng bao cái
chân mà chôn lại, đừng để nó hư. Nếu nhà Ðàn-việt có cái giường cao chân,
không nên trèo lên để ngồi, cần đòi hỏi cái ghế để bước lên, hoặc đòi hỏi cục
gạch để bước lên. Nếu trong nhà phước đức, cái giường cao chân, ngồi không
phạm”. (Nhà phước đức tức là cái nhà thí một bữa ăn).
85) GIỚI DÙNG BÔNG ÐÂU LA MIÊN LÀM MỀN NỆM
Ðại thừa đồng học.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo nào. Dùng bông đâu la
dồn làm nệm lớn, nệm nhỏ, lót giường dây, giường gỗ, đã dồn thành, Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Lục quần làm như vậy, cư
sĩ cơ hiềm, cho là không biết xấu hổ, không có lòng từ, cho nên Phật chế cấm.
GIẢI THÍCH:
Bông
đâu-la là bông cây bạch dương, bông cây
dương liễu, bông cây bồ
đài (đều dễ sanh sâu). Nệm lớn để nằm; Nệm nhỏ để ngồi.
TƯỚNG TRẠNG CỦA TỘI
Phạm nhẹ, nặng đều đồng
như giới trước. Tỳ-kheo-ni v.v... đồng như trên.
Không phạm: Nếu cỏ
Cưu-la-đa, cỏ văn-nhã, cỏ Ta-bà, hoặc dùng thúy-kiếp-bối hay vật tạp xấu.
Luật Ngũ Phần nói: “Nếu ngồi, mỗi lần ngồi, một Ba-dật-đề, nếu nằm, mỗi
lần nằm phạm một Ba-dật-đề. Nếu của người khác cho, nhận, phạm Ba-dật-đề, cần
phải xả trước, sau mới sám hối. Nếu không, tội càng sâu”.
Luật Thập Tụng nói: “Phải ném quăng vất bỏ, vậy sau mới sám hối. Nếu
chưa phá thì Tăng nên bắt họ phá”.
Luật Tăng Kỳ nói: “Nếu dồn làm gối, gối đầu hay kê chân, phạm tội
Việt-tỳ-ni. Nếu bệnh thì không tội”.
86) GIỚI LÀM ỐNG KIM BẰNG XƯƠNG, SỪNG
Ðại thừa đồng học.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo nào, dùng xương, răng
, sừng làm ống đựng kim, moi khoét và làm thành, Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Nơi thành La-duyệt có
một thợ thủ công giàu lòng tin, vì các Tỳ-kheo làm ống đựng kim bằng sừng,
ngà, răng, phế bỏ việc nhà, đến nỗi không có cơm ăn áo mặc. Người đời nói: Cầu
phước lại mắc họa, nên Phật chế cấm.
TƯỚNG TRẠNG CỦA TỘI
Phạm nhẹ nặng như giới
trước. Bốn chúng dưới, Ðột-kiết-la.
Không phạm: Nếu làm bằng
thiết, đồng, thạch cao, bạch lạp, cây, tre, cỏ xa-la... thì không sao.
Luật Thập Tụng nói: “Nên phá rồi mới sám
hối. Nếu chưa phá, Tăng nên bảo họ phá”.
87) GIỚI LÀM TỌA CỤ QUÁ LƯỢNG
Ðại thừa đồng học.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo nào, làm Ni-sư-đàn,
cần phải làm đúng lượng, trong đây đúng lượng là dài hai gang và rộng một gang
rưỡi tay Phật, rồi thêm dài và rộng nửa gang nữa làm lề, nếu quá, Ba-dật-đề,
phải cắt bỏ.
NGUYÊN DO:
Phật thấy ngọa cụ của
Tăng bị nhớp, không sạch, cho phép các Tỳ-kheo, để bảo vệ thân, y, ngọa cụ,
nên làm Ni-sư-đàn. Lục quần bèn làm Ni-sư-đàn rộng lớn, nên chế. Ca-lưu-đà-di
thân hình lớn, ngồi không đủ, đến ngồi bên Phật, phải lấy tay kéo cái
Ni-sư-đàn ra để đủ ngồi. Do vậy, Phật cho phép mỗi bên thêm nửa gang tay nữa.
GIẢI THÍCH:
Luật Tăng Kỳ
nói: “Một gang tay của Như Lai là 2 thước 4 tấc (độ 2 thước của loại thước
dài).
TƯỚNG TRẠNG CỦA TỘI
Phạm nhẹ nặng như giới
trước. Bốn chúng dưới, phạm Ðột-kiết-la.
Không phạm: Nếu được vật
đã thành, cắt bỏ đúng lượng, hoặc may xấp hai lớp.
Luật Thập Tụng nói: “Nên cắt bỏ rồi mới sám
hối. Nếu chưa cắt, Tăng nên bảo họ cắt”.
88) GIỚI LÀM Y CHE GHẺ QUÁ LƯỢNG
Ðại thừa đồng học.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo nào, làm y che ghẻ,
cần phải làm đúng lượng. Trong đây đúng lượng là dài bốn gang và rộng hai gang
tay Phật; nếu quá, Ba-dật-đề, phải cắt bỏ.
NGUYÊN DO:
Tỳ-kheo bị ghẻ lở máu mủ
nhớp thân, nhớp y, ngọa cụ, Phật cho phép may y mềm nhuyễn, che trên mụt ghẻ,
bận cái Niết-bàn-tăng.
Nếu đến nhà bạch y, họ mời ngồi, nên nói: Tôi bị bệnh. Nếu họ nói: cứ ngồi,
nên vén Niết-bàn-tăng lên, dùng y này trùm lên trên mụt ghẻ mà ngồi. Khi ấy,
lục quần may nhiều y che ghẻ dài rộng, cho nên chế.
TƯỚNG TRẠNG CỦA TỘI
Phạm, không phạm đồng
như giới trước. Bốn chúng dưới, phạm Ðột-kiết-la.
Luật Thập Tụng nói: “Khi ghẻ lành, sau 10
ngày nếu chứa quá, phạm Ba-dật-đề. (Vì đồng như trưởng y, nên phạm Xả đọa),
nên cắt bỏ rồi sám hối. Nếu chưa cắt, Tăng nên bảo họ cắt bỏ”.
89) GIỚI MAY ÁO TẮM QUÁ LƯỢNG
Ðại thừa đồng học.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo nào, làm y tắm mưa,
cần phải làm đúng lượng. Trong đây đúng lượng là dài sáu gang và rộng ba gang
rưỡi tay Phật; nếu quá, Ba-dật-đề, phải cắt bỏ.
NGUYÊN DO:
Cũng do từ lục quần nên
Phật chế.
TƯỚNG TRẠNG CỦA TỘI
Tỳ-kheo-ni, áo tắm quá
lượng, phạm Ba-dật-đề.
Luật Thập Tụng nói: “Phải cắt bỏ rồi mới
sám hối. Nếu chưa cắt bỏ, Tăng nên bảo họ cắt bỏ”.
90)
GIỚI MAY Y BẰNG VỚI Y PHẬT.
Ðại thừa đồng học.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo nào, may y bằng lượng
y của Như Lai, hoặc may quá lượng ấy, Ba-dật-đề. Trong đây lượng y của Như Lai
là dài mười gang và rộng sáu gang tay Phật, đây gọi là lượng y của Như Lai.
NGUYÊN DO:
Tôn giả Nan-đà thấp hơn
Phật chỉ có 4 ngón tay, các Tỳ-kheo từ xa thấy đều tưởng là Phật, liền đứng
dậy chào khi đến mới biết là Nan-đà; các Tỳ-kheo đều ôm lấy hổ thẹn, Nan-đà
cũng ôm lấy hổ thẹn. Phật chế cho Nan-đà mặc y đen. Khi ấy, lục quần Tỳ-kheo
may y bằng lượng y của Như Lai hoặc dài hơn, cho nên Phật chế cấm.
TƯỚNG TRẠNG CỦA TỘI
Phạm, không phạm đồng
như giới trước. Bốn chứng dưới, phạm Ðột-kiết-la.
Luật Tăng Kỳ nói: “Nên tùy theo độ cao của
thân hình. Tăng-già-lê có 3 loại: Bậc thượng dài 5 khuỷu, rộng 3 khuỷu tay;
bậc trung dài 5 khuỷu tay và một khuỷu không duỗi tay, rộng 3 khuỷu tay và một
không duỗi tay; Bậc hạ dài 4 khuỷu tay rưỡi, rộng 3 khuỷu tay, một khuỷu không
duỗi tay. Uất-đa-la-tăng cũng vậy. An-đà-hội, thượng trung hai loại cũng vậy,
bậc hạ dài 4 khuỷu tay rưỡi, rộng hai khuỷu, hai khuỷu không duỗi tay.
Luật Nhiếp nói: “Nếu giảm hơn lượng đây,
không mắc bổn tội. Nếu quá 5 khuỷu đều mắc tội ác tác”.
Luật Thập Tụng nói: “Nên cắt bỏ rồi mới
sám hối. Nếu chưa cắt, Tăng nên bảo họ cắt”.
C. HỎI ÐỂ KẾT THÚC
Thưa các Ðại
đức, tôi đã tụng xong chín mươi pháp Ba-đật-đề. Nay hỏi các Ðại đức trong đây
có thanh tịnh không? (3 lần).
Các Ðại đức
trong đây thanh tịnh, vì im lặng. Việc ấy tôi ghi nhận như vậy.
PHỤ:
Xoay vật của Tăng cho
người khác. Ðại thừa đồng học.
Luật Ngũ Phần nói: “Tỳ-kheo nào, vật của
Ðàn-việt muốn cúng cho Tăng mà xoay lại cho người khác, phạm Ba-dật-đề.
Nan-đà, Bạt-nan-đà, do Phật chế giới không dám xoay vật của Tăng về cho mình,
liền cùng xoay cho nhau, nên chế”.
(Luật Tăng Kỳ cũng có giới này cần nên theo đây mà
phê phán tội vậy).
Chín mươi pháp Ba-dật-đề đã xong.
VI. BỐN PHÁP HỐI QUÁ
Chia làm ba: nêu chung,
kê riêng và kiết vấn.
A. NÊU CHUNG
Thưa các Ðại đức, đây là bốn
pháp Ba-la-đề Ðề-xá-ni, xuất từ Giới Kinh, mỗi nửa tháng tụng một lần.
Luật Nhiếp nói: “Trong trú xứ, hiện có bao
nhiêu Tỳ-kheo, đều phải mỗi mỗi đối diện trình bày tội lỗi, không đồng với các
tội khác, cho nên có cái tên riêng là “hối quá”. Lại nữa, phạm xong liền phải
trình bày lại, không được chần chờ, cũng khác với các tội khác”.
B. KỆÂ RIÊNG
Có 4 giới, từ giới thứ
nhất nhận thức ăn từ người không phải thân quyến, cho đến giới thứ tư nhận
thức ăn nơi chỗ có sự sợ sệt.
1) GIỚI
NHẬN THỨC ĂN TỪ NGƯỜI KHÔNG PHẢI
THÂN QUYẾN
Ðại thừa chỉ quan sát
nên nhận hay không nên nhận, chớ không đề cập đến thân quyến hay không thân
quyến. Song thời mạt pháp, đặc biệt đối với Ni không nên vậy.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo nào, vào thôn xóm.
Nếu không bệnh mà tự tay nhận thức ăn từ Tỳ-kheo-ni không phải thân quyến, mà
ăn; Tỳ-kheo ấy cần phải đối trước Tỳ-kheo khác phát lồ rằng: “Bạch Ðại đức,
tôi phạm pháp đáng khiển trách, làm điều không đáng làm. Nay đối trước Ðại đức
xin phát lồ sám hối”. Ðây là pháp hối quá.
NGUYÊN DO:
Thành Xá-vệ khi ấy mất
mùa, khất thực khó được. Tỳ-kheo-ni Liên Hoa Sắc vừa khất thực được, liền đem
cúng cho Tỳ-kheo. Sau đó, một vị Trưởng giả đi xe đến yết kiến nhà vua, Vì
tránh đường nên Ni cô bị sụp xuống vũng bùn sâu, nằm vùi dưới đất. Truởng giả
thương xót, cho người đỡ dậy, hỏi ra biết sự việc, cơ hiềm, quở trách:
“Tỳ-kheo không biết nhường vì nghĩa”, cho nên Phật chế cấm.
GIẢI THÍCH:
Luật Tăng Kỳ nói: “Bệnh là không phải bệnh sơ sơ mà là bệnh nặng, như
bệnh giới lại (hủi nước), huỳnh lan, sang di (lở loét), ung tọa (u nhọt)...
người đều nhờm gớm”
TƯỚNG TRẠNG CỦA TỘI
Không bệnh mà tự tay nhận thức ăn, mỗi
miếng phạm một Ba-la-đề Ðề-xá-ni. Sa-di, phạm
Ðột-kiết-la.
Không phạm: Nếu thân
quyến, có bệnh, hoặc để dưới đất mà cho, hay khiến người cho, hoặc trong
Tăng-già-lam cho, hoặc ở người thân cho, hoặc tại chùa Ni
cho.
Luật Ngũ Phần nói: “Nếu Tỳ-kheo ở ngoài thôn,
Ni
ở trong thôn, hoặc Tỳ-kheo ở trong thôn, Ni ở ngoài thôn, hoặc Tỳ-kheo ở không
trung, Ni ở dưới đất, hoặc Tỳ-kheo ở dưới đất, Ni ở không trung. Ở những nơi
như vậy mà nhận thức ăn, phạm Ðột-kiết-la.
2) GIỚI KHÔNG NGĂN
NI THAY MÌNH ÐÒI THỨC ĂN.
Ðại thừa đồng học.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo
nào, khi ăn trong nhà bạch y, trong đó có một Tỳ-kheo-ni bảo rằng: “Mang canh
cho vị này, dâng cơm cho vị kia”. Các Tỳ-kheo nên nói với Tỳ-kheo-ni ấy rằng:
“Này sư cô, hãy thôi, hãy để yên các Tỳ-kheo thọ thực”. Nếu không có một vị
Tỳ-kheo nào nói với Tỳ-kheo-ni kia rằng: “Này cô, hãy thôi, hãy để yên các
Tỳ-kheo thọ thực”, thì các Tỳ-kheo này cần đối trước một Tỳ-kheo khác mà phát
lồ rằng: “Bạch Ðại đức, tôi phạm pháp đáng khiển trách, làm điều không đáng
làm. Nay đối trước Ðại đức xin phát lồ sám hối”. Ðây gọi là pháp hối quá.
NGUYÊN DO:
Lục quần cùng với chúng
Tỳ-kheo thọ thực tại nhà bạch y. Lục quần Ni vì lục quần Tăng đòi canh cơm,
không theo thứ lớp mà trao (sớt) thức ăn, khiến cho Tỳ-kheo ngồi giữa không
nhận được thức ăn, cho nên Phật chế.
TƯỚNG TRẠNG CỦA TỘI
Sa-di, phạm Ðột-kiết-la.
Không phạm: Ni là
Ðàn-việt. Ðàn-việt nhờ Ni phân chia, không có ý thiên vị sự trao phần.
Luật Ngũ Phần nói: “Hai chúng nữ kia bảo
thêm thức ăn mà Tỳ-kheo không bảo “đừng”, phạm Ðột-kiết-la. Tỳ-kheo bảo thêm
thức ăn không bình đẳng, phạm Ðột-kiết-la”.
3) GIỚI NHẬN THỨC ĂN NƠI
HỌC GIA
Ðại thừa, Tỳ-kheo đồng
học.
GIỚI BỔN:
Nếu có gia
đình mà Tăng đã tác pháp Yết-ma học gia; Tỳ-kheo nào, biết đó là học gia,
trước không được thỉnh, lại không bệnh, tự tay nhận thức ăn và ăn; Tỳ-kheo ấy
cần đối trước Tỳ-kheo khác phát lồ rằng: “Tôi phạm pháp đáng khiển trách, làm
điều không đáng làm. Nay đối trước Ðại đức, xin phát lồ sám hối”. Ðây gọi là
pháp hối quá.
NGUYÊN DO:
Thành La-duyệt có nhà cư
sĩ cả vợ lẫn chồng đều giàu lòng tin, đối với các Tỳ-kheo không tiếc một thứ
gì, thường cúng dường thức ăn và các thứ khác; đến nỗi bị nghèo thiếu, không
đủ cơm ăn áo mặc, các nhà ở gần cơ hiềm. Phật bảo các Tỳ-kheo tác Yết-ma học
gia mà kiết giới này.
GIẢI THÍCH:
Luật Nhiếp nói: “Học gia: là Dự-lưu quả,
Nhất-lai quả, Bất-hoàn-quả”.
TƯỚNG TRẠNG CỦA TỘI
Tỳ-kheo-ni, phạm Ðột-kiết-la.
Sau khi gia đình ấy tài vật nhiều trở lại, họ đến
xin Tăng giải Yết-ma học gia, Phật cho phép Tăng vì họ giải Yết-ma ấy.
Không phạm: Trước có thọ
thỉnh, có bệnh, để dưới đất mà cho, bảo người cho, đã giải Yết-ma.
Luật Ngũ Phần nói: “Nếu vợ là Thánh, chồng là phàm; hay vợ là phàm,
chồng là Thánh, đều không nên tác Yết-ma học gia. Nếu cả vợ lẫn chồng đều là
Thánh, không còn tâm xan tham, tài vật hết sạch, mới tác pháp Yết-ma học gia.
Nếu Tăng có ruộng vườn, nên cho họ làm, chùa thu như thường lệ, còn thừa ra
cho họ sống. Nếu Tăng không có ruộng vườn, Tăng phường có món cúng dường nào,
khiến họ làm, để họ được nhờ. Nếu phương tiện ấy vẫn không có, khi khất thực
được rồi, đến nhà họ ăn, còn dư cho họ. Nếu không thể được, nên đem họ về
trong Tăng phường, cung cấp phòng xá, ngọa cụ, cho thức ăn theo thứ tự, và
thức uống phi thời cho họ, có chia y, cũng nên chia cho họ. Học gia phụ nữ các
Ni cũng nên liệu lý như vậy”.
Luật Thập Tụng nói: “Nếu cư sĩ tài của tổn
giảm không tăng thêm, xin, không xin, không nên xả Yết-ma học gia. Nếu tài vật
tăng thêm xin, không xin đều nên xả. Nếu không tăng không giảm, xin thì nên
xả, không xin không nên xả”.
4)GIỚI NHẬN THỨC ĂN NƠI
CÓ SỰ SỢ SỆT
Ðại thừa đồng học.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo nào, sống tại
A-lan-nhã xa xôi hẻo lánh, chỗ đáng nghi ngờ, có sợ hãi. Tỳ-kheo sống tại trú
xứ A-lan-nhã như vậy, trước không nói cho Ðàn-việt biết, không thọ nhận thức
ăn bên ngoài Tăng-già-lam, trái lại, không bệnh mà ở bên trong Tăng-già-lam tự
tay nhận thức ăn, Tỳ-kheo ấy cần đối trước Tỳ-kheo khác mà phát lồ rằng: “Bạch
Ðại đức tôi phạm pháp đáng khiển trách, làm điều không đáng làm. Nay đối trước
Ðại đức xin phát lồ sám hối. Ðây gọi là pháp hối quá.
NGUYÊN DO:
Các phụ nữ mang đồ ăn
thức uống đến Tăng-già-lam cúng dường, bọn giặc trộm nghe biết được việc này,
nên trên đường các cô bị nhiễu hại. Các Tỳ-kheo bạch Phật, Phật nói: Từ nay
nên nói các phụ nữ đừng ra đường, vì trên đường có giặc khủng
bố. Nếu đã ra khỏi thành, bảo đừng đến Tăng-già-lam, vì trên đường có bọn giặc
khủng bố, bèn kiết giới này.
TƯỚNG TRẠNG CỦA TỘI
Sa-di, phạm Ðột-kiết-la.
Không phạm: Nếu trước đã
nói với Ðàn-việt, nếu có bệnh, để dưới đất cho, hoặc dạy người cho.
Luật Ngũ Phần nói: “Nếu đoàn quân đi qua cho thức ăn, hay bọn giặc tự
mang thức ăn đến cho, không phạm”.
C. NÓI ÐỂ KẾT THÚC
Thưa các Ðại đức, tôi đã tụng
xong bốn pháp Ba-la-đề Ðề-xá-ni. Nay hỏi các Ðại đức trong đây có thanh tịnh
không? (3 lần).
Các Ðại đức trong đây thanh
tịnh. Vì im lặng. Việc ấy tôi ghi nhận như vậy.
Bốn pháp hối quá đã
xong.
VII. PHÁP CHÚNG HỌC
Chia làm ba: Tổng nêu,
nêu riêng và kiết vấn.
A. NÊU CHUNG
Trong đây mỗi giới đều
nói: Thức-xoa-ca-la-ni (cần phải học).
Thưa các Ðại đức, đây là một
trăm pháp chúng học xuất từ Giới Kinh, mỗi nửa tháng tụng một lần.
Luật Nhiếp
nói: Pháp chúng học này, xếp chung có 8 loại:
1) Vấn đề mặc y phục.
2) Vấn đề vào thôn.
3) Vấn đề đứng
ngồi. 4) Vấn đề ăn.
5) Vấn đề hộ (bảo vệ)
bát. 6) Vấn đề đại tiểu.
7) Vấn đề thuyết pháp.
8) Vấn đề trông nhìn.
(Phật tháp các điều, các
bộ đều thiếu nên không liệt vào)
B. KÊ RIÊNG
Pháp chúng học này, các bộ khai, hiệp, quảng, lược,
không đồng. (Mở ra, hiệp lại, rộng, hẹp không đồng). Hoặc ngoài 110, hoặc dưới
50, đều là việc làm giữ gìn oai nghi, không đồng với bốn thiên trên, cho nên
không định số. Chỉ Tứ Phần Luật, có 100 điều làm tiêu chuẩn.
Nay dưới mỗi giới chỉ ghi số mục, chứ không kê
riêng thành khoa mục. Chỉ có điều ban đầu ghi rõ nhân duyên, còn bao nhiêu
giới sau đều lược qua. Cho đến việc giải thích nghĩa, tội tướng v.v... Cũng
không nêu lại, tất cả đều có thể suy nghĩ hiểu được. Song 100 điều này, Ðại
thừa đồng học để hộ chúng sanh, nên càng nghiêm tịnh. Trừ người đã trụ vào
Lăng Nghiêm tam muội, thị hiện nghịch hạnh, ở đây không dám luận đến. Nếu
chưa phải như vậy, không nên bỏ qua những tế hạnh, để rồi phải lụy đến đức
lớn, luôn luôn nên suy nghĩ đến những may mắn sâu xa này.
GIỚI BỔN:
1)
Phải bận Niết-bàn Tăng cho tề chỉnh, cần phải học
NGUYÊN DO:
Do bởi lục quần Tỳ-kheo,
cư sĩ cơ hiềm về cách phục sức giống như quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư
sĩ hay giống như ngày hội, phường chèo múa hát giỡn chơi, cho nên Phật chế.
(Duyên khởi các giới sau
này, đại để cũng đồng).
GIẢI THÍCH:
Không tề chỉnh, tức là
cột giây lưng quá thấp hay quá cao, phía trước thòng một góc như mũi con voi,
hay thòng hai góc như cây Ða-la, xung quanh nhăn nhó không thẳng.
TƯỚNG TRẠNG CỦA TỘI
Nếu cố ý làm như vậy
phạm Ðột-kiết-la nên sám hối (Tùy cơ Yết-ma nói: nên thỉnh một vị Sám chủ).
Nếu không cố ý làm chỉ phạm Ðột-kiết-la. (Tùy cơ Yết-ma nói: chỉ tự trách lòng
mình).
Bốn chúng dưới phạm
Ðột-kiết-la.
(Dưới đây phần nhiều
đồng. Nếu không đồng thì tùy theo việc mà biện minh).
Không phạm: Trong rún có
ghẻ nên phải mặc thấp xuống dưới, hoặc dưới chân có ghẻ nên phải mặc cao lên.
Hoặc trong Tăng-già-lam, hay ngoài thôn xóm, khi làm việc, khi đi.
Luật Ngũ Phần nói: “Nếu không hiểu mà không
hỏi, mặc như vậy, mắc Ðột-kiết-la. Nếu hiểu mà không cẩn thận mặc như vậy,
mắc Ðột-kiết-la. Nếu hiểu mà khinh giới, khinh người nên mặc như vậy, mắc
Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni cũng vậy”
BIỆN MINH:
Hỏi:
Những giới mặc y không tề chỉnh đều nói rằng: Trong Tăng-già-lam, hay ngoài
thôn, không phạm. Song, người nghiêm trang cẩn thận thì lúc nào cũng vậy.
Trong Tăng phường đã thành nếp sống cẩu thả, khi vào trong thôn, đâu không
khỏi cái tướng xấu. Nay cho phép như vậy thì nghĩa ấy thế nào?
Ðáp:
Trong chùa, ngoài thôn chẳng cho làm việc cẩu thả. Nhưng, hoặc ở trong chùa
hoặc vì có nhân duyên, mà không tề chỉnh được, thì việc này khả dĩ có thể tha
thứ. Còn vào thôn, thì cần phải phòng hộ sự cơ hiềm, vì khiến cho người ta
sanh lòng tin vui, cho nên kết tội vậy.
PHỤ:
Căn Bản Tạp Sự nói: “Khi trời nóng, Bí-sô ở
trong phòng riêng, chỉ mặc quần dưới và
Tăng-khước-kỳ
tùy ý đọc tụng, thuyết pháp, may y... đi, đứng, nằm, ngồi đều không phạm.
2) Phải
khoát ba y cho tề chỉnh, cần phải học
Không tề chỉnh bên dưới thòng xuống quá khuỷu tay,
trống ngực, cao quá trên ống chân. Thòng xuống dưới một góc, thòng trước hai
góc. Sau vén lên cao, xếp nhỏ rồi nắm lại.
Không phạm: Nơi vai,
cánh tay có ghẻ nên mặc thấp xuống. Các việc đồng như giới trước.
Kinh Xá Lợi Phất Vấn nói: “Khi tu, cúng dường, nên trống vai, để tiện
làm việc. Khi làm phước điền, nên trùm hai vai để hiện rõ tướng của ruộng
phước.”
Thế nào gọi là
“Tu, cúng dường”?
Như khi thấy Phật, khi hỏi chào sư Tăng, giũ giường, quét đất: Cuốn y quần cho
đến di chuyển mọi vật cúng dường.
Thế nào gọi là khi “làm phước điền”?
Khi ứng thỉnh, khất thực, tọa thiền, tụng Kinh, kinh hành dưới gốc cây, người
thấy trang nghiêm khả quan vậy.
3)
Không được vắt ngược y khi đi vào nhà bạch y, cần phải học.
Hoặc vắt ngược y sang
phải hay trái, mang lên trên vai.
Không phạm: Bên hông
xương sườn có ghẻ.
4)
Không được vắt ngược y khi ngồi trong nhà bạch y, cần phải học
5)
Không được quấn y nơi cổ khi đi vào nhà bạch y, cần phải học
Nắm hai góc y, quấn trên
vai mặt và trái.
Không phạm: Nơi vai,
cánh tay có ghẻ.
6)
Không nên quấn y nơi cổ khi ngồi trong nhà bạch y, cần phải học
7)
Không nên trùm đầu khi đi vào nhà bạch y, cần phải học
Nếu dùng lá cây hay vật
tạp, hoặc y trùm đầu.
Không phạm: Hoặc sợ
lạnh, hoặc đầu có ghẻ, hoặc mạng nạn, phạm hạnh nạn.
8)
Không nên trùm đầu khi ngồi trong nhà bạch y, cần phải học
9)
Không nên nhảy nhót khi đi vào nhà bạch y, cần phải học
Hai chân nhảy.
Không phạm: Nếu bị người
đánh. Hoặc có ác thú, nếu có gai. Hoặc lội qua vũng nước, hầm nuớc hay chỗ
bùn.
10) Không
nên nhảy nhót khi ngồi trong nhà bạch y, cần phải học
11) Không
nên ngồi chồm hổm trong nhà bạch y, cần phải học
Ngồi chồm hổm trên đất,
trên giường, đít không đụng đất.
Không phạm: Hoặc bên khu
có ghẻ. Hoặc có việc cần trao, hoặc lễ bái, hoặc sám hối, hoặc thọ giáo giới.
Luật Tăng Kỳ nói: “Không được ôm đầu gối
ngồi, tréo chân ngồi”.
12) Không
nên chống nạnh khi đi vào nhà bạch y, cần phải học
Không phạm: Dưới lưng có
ghẻ, hoặc ở trong Tăng-già-lam, v.v...
13) Không
nên chống nạnh khi ngồi trong nhà bạch y, cần phải học
Tay chống nạnh trở ngại
người ngồi gần.
Luật Thập Tụng nói: “Không được ngồi chống
cằm hay má”.
14) Không
nên uốn éo thân hình khi đi vào nhà bạch y, cần phải học
Uốn éo thân hình tức là
nghiêng bên tả bên hữu, rảo bước. Tỳ-kheo-ni, phạm Ba-dật-đề.
Không phạm: Hoặc có bệnh
như thế, hoặc bị người đánh, nghiêng mình lại để tránh. Hoặc bị voi dữ, sư tử
v.v... xúc hại. Hoặc gặp người gánh gai đi qua, gặp những việc như vậy,
nghiêng mình để tránh. Hoặc lội qua hầm, bùn chỗ có nước, những chỗ như vậy
nghiêng mình để đi qua. Hoặc khi mặc y, xoay thân hình để xem coi có ngay
thẳng chưa.
15) Không
nên uốn éo thân hình khi đi vào ngồi trong nhà bạch y, cần phải học
16) Không
nên đánh đằng xa khi đi vào nhà bạch
y, cần phải
học
Ðưa tay ra đằng trước
theo nhịp bước.
Không phạm: Bạn đi không
kịp dùng tay ngoắc kêu. Bao nhiêu việc khác đồng như trước.
Luật Tăng Kỳ nói: “Nếu muốn kêu người, không được dùng hai tay ngoắc
kêu, nên dùng một tay thôi.”
17) Không
nên đánh đằng xa khi đi vào ngồi trong nhà bạch y, cần phải học
Luật Tăng Kỳ nói: “Không được lay động tay
chân khi ngồi trong nhà”.
18) Phải
trùm kín thân thể khi đi vào nhà bạch y, cần phải học
Không trùm kín tức là
trống hở mọi chỗ.
Không phạm: Bị trói, hay
gió thổi y bị bay.
Luật Tăng Kỳ nói: “An-đà-hội (y 5 điều) nên dùng vải chắc và dày để
may, nếu thưa, nên may 2, 3 lớp. Nếu An-đà-hội thưa thì Uất-đa-la-tăng (y 7
điều) nên dùng vải dày và chắc để may. Nếu Uất-đa-la-tăng thưa thì Tăng-già-lê
(y 9 điều) phải dùng vải chắc và dầy để may. Nếu Tăng-già-lê thưa thì phải
dùng vải dầy và chắc để may Uất-đa-la-tăng.
Hỏi:
Hiện nay tương truyền rằng: Phật chế 3 y
đều dùng vải gai, thưa to, phải vậy chăng?
Ðáp:
Ba y của Tỳ-kheo là để chống rét lạnh. Theo luật trình bày đầy đủ, có 10
loại y: y Kiếp bối, y Sô ma... Ðâu phải chỉ dùng vải gai thưa to như đã nói.
Chỉ vì nhân khi Ðức Thế Tôn mới xuất gia, khi đã cởi chiếc áo trân bảo của con
vua, Thọ thần hiến một chiếc áo bằng vải gai. Chiếc áo vải gai này 100 năm
trước, do một vị Bích-chi Phật lưu lại, hết sức tinh vi mịn màng, cũng chẳng
phải là thô sơ. Ðời sau lần lượt truyền như vậy. Nay, tuy ở phương này riêng
có cách thường phục, không những hai, ba lớp cũng có thể được. Song, nếu bảo
chỉ cho phép mặc vải gai thô, chứ không cho phép mặc bông, thật không phải là
văn của luật vậy.
19) Phải
trùm kín thân thể khi ngồi trong nhà
bạch y, cần phải học
Giới này và giới 21, 23,
25, bốn giới, trên chữ “bạch y” đều có chữ' “Nhập”.
20) Không
nên nhìn ngắm ngang dọc khi đi vào nhà bạch y, cần phải học
Không phạm: Ngửa mặt
nhìn xem mặt trời, mạng nạn, phạm hạnh nạn, ngó mọi chỗ hai bên để tìm đường
tiện mà đi, hay muốn chạy trốn.
Luật Tăng Kỳ nói: “Khi nhìn kỹ đường để đi,
không nên như con ngựa cúi đầu mà đi, nên ngó một cách bình thường mà đi, đề
phòng voi, bò, ngựa dữ, nên đi như người kéo xe, không nên ngó Ðông, ngó Tây.
Khi muốn xem nên quay thân hình lại để xem chỗ cần xem.”
Luật Nhiếp nói: “Không nhìn lên cao mà đi,
nhìn phía trước để đi, nhìn chừng một Du-già-địa. Một Du-già-địa bằng 4 khuỷu
tay vậy”.
21) Không
nên nhìn ngắm ngang dọc khi ngồi trong nhà bạch y, cần phải học
Luật Căn Bản
nói: “Chưa mời ngồi không nên vội ngồi. Không nên không khéo quán sát mà
ngồi.”
22) Phải
im lặng khi vào nhà bạch y, cần phải học
Không im lặng tức lớn
tiếng kêu la.
Không phạm: Người kia
điếc, không nghe tiếng kêu thường.
23) Phải
khẽ tiếng khi ngồi trong nhà bạch y, cần phải học
24) Không
được cười cợt khi đi vào nhà bạch y, cần phải học
Cười cợt là nhe răng
cười.
Không phạm: Hoặc môi bị
đau không che được răng, hoặc suy nghĩ đến pháp gì hoan hỷ mà cười.
Luật Tăng Kỳ
nói: “Nếu có điều gì đáng cười, không được trề môi, nhe răng cười lớn, nên
nhẫn nhịn cái cười bằng cách khởi ý nghĩ vô thường, khổ, không, vô ngã, tử
tướng. Nếu vẫn không dằn được, nên dùng chéo y che miệng lại.”
Ma Ðắc Lặc Già
nói: “Khi ngáp không
ngậm miệng lại, phạm Ðột-kiết-la”.
25) Không
được cười cợt khi ngồi trong nhà bạch y, cần phải học
26) Phải
dụng ý khi thọ nhận thức ăn, cần phải học
Không dụng ý thì cơm
canh rơi trên ghế bàn ăn.
Luật Ngũ Phần nói: “Một lòng thọ thực, tay
tả nhất tâm trì bát, tay hữu cầm duyên (miệng bát).
27) Thọ
nhận thức ăn vừa ngang bát, cần phải học
Không ngang bát là quá
đầy.
Không phạm: Hoặc bị bát
nhỏ, rơi rớt trên bàn.
28) Thọ
nhận canh vừa ngang bát, cần phải học
Lục quần nhận cơm quá
nhiều không còn chỗ chứa canh, nên chế.
29) Ăn
cơm và canh đồng đều, cần phải học
Không đồng đều tức là
canh chưa đến, cơm đã hết, cơm chưa đến, canh đã hết.
Không phạm: Hoặc cần
canh, không cần cơm. Hoặc cần cơm, không cần canh. Hoặc gần quá giờ ngọ. Hoặc
mạng nạn, phạm hạnh nạn, cần ăn mau mau.
30) Theo
thứ tự mà ăn, cần phải học
Không thứ tự là trong
bát chỗ nào cũng moi ăn.
Không phạm: Hoặc cơm
nóng, moi cho nó nguội, hoặc gần quá giữa ngày.
Luật Thập Tụng nói: “Không được trong bát,
lựa chỗ ngon ăn truớc”.
31) Không
nên moi giữa bát mà ăn, cần phải học
Bốn phía để lại, moi
chính giữa cho đến đáy của bát.
Không phạm: Sợ thức ăn
nóng, moi cho nguội. Hoặc gần quá ngọ.
Luật Ngũ Phần nói: “Không được cong ngón
tay vét bát mà ăn, không ngưởi thức ăn mà ăn”.
32)
Tỳ-kheo không bệnh, không được vì mình yêu sách cơm canh, cần phải học
Như khi đói khát.
Không phạm: Nếu bệnh,
đòi cho mình, hoặc vì người, hay người vì mình.
33) Không
nên dùng cơm che lấp canh để mong được thêm, cần phải học
34) Không
nên liếc nhìn vào trong bát người ngồi cạnh sanh tâm tỵ hiềm, cần phải học
Nhìn là xem ai nhiều ai
ít.
Không phạm: Vị ngồi gần
mắt mờ, nhìn xem được thức ăn hay chưa, tịnh, không tịnh, v.v...
35) Phải
chú tâm vào bát mà ăn, cần phải học
Không chú ý tâm vào tức
là ngó bên này bên kia.
Không phạm: Hoặc vị
Tỳ-kheo ngồi gần mắt mờ, nên xem, hoặc xem thời giờ.
36) Không
nên ăn vắt cơm lớn, cần phải học
Lớn là mức của miệng
không dung chứa được.
Không phạm: Gần quá ngọ,
mạng nạn, v.v... ăn mau.
Luật Tăng Kỳ nói: “Không được lớn, hay
không được nhỏ, như dâm nữ hai, ba hột mà ăn. Nên ăn vừa chừng của miệng”.
37) Không
nên hả miệng lớn đợi cơm mà ăn, cần phải học
Trường hợp không phạm
đồng như giới trước.
38) Không
nên ngậm cơm mà nói, cần phải học
Không phạm: Nghẹn mà đòi
nước, mạng nạn v.v... tạo ra tiếng khi ăn.
Luật Tăng Kỳ
nói: “Hai Thầy, Thượng tọa kêu, nếu nuốt chưa xong, có thể khiến cho âm thanh
không khác thì nên trả lời, nếu không thể, thì nuốt rồi mới trả lời. Nếu vị ấy
có trách thì nói: Trong miệng tôi đang có thức ăn nên không trả lời liền
được.”
Luật Ngũ Phần nói: “khi đem thêm thức ăn,
cho phép nói: Cần, không cần. Không hiềm chê thức ăn.”
39) Không
nên vắt cơm thảy vào miệng, cần phải học
Không phạm: bị trói
buộc.
40) Không
nên để cơm rơi rớt khi ăn, cần phải học
Nửa ngoài tay, nửa vào
miệng.
Không phạm: Ăn bánh mỏng, cơm khô, dưa, cam giá.
41) Không
nên búng má mà ăn, cần phải học
Cố ngậm cho đầy miệng,
làm cho hai má búng ra
Không phạm: Vì quá ngọ.
42) Không
nên nhai cơm có tiếng khi ăn, cần phải học
Không phạm: Nhai bánh
không, cơm khô, dưa, trái v.v...
Luật Thập Tụng nói: “Húp cháo không nên làm
cho có tiếng, ăn cọng hay gốc v.v.. đừng làm cho có tiếng lớn”.
Luật Tăng Kỳ
nói: “Không được nuốt trọn thức ăn, khiến cho có tiếng kêu ót ót. Nếu cổ họng
bệnh thì không tội”.
43) Không
nên hớp cơm có tiếng mà ăn, cần phải học
Trương miệng hớp vào.
Không phạm: Nếu miệng bị
đau, hoặc ăn canh, hay uống (nước sữa), lạc tương...
44) Không
nên lấy lưỡi liếm khi ăn, cần phải học
Không phạm: Hoặc bị
trói, hay tay nhớp.
Luật Tăng Kỳ nói: “Không được liếm tay khi
ăn, nếu tô, du... dính nơi tay, nên dồn nơi bát, gom lại một chỗ sau đó lấy
dùng. Không được mút ngón tay khi ăn. Nếu mật và muối... dính nơi đầu ngón
tay, được mút không có tội”.
45) Không
nên rảy tay khi ăn, cần phải học
Không phạm: Hoặc trong
thức ăn có cỏ, có trùng. Hoặc tay không sạch, muốn rảy.
46) Không
nên dùng tay lượm cơm rời mà ăn, cần phải học
Cơm rời là cơm rơi rớt
ra vậy.
Không phạm: như giới
trước đã nói.
Luật Thập Tụng
nói: “Thức ăn rớt trên
cỏ, trên lá, nên ăn. Nếu có đất dính, thổi đất mà ăn. Nếu có dính nhiều đất,
dùng nước rửa rồi được ăn”.