TRÙNG TRỊ TỲ NI
SỰ NGHĨA TẬP YẾU
CỔ
NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích
Việt
dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH
Nhuận văn
và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
---o0o---
TẬP II
QUYỂN THỨ 11
I.
BÀN CHUNG VỀ VẤN
ÐỀ YẾT-MA
Yết-ma
có nghĩa
là bàn thảo và chung quyết
thông qua những vấn
đề của
Tăng. Thuật
ngữ của
Luật tạng
gọi là “Tác pháp
biện
sự”.
Như
vậy,
tất cả
việc làm của
Tăng
đều
do Yết-ma mà thành tựu.
Do
đó, Cổ
đức nói: “Có tác
pháp Yết-ma,
có làm
đúng như
lời thuyết
minh, mới gọi
là Chánh pháp trụ
thế”.
Có chỗ lại
nói: “Người nào không biết
tác bạch Yết-ma,
trọn
đời
không
được lìa y chỉ”.
Nên biết: Việc
làm chính và hàng
đầu của
Tỳ-kheo là
đây
vậy. Nhưng
người thế
tục cho rằng
chỉ có
đối
thú
để nói lên tội
lỗi của
mình mới là Yết-ma,
là
điều
sai lầm không phải
nhỏ. Do vậy,
nay
đặc biệt
trước hết
trình bày rõ
đại cương
của vấn
đề, phần
chi tiết của
101 Tăng sự
tản mác các khoa mục,
ở
đây
không bàn
đến.
Phần
thứ tư
(luật Tứ
phần) thuyết
minh:
Có 3 pháp Yết-ma
tóm thâu tất cả
các pháp Yeát-ma. Ba pháp Yết-ma
đó là:
1. Bạch
yết-ma.
2. Bạch
nhị yết-ma.
3. Bạch
tứ yết-ma.
Ðó là pháp Yết-ma,
tóm thâu tất
cả
mọi pháp Yết-ma
khác.
- Bạch
yết-ma
cũng gọi
là
đơn bạch.
- Bạch
nhị
yết-ma, luật
Tăng kỳ
gọi là Bạch
nhất yết-ma,
nghĩa là một
lần bạch,
một lần
Yết-ma.
- Bạch
tứ
yết-ma, luật
Tăng kỳ
gọi là Bạch
tam yết-ma, nghĩa
là một lần
bạch, ba lần
Yết-ma.
Tát-bà-đa
ma-đắc-lặc-già
thuyết
minh:
Có 101 pháp Yết-ma:
- Bạch
yết-ma có 24 pháp.
- Bạch nhị
yết-ma có 47 pháp.
- Bạch tứ
yết-ma có 30 pháp.
Căn
bản bách nhất
yết-ma
lại thuyết
minh:
Sở
dĩ
gọi 101 pháp Yết-ma
là nêu con số
tổng
quát, chứ
đối
với Ðại
luật thì nhiều
hay ít không
đồng.
Nếu
xếp
thành từng loại
thì:
- Ðơn bạch
có 22 pháp.
- Bạch nhị
có 47 pháp.
- Bạch tứ
có 32 pháp.
Tùy cơ
yết-ma
thuyết minh:
Có
đến 134 pháp.
- Ðơn
bạch có 39 pháp.
- Bạch
nhị có 57 pháp.
- Bạch
tứ
có 38 pháp.
Cộng
thêm
đối
thủ có 33 pháp, tâm niệm
có 14 pháp, thành ra 181 pháp.
Tuy chia thành khoa, mục,
điều,
số tác pháp một
cách tường tận
như thế,
nhưng chưa
khỏi phạm
vào tội “chẳng
chế mà chế”.
Do vậy, mỗi
lần Luật
sư Hoài Tố
bàn
đến vấn
đề
đó
đều nói: “Tốt
hơn hết,
là chỉ nên tuân theo nguồn
gốc của
Luật.”
Phần
thứ ba (luật
Tứ phần)
thuyết
minh:
Có 4 loại
Tăng: Tăng
4 người, Tăng
5 người, Tăng
10 người, Tăng
20 người.
- Tăng
4 người,
làm
được tất
cả Tăng
sự thông thường,
trừ Tự tứ,
, thọ Cụ,
xuất tội
và Tăng sai.
- Tăng
5 người,
trừ thọ
Cụ nơi
Trung quốc (địa
phương) có nhiều
Tăng và xuất
tội, ngoài ra các Tăng
sự khác
đều
làm
được.
- Tăng
10 người,
làm
được tất
cả Tăng
sự, trừ
xuất tội.
- Tăng
20 người,
tất cả
các pháp Yết-ma
đều
làm
được. Nhiều
hơn 20 người
càng tốt.
- Nếu
vì việc
của Tăng
mà tác pháp Yết-ma
thì Tỳ-kheo-ni
v.v... không
được tính vào túc số. Những
người bị
cử tội,
bị diệt
tẫn, và người
bị Tăng
tác pháp Yết-ma không
được
tính vào túc số
của
Tăng.
- Không
được
tác pháp Yết-ma phi pháp, phi
Tỳ-ni,
phi pháp biệt
chúng, phi pháp hòa hiệp, pháp biệt
chúng, pháp tương tợ
biệt chúng, pháp tương
tợ hòa hiệp,
ha bất chỉ
(Người
được
quyền ngăn
chặn, ngăn
chặn mà không
đình
chỉ, tức
là
đồng với
biệt chúng).
Thế
nào gọi là Yết-ma
phi pháp phi Tỳ-ni?
Tăng
sự
chỉ cần
một lần
bạch, một
lần Yết-ma,
mà tác pháp một
lần
bạch, ba lần
Yết-ma; hoặc
tác bạch mà không tác Yết-ma;
hoặc tác Yết-ma,
không tác bạch;
hoặc
tác bạch nhiều
lần, hay tác Yết-ma
nhiều lần
(tức thuộc
về phi pháp). Vấn
đề không nên
đem
ra bàn, lại
đem
ra bàn (tức thuộc
về phi Tỳ-ni).
Thế
nào gọi là Yết-ma
như pháp như
Tỳ-ni?
Như
pháp tác bạch mà tác bạch,
như pháp tác Yết-ma
mà tác Yết-ma (tức
thuộc về
như pháp). Như
pháp cử tội
mà cử tội
(tức thuộc
về như
Tỳ-ni).
Thế
nào gọi
là Yết-ma
phi pháp biệt
chúng?
Người không
đến, không dữ
dục; người
có mặt
đủ
tư cách ngăn
chặn,
đã
ngăn chặn
(tức thuộc
về biệt
chúng). Khi làm các Yết-ma,
bạch việc
này,
đem tác Yết-ma
việc khác (tức
thuộc về
phi pháp).
Thế
nào gọi là Yết-ma
phi pháp hòa hiệp?
Người không
đến, thì dữ
dục; người
đủ tư
cách ngăn chặn,
không ngăn chặn
(tức thuộc
về hòa hiệp).
Khi làm các Yết-ma,
bạch
việc này,
đem
tác Yết-ma việc
khác (tức thuộc
về phi pháp).
Thế nào gọi là Yết-ma như pháp biệt chúng?
Người không
đến, không dữ
dục; người
đủ tư
cách ngăn chặn,
đã ngăn
chặn (tức
thuộc về
biệt chúng). Như
pháp tác Yết-ma (tức
thuộc về
như pháp).
Thế
nào gọi là Yết-ma
pháp tương tợ biệt
chúng?
Người không
đến, không dữ
dục; người
ngăn chặn
được,
đã
ngăn chặn
(tức thuộc
về biệt
chúng). Khi làm các pháp Yết-ma,
lại tác Yết-ma
trước, rồi
sau mới tác bạch
(tức thuộc
về pháp tương
tợ).
Thế
nào gọi là Yết-ma
pháp tương tợ hòa hiệp?
Người không
đến, thì dữ
dục; người
đủ quyền
ngăn chặn,
không ngăn chặn
(tức thuộc
về hòa hiệp).
Trước tác Yết-ma
sau tác bạch (tức
thuộc về
pháp tương tợ).
Những
người nào ngăn
chặn không thành ngăn chặn?
Vì Tỳ-kheo
tác Yết-ma
thì Tỳ-kheo-ni cho
đến
người nên diệt
tẫn, hoặc
người
ở
trên giới (戒)
trường,
Pháp kiết giới
(界):
Trước hết
kiết giới
(戒)
trường sau
đó
mới kiết
đại giới
(界).
Khi kiết
đại
giới cần
phải trừ
nội
địa
của giới
(戒)
trường. Bởi
khi làm Tăng sự,
có việc chỉ
cần 4 người,
có việc cần
5 người, có việc
cần 10 người,
có việc cần
đến 20 người
để giải
quyết Tăng
sự
ấy.
Mỗi trường
hợp như
vậy, số
Tăng cần
thiết thì
ở
trong giới (戒)
trường
để hành Tăng
sự, chứ
khỏi phiền
phải tập
trung cả
đại
chúng lại. Nay, người
ở trên giới
(戒)
trường tức
là ra ngoài
đại giới
(界)
cho nên dù có ngăn
chặn
nhưng không thành ngăn
chặn (bất
thành ha). Người
đang
hành pháp biệt
trụ
(mình phạm thô tội,
đang hành pháp phú
tàng, không nên ngăn chặn
Yết-ma của
Tăng). Người
dùng thần túc trụ
trên không (cách
đất 4 ngón tay tức thành ly giới
界).
Người
ẩn
một (tức
đồng với
người không hiện
tiền). Người
ở chỗ
không nghe không thấy
(tiểu
giới
小界)
thì phải
duỗi cánh tay
đụng
nhau,
đại giới
(大i界)
cũng phải
ở trong tầm
nghe mà thấy. Người
bị Tăng
tác pháp Yết-ma (chỉ
trừ thọ
Cụ và thọ
Tăng sai). Những
người như
vậy, ngăn
chặn không thành ngăn
chặn (ha bất
thành ha).
Thế
nào gọi là ngăn
chặn thành ngăn
chặn?
Hàng thiện
Tỳ-kheo (không
đồng
với Tỳ-kheo-ni,
cho
đến người
nên diệt tẫn),
đồng
ở
trên một giới
(界)
(đồng
với
ở
trên giới ‘戒’
trường,
và không hành pháp biệt
trụ). Không
ở
trong không, không
ẩn
một,
không cách xa chỗ
nghe thấy.
Những hạng
người như
vậy thì ngăn
chặn thành ngăn
chặn (ha thành ha).
Căn
bản mục-đắc-ca
thuyết minh:
Có 12 hạng
người không thuộc
về loại
được ngăn
chặn, lời
nói của họ
không
được lưu
ý:
- Một
là hạng
người ngu, tức
là người nghĩ
điều
ác, nói lời ác, làm việc
ác.
- Hai là hạng
người si, tức
là người không trì Tô-đát-la
(kinh), không trì Tỳ-nại-da (luật),
không trì Ma-thất-lý-ca
(luận).
- Ba là hạng
người không phân minh,
tức
là người không thấu
rõ giáo văn của
ba Tạng.
- Bốn
là hạng
người không thiện
xảo, tức
là không rành giáo lý ba Tạng.
- Năm
là hạng
người vô tàm, tức
là trong 4 tha thắng,
phạm
một giới.
- Sáu là hạng
người có tỳ
vết oán thù, tức
là người mới
làm việc
đấu
tranh hoặc là trước
đó
đã
có sự oán hiềm.
- Bảy
là hạng
người
ở
ngoài giới (界).
- Tám là hạng
người bị
xả khí (tức
là bị vất
bỏ).
- Chín là hạng
người nói không thứ
tự, tức
là người nói vọng,
nói ly gián, nói thô ác, nói lời
tạp loạn.
- Mười là hạng người
xả oai nghi, tức
là lìa chỗ
đang
ngồi.
- Mười
một là hạng
người mất
bổn tánh, tức
người làm
điều không nên làm,
đối với các học
xứ không biết
tu tập.
- Mười hai là hạng
người thọ
học.
Có 3 hạng
người nên ngăn
chặn:
- Một là hạng
người trụ
nơi bổn
tánh.
- Hai là hạng người
nói lời có thứ
tự.
- Ba là hạng người
không xả oai nghi.
Nếu
người mất
bổn tánh, sau trở
lại trụ
bổn tánh cũng
được quyền
ha (được ngăn
chặn), cần
phải lưu
ý lời nói của
họ.
Nếu
đại chúng sai 12 hạng
người nói trên, mà họ
nói: “Ðại
đức
không nên sai tôi”, người
nào nói như vậy,
cần phải
lưu ý.
Luật
Tăng kỳ
nói:
Tăng
sự cần
chúng 20 người tác Yết-ma
mà dùng chúng 10 người
thì không thành tựu,
cần
chúng 10 người mà dùng chúng 5
người,
cần chúng 5 người
mà dùng chúng 4 người, cần
tác Bạch tam yết-ma,
mà Bạch nhất,
cần tác Bạch
nhất yết-ma
mà
đơn bạch,
đều không thành tựu.
Cần
tác bạch, mà tác Bạch
nhất yết-ma,
cần Bạch
nhất yết-ma
mà tác Bạch tam yết-ma,
cần chúng 4 người
mà dùng chúng 5 người, cần
chúng 5 người mà dùng chúng 10
người,
cần chúng 10 người
mà dùng chúng 20 người thì
đều thành tựu.
Bộ
Yết-ma của
luật Ðàm-vô-đức
thuyết
minh:
“Khi tác pháp các Yết-ma, trước
hết nên bảo:
Người
chưa thọ
Cụ túc phải
ra.
Tỳ-kheo
không
đến phải
thuyết dục
và thanh tịnh.
Tăng
nay hòa hợp
để
làm gì?
Một
vị (Duy-na) tùy theo
sự
việc mà trả
lời, như
Yết-ma
để
Bố-tát hay Yết-ma
để Tự
tứ...
Trường
hợp Yết-ma
để kiết
giới, không có phép thọ
dục (nhận
sự vắng
mặt).
Luật
Thập tụng
thuyết minh:
Tỳ-kheo
không nên cùng với Ni Yết-ma,
trừ thọ
Cụ, Ma-na-đỏa,
xuất tội.
Các Ni không
được tác Yết-ma
đối
với Tỳ-kheo,
trừ Yết-ma
không lễ bái, không cùng
nói, không cúng dường.
II.
VẤN ÐỀ KIẾT GIỚI
Tất
cả Tăng
sự như
pháp
đều do thực
hành trong cương giới
được Tăng
ấn
định
mà thành tựu, cho nên trước
hết phải
thuyết minh.
Hỏi:
Thời nay, nơi
nhà tụng luật,
hoặc không
được
kiết giới
hoặc chỉ
dùng pháp kiết giới
trong
đại bi sám, thử
xét những Tăng
sự
đó
có thành tựu hay không?
Ðáp: Nếu
không kiết giới
thì khi hành Tăng
sự,
trong Thiệm-bộ một
Thanh văn
đệ
tử của
Như Lai không
đến
tham dự tức
thành biệt chúng, tất
cả các pháp
đều
không thành tựu. Ðây là việc
làm chính yếu của
Tăng
đâu
có thể thiếu
sót
được. Vấn
đề lễ
sám trì chú kiết
đàn,
thuộc về
pháp dụng của
Mật tông, dứt
khoát không nên nhầm
lẫn.
Vấn
đề kiết
giới tóm lược
có 5:
1. Kiết giới
(戒)
trường.
2. Kiết
đại
giới (界).
3. Kiết giới
không mất y.
4. Kiết giới
tịnh trù.
5. Phương tiện
kiết tiểu
giới.
1. Kiết
giới trường
Phần thứ
hai
thuyết
minh:
Lúc bấy giờ,
các Tỳ-kheo có việc
cần Yết-ma
với chúng 4 người,
chúng 5 người, chúng 10 người,
chúng 20 người, mà phải
tập hợp
cả
đại
chúng nhọc nhằn,
đức Phật
dạy cho phép kiết
giới (戒)
trường
để Yết-ma.
Phương
thức
kiết
giới
trường:
Trước
hết công bố
ranh giới
được
quy
định của
4 phương giới
trường. Hoặc
dùng trụ cột,
hoặc dùng
đá,
hoặc dùng bờ
đê làm giới
hạn...
Bạch
nhị yết-ma
để kiết.
(Trước hết
hỏi: Tăng
hợp chưa?
– Hòa hợp không? – Người
chưa thọ
Cụ túc giới
ra chưa?
- Tăng
nay hòa hợp
để
làm gì? Một người
‘Duy-na’ trả lời
các câu hỏi. Câu cuối
cùng trả lời
là: Kiết giới
Yết-ma. Như
vậy rồi,
mới thực
hiện pháp tác bạch):
“Xin Ðại
đức Tăng
lắng
nghe: Tỳ-kheo
nơi
trú xứ
này vừa
công bố
tướng
bốn
phương
của
tiểu
giới
(小界).
Nếu
thời
gian thích hợp
đối với
Tăng,
Tăng
chấp
thuận
sử
dụng
bên trong tướng
bốn
phương
của
tiểu
giới
này kết
làm giới
trường.
Ðây là lời
tác bạch”.
Vị
Yết-ma hỏi
để chung quyết:
“Xin Ðại
đức Tăng
lắng
nghe: Tỳ-kheo
nơi
trú xứ
này vừa
công bố
tướng
tứ
phương
của
tiểu
giới.
Tăng
nay sử
dụng
bên trong bốn
phương
của
tiểu
giới
này, kiết
làm giới
trường.
Trưởng
lão nào
đồng ý Tăng
nay sử
dụng
bên trong tướng
bốn
phương
của
tiểu
giới
này, kiết
làm giới
trường
thì im lặng.
Ai không
đồng ý xin nói. Tăng
đã
đồng ý sử
dụng
bên trong tướng
bốn
phương
của
tiểu
giới
này, kiết
làm giới
trường
rồi,
nên im lặng.
Việc
ấy, tôi ghi nhận
như
vậy.”
Trường
hợp các Tỳ-kheo
muốn thu hẹp
hay nới rộng
cương giới,
đức Phật
dạy: “Muốn
vậy, trước
hết phải
giải giới
cũ, mới
kiết lại
giới mới
theo ý muốn. Kiết
giới hay giải
giới
đều
phải Bạch
nhị yết-ma
để tác pháp.”
2) Kiết
đại giới
Theo luật
Ngũ phần
thuyết
minh:
Kiết
giới trường
trước, kiết
giới Tăng
phường sau. Khi kiết
giới Tăng
phường xướng
bốn phương
giới tướng,
trừ nội
địa.
Luật
nhiếp thì
thuyết minh:
Khi kiết
thì kiết tiểu
giới trước,
khi giải thì giải
tiểu giới
sau.
Ngài Tuyên Công (Ðạo Tuyên) cũng
áp dụng thuyết
này. Ngài Hoài Tố
tuy liệt
kê
đại giới
trước mà nghiên cứu
về chú văn
thì ngài cũng dùng ý
đây.
Nay nên y cứ theo
đó
mà kiết.
Phần
thứ
hai thuyết
minh:
Trước
hết trải
tòa,
đánh kiền
chùy, tập họp
tất cả
Tăng lại
một chỗ,
không cho phép thọ
dục.
Trong
đó, hoặc
là vị Tỳ-kheo
cựu trú, hoặc
là vị biết
rõ giới tướng,
xướng tướng
bốn phương
của
đại
giới. Ví như
phương Ðông lấy
núi làm mốc giơùi,
lấy thành làm mốc
giới... các phương
kia cũng xướng
như vậy.
Xướng rồi,
vị nào coù khả
năng Yết-ma
tác pháp:
“Xin Ðại
đức
Tăng
lắng
nghe: Tỳ-kheo
cựu
trú nơi
trú xứ
này vừa
công bố
tướng
bốn
phương
của
đại
giới.
Nếu
thời
gian thích hợp
đối
với
Tăng,
Tăng
chấp
thuận,
sử
dụng
bên trong tướng
bốn
phương
của
cương
giới
này, trừ
địa
phận
của
giới
trường,
kiết
làm đại
giới,
đồng
một
trú xứ,
đồng
một
thuyết
giới.
Ðây là lời
tác bạch.”
Vị
Yết-ma hỏi
để chung quyết:
“Xin Ðại
đức Tăng
lắng
nghe! Tỳ-kheo
cựu
trú nơi
trú xứ
này vừa
công bố
tướng
bốn
phương
của
đại giới.
Nay Tăng
sử
dụng
bên trong tướng
bốn
phương
của
cương
giới
này, trừ
địa phận
của
giới
trường,
kiết
làm
đại giới,
đồng một
trú xứ,
đồng một
thuyết
giới.
Trưởng
lão nào
đồng ý nay Tăng
sử
dụng
bên trong tướng
bốn
phương
của
cương
giới
này, trừ
địa phận
của
giới
trường,
kiết
làm
đại giới,
đồng một
trú xứ,
đồng một
thuyết
giới
thì im lặng.
Ai không
đồng ý xin nói. Tăng
đã
đồng ý sử
dụng
bên trong tướng
bốn
phương
của
cương
giới
này, trừ
địa phận
của
giới
trường,
kiết
làm
đại giới,
đồng một
trú xứ,
đồng một
thuyết
giới
rồi,
nên im lặng.
Việc
này tôi ghi nhận
như
vậy”.
Không nên hai giới tiếp
giáp nhau, nên làm tiêu tướng
để biết.
Không nên hai giới
chồng
lên nhau, phải có khoảng
cách
ở giữa
hai giới (giới
trường và
đại
giới).
Trường
hợp hai trú xứ
lợi dưỡng
khác nhau, thuyết
giới
khác nhau, nay muốn
chung lại
cùng lợi dưỡng
cùng thuyết giới
thì hai bên giải
giới
cũ rồi
cùng kiết lại
giới mới.
Nếu
muốn thuyết
giới riêng mà lợi
dưỡng chung, vì bảo
vệ trú xứ,
thì cũng như
vậy.
Nếu
muốn
đồng
thuyết giới,
riêng lợi dưỡng
cũng như
vậy.
Trường
hợp hai trú xứ,
đồng thuyết
giới,
đồng
lợi dưỡng,
muốn thuyết
giới riêng, lợi
dưỡng riêng cũng
như vậy.
Không
được hai trú xứ
cách nhau quá xa mà cùng một
thuyết giới,
cùng một lợi
dưỡng.
Luật Ngũ
phần
thuyết minh:
Không nên cùng
ở, cùng
được
lợi dưỡng
mà Bố-tát riêng, kiết
giới riêng. Nếu
vi phạm, mắc
tội Thâu-lan-giá. (Theo
luật
Tứ phần
thì - vì bảo vệ trú xứ
nên cho phép. Bởi
lẽ dù thuyết
giới riêng, lợi
dưỡng riêng, nhưng
có sự chia bùi xẻ
ngọt cho nhau; nên hợp chung lại
hay chia riêng
đều
như nhau. Do vấn
đề
đi
lại, hoặc
có hoạn nạn
thì thuyết giới vẫn
như cũ.
Ở
đây,
nói rằng không cho là vì
đồng
ở
với nhau mà Bố-tát
riêng,
đó chính là hiện tượng
phá Tăng vậy).
Luật nhiếp
thuyết
minh:
Sông hay suối có cầu
đò thì
được
kiết giới
thông qua. Trường hợp
cầu
đò
bị hư
hỏng, có ý sửa
chữa lại
thì
được trải
qua bảy
đêm,
đến
đêm
thứ tám thì cương
giới bị
mất. Nếu
không có ý sửa sang laïi thì khi
hư
liền mất
giới.
Căn bản
ni-đà-na
thuyết minh:
Ðại
giới có thể
kiết trong hai du-thiện-na
rưỡi, quá tức
là phi giới (một
du-thiện-na bằng
30 dặm, hai du-thiện-na
rưỡi tức
là 75 dặm) Tỳ-kheo
khách
đến một
trú xứ khác không có người,
trải qua bảy,
tám ngày mà vẫn
không có ai
đến, nên phải
cùng nhau kiết giới.
Luật
Thập tụng
nói:
Nếu
không xả
giới cũ
trước thì không
được
kiết giới
mới.
3) Kiết
giới không mất
y
Phần
thứ hai
thuyết
minh:
Lúc bấy
giờ có một
Tỳ-kheo tu hạnh
nhàm chán, thấy
nơi
A-lan-nhã có một
cái hang
đuùng
theo lý tưởng, nghĩ
rằng: Nếu
được phép lìa y mà
ngủ
thì ta liền
ở
nơi hang này
để
tu.
Ðức
Phật dạy:
“Nên kiết giới
không mất y, bằng
pháp Bạch nhị
yết-ma.”
Khi
ấy,
các Tỳ-kheo cởi
y
để trong nhà thế
tục, khi thay y lộ
hình. Phật dạy:
“Trừ xóm làng và ranh
giới
ngoài xóm làng”.
(Ðại giới
của Tăng-già
bao trùm
đến
70 dặm, trong
đó
dĩ nhiên có xóm làng
của người
thế tục.
Xóm làng không nhất
định, hoặc
trước không sau có, hoặc nay có sau lại
không, cho nên chỉ
nói: Trừ thôn xóm và ranh
giới của
thôn xóm, ngoài ra thuộc
về giới
không mất y.)
Tác pháp Yết-ma
bạch
như sau:
“Xin Ðại
đức
Tăng
lắng
nghe! Trụ
xứ
này đồng
một
trụ
xứ,
đồng
một
thuyết
giới.
Nếu
thời
gian thích hợp
đối
với
Tăng,
Tăng
chấp
thuận,
trừ
xóm làng và ranh giới
của
xóm làng, kiết
làm giới
không mất
y. Ðây là lời
tác bạch.”
Vị
Yết-ma hỏi
để biểu
quyết:
“Xin Ðại
đức
Tăng
lắng
nghe! Trụ
xứ
này đồng
một
trụ
xứ,
đồng
một
thuyết
giới,
trừ
xóm làng và ranh giới
của
xóm làng, kiết
làm giới
không mất
y. Trưởng
lão nào
đồng ý Tăng
sử
dụng
trụ
xứ
này, trừ
xóm làng và ranh giới
của
xóm làng, kiết
làm giới
không mất
y thì im lặng.
Ai không
đồng ý thì xin nói. Tăng
đã
đồng
ý sử
dụng
trụ
xứ
này, trừ
xóm làng và ranh giới
của
xóm làng, kiết
làm giới
không mất
y, nên im lặng.
Việc
này tôi ghi nhận
như
vậy.”
Giải
giới
không mất y trước,
rồi sau giải
đại giới.
Không
được
cách dòng nước chảy
mạnh mà kiết
giới không mất
y, trừ có cầu
qua lại.
Luật
Thập tụng
thuyết
minh:
Nếu
xả
đại
giới thì giới
không mất y tự
nó xả. Nếu
xả giới
không mất y thì
đại
giới còn nguyên.
4) Kiết
giới tịnh
trù
Cũng
gọi
là tịnh
địa.
Bởi vì nếp
sống của
Tỳ-kheo không
được
phép
ăn
đồ
ăn cách
đêm,
hay ngủ chung với
thức
ăn.
Nếu trong phạm
vi phòng của Tăng
có
để thức
ăn thì gọi
là túc thực, tức
là ngủ với
thức
ăn;
Tỳ-kheo
ăn
thức
ăn
ấy thì gọi
là bất tịnh
thực. Nay kiết
giới tịnh
địa
để
tránh khỏi hai tội
nói trên.
Phần
thứ ba
thuyết
minh:
Cho phép trong phạm
vi của Già-lam kiết
làm tịnh
địa.
Quy
định phòng nào hay nơi
ôn thất...
dùng làm tịnh
địa, rồi
bạch nhị
Yết-ma
để
kiết.
“Xin Ðại
đức Tăng
lắng
nghe! Nếu
thời
gian thích hợp
đối với
Tăng,
Tăng
nay chấp
thuận
sử
dụng
địa
điểm...
kiết
làm tịnh
địa. Ðây là lời
tác bạch”.
Vị
Yết-ma hỏi
để biểu
quyết:
“Xin Ðại
đức Tăng
lắng
nghe! Tăng
nay sử
dụng
địa
điểm...
kiết
làm tịnh
địa. Trưởng
lão nào
đồng ý Tăng
sử
dụng
địa
điểm...
kiết
làm tịnh
địa thì im lặng.
Ai không
đồng ý thì xin nói –
Tăng
đã
đồng ý sử
dụng
địa
điểm...
kiết
làm tịnh
địa rồi,
nên im lặng.
Việc
này tôi ghi nhận
như
vậy”.
Có 4 loại tịnh
địa:
a) Ðàn-việt hay người
chức sự
phụ trách, khi làm Tăng
phòng, tức là cất
chùa hay cất tịnh
xá... minh
định như
sau: “Chỗ này làm tịnh
địa cho Tăng”.
b) Trường hợp
có người vì Tăng
xây cất chùa nhưng
chưa dâng cúng cho Tăng.
c) Trường hợp
nơi
địa
điểm
đó, phân nửa
có rào ngăn hay phaàn nhiều
không có rào ngăn:
Tường,
vách, mương, rãnh cũng
như vậy.
d) Tăng
Bạch nhị
yết-ma
để
kiết.
Phòng của Tỳ-kheo
cho
đến
nơi miếu
thờ thần
đều có thể
kiết làm tịnh
địa. Không nên dùng
căn
phòng tốt kiết
làm tịnh
địa
mà nên sử dụng
căn phòng xấu
nhất
để
kiết làm tịnh
địa.
5) Phương
tiện kiết
tiểu giới
Phần
thứ hai
thuyết
minh:
Trường hợp
gặp ngày Bố-tát
mà
đang
đi
giữa
đồng
vắng; chư
Tăng hòa hợp
thì tập trung lại
một chỗ
để thuyết
giới. Nếu
không
được hòa hợp
thì những vị
cùng hai thầy (Hòa thượng,
A-xà-lê) hay thiện
hữu
trí thức, dừng
chân bên lề
đường,
tập trung lại
một chỗ
kiết tiểu
giới
để
thuyết giới.
Bạch nhị
yeát-ma
để kiết
như sau:
“Xin Ðại
đức
Tăng
lắng
nghe! Nay có... Tỳ-kheo
tập
hợp,
đối
với
Tăng,
Tăng
chấp
thuận
kiết
tiểu
giới.
Ðây là lời
tác bạch.
Xin Ðại
đức
Tăng
lắng
nghe! Nay có... Tỳ-kheo
tập
hợp,
kiết
tiểu
giới.
Trưởng
lão nào
đồng ý Tăng
kiết
tiểu
giới
thì im lặng.
Ai không
đồng ý xin nói.
Tăng
đã
đồng
ý, phạm
vi ngang bằng
với
số...
vị
Tỳ-kheo
tập
hợp
này kiết
làm tiểu
giới
rồi,
nên im lặng.
Việc
này tôi ghi nhận
như
vậy.”
(Bao nhiêu Tỳ-kheo
cần nói rõ số
lượng. Tất
cả
đều
phải ngồi,
vị này
đưa
tay ra vừa
đụng vị
kia là
đúng luật).
Thuyết
giới
rồi, nên xả
giới mới
đi. Tự
tứ cũng
vậy.
Trường hợp
có người muốn
thọ giới
mà trong khi người không
đồng ý chưa
ra ngoài giới, thì số
người
đồng
ý nên gấp ra ngoài giới,
tập họp
lại một
chỗ, kiết
tiểu giới
để truyền
trao giới cho giới
tử
ấy.
Trao giới xong nên giải
giới liền.
(Phương pháp giải cùng với
phương pháp kiết
như nhau, chỉ
mỗi chữ
“kiết
結”
thành chữ
“giải
解”
mà thôi).
III.
VẤN ÐỀ THỌ GIỚI
Luận
rằng:
Giới Tỳ-kheo
là quy củ rộng
rãi của nếp
sống người
xuất thế;
ngôi Tăng bảo
được kiến
lập từ
đây. Quan trọng
ở chỗ
sau khi thọ giới
phải nghiêm túc hành
trì, chứ
không phải chỉ
“làm gọi là” trong khi
đăng
đàn thọ
giới mà thôi.
Vấn
đề thiết
yếu trong
đàn
giới là tác pháp Yết-ma.
Bậc thầy
kiệt xuất
đời sau
đem
vấn
đề
khai
đạo xếp
vào nghi thức của
giới
đàn
là một
điều nhầm
lẫn; văn
tự dài dòng, kéo dài
thì giờ
sanh phiền phức
và mỏi mệt.
Do văn
tự dài dòng mỏi
mệt nên xếp
cho giới tử
đồng loạt
thọ giới.
Văn tự
dài là trái với quy củ
của Phật,
thọ giới
đồng loạt
trở thành phi pháp,
nên giới
tử không
đắc
giới. Hơn
nữa, khi thọ
giới in tuồng
ân cần, nhưng
thọ rồi
lại buông trôi; thật
là
điên
đảo
sai lầm!
Nay dựa
vào luật Tứ
phần,
nêu lên những
điều Phật
chế
để
tiện việc
tuân hành.
Ðối
với Hòa thượng
và Giới sư
phải như
thế nào?
Tùy theo thời
gian cần, và thích hợp.
Nếu nạn
duyên thì cho phép nhiều
lắm là 3 người
mỗi lần
thọ, chứ
tuyệt
đối
không
được nhiều
hơn.
Ðể
khỏi
trở thành phi pháp, lược
thuyết minh bốn
vấn
đề:
a) Phương pháp xuất
gia thọ 10 giới.
b) Phương
pháp thỉnh Hòa thượng
và cật vấn
trọng nạn
đối với
giới tử.
c) Phương pháp
đăng
đàn thọ
Cụ.
d) Phương pháp
đắc
giới và không
đắc
giới.
A. Nói
rõ về phương pháp xuất gia và thọ 10 giới
Không
được
độ người
ngoại
đạo
phá hoại Chánh pháp.
Căn
bản bách nhất
yết-ma
thuyết minh:
Người ngoại
đạo xin xuất gia, cho họ
Tam quy và Ngũ giới.
Rồi hướng
dẫn họ
đối diện
trước Tăng
cầu xin bốn
tháng sống chung. Văn
xin như sau:
“Xin Ðại
đức
Tăng
lắng
nghe! Con tên là... là người
ngoại
đạo,
xin Tăng
cho con bốn
tháng sống
chung. Cúi xin Tăng
thương
xót cho con
được
sống
chung bốn
tháng”.
(Thưa xin 3 lần).
Chư
Tăng
bảo họ
đứng chỗ
mắt thấy
tai không nghe. Thảo
bàn xong, Bạch tứ
yết-ma cho phép họ
bốn tháng sống
chung. Thời gian bốn
tháng
đó, bằng
mọi cách thử
thách, tư tưởng
họ như
thế nào,
để
sau bốn tháng quyết
định cho hay không
cho họ
xuất gia.
Ðối
với
đạo “Búi tóc” và “Thờ
lửa” khỏi
phải bốn
tháng sống thử
thách
đó.
Không
được
độ
đày
tớ của
người.
Không
được
độ bọn
người làm giặc.
Luật
Ngũ phần
nói:
Người
làm giặc mà nhàm chán nghiệp
ác, cầu xin xuất
gia, thì
đem họ
đến
địa
phương không ai biết
họ, cho họ
xuất gia thọ
Cụ.
Không
được
độ người
mắc nợ.
Luật
Thiện kiến
nói:
Có người
vì họ trả
số nợ
đó thì
được
độ họ
xuất gia.
Không
được
độ
người
có 5 chứng
bệnh như
sau: bệnh
hủi,
bệnh
ung thư,
bệnh
hủi
trắng,
bệnh
càn tiêu,
bệnh
điên cuồng
(bệnh
nan y).
- Không
được
độ người
mà cha mẹ họ
không
đồng ý.
Luật
Thiện kiến
nói:
Có các
địa
phương, quốc
độ,
độ
người xuất
gia khỏi phải
hỏi cha mẹ
họ.
Không
được
độ người
tại chức
của nhà quan.
Họ
hết
ăn
lương rồi
thì
được
độ.
Hoặc họ
xin phép vua mà vua
đồng ý thì
được
độ.
Người
phạm tịnh
hạnh Tỳ-kheo-ni,
vào
đạo với
tâm giặc, huỳnh
môn, súc sanh, người phạm
tội ngũ
nghịch... chưa
xuất gia thì không
được
độ cho xuất
gia, xuất gia rồi
thì phải diệt
tẫn.
Vấn
đề phạm
tịnh hạnh
Tỳ-kheo-ni, luật
Thiện kiến
thuyết
minh: Phạm tịnh
hạnh với
Tỳ-kheo-ni, người
phạm lần
đầu khiến
ni mất trinh thì người
đó không
được
xuất gia, người
phạm lần
thứ hai
đối
với người
ni
đó thì không trở
ngại
đối
với việc
xuất gia.
Vấn
đề vào
đạo
với tâm giặc,
luật Tăng
kỳ
thuyết minh: Nếu
người tự
nguyện xuất
gia mà chưa từng
dự lễ
Bố-tát, Tự
tứ, rồi
hoàn tục, sau
đó
tâm tốt phát sanh xin xuất
gia lại thì
được
độ xuất
gia thọ giới
Cụ túc. Nếu
người
ấy
đã từng
dự lễ
Bố-tát, Tự
tứ tức
gọi là
đạo
trụ (sống
để trộm
pháp), không cho phép xuất
gia. Nếu con của
vua hay con của
đại
thần tỵ
nạn tự
mặc áo cà-sa cũng
vậy.
Nếu
muốn
cạo
đầu
để
độ
xuất gia trong phạm
vi Tăng-già-lam thì phải
thưa với
tất cả
Tăng
được
biết. Nếu
không tập họp
được thì dẫn
đương sự
đến từng
phòng
để thưa
cho biết rồi
mới cạo
đầu. Trường
hợp tập
họp
được
thì tác bạch rồi
sau mới cạo
đầu. Văn
tác bạch như
sau:
“Xin Ðại
đức
Tăng
lắng
nghe! Người
này tên là... muốn
cầu
tôi tên là... cạo
tóc. Nếu
thời
gian thích hợp
đối
với
Tăng,
Tăng
chấp
thuận
cho người
này tên là... cạo
tóc. Ðây là lời
cáo tri.
Luật
Tăng kỳ
thuyết
minh: Không cho phép, không bạch
Tăng mà
độ
người xuất
gia, bạch việc
cạo
đầu
mà không bạch việc
xuất gia phạm
tội Việt
tỳ-ni. Cả
hai
đều khoâng bạch,
phạm hai tội
Việt tỳ-ni.
Nếu
độ
ngoài cương giới
thì không phạm.
Vị
A-xà-lê nên tác bạch:
“Xin
Ðại
đức
Tăng
lắng
nghe! Người
này tên là... cầu
Tỳ-kheo
tên là... xuất
gia. Nếu
thời
gian thích hợp
đối
với
Tăng,
Tăng
chấp
thuận
cho người
này tên là... xuất
gia. Ðây là lời
tác bạch.
(Nếu
không
đủ
bốn Tỳ-kheo
trở lên thì không nên
tác bạch).
Xuất
gia có nghĩa là thọ 10 giới.
Nếu không thọ
10 giới, chỉ
cạo
đầu,
không
được gọi
là xuất gia. Thọ
10 giới rồi
gọi là pháp
đồng
Sa-di vậy.
Bạch
rồi,
bảo họ
mặc áo hoại
sắc, trống
vai mặt, quỳ
gối chắp
tay thưa rằng:
“Con tên là... quay về
nương
với
Phật,
quay về
nương
với
Pháp, quay về
nương
với
Tăng.
Theo đức
Như
Lai xuất
gia. Tỳ-kheo
hiệu...
làm Hòa thượng.
Ðức
Như
Lai bậc
chí nhơn,
Ðẳng
chánh giác, là
đấng
Thế
Tôn của
con. (nói 3 lần).
“Con tên là... quay về
nương
với
Phật,
quay về
nương
với
Pháp, quay về
nương
với
Tăng.
Theo Ðức
Như
Lai xuất
gia rồi.
Tỳ-kheo
hiệu...
làm Hòa thượng.
Như
Lai bậc
chí chơn,
Ðẳng
chánh giác, là
đấng
Thế
Tôn của
con”.
(nói 3 lần)
“Như
chư
Phật,
trọn
đời
không sát sanh, con tên là... cũng
trọn
đời
không sát sanh.”
“Như
chư
Phật,
trọn
đời
không trộm
cắp,
con tên là... cũng
trọn
đời
không trộm
cắp.”
“Như
chư
Phật,
trọn
đời
không dâm dục,
con tên là... cũng
trọn
đời
không dâm dục”.
“Như
chư
Phật,
trọn
đời
không nói dối,
con tên là... cũng
trọn
đời
không nói dối”.
“Như
chư
Phật,
trọn
đời
không uống
rượu,
con tên là... cũng
trọn
đời
không uống
rượu”.
“Như
chư
Phật,
trọn
đời
không đeo
tràng hoa thơm,
không thoa
đồ
thơm
vào mình, con tên là... cũng
trọn
đời
không đeo
tràng hoa thơm,
không thoa
đồ
thơm
vào mình.”
“Như
chư
Phật,
trọn
đời
không ca múa xướng
hát, khoâng
đến
xem nghe, con tên là... cũng
trọn
đời
không ca múa xướng
hát, không
đến
xem nghe”.
“Như
chư
Phật,
trọn
đời
không ngồi
giường
cao rộng
lớn,
con tên là... cũng
trọn
đời
không ngồi
giường
cao rộng
lớn”.
“Như
chư
Phật,
trọn
đời
khoâng ăn
phi thời,
con tên là... cũng
trọn
đời
không ăn
phi thời”.
“Như
chư
Phật,
trọn
đời
không cầm
nắm
sanh tượng
vàng bạc,
vật
báu, con tên là... cũng
trọn
đời
không cầm
nắm
sanh tượng,
vàng bạc,
vật
báu”.
Ba pháp Quy y và Mười
giới trên
đều
do Thầy A-xà-lê hướng
dẫn nói. Kế
tiếp ngài A-xà-lê dạy:
“Ông nay
đã
thọ 10 giới
Sa-di rồi, nên trọn
đời vâng giữ
đừng
để
trái phạm. Nên cúng dường
Tam Bảo. Tất
cả những
điều
như pháp Hòa thượng
và A-xà-lê dạy bảo
không
được trái nghịch.
Tâm thường cung kính bậc
thượng, trung, hạ
tọa. Siêng năng
cầu học
tọa thiền,
tụng kinh. Yểm
trợ việc
làm phước. Ðóng cửa
ba
đường dữ,
mỡ ngỏ
Niết-bàn. Ðối
với các pháp của
Tỳ-kheo nên tăng
trưởng Chánh nghiệp
để
đạt
đến bốn
đạo quả”.
(Thọ
giới Sa-di phải
đủ 2 thầy
‘Hòa thượng và A-xà-lê’. Như ngài Xá-lợi-phất làm Hòa thượng,
ngài Mục-kiền-liên làm Xà-lê truyền
giới trong giới
đàn La-hầu-la
thọ giới
Sa-di vậy. La-hầu-la còn thế,
các truờng hợp khác nên biết).
Hỏi:
Dựa
vào pháp Sa-di thập
giới
thì trước hết
thọ Tam quy, Ngũ
giới rồi
thuyết 10 giới
xuất gia, là quy củ
chánh yếu của
Phật. Giả
như có kẻ
bạch y, muốn
cầu xuất
gia, không thọ 5 giới,
vội thọ
10 giới, như
vậy có
đúng
pháp không?
Ðáp: Nếu
đã thọ
5 giới
thì nên cho cạo
đầu
rồi
thọ
10 giới.
Nếu
chưa
thọ
5 giới
thì trước
hết
cho thọ
5 giới
rồi cạo
tóc, thuyết 10 giới.
Trường hợp
không thọ 5 giới,
vội nói 10 giới
đồng như
không thọ 10 giới
mà thọ Cụ
túc giới thì người
này tuy
đắc giới,
nhưng hai thầy
Hòa thượng và Xà-lê mắc
tội vậy.
Phần
thứ hai
thuyết
minh:
Phòng xá, ngọa
cụ phân phối
cho Sa-di, theo thứ
tự
sau Tỳ-kheo hạ
tọa. Không
được
khiến Sa-di ngồi
nằm trên giường
dây. Nếu họ
có thể giữ
gìn không nhơ nhớp
thì cho họ nằm
ngồi.
Phần
thứ tư
thuyết
minh:
Sa-di nên lấy
tuổi
đời
làm thứ tự.
Nếu tuổi
đời bằng
nhau thì lấy tuổi
đạo tức
tuổi xuất
gia làm thứ tự.
Luật
Tăng kỳ
thuyết
minh:
Sa-di nhỏ
nhất là 7 tuổi.
Nếu 7 tuổi
mà không biết tốt
xấu
đều
không nên cho xuất
gia. Già nhất là quá 70 tuổi
mà có thể làm
được
công việc. Nếu
dưới 70 tuổi
mà không làm
được việc
gì, nằm ngồi
phải nhờ
người,
đều
không nên cho xuất
gia. Nếu
tuổi 70 mà mạnh
khoẻ, có thể
tu tập và làm các việc
thì nên cho xuất
gia. Khi xuất gia nên cạo
râu trước rồi
cạo tóc sau.
Ðối
với
người cầu
xuất gia không nên nói
xuất
gia sướng, nên nói xuất
gia khổ. Từ
việc
ăn
đến việc
ngủ
đều
thiếu thốn.
Thức nhiều,
ông có chịu
được
không? Nếu họ
nói
được, thì cho cạo
tóc.
Từ
7 tuổi
đến 13 tuổi
gọi là Khu ô Sa-di.
Từ
14 tuổi
đến 19 tuổi
gọi là
Ứng
pháp Sa-di.
Từ
20 tuổi
đến 70 tuổi
gọi là Danh tự
Sa-di.
Vật
thực
và y phục phi thời
thì cung cấp như
nhau. Y an cư thì cho nhận
1/2 hay 1/3 so với
Tỳ-kheo.
Căn
bản ni-đà-na
thuyết
minh:
Mới
6 tuổi
tuy có thể
đuổi quạ
được cũng
không cho xuất gia. Dù 7 tuổi
mà không thể
đuổi quạ
được thì cũng
không cho xuất gia.
Hỏi: Kinh Xuất gia công
đức
nói: “Trong cõi Diêm-phù-đề, nếu
có người xuất
gia trì giới, một
ngày
một
đêm cho
đến
giây lát thanh tịnh
thì lợi
ích không xiết kể.
Nếu ai gây trở
ngại ngăn
chặn việc
xuất gia
ấy,
tức là cướp
đoạt
vô lượng thiện
tài, phải nhận
lấy ác quả”.
Nay luật Tăng kỳ
lại
nói: “Ðối với
người cầu
xin xuất gia, không nên
nói xuất
gia sướng, nên nói xuất
gia khổ v.v...” như
vậy có phải
là cản trở
ngaên chặn việc
xuất gia không?
Ðáp:
Ðối với
người tín tâm xuất
gia thì không trở
ngại.
Kẻ tà tâm nhập
đạo, cần
phải gạn
lọc. Ðối
với người
thiện tâm mà trở
ngại thì làm cho họ
thối mất
thiện căn,
mà nếu không gạn
lọc thì sẽ
làm cho Phật pháp bị
bại hoại.
Hơn nữa,
trong kinh chỉ
khuyên thân hữu quyến
thuộc không nên cản
trở họ;
trong luật lại
dạy Hòa thượng
và A-xà-lê không
được nhiếp thọ
một cách bừa
bãi.
Luật
Thiện kiến
nói rõ:
Sa-di phạm
phải 10
điều ác sau
đây
cần phải
diệt tẫn:
Sát,
đạo, dâm, khi (lừa
dối), uống
rượu, huỷ
báng Phật, Pháp, Tăng,
tà kiến,
ố
ni. Chín
điều
trước cải
quá không làm lại
còn có thể
cho thọ Cụ.
Ðiều chót nhất
quyết không thể
được.
Dựa
vào luận
Tát-bà-đa thì người
nào phạm trọng
giới trong 5 giới
hay 8 giới còn không thể
thẳng tiến
trên vấn
đề
tu hành
được, huống
chi là Sa-di. Nay nói rằng “có thể
cho thọ Cụ”
là
đặt nặng
ở chỗ
sám hối, không làm lại.
Cũng như
Tỳ-kheo, tuyệt
nhiên không che giấu,
sau khi phạm giới,
được cho học
giới vậy.
Trong chức năng
Hòa thượng,
đặc
biệt giữ
kín
điều
này,
đừng
để
cho Sa-di trộm biết
vậy.
Hỏi: Khi chính thức thọ
giới tại
sao Hòa thượng lại
không thuyết giới?
Ðoạn sau lại
nói: Hòa thượng không có mặt
cũng
đắc
giới. Giả
như vị
A-xà-lê không có mặt,
Hòa thượng
có thể thay thế
truyền trao
được
không?
Ðáp:
Thọ giới
tuy nương nơi
Hòa thượng nhưng
thực hiện
bạch Yết-ma
ắt phải
nương vị
A-xà-lê. Ðiểm chính yếu
trong giới pháp xuất
gia, quan hệ nơi
Tăng luân, chứ
không cho phép truyền
thọ
một cách riêng tư
vậy. Nếu
hứa khả
cho vị Hòa thượng
tự nói thì vị
Yết-ma trở
thành vô quyền. Như
thế
ắt
có cái lỗi lộn
xộn trong vấn
đề
độ
người xuất
gia.
B.
Thuyết minh pháp thỉnh hoà thượng và vấn trọng nạn
Kiền-độ
thọ
giới
nói rằng:
Lúc bấy
giờ
có những
người
xuất
gia học
đạo,
không
được dạy
dỗ,
đánh
mất
oai nghi, mặt
y không ngay ngắn,
khất
thực
không như
pháp, khắp
nơi
thọ
đồ
ăn
bất
tịnh.
Hoặc
nhận
bát bất
tịnh
ăn,
trong bữa
ăn
kêu nói
ồn ào như
Bà-la-môn nhóm họp.
Có Tỳ-kheo
bệnh,
không người
chăm
sóc cho
đến mạng
chung, các Tỳ-kheo
bạch
Phật,
Phật
dạy:
“Từ
nay cho phép có Hòa thượng.
Hòa thượng
đối
với
đệ
tử
có ý niệm
như
con thơ.
Ðệ
tử
thờ
Hòa thượng
với
ý niệm
như
thờ
cha; cùng nhau kính nể,
cùng nhau săn
sóc. Có vậy
Chánh pháp mới
được
lâu bền,
điều
lợi ích thêm rộng lớn.”
Nghi lễ
thỉnh Hòa thượng:
Ðắp y trống
vai mặt, quỳ
gối, chắp
tay, tác bạch:
“Con tên là... nay thỉnh
Ðại
đức
làm Hòa thượng.
Xin Ðại
đức
vì con làm Hòa thượng.
Con nương
nơi
Ðại
đức
được
thọ
giới
Cụ
túc”.
(thưa
3 lần)
Hòa thượng
nên trả lời:
“Chấp
thuận
(khả dĩ)!”
Hoặc nói: “Tôi sẽ
dạy bảo
ông!” Hoặc nói: “Thanh tịnh
chớ buông lung!”
Khi mới
cạo tóc xuất
gia, cũng nên thỉnh
Hòa thượng như
vậy. Chỉ
đổi lời:
“Con nương nơi
Ðại
đức
để
được
xuất gia thọ
giới”.
Nếu
vị
Hòa thượng khi thọ
10 giới còn sống,
thì không nên thỉnh
Hòa thượng
khác.
Nếu
thọ
giới Cụ
túc mà vị Hòa thượng
tuyền 10 giới
hoặc
đi
xa, hoặc mạng
chung, hoặc xả
giới, hoặc
bị diệt
tẫn, không còn
để
nương tựa
nữa thì phải
chọn lựa
một
đại
Tỳ-kheo
để
thỉnh làm Hòa thượng
cho mình.
Luật
định: phải hỏi
13 nạn sự,
trước khi Bạch
tứ yết-ma
truyền trao giới
Cụ túc (phải
giải thích cho giới
tử hiểu
rõ từng vấn
đề một,
trước khi họ
trả lời).
13 nạn
sự:
1) OÂng có phạm
biên tội không? (biên tội là cái tội
bị loại
qua một bên). Ngoài từng thọ
Phật giới,
phạm tứ
trọng cấm,
bị loại
ra ngoài biển của Phật
pháp. (Nếu phá trọng giới
trong 10 giới, 8 giới hay 5 giới,
thành tâm sám hối,
có thể tha thứ,
chứ phá trọng
giới trong Cụ
túc giới (dành cho vị
tu xuất muốn
tu lại thì vĩnh
viễn không cho phép thọ cụ
vậy).
2) Ông có phá phạm
hạnh của
người không? (chính
mình chưa thọ
giới của
Phật mà phá tịnh
hạnh của
người
đệ
tử Phật
trì giới thì gọi
là phá phạm hạnh. Trường
hợp nếu
phá phạm hạnh
của 5 chúng thì cho
phép sám hối. Nhưng
nếu phá hoại
phạm hạnh
của Tỳ-kheo
hay Tỳ-kheo-ni thì không thể sám hối
được).
3) Ông có phải là người
vào
đạo với
tâm làm giặc không? (khi làm cư sĩ
hay Sa-di lén nghe Yết-ma
thuyết giới,
đồng
dự vào Tăng
sự thì gọi
là vào
đạo với tâm làm giặc
‘người
ăn
cắp Chánh pháp’).
(Luật
Tăng kỳ
nói: Nếu
lén nghe mà không hiểu
rõ
đầu
đuôi thì
được
thọ Cụ
túc).
4) Ông có phá nội
ngoại
đạo
không? (tức chỉ cho người
từ ngoại
đạo vào xin thọ
Cụ túc giới,
rồi trở
lại ngoại
đạo, nay xin thọ
Cụ túc giới
lại. Kẻ
ấy tức
là kẻ phá nội
ngoại
đạo).
5) Ông có phải
là huỳnh môn không? (tức là hạng
người không phải
đàn ông, cũng
không phải
đàn bà).
6) Ông không phải
là kẻ giết
cha chứ? (Trường
hợp giết
cha ghẻ, cha nuôi còn có
thể cho sám hối,
chứ giết
cha
đẻ của
mình thì không dung cho sám hối
được).
7) Ông không phải
là người giết
mẹ chứ?
(Như trường
hợp
đối
với cha nói trên, giết mẹ
đẻ không cho sám hối).
8) Ông không phải
là người giết
A-la-hán chứ? (Nếu giết
người chứng
ba quả dưới
còn có thể cho sám hối, chứ
giết người
vô học chứng
quả thứ
tư thì không cho sám
hối vậy).
9) Ông không phải là người
phá Tăng chứ?
(Nếu phá Pháp luân Tăng vai chủ
vai phụ và phá Yết-ma
Tăng vai chủ,
hoàn tục rồi
trở lại
thì không cho thọ
Cụ. Nếu
phá Yết-ma Tăng
vai phụ, rồi trở
lại thì cho thọ
Cụ
được).
10) Ông không phải là kẻ
ác tâm làm thân Phật
ra máu chứ?
(Nạn này sau khi Phật diệt
độ, y theo văn
cũ mà nói. Nay ta có
thể hỏi:
Ông không phải là kẻ ác tâm huûy báng hình tượng
Phật chứ?
Nếu có cũng
thành trọng nạn).
11) Ông khoâng phải
là kẻ phi nhơn
chứ? (Trường
hợp Trời,
Tu-la, quỷ thần, biến
làm hình người cầu thọ
Cụ túc giới
thì không
đắc giới).
12) Ông không phaûi là súc sanh chứ?
(Trường hợp
rồng v.v... biến
làm hình người cầu thọ
Cụ túc giới,
cũng không
đắc
giới).
13) Ông không phaûi là người có hai hình chứ? (Chỉ
cho người một
thân mà
đủ cả hai căn
nam và nữ).
C.
Phương pháp đăng Ðàn thọ cụ
Phần
thứ hai
nói rõ:
Có 3 hạng
người không
được
thọ Cụ:
1) Hạng
người
không chịu xưng
tên mình.
2) Hạng
người
không xưng tên Hòa thượng.
3) Hạng
người
không chịu cầu
xin giới.
Khi thọ
giới Cụ
túc không mặc áo của
cư sĩ,
áo của ngoại
đạo và trang sức
những
đồ
trang nghiêm thân.
Không
được
cho người say ngủ,
say rượu,
điên
cuồng, loã hình, sân
nhuế
thọ giới
Cụ túc.
Không
được
cưỡng bức
người ta thọ
giới Cụ
túc.
Không
được
trao giới Cụ
túc cho người: tứ
chi, sáu căn không
đủ,
hình tướng xấu
xí, nhiều bệnh
hoạn, làm nhơ
nhớp chúng Tăng,
những người
như thế
đều không
được
thọ Cụ.
Thầy
và
đệ
tử phải
là người hợp
pháp (mãn số hay túc số).
Ở trong không trung,
không hiện hình,
ở
ngoài tầm nghe thấy,
ở ngoài cương
giới,
đều
không gọi là thọ
Cụ.
Trường hợp
không thọ giới
Sa-di trước mà thọ
giới Cụ
túc thì
đương sự
đắc giới
nhưng chúng Tăng
phạm tội.
Sau khi vị
Hòa thượng xét biết
ông Sa-di không có 13 nạn
sự rồi
thì chuẩn bị
y, bát, chọn thỉnh
hai thầy Yết-ma
và Giáo thọ với
các Tôn chứng, nhiên hậu
mới
đăng
đàn.
Hướng dẫn
người cầu
thọ giới
đứng chỗ
mắt thấy
mà tai không nghe. Vị
Yết-ma
phải tác bạch
sai vị Giáo thoï. Văn
tác bạch:
“Xin Ðại
đức
Tăng
lắng
nghe! Sa-di pháp danh là... theo Hòa thượng
hiệu
là... cầu
thọ
giới
Cụ
túc. Nếu
thời
gian thích hợp
đối
với
Tăng,
Tăng
chấp
thuận
Tỳ-kheo
hiệu
là... làm thầy
Giáo thọ.
Ðây là lời
tác bạch”.
Thầy
Giáo thọ
được sai,
đến
chỗ người
cầu thọ
Cụ túc giới
nói: “Ðây là y An-đà-hội,
Uaát-đa-la-tăng,
Tăng-già-lê, và
đây là bát-đa-la,
ông có
đủ không?”
Vị
cầu
thọ giới
thưa: “Dạ,
có
đủ”.
Vị
Giáo thọ
tiếp tục
nói: “Thiện nam tử
lắng nghe! Bây giờ
là lúc chí thành, lúc cần
nói thật. Nay tôi sẽ
hỏi ông; ông tùy theo
câu hỏi của
tôi mà
đáp.
Nếu không thì cứ
nói là không. Neáu có thì cứ
nói là có:
- Ông tên gì?
- Con pháp danh là...
- Hòa thượng
ông là ai ?
- ...
- Tuổi
ông
đủ 20 chưa?
- ...
- Y, bát
đủ
không?
- ...
- Cha mẹ
ông có cho phép không?
- ...
(Nếu
cha mẹ qua
đời
cũng nói rõ).
- Ông có thiếu nợ
ai không ?
- ...
- Ông có phải
là
đầy tớ
không?
- ...
(Nếu là
đầy
tớ mà chủ
cho phép cũng nói rõ).
- Ông có phải là người
tại chức
không ?
- ...
(Còn tại chức
được cấp
trên
đồng ý cũng
nói rõ).
- Ông có phải là bậc
trượng phu không?
- ...
(Trượng
phu có nghĩa là người nam tử).
- Trượng
phu có những bệnh
nan y không?
- ...
(Kể
rõ 5 thứ bệnh
nan y).”
Ngài Giáo thọ
nói tiếp: “Như
tôi vừa hỏi
ông. Lát nữa, giữa
Tăng cũng
sẽ hỏi
như vậy.
Ông trả lời
với tôi như
thế nào, giữa
Tăng ông cũng
trả lời
như vậy.”
Vị
Giáo thọ
nói như vậy
rồi, trở
lại vào giữa
Tăng, oai nghi như
thường lệ,
đứng nơi
vị trí vói tay
đến
Tăng, tác bạch
như thế
này:
“Xin Ðại
đức
Tăng
lắng
nghe! Sa-di pháp danh là... theo Hòa thượng
hiệu
là... cầu
thọ
giới
Cụ
túc. Nếu
thời
gian thích hợp
đối
với
Tăng,
Tăng
chấp
thuận,
tôi đã
hỏi
nạn
sự
xong. Xin phép cho Sa-di vào. Ðây là lời
tác bạch”.
Bạch
xong, quay ra, ra hiệu cho người
cầu thọ
giới vào giữa
Tăng. Vì họ
bưng y bát, bảo
họ
đảnh
lễ Tăng;
dạy họ
đến trước
vị Yết-ma,
quỳ gối
chắp tay. Hươùng
dẫn họ
tác bạch như
sau:
“Xin Ðại
đức
Tăng
lắng
nghe! Con pháp danh là... Hòa thượng
hiệu
là... cầu
thọ
giới
Cụ
túc. Con pháp danh là... nay theo chúng Tăng
cầu
xin thọ
giới
Cụ
túc. Ngài Tỳ-kheo
hiệu
là... làm Hòa thượng.
Nguyện
Tăng
thương
xót cứu
vớt
con”.
(Cầu
xin giới 3 lần
như vậy).
Vị
Yết-ma
tác bạch:
“Xin Ðại
đức
Tăng
lắng
nghe! Sa-di pháp danh là... theo Tỳ-kheo
hiệu
là... cầu
thọ
Cụ
túc giới;
Sa-di pháp danh là... nay theo chúng Tăng
xin thọ
giới
Cụ
túc. Tỳ-kheo
hiệu...
làm Hòa thượng.
Nếu
thời
gian thích hợp
đối
với
Tăng,
Tăng
chấp
thuận,
tôi sẽ
hỏi
các nạn
sự.
Ðây là lời
tác bạch”.
Rồi
vị
Yết-ma hỏi
giới tử:
“Thiện nam tử
lắng nghe! Bây giờ
là lúc chí thành, lúc cần
nói thật. Tôi nay hỏi
ông. Ông tùy theo câu hỏi
của tôi mà
đáp.
Nếu không thì cứ
nói là không. Nếu
có thì nói là có:
- Pháp danh ông là gì? - Hòa thượng
ông laø ai? -Ông
đủ 20 tuổi chưa?
- Y, bát ông
đủ không? - Cha mẹ ông có cho phép
không? - Ông có thiếu nợ
ai không? - Ông có phải
là
đầy
tớ không? - Ông có
phaûi là người tại
chức không? - Ông có
phải
là bậc trượng
phu không? - Trượng phu có những bệnh:
hủi, ung thư,
hủi trắng,
càn tiêu,
điên cuồng
không? (Hỏi và
đáp
như trước
đã trình bày).
Nhiên hậu
Bạch tứ
Yết-ma như
sau:
“Xin Ðại
đức Tăng
lắng
nghe! Sa-di pháp danh là... theo Tỳ-kheo
hiệu
là... cầu
thọ
giới
Cụ
túc. Tỳ-kheo
hiệu
là... làm Hòa thượng.
Sa-di pháp danh là... tự
nói thanh tịnh
không có các nạn
sự,
tuổi
đủ 20, ba y, bình
bát có
đủ. Nếu
thời
gian thích hợp
đối với
Tăng,
Tăng
chấp
thuận.
Tăng
nay truyền
trao giới
Cụ
túc cho Sa-di pháp danh là... Tỳ-kheo
hiệu...
làm Hòa thượng.
Ðây là lời
tác bạch”.
Vị
Yết-ma
hỏi và chung quyết:
“Xin Ðại
đức
Tăng
lắng
nghe! Sa-di pháp danh là... theo Tỳ-kheo
hiệu
là... cầu
thọ
Cụ
túc giới.
Sa-di pháp danh là... nay theo chúng Tăng
xin thọ
giới
Cụ
túc. Tỳ-kheo
hiệu...
làm Hòa thượng.
Sa-di pháp danh là... tự
nói thanh tịnh
không có nạn
sự,
tuổi
đủ
20, ba y, bình bát có
đủ.
Tăng
nay truyền
trao giới
Cụ
túc cho Sa-di pháp danh là... Tỳ-kheo
hiệu...
làm Hòa thượng.
Trưởng
lão nào
đồng ý Tăng
cho Sa-di pháp danh là... thọ
giới
Cụ
túc, Tỳ-kheo
hiệu...
làm Hòa thượng
thì im lặng.
Ai không
đồng ý xin nói. Ðây là Yết-ma
lần
thứ
nhất”
(Yết-ma lần
thứ nhì, lần
thứ ba cũng
nói như vậy).
“Tăng
đã
đồng
ý cho Sa-di pháp danh là... thọ
giới
Cụ
túc. Tỳ-kheo
hiệu...
làm Hòa thượng
rồi,
nên im lặng.
Việc
này tôi ghi nhận
như
vậy”.
Luật
Ngũ phần
nói rõ:
Thọ
giới rồi,
nên nói rằng: “Ông nay thọ
giới năm
nào, tháng nào, ngày nào, giờ
nào, vấn
đề
ấy ông phải
nhớ trọn
đời”.
Phần
thứ hai
nói rõ:
Lúc bấy
giờ có một
Tỳ-kheo thọ
giới rồi,
cả chúng
đều
về (trú xứ).
Riêng ông gặp vợ
cũ hành bất
tịnh. Khi trở
về trong chúng, chúng
hỏi
ông tại sao
đi
về sau. Ông kể
lại việc
đã làm. Chúng bảo
ông mau mau
đi chỗ
khác. Ông nói rằng:
Tại
sao không nói trước việc
ấy
để
ông
đừng làm?! Các Tỳ-kheo
bạch Phật,
Phật dạy:
“Từ nay tác Yết-ma
rồi, phải
nói 4 trọng giới
trước,
để
tránh tệ nạn
đó”.
Luận
Tát-bà-đa nói rõ:
Bạch
tứ
yết-ma xong là
đắc
giới. Còn vấn
đề nói tứ
y v.v... là chỉ
để
trao cho sự hiểu
biết vậy.
Truyền
trao 4 trọng giới:
“Thiện
nam tử
lắng nghe! Ðức
Như Lai là bậc
chí chơn Ðẳng
chánh giác, nói 4 pháp Ba-la-di. Nếu
Tỳ-kheo nào phạm
mỗi một
pháp tức không phải
là Sa-môn, không phải
chủng
tử họ
Thích .
1) Không
được
phạm
dâm dục,
làm hạnh
bất
tịnh.
Nếu
Tỳ-kheo
phạm
hạnh
bất
tịnh,
thọ
pháp dâm dục,
cho đến
cùng với
súc sanh thì cũng
không phải
Sa-môn, không phải
Thích tử.
Lúc bấy
giờ,
Ðức
Thế
Tôn nói lời
ví dụ:
Như
người
bị
chặt
đầu
không thể
sống
lại
được.
Ty-kheo cũng
như
vậy,
phạm
pháp Ba-la-di rồi
không thể
trở
lại
thành hạnh
Tỳ-kheo
được.
Vấn
đề
này, trọn
đời
ông không
được
phạm.
Ông có thể
giữ
được
hay không? Ðáp: Có thể.
2) Không
được
ăn
trộm
cho đến
một
cọng
cỏ.
Nếu
Tỳ-kheo
ăn
trộm
của
người
5 tiền
hay hơn
5 tiền,
hoặc
mình lấy,
hoặc
dạy
người
lấy,
hoặc
tự
phá, hoặc
dạy
người
phá, hoặc
tự
chặt,
hoặc
bảo
người
khác chặt,
hoặc
đốt,
hoặc
chôn, hoặc
thay đổi
màu sắc,
như
vậy
không phải
là Sa-môn, không phải
là Thích tử.
Ví như
cây Ða-la bị
chặt
lõi, không thể
sống
trở
lại.
Tỳ-kheo
phạm
Ba-la-di cũng
như
vậy,
trọn
đời
không thể
trở
lại
thành hạnh
của
Tỳ-kheo.
Vấn
đề
này, trọn
đời
ông không
được
phạm.
Ông có thể
giữ
được
hay không? Ðáp: Có thể.
3) Không
được
cố
đoạn
mạng
chúng sanh, cho
đến
loài kiến.
Nếu
Tỳ-kheo
cố
tự
tay đoạn
mạng
người,
cầm
dao trao cho người,
bảo
chết,
khen chết,
khuyên chết,
hoặc
cho uống
thuốc
độc,
hoặc
làm đọa
thai, hoặc
trù ếm
cho chết.
Tự
mình tạo
phương
tiện,
hoặc
dạy
người
khác làm thì không phải
hạnh
Sa-môn, không phải
là Thích tử.
Lời
ví dụ
nói rằng:
Cũng
như
cây kim bị
sứt
lỗ
không thể
sử
dụng
được.
Tỳ-kheo
cũng
như
vậy,
phạm
pháp Ba-la-di, không thể
trở
lại
thành hạnh
Tỳ-kheo
được.
Vấn
đề
này, trọn
đời
ông không
được
phạm.
Ông có thể
giữ
được
hay không? Ðáp: Có thể.
4) Không
được nói dối,
kể
cả
nói
đùa. Nếu
Tỳ-kheo
không thật,
chẳng
phải
mình có, tự
nói rằng
tôi
đắc pháp thượng
nhơn,
đắc thiền,
đắc giải
thoát,
đắc
định,
đắc bốn
không
định,
đắc quả
Tu-đà-hoàn,
quả
Tư-đà-hàm,
quả
A-na-hàm, quả
A-la-hán, trời,
rồng,
quỷ,
thần
đến hầu.
Như
thế
không phải
là Sa-môn, không phải
là Thích tử.
Trong ví dụ
nói: Thí như
hòn
đá lớn
bị
vỡ
làm hai, không thể
liền
lại
được. Tỳ-kheo
cũng
như
vậy,
phạm
pháp Ba-la-di, không thể
trở
lại
thành hạnh
Tỳ-kheo
được. Vấn
đề này, trọn
đời ông không
được phạm.
Ông có thể
giưõ
được hay không? Ðáp:
Có thể.
(Trên
đây
là bốn trọng
giới).
Bây giờ
đến Tứ
y:
“Thiện
nam tử
lắng
nghe! Ðức
Như
Lai là bậc
chí chơn
Ðẳng
chánh giác nói pháp Tứ
y. Tỳ-kheo
nương
theo
đây mà
đặng xuất
gia thọ
giới
Cụ
túc, thành pháp Tỳ-kheo.
1) Tỳ-kheo
nương
theo y phấn
tảo.
Nương
nơi
đây
đặng
xuất
gia thọ
giới
Cụ
túc, thành pháp của
Tỳ-kheo.
Việc
này trọn
đời
ông có thể
giữ
được
không? Ðáp: Có thể.
Trường hợp
được của
dư, Ðàn-việt
cho y, y bị cắt
hư thì
được
nhận.
2) Tỳ-kheo
nương
theo nếp
sống
khất
thực.
Tỳ-kheo
nương
nơi
đây
đặng
xuất
gia thọ
giới
Cụ
túc, thành pháp của
Tỳ-kheo.
Việc
này trọn
đời
ông có thể
giữ
được
không? Ðáp: Có thể.
Trường hợp
được của
dư, hoặc
Tăng sai thọ
thực, hoặc
Ðàn-việt dâng cúng những
ngày chay, hoặc
là Tăng
thường thỉnh
hay Ðàn-việt thỉnh
thì
được thọ.
3) Nương
nơi
dưới
gốc
cây, Tỳ-kheo
nương
nơi
đây
đặng
xuất
gia thọ
giới
Cụ
túc, thành pháp của
Tỳ-kheo.
Việc
này trọn
đời
ông có thể
giữ
được
không? Ðáp: Có thể.
Trường hợp
được của
dư, hoặc
phòng riêng, nơi
nghỉ
tạm phòng nhỏ,
hai phòng một cửa
thì
được thọ.
4) Nương
nơi
các loại
thuốc
hủ
lạn,
Tỳ-kheo
nương
nơi
đây
đặng
xuất
gia, thọ
giới
Cụ
túc, thành pháp của
Tỳ-kheo.
Việc
này trọn
đời
ông có thể
giữ
được
không? Ðáp: Có thể.
Trường hợp
được của
lợi, sữa,
dầu, sữa
sống,
đường
hay
đường phèn thì
được thọ.
Lời
giáo huấn kết thúc:
“Ông
đã
thọ giới
rồi, Bạch
tứ yết-ma
thành tựu
đúng
pháp. Thực hành
đúng
cách. Hòa thượng như pháp. A-xà-lê như
pháp. Chúng Tăng
đầy
đủ
đúng
pháp. Ông nên khéo thọ
học giáo pháp. Nên
khuyến
hóa việc làm phước,
tu bổ Tháp, cúng dường
Phật pháp chúng Tăng.
Hòa thượng, A-xà-lê, những
gì quý vị dạy
đúng như
phaùp, không
được trái nghịch.
Cần học
hỏi, tụng
kinh, siêng năng
cầu
phương tiện.
Trong giáo pháp của
Phật
cầu chứng
quả Tu-đà-hoàn,
Tư-đà-hàm,
A-na-hàm, A-la-hán. Có như
vậy, sơ
tâm xuất gia của
ông mới không luống
uổng, quả
báo không tuyệt. Những
gì ông chưa biết
nên hỏi Hòa thượng,
A-xà-lê.
(Kết
thúc hồi hướng
xong, bảo giới
tử ra trước,
Thập sư
tuần tự
ra. Hán văn gọi
là “mạt vị
tiên hành”).
D. PhƯơng pháp đắc giới và không đắc giới
Phần thứ
hai
nói rõ:
Trường
hợp gặp
tám nạn và các nhân duyên
khác thì cho phép mỗi lần
tác pháp Yết-ma hai, hoặc
ba người giới
tử chứ
không
được nhiều
hơn.
(Tám nạn là: Vương,
tặc, thủy,
hỏa, bệnh,
nhơn, phi nhơn,
có trùng. Các nhân duyên khác là: Chúng
đông
mà tọa cụ
ít, hoặc phòng xá ít mà trời mưa
lũ dột).
Luật Thập
tụng
nói:
Không
được cho bốn
người thọ
đại giới
một lần.
Căn
bản tạp
sự
nói:
Không
được
bốn người
đồng thoï Tỳ-kheo
(cận viên). Vì sao?
Chúng này tác Yết-ma cho chúng kia, lý trái vậy.
Luật
Ngũ phần
nói rõ:
Cho phép khi Bố-tát,
Tự tứ,
Tăng tập
hợp, thọ
giới Cụ
túc. Không nên vì một
việc
nhỏ làm trở
ngại người
thọ giới.
Người nào
đến
trước nơi
địa
điểm thọ
giới thì cho thọ
giới trước.
Trường hợp
hai người cùng một
tuổi thì cho vị
nào
đệ tử
của Hòa thượng
cao hạ hơn
thọ trước.
(Trong
đàn
giới, bố
trí một mình vị
tác pháp Yết-ma ngồi giữa.
Hoặc có hai Tỳ-kheo,
mỗi người
dẫn một
Sa-di
đến cầu
thọ giới
thì cho vị
đệ tử
của Hòa thượng
giới lạp
lớn hơn
thọ trước.
Ðiều nên biết
là khi truyền giới Cụ
túc cho ông Sa-di này thì vị
Hòa thượng kia
đóng
vai Tôn chứng. Ngược lại,
khi truyền giới Cụ
túc cho ông Sa-di kia thì vị
Hòa thượng này
đóng
vai Tôn chứng).
Nếu
Hòa thượng laïi
đồng.
(Câu này có hai ý:
- Hai vị
Hòa thượng giới
lạp
đồng
nhau.
- Có vị
đức
độ
và hiểu biết
hơn.
Trường
hợp như
Ngài
Ưu-ba-ly, Xá-lợi-phất
v.v... thì hứa cho một năm
được
độ
hai hay ba người
đệ tử).
Mỗi
lần Yết-ma,
người nào gọi
tên trước thì cho thọ
trước. (Như
hai người sinh
đôi,
đứa ra ngoài bào
thai trước
đóng vai anh vậy).
Trường hợp
ba người cũng
như vậy.
Bao nhiêu sự việc
khác cũng có thể
Yết-ma mỗi
lần chỉ
ba người. Tất
cả không
được
Yết-ma mỗi
lần bốn
người.
Phần
thứ hai
nói rõ:
Không có Hòa thượng,
không
được thọ
giới.
Luật
Thiện kiến
nói:
Nếu
không có Hòa thượng mà cho thọ giới
thì người
chủ
động
phạm tội
Ðột-kiết-la,
giới tử
không
đắc giới.
Luận
Tát-bà-đa nói rõ:
Nếu
trước
có thỉnh Hòa thượnng
để thọ
10 giới pháp, Hòa thượng
không hiện tiền
cũng
đắc
thập giới.
Trường hợp
Hòa thượng viên tịch,
giới tử
biết thì không
đắc
giới. Nếu
giới tử
không biết thì
đắc
giới.
Trường hợp
Bạch tứ
yết-ma thọ
Cụ túc giới,
Hòa thượng không hiện
tiền, không
được
thọ giới,
vì Tăng số
không
đủ vậy.
Nếu Tăng
số
đủ,
dầu không có Hòa thượng,
cũng
đaéc
giới.
Phần
thứ hai
nói rõ:
Hai Hòa thượng
cho
đến nhiều
Hòa thượng cũng
không
được thọ
giới. (Một
người chỉ
có một Thân giáo sư.
Ví như cha
đẻ
không thể có nhiều ông
được.
Trường hợp
đối với
vị giới
tử này trong chức
năng Hòa thượng,
nhưng
đối
với vị
giới tử
kia lại là Tôn chứng,
đều không phải
trường hợp
này vậy).
Hòa thượng
9 tuổi hạ,
được gọi
là
đắc giơùi,
nhưng chúng Tăng
có tội.
Bộ
Nam hải ký quy
nói rằng:
Vị
Thân giáo sư,
đủ 10 hạ mới
đúng lý. còn vị Yết-ma,
vị Giáo thọ
và các vị khác thì
đều
không nhất
định
vậy.
Luật
nhiếp
nói rõ:
Nơi
biên
địa
có thể có mười
vị mà sử
dụng 5 vị
để thọ
giới Cụ
túc thì chúng Tăng
mắc
tội Việt
pháp. Nếu chỉ
có thể có 5 vị
mà dùng 5 vị thì
được
gọi là thiện
thọ.
Trường hợp
chúng Tăng không
đủ
thì không
được dùng Phật
tính vào cho
đủ số.
Vì Phật-đà,
Tăng-già, Bảo
thể (thể
báu) có khác. Nếu
là người
cuồng, người
điếc
và Thiên Thọ bộ
v.v...
đem tính cho
đủ
số thì không thành cận
viên. (Thiên Thọ
bộ
tức là bọn
bè bạn của
Ðiều-đạt
phá Tăng).
Luật
Tát-bà-đa nói rõ:
Trường
hợp bà Ðại
Ái Ðạo, chấp
nhận tám pháp thọ
giới,
đức
Phật không cho người
làm Hòa thượng, A-kỳ-lợi, nhưng
có thể gọi
ngài A-Nan là A-kỳ-lợi,
tức là A-xà-lê”.
Căn
bản ni-đà-na
nói rõ:
Người
không có nạn sự
mà tự nói là tôi có nạn
sự. Người
ấy thọ
cận viên, các Bí-sô mắc
tội Việt
pháp. Người thật
có nạn sự
mà tự nói là tôi không
có nạn
sự thì không gọi
là thọ cận
viên, các Bí-sô không phạm.
Nếu họ
nói: “Ðừng trao giới
cận viên”, các Bí-sô
mắc
tội Việt
pháp. Chưa thọ
10 giới mà thọ
cận viên, người
ấy
đắc
giơùi, các Bí-sô mắc
tội Việt
pháp. (Ðồng với
quan
điểm
của Tứ
phần).
Phần
thứ hai
(luật
Tứ phần)
nói rõ:
Giới
tử nào biết
vị Hòa thượng
đó không trì giới
mà theo cầu thọ
giới Cụ
túc thì không
đắc giới,
nếu không biết
thì
đắc giới.
Luật
Ngũ phần
nói rõ:
Trường
hợp Hòa thượng,
A-xà-lê thôi tu, sau
đến
đệ tử
của mình
để
xin xuất gia, thọ
giới Cụ
túc lại, vị
đệ tử
nên cho y bát và giúp
đỡ
cho công việc
được
thành tựu. Trường
hợp
ấy
cũng cho phép vị
đệ tử
làm thầy truyền
giới. Người
kia thọ giới
lại, kính thầy
đúng như
pháp, tuy trước
đây
là
đệ tử
của mình.
Phần
thứ hai
(luật
Tứ phần)
nói:
Trường hợp
người bị
chúng cử tội
rồi bỏ
đạo, sau trở
lại xuất
gia, nếu tự
thấy tội,
nên cho thọ cụ.
Thành taâm sám hối
nên giải
Yết-ma.
Luận
Tát-bà-đa nói:
Người 60 tuổi không
được
cho thọ
đại
giới, chỉ
nên cho thọ Sa-di.
Có bảy
cách thọ
giới:
1) Kiến
đế thọ
giới
(trường hợp
ông Kiều Trần
Như vừa
hiểu rõ Thánh
đế
tức gọi
đắc giới).
2) Thiện
lai
đắc giới
(trường
hợp những
vị túc căn
đầy
đủ,
vừa gặp
Phật, Phật
gọi là Thiện
lai Tỳ-kheo, liền
đắc giới).
3) Tam ngữ
đắc giới
(Phật
thành
đạo chưa
bao lâu, có người gaëp Phật, tự
xướng lên rằng:
“Tôi nay quy y Phật,
quy y Pháp, quy y Tăng”, liền
gọi là
đắc
giới).
4) Tam quy thọ
giới
(Tăng
đoàn
đầu tiên 1.250 vị
Tỳ-kheo, Phật
dạy
đi
giáo hóa các phương, có người phát tâm xuất
gia, nói Tam quy 3 lần,
liền
đắc giới).
5) Tự
thệ thọ
giới
(Như ngài Ma-ha Ca-diếp
ban
đầu xuất
gia chưa từng
gặp Phật,
ngài tự thề
rằng: “Trong thế
gian này ai là bậc
tối
Chánh giác là Thầy
của
tôi, tôi là
đệ tử.”
Tức gọi
là
đắc giới.
Ðắc giới
rồi sau mới
gặp
đức
Thế Tôn).
6) Bát pháp thọ
giới
(bà Ðại Ái Ðạo
cùng 500
thể
nữ chấp
nhận 8 pháp “không
được vượt qua”, liền
đắc giới).
7) Bạch
tứ yết-ma
đắc giới
(tức
là sau khi tác pháp Yết-ma
4 lần liền
đắc giới).
(Hoặc
khai cho Ni 8 lần bạch
Yết-ma
để thọ
giới là cách
đắc
giới thứ
8. Tỳ-kheo-ni Pháp Dữ
nhờ người
tín cẩn thay mình
đến
đại Tăng
thọ Chánh pháp Yết-ma,
gọi là cách
đắc
giới thứ
9, và nơi biên
địa
cho 5 người truyền
giới Cụ
túc, gọi là cách thứ
10, không
đồng nhau).
Phật
pháp xưa
nay
đều dùng cách
đắc
giới Bạch
tứ yết-ma
làm tông bổn. Nó có khả
năng kế
tục ngôi Tam bảo,
tạo ra vô biên việc
phước lợi.
Cho nên trong bảy
cách
đắc
giới nó là tối
thắng, tối
diệu, quá
ư
tôn quí.
(Thiện
lai, chỉ
hạn
cuộc
nơi
kim khẩu.
Tam ngữ,
Tam quy, chỉ
hạn
cuộc
trước
khi chưa
Bạch
tứ
yết-ma.
Tám pháp, chỉ
trường
hợp
500 Tỳ-kheo-ni
đầu tiên và bà
Ðại Ái Ðạo.
Tự thệ,
chỉ mình ngài Ðại
Ca Diếp, Kiến
đế, chỉ
có 5 vị Tỳ-kheo
đầu tiên. Riêng cách
Bạch tứ
yết-ma
đắc
giới là cương
lãnh giáo hóa của
Phật, khiến
cho Chánh pháp cửu
trụ,
đạo
quả Ba thừa
không chấm dứt vậy).
Luật
Thập tụng
nói rằng:
Người nào thọ
đại giới
trước dù chỉ
trong một chớp
nhoáng (tu-du) cũng
nên mời
ngồi trước,
thọ nước
và thức
ăn
trước.
Luật
Thiện kiến
nói:
Tỳ-kheo
nào thật
sự chỉ
mới một
hạ, man khai là hai hạ,
dựa theo cấp
bậc của
vị hai hạ
nhận lợi
dưỡng thì tính thành
tiền
mà phạm trọng
tội, neáu
đúng
như số
luật
đã
định.
Bộ
Nam hải ký quy
nói:
Từ
16 tháng Chín
đến Rằm
tháng Giêng là mùa Ðông (xưa
gọi 16 tháng Tám
đến rằm tháng 12), từ
16 tháng Giêng
đến 15 tháng Năm là mùa Xuân (xưa
gọi là 16 tháng 12
đến 15 tháng Tư), từ
16 tháng Năm
đến
15 tháng Chín là mùa mưa
(xưa gọi
là 16 tháng Tư
đến
15 tháng Tám là mùa Hạ),
từ 16 tháng Sáu,
trong vòng một ngày
đêm
thời gian chót của
hậu an cư
(xưa gọi
là 16 tháng Năm, trong vòng một ngày một
đêm
đó
mà thọ Cụ
túc giới thì cũng
được thọ
hậu an cư,
cho
đến mãn 3 tháng,
được tính là một
hạ. Ví như
người
đời
ngày chót tháng 12 sanh cũng
tính một tuổi. Ðây là thời
gian cuối cùng vậy. Nếu
17 tháng Năm thọ Cụ
túc giới thì không
được
thọ hậu
an cư, chỉ
gọi là Tỳ-kheo
chưa có hạ
nào. Ðợi cho
đến
sang năm mới
thọ hoặc
tiền an cư
hoặc hậu
an cư, sau ba tháng mới gọi
là Tỳ-kheo một
hạ. Ví như
người
đời,
sáng mồng một tháng Giêng sanh ‘giờ
Tý năm mới’
cho
đến cuối
năm cũng
chỉ gọi
là một tuổi).
Từ
17 tháng Sáu
đến 15 tháng Chín là
trưởng
thời (thời
gian tu tập), xưa
gọi là 17 tháng Năm
đến 15 tháng Tám.
Người
xuất gia khi mới
gặp nhau cần
hỏi: “Ðại
đức bao nhiêu hạ?”
Ðáp: “Tôi
được ... hạ”.
Neáu
đồng
hạ với
nhau thì hỏi: “Thọ
giới vào lúc nào?” Nếu
thời gian
đồng
thì hỏi: “Ngày nào?” Nếu
đồng ngày thì hỏi:
“Trước bữa
ăn hay sau bữa
ăn?”
Nếu
đồng là trước
bữa
ăn
thì hỏi: “Con bóng ngã
bao nhiêu?”
Con bóng nếu
có khác, tức là con bóng người
dài hơn, người
ngắn hơn:
ai lớn ai nhỏ
tùy theo
đó phân
định.
Con bóng nếu
đồng
thì tức là bằng
nhau, không ai lớn
hơn
ai. Thứ lớp
ngồi thì người
đến trước
ngồi trước.
công việc tùy
đó
mà giao phó.
Nếu
17 tháng sáu, tướng mặt
trời vừa
xuất hiện,
người nào thọ
Cụ túc vào giờ
ấy, trong số
người cùng hạ,
họ là kẻ
lớn nhất,
do không
được thọ
hậu an cư
vậy (xưa
gọi là 17 tháng năm).
Nếu tối
16 tháng sáu vừa
hết,
người nào thọ
Cụ túc vào giờ
ấy, trong số
người
đồng
hạ, họ
là người nhỏ
nhất, do thọ
hậu an cư
vậy (xưa
gọi là 16 tháng năm).
Hỏi:
Luật Thập
tụng
nói rõ: “Thọ
đại
giới trước,
dù chỉ trong một
tu-du, cũng phải
ngồi trước.”
Kinh Phạm võng cũng
có quy tắc ngồi
theo tuổi thọ
giới như
vậy. Nay Tỳ-kheo
cùng với Bồ-tát
giới, hoặc
thọ giới
có trước có sau, vậy
nên y theo thứ tự
bên nào
để sắp
xếp chỗ
ngồi.
Ðáp:
Bộ
Thích thiêm
nói rõ: Ðại
thừa
Tiểu
thừa
đều
thông dụng
luật
nghi, thuộc
về
phạm
vi luật
nghi nào, thì dựa
vào luật
nghi
đó
để
quyết
định
vị
thứ. Vậy
nên Bồ-tát
ở
nơi Ðại
thừa thì thành
đại,
ở nơi
Tiểu thừa
thì thành tiểu. Nên biết
ở vào chúng Tiểu
thừa thì y vào Tiểu
thừa mà phân
định
cấp bực
nơi ngồi”.
Hơn nữa
bộ Phụ
hành nói: Nếu
trước thọ
Tiểu thừa
sau thọ Ðại
thừa giới
thì tất cả
chuyển làm vô tận
giới thể.
Nếu trước
thọ Ðại
thừa giới
sau mới xuất
gia, muốn
ở
vào số mục
của
đại
Tỳ-kheo mà không mất
pháp của Bồ-tát
thì phải thọ
lại luật
nghi. Nhưng
đối
với tất
cả phát
được
thân khẩu thanh tịnh
phòng phi luật nghi thì Vô tác
giới
thể không phát khởi
trở lại.
Nên trong kinh Niết-bàn
nói: Ngũ
thiên thất tụ
đều là Bồ-tát
xuất gia luật
nghi. Hơn nữa,
nếu trước
thọ Tiểu
thừa giới
sau thọ Ðại
thừa giới
thì khai tiểu hạ
trở thành
đại
hạ. Nếu
trước thọ
Ðại thừa
giới sau thọ
luật nghi
ở
tiểu thì y nơi
tiểu,
ở
theo
đại thì y nơi
đại. Vấn
đề này không
đơn
giản
để
luận bàn vậy.
Phần
thứ hai
nói rõ: Tỳ-kheo
biến thành hình nữ
thì lấy năm
tháng
đã thọ
giới trước
đây
tính vào trong Ni chúng, khi chuyển qua Tỳ-kheo-ni
trong Ni bộ.
Ni biến
thành hình nam,
cho nhập
vào chúng Tỳ-kheo. Nếu
biến làm thành hai căn
thì diệt tẫn.
Luật
Ngũ phần
nói rõ:
Tỳ-kheo
biến thành hình nữ,
nếu trước
đã phạm
cùng giới với
ni thì nên sám hối
với
Ni chúng, Nếu trước
phạm không cùng giới
thì không nên sám hối.
Tỳ-kheo-ni
căn thay
đổi
cũng vậy.
Nếu Thức-xoa-ma-na
căn biến,
tuổi
đủ
20, nên cho thọ giới
Tỳ-kheo, chưa
đủ 20 tuổi
thì là Sa-di. Sa-di căn
biến thì cũng
như vậy.
Nếu Sa-di căn
biến hoặc
nên cho 2 năm học
giới, tức
ở trong Ni chúng thọ
2 năm học
giới. Nếu
tuổi chưa
đủ
để
cho 2 năm học
giới, tức
là Sa-di-ni.
Bộ
Căn bản
tạp sự
nói:
Nếu
chuyển
biến
đến
3 lần tức
không phải Tăng
không phải Ni thì cần
phải diệt
tẫn.
Phần
thứ hai
nói rõ:
Trường hợp
bị giặc
cắt nam căn
hay là tự rụng
thì không nên diệt
tẫn. Nếu
tự cắt
thì nên diệt tẫn.
Luật
Ngũ Phần
nói rõ:
Chỉ
cắt
đến ½ âm (tức
dương vật)
phạm Ðột-kiết-la, cắt
hết phạm
Thâu-lan-giá. Nếu
thiến
một trứng
thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu
thiến hết
hai trứng thì phải
diệt tẫn.
Luật
nhiếp
nói rõ:
Trường
hợp trên bước
đường tu hành của
một Bí-sô có hai món
phiền
não sanh khởi: hoặc
do quên mất chánh niệm,
nhớ lại
những cảnh
xưa từng
gặp, khởi
lên tâm ái nhiễm,
tạo
các tội lỗi.
Hay là do
đối cảnh
hiện tiền
khởi lên tâm nhiễm
ái, phạm các tội
lỗi. Khi biết
rõ duyên khởi phạm
tội rồi,
cần phải
kịp thời
sanh tâm
đối trị
khiến cho tội
lỗi kia sớm
trừ diệt.
Trường hợp
nhiễm duyên quá mạnh
không thể trừ
được, cần
đến các bậc
Tôn túc, làu thông Tam tạng,
có
đức hạnh,
cầu xin sự
dạy bảo,
cố gắng
diệt trừ.
Trường hợp
không chấm dứt
được, nên ngày
đêm siêng năng
đọc
tụng, nghiên cứu,
suy nghĩ, tuyển
trạch thâm nghĩa,
đến trước
Tam bảo chí thành cúng dường,
hoặc gần
gũi bậc
trưởng thượng
Tôn túc, quên hẳn
nhọc
nhằn hết
lòng phục vụ
hầu hạ.
Hoặc
đi
đến nơi
khác hay là bớt sự
ăn uống.
Hoặc
đến
bãi tha ma, hoặc
ở nơi A-lan-nhã, tu tập
pháp quán bất tịnh...
Hoặc trụ
tâm nơi Tứ
niệm xứ.
Hoặc tác vô thường,
nghĩ
đến
cái chết, hy vọng
khiến cho phiền
não trừ diệt.
Trường hợp
vẫn không trừ
được, nên sanh tâm hổ
thẹn, nghĩ
như thế
này: Ta làm việc phi pháp, không
thanh tịnh
giới luật
mà lại nhận
tứ sự
cúng dường của
thí chủ có lòng tin. Hơn
nữa, chư
Phật và những
vị
đồng
phạm hạnh
có thiên nhãn, cũng
như
các vị Thiên thần
đều nhìn thấy
việc làm của
ta. Vì vậy, ta không nên tạo
các việc tội
lỗi, phải
tự khắc
trách mình, như
cứu
lửa cháy
đầu.
Ðối trước
cảnh thanh tịnh
nói lên vấn
đề
trừ bỏ
tội lỗi,
ngõ hầu về
sau khỏi phải
ân hận. Nếu
trong khi thực hành những
việc
đối
trị như
trước mà tánh lắm
phiền não không thể
dứt sạch,
nên tự quán sát, hoặc
nên xả giới,
làm người bạch
y, chớ
để
tạo tội,
thọ của
tín thí. Do khi thọ
dụng,
lại tạo
nghiệp ác nhiều
hơn, nhất
định cảm
lấy cái quả
khổ dị
thục ngày mai, như
trong kinh
đã trình bày rõ
ràng, nên phải tu trì.
TRÙNG TRỊ
TỲ-NI
SỰ
NGHĨA
TẬP
YẾU
HẾT QUYỂN
THỨ MƯỜI MỘT
--- o0o ---
Mục
Lục |
01
|
02
|
03
|
04
|
05
|
06
|
07
|
08
|
09
|
10
11
|
12
|
13
|
14
|
15
|
16
|
17
|
18
|
19
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-6-2007