49. Không nên
đại tiểu
tiện,
hỉ,
nhổ
lên rau cải
tươi,
trừ
bệnh,
cần
phải
học.
Tỳ-kheo-ni,
Ba-dật-đề.
Không phạm:
Ðại tiểu
tiện nơi
không có rau, cỏ
tươi,
rồi dòng nước
chảy
đến
nơi có rau cỏ
tươi, hoặc
gió thổi, chim ngậm
rớt nơi
có rau, cỏ tươi.
Luật
nhiếp
nói:
Nơi
chông gai, rừng rú không phạm.
Nếu
đi
trong rừng lớn,
cành lá sum suê, nên tránh chỗ
có người. Nếu
đi nơi
đồng ruộng
cỏ liên tiếp,
không có chỗ trống,
nên dùng lá khô trải,
đại
tiện lên
đó;
nếu không thể
được, không phạm.
50. Không
được
đại tiểu
tiện,
hỉ,
nhổ
trong nước
sạch,
trừ
bệnh,
cần
phải
học.
Không phạm:
như giới
trên.
Luật
Thiện kiến
nói:
Nếu
nước
không có người dùng, hoặc
nước biển,
không phạm. Tuy nước
có người dùng mà khoảng
cách xa không có người dùng, không phạm.
51. Không nên
đứng mà
đại tiểu
tiện,
trừ
bệnh,
cần
phải
học.
Không phạm:
Bị trói, chân
đạp
phải
đồ
nhơ nhớp.
52. Không nên thuyết
pháp cho người
vắt
ngược
y, không cung kính, trừ
bệnh,
cần
phải
học.
53. Không nên thuyết
pháp cho người
quấn
y nơi
cổ,
trừ
bệnh,
cần
phải
học.
54. Không nên thuyết
pháp cho người
trùm
đầu, trừ
bệnh,
cần
phải
học.
55. Không nên thuyết
pháp cho người
quấn
khăn
trên
đầu, trừ
bệnh,
cần
phải
học.
56. Không nên thuyết
pháp cho người
chống
nạnh,
trừ
bệnh,
cần
phải
học.
57. Không nên
thuyeát pháp cho người
mang dép da, trừ
bệnh,
cần
phải
học.
Luật
Ngũ phần
nói:
Nếu
nhiều
người mang dép da,
không nên bảo cởi,
nên nhân nơi người
nào khoâng mang mà nói, không phạm.
58. Không nên thuyết
pháp cho người
mang guốc
gỗ,
trừ
bệnh,
cần
phải
học.
59. Không nên thuyết
pháp cho người
ngồi
trên ngựa,
trừ
bệnh,
cần
phải
học.
Luật
Thập tụng
nói:
Vua Ba-tư-nặc cỡi
ngựa
đến
Kỳ-hoàn thăm
Phật, Lục
quần vì vua nói pháp,
cho nên chế. Người
đi trước,
mình
đi sau; người
ở
đường
chính, mình
ở
đường
phụ; người
ngồi, mình
đứng;
người ngồi
chỗ cao, mình ngồi
chỗ thấp;
người nằm,
mình ngồi; che
đầu,
trùm
đầu, thu tay, chống
nạnh, vắt
y lên, trùm vai hữu,
mang dép da, guốc gỗ;
cầm
gậy, cầm
dù, cầm dao, cầm
mâu, cung tên, duyên khởi
đều
đồng.
(Kinh Giới nhân duyên cũng
vậy).
60.
Không
được
ngủ
nghỉ
trong tháp Phật,
trừ
vì canh giữ,
cần
phải
học.
Không phạm:
Bị cầm
giữ, mạng
nạn v.v...
Căn
bổn tạp
sự
nói:
Trước khi bước chân lên
điện
đài
hương, phan can (cột
cờ), chế-để (tháp Phật)...
phải tụng
Già-đà (kinh kệ),
sau
đó mới
bước chân
đi.
Không vậy mắc
tội Việt
pháp.
61. Không
được chôn giấu
tài vật
trong tháp Phật,
trừ
muốn
cho chắc
chắn,
cần
phải
học.
62. Không
được mang dép
da vào tháp Phật,
cần
phải
học.
63.
Không
được tay caàm
dép da
đi vào trong
tháp Phật,
cần
phải
học.
64. Không
được mang dép
da
đi nhiễu
quanh tháp Phật,
cần
phải
học.
65. Không
được mang giày
Phú-la
vào trong tháp Phật,
cần
phải
học.
66. Không
được xách giày
Phú-la vào trong tháp Phật,
cần
phải
học.
Không phạm:
Hoặc bị
người dùng sức
mạnh kéo, kêu vào
trong tháp.
67.
Không
được ngồi
dưới
tháp mà
ăn, lưu
lại
cỏ
và thức
ăn làm dơ
đất, cần
phải
học.
Không phạm:
Gom lại một
bên chân, khi ra mang
đem
theo.
68.
Không
được khiêng tử
thi
đi qua dưới
tháp, cần
phải
học.
Không phạm:
Cần phải
đi qua con
đường
ấy, hoặc
bị sức
mạnh bắt
buộc.
69.
Không
được chôn tưû
thi dưới
tháp, cần
phải
học.
70. Không
được thiêu tưû
thi dưới
tháp, cần
phải
học.
71. Không
được
đối diện
tháp thiêu tử
thi, cần
phải
học.
72. Không
được thiêu tử
thi quanh bốn
phía tháp, khiến
cho mùi hôi bay vào, cần
phải
học.
73. Không
được mang áo và
giường
người
chết
đi qua dưới
tháp, trừ
đã giặt,
nhuộm,
xông hương,
cần
phải
học.
74. Không
được
đại tiểu
tiện
dưới
tháp Phật,
cần
phải
học.
75. Không
được
đại tiểu
tiện
trước
tháp Phật,
cần
phải
học.
76. Không
được
đại tiểu
tiện
quanh bốn
phía tháp Phật
khiến
mùi hôi bay vào, cần
phải
học.
77. Không
được mang tượng
Phật
đến chỗ
đại tiểu
tiện,
cần
phải
học.
Không phạm:
Con
đường phải
đi, cường
lực bắt
buộc.
78. Không
được nhăm
nhành dương
(xỉa
răng,
súc miệng)
dưới
tháp Phật,
cần
phải
học.
79. Không
được nhăm
nhành dương
đối diện
tháp Phật,
cần
phải
học.
80.
Không
được nhăm
nhành dương
quanh bốn
phía tháp Phật,
cần
phải
học.
81.
Không
được hỉ,
nhổ
dưới
tháp Phật,
cần
phải
học.
82.
Không
được hỉ,
nhổ
đối diện
tháp Phật,
cần
phải
học.
83.
Không
được hỉ,
nhổ
quanh bốn
phía tháp Phật,
cần
phải
học.
84.
Không
được ngồi
duoãi chân về
phía tháp, cần
phải
học.
Không phạm:
Khoảng giữa
có ngăn cách, cường
lực bắt
buộc.
Phần
thứ tư
nói:
Nếu
trong Tăng-già-lam
đầy cả
tháp, cho phép giữa
khoảng
cách hai tháp ngồi
duỗi
chân.
85. Không
được thờ
tháp Phật
ở phòng dưới,
mình
ở phòng trên, cần
phải
học.
Không phạm:
Mạng nạn,
phạm hạnh
nạn.
86. Không
được thuyeát
pháp cho người
ngồi
mà mình
đứng, trừ
bệnh,
cần
phải
học.
Luật
Tăng kỳ
nói:
Nếu
Tỳ-kheo
vì việc của
tháp, việc của
Tăng
đến
vua hay nhà
địa chủ,
họ bảo
Tỳ-kheo phải
nói pháp cho họ
nghe, không
được bảo
họ
đứng
dậy, sợ
họ sanh lòng nghi. Nếu
kế bên
đó
có người nào
đứng,
nên tác ý vì người
ấy
mà nói. Vua tuy nghe, Tỳ-kheo
không tội.
87. Không
được thuyết
pháp cho người
nằm
mà mình ngồi,
trừ
bệnh,
cần
phải
học.
88. Không
được thuyết
pháp cho người
ngồi
chính giữa
còn mình ngồi
một
bên, trừ
bệnh,
cần
phải
học.
89. Không
được thuyết
pháp cho người
ngồi
chỗ
cao, còn mình ngồi
chỗ
thấp,
trừ
bệnh,
cần
phải
học.
Luật
Thiện kiến nói:
Phật
bảo
Tỳ-kheo: “Xưa
kia, nước Ba-la-nại
có một cư
sĩ, vợ
của ông ta có thai,
nêm thèm xoài. Ông ta ban
đêm lén vào trong vườn
của vua hái trộm
xoài mà chưa hái
được,
trời sáng, nên
ẩn
trên cây. Khi
ấy,
vua cùng Bà-la-môn vào vườn muốn
ăn xoài. Bà-la-môn
ở
dưới thấp,
vua
ở trên cao;
Bà-la-môn vì vua nói pháp. Người hái trộm
xoài nghĩ rằng:
Ta
đáng chết,
nay
được thoát; Ta vô
pháp, vua cũng vô pháp, Bà-la-môn cũng
vô pháp. Ta vì người
đàn
bà nên hái trộm
xoài. Vua cũng kiêu mạn
vì thầy
đang
ngồi
ở
dưới mà mình ngồi
trên cao nghe pháp. Bà-la-môn tham lợi
dưỡng nên ngồi
dưới chỗ
thấp vì vua nói pháp.
Ta, cùng vua, Bà-la-môn
đều không
đúng
pháp, vậy ta sẽ
được thoát chết.
Ông ta nghĩ như
vậy rồi
liền nhảy
xuống cây,
đến
chỗ vua nói kệ.
Người hái trộm
xoài thuở
ấy
laø tiền thân của
Như Lai vậy”.
90. Không
được thuyết
pháp cho người
đi trước,
còn mình
đi phía sau, trừ
bệnh,
cần
phải
học.
Luật
Tăng kỳ
nói:
Nếu
Tỳ-kheo
mắt bị
bệnh, người
đi trước
cầm cây
để
dắt, vì họ
nói pháp, không tội.
91. Không
được nói pháp
cho người
đi chỗ
kinh hành cao, còn mình
đi kinh hành chỗ
thấp,
trừ
bệnh,
cần
phải
học.
92. Không
được thuyết
pháp cho người
ở giữa
đường, còn mình
ở bên
đường, trừ
bệnh,
cần
phải
học.
93. Không
được nắm
tay khi
đi
đường, cần
phải
học.
Không phạm:
Mắt mờ
phải nhờ
người dìu
đi.
94.
Không
được leo lên
caây cao quá
đầu người,
trừ
khi có nhân duyên, cần
phải
học.
Một
Tỳ-kheo
an cư
ở
trên một cây
đại
thọ, từ
trên cây
đại tiểu
tiện xuống.
Thọ thần
giận. Phật
cấm không
được
an cư trên cây, không
được
đại tiểu
tiện quanh cây
đại
thọ; nếu
trước có chỗ
đại tiểu
tiện thì
đại
tiểu tiện
không phạm.
Sau khi chế
giới, có một
Tỳ-kheo
đi
đường gặp
thú dữ sợ
hãi, cây cao, không dám leo lên, bị
thú dữ hại.
Do
đó, trừ
lúc có nhân duyên. (Sa-di ... bẻ
cành dương hái trái ...
leo lên cây, không tội).
Kiền-độ An cư
nói:
Muốn
bẻ
củi trên cây, cho
phép làm cái móc
để khèo, làm cái thang
để
bẻ, dùng dây cột
kéo
để lấy.
Nếu cây khô hết
thì cho phép leo lên.
95.
Không
được bỏ
bình bát vào trong
đãy rồi
xỏ
vào
đầu gậy
quảy
trên vai mà
đi, cần
phải
học.
Bạt-nan-đà
làm như vậy,
cư sĩ
thấy, cơ
hiềm, gọi
là quan chức, nên tránh bên lề
đường, cho nên Phật
chế cấm.
Không phạm:
Bị cường
lực bắt
buộc ...
Phần
thứ tư
nói:
Không nên cõng hay vác
đồ
vật trên vai mà
đi,
trừ trong chùa. Tỳ-kheo
già cầm cây gậy
để quảy
cái
đãy, cần
bạch nhị
Yết-ma cho phép sử
dụng.
96. Không
được thuyết
pháp cho người
cầm
gậy,
không cung kính, trừ
bệnh,
cần
phải
học.
97. Không
được thuyết
pháp cho người
cầm
gươm,
trừ
bệnh,
cần
phải
học.
98. Không
được thuyết
pháp cho người
cầm
mâu, trừ
bệnh,
cần
phải
học.
99. Không
được thuyết
pháp cho người
cầm
dao, trừ
bệnh,
cần
phải
học.
100. Không
được thuyết
pháp cho người
cầm
dù, trừ
bệnh,
cần
phải
học.
Luật
Tăng kỳ
nói:
Nếu
Tỳ-kheo
khi
ở trong chỗ
đường hiểm
sợ sệt,
người phòng vệ
nói: “Tôn giả, vì con nói pháp.”
Trường
hợp như
vậy, nói không tội.
C. Hỏi ÐỂ
KẾT THÚC
Thưa
các Ðại
đức,
tôi đã
tụng
xong một
trăm
Pháp chúng học.
Nay hỏi
các Ðại
đức
trong đây
có thanh tịnh
không? (3 lần).
Các Ðại
đức
trong đây
thanh tịnh,
vì im lặng.
Việc
ấy
tôi ghi nhận
như
vậy.
PHỤ:
Phần
thứ tư
nói:
Trong lỗ
mũi có lông dài thì
cho phép dùng nhíp mà nhổ. Móng tay dài bằng
hột lúa, phải
cắt. Không
được
dùng màu sắc nhuộm
móng tay. Không nên dùng kéo mà hớt
râu tóc. Râu tóc phải
cạo
cho hết. Tóc dài nhất
là bằng hai chỉ
tay. Hai tháng một
lần
cạo. Không nên chải
râu tóc. Không nên thoa dầu
vào tóc. Không nên vạch
khóe con mắt, con mắt
bệnh cho phép nhỏ
thuốc. Không nên soi kiếng
kể cả
soi trên nước. Nếu
mặt có ghẻ,
thoa thuốc, cho phép
ở
trong phòng riêng dùng nước
hoặc kiếng
soi mặt. Không nên
đeo
vòng ngọc, vòng tai, kiềng,
vòng, xuyến... Không nên làm
dây lưng
bằng kim tuyến.
Không nên dùng tơ
ngũ
sắc làm dây, cột
nơi cổ
tay.
Luật Thập
tụng
nói:
Cho phép chở bằng
xe trâu mạnh,
nên sai người cầm
cương, không nên tự
mình cầm cương.
Dùng lược chải
đầu, phạm
Ðột-kiết-la.
Trên
đầu
để
lại một
ít tóc, Ðột-kiết-la.
Ðể tóc dài, Ðột-kiết-la. Tỳ-kheo
ở A-lan-nhã, tóc dài
nhất
là hai tấc, không có tội.
Nếu
đầu
có ghẻ, nên dùng kéo hớt.
Xoa vuốt râu tóc, phạm
Ðột-kiết-la.
Khi rửa chân không
được
cùng người nói chuyện.
Căn bản
tạp sự
nói:
Phật
bảo Bí-sô: “Ðôi khi
có những
việc, từ
trước tới
nay Ta chẳng cấm
ngăn, cũng
chẳng hứa
cho. Song nếu thấy
những việc
ấy, nếu
chúng trái với không thanh tịnh
mà thuận với
thanh tịnh, như
vậy chúng là tịnh,
cần phải
làm. Còn trái với
thanh tịnh,
mà thuận với
không thanh tịnh, như
vậy chúng laø không tịnh,
không nên làm.
VIII. BẢY
PHÁP DIỆT
TRÁNH
Chia làm ba: Nêu chung, kê riêng và hỏi
để kết
thúc.
A. NÊU
CHUNG
Bảy
món pháp Ðại thừa
này, Tỳ-kheo
đều
đồng học,
khéo giải hòa các
đấu
tranh vậy. Mỗi
mỗi duyên khởi
của nó
đều
ở nơi
phần thứ
ba, trong Kiền-độ
diệt tránh.
Thưa
các Ðại
đức,
đây là bảy
pháp diệt
tránh, xuất
từ
Giới
kinh, mỗi
nửa
tháng tụng
một
lần.
Nếu
có tránh sự
khởi
lên giữa
các Tỳ-kheo,
tức
thì cần
phải
trừ
diệt.
GIẢI THÍCH:
Có 4 tránh sự:
- Một
là ngôn tránh: Tỳ-kheo
cùng với Tỳ-kheo
tranh cãi nhau, dẫn
đến 18 tránh sư:
Pháp, phi pháp, cho
đến thuyết, bất
thuyết.
Hoặc
dùng ngôn ngữ như
vậy
cùng tranh nhau hai bên cùng
đấu
tranh.
- Hai là mích tránh: Tỳ-kheo cùng với
Tỳ-kheo tìm tội,
dùng ba việc cử
tội: Phá giới,
phá kiến, phá oai nghi,
hay kiến,
văn, nghi, khởi
lên hình thức tìm tội
như vậy.
- Ba là phạm
tránh: Phạm
bảy loại
tội: Ba-la-di, Tăng
tàn, Ðọa, Hối
quá, Thâu-lan-giá, Ðột-kiết-la,
Ác thuyết.
- Bốn
là sự tránh:
Tức là vấn
đề hành sự
đối với
ba tránh trước.
Trong
đây,
ngôn tránh dùng hai Tỳ-ni
để diệt,
tức là hiện
tiền (hiện
tiền Tỳ-ni),
và
đa nhơn
ngữ (căn
cứ ý kiến
đa số).
Hoặc chỉ
dùng một Tỳ-ni
để diệt,
tức là hiện
tiền. Mích tránh, dùng
bốn
Tỳ-ni
để
diệt, tức
là hiện tiền,
ức niệm
(nhớ nghĩ);
hoặc hiện
tiền, Bất
si (không mê mờ);
hoặc
hiện tiền,
tội xứ
sở. Phạm
tránh, dùng ba Tỳ-ni
để
diệt, tức
hiện tiền,
tự ngôn trị
(tự nói lên những
lời sửa
trị), hoặc
hiện tiền,
thảo phú
địa
(cỏ che
đất).
Sự tránh dùng tất
cả Tỳ-ni
để diệt,
tùy theo chỗ phạm.
Luật
Thập tụng
nói:
Có 6 nguồn
gốc
đưa
đến tranh cãi: sân hận
không nói, ác tánh muốn
hại, tham tật,
siểm khúc, vô tàm quý,
ác dục,
tà kiến.
TƯỚNG TRẠNG
CỦA TỘI
Luật
Thập tụng
nói:
Tự
ngôn diệt tránh
có 10 loại phi pháp: Nếu
phạm tội
của 5 thiên, tự
nói không phạm. Không phạm
5 thiên, lại tự
nói là phạm.
Có 10 loại
như pháp: Nếu
phạm tội
của 5 thiên tự
nói phạm; nếu
không phạm tội
của 5 thiên, tự
nói không phạm.
Hiện
tiền dieät tránh có 2
loại phi pháp:
- Nếu
người
phi pháp mà chiết
phục
người phi pháp.
- Nếu
người
phi pháp mà chiết
phục
người như
pháp.
Có 2 loại
như pháp:
- Nếu
người
như pháp mà chiết
phục người
như pháp.
- Nếu
người
như pháp mà chiết
phục người
phi pháp.
Ức niệm
Tỳ-ni có 3 phi pháp:
- Có Tỳ-kheo
phạm tội
không thể sám hối
mà tự nói phạm
tội có thể
sám hối,
đến
Taêng xin phép
ức
niệm
Tỳ-ni mà Tăng
cho tức là phi pháp, trường
hợp này cần
phải diệt
tẫn.
- Có Tỳ-kheo
cuồng si
đã
trở lại
bình phục,
đến
Tăng xin pháp
ức
niệm Tỳ-ni,
nếu cho là phi pháp,
nên cho pháp bất si Tỳ-ni.
- Có Tỳ-kheo
có kiến, văn,
nghi tội, mà tự
nói: “Tôi có tội như
vậy.” Sau lại
nói: “Tôi không có tội
như
vậy.” Người
ấy
đến
Tăng xin pháp
ức
niệm Tỳ-ni,
nếu cho là phi pháp,
nên cho pháp thật mích Tỳ-ni
(tức tìm tướng
thật của
tội).
Có 3 như
pháp:
- Có Tỳ-kheo
bị vu khống
không căn cứ,
nếu có người
thường nói
điều này, thì nên cho
ức
niệm Tỳ-ni.
- Có Tỳ-kheo
phạm tội
đã sám hối
tiêu trừ mà có người
còn nói
đến việc
ấy, thì nên cho phép
ức
niệm Tỳ-ni.
- Nếu
có Tỳ-kheo chưa
phạm tội
như vậy,
mà
đoán quyết
sẽ phạm;
nếu có người
nói phạm tội
như vậy,
thì nên cho
ức niệm
Tỳ-ni.
Bất
si Tỳ-ni
(luật không mê mờ)
có 4 loại phi pháp:
- Có Tỳ-kheo
không si cuồng,
mà hiện
tướng si cuồng.
Khi hỏi,
đáp
rằng: Tôi nhớ
nghĩ si mê cho nên làm;
người
khác dạy tôi làm; nhớ
làm trong giấc mộng;
nhớ lõa hình chạy
lung tung,
đứng
đại
tiểu tiện.
Người như
vậy, xin bất
si Tỳ-ni, nếu
cho là phi pháp.
Có 4 như pháp:
- Có Tỳ-kheo
thật
ở
trong tâm si cuồng
điên.
Khi hỏi,
đáp
rằng: Không nhớ;
người khác không dạy;
tôi không nhớ trong mộng
làm; không nhớ
lõa hình chạy lung tung,
đứng
đại tiểu
tiện. Người
như vậy
xin bất si Tỳ-ni,
nếu cho là như
pháp.
Thật
mích diệt tránh (cãi) có 5 phi pháp:
- Có Tỳ-kheo
phạm tội
của 5 thiên, trước
nói không phạm, sau nói phạm.
Nếu cho thật
mích Tỳ-ni là phi pháp,
nên tùy theo chỗ phạm
mà trị
vậy.
Có 5 như
pháp:
- Có Tỳ-kheo
phạm tội
của 5 thiên, trước
nói phạm, sau nói không phạm.
Người như
vậy nên cho thật
mích Tỳ-ni.
Căn
bản mục-đắc-ca
nói:
Có hai Bí-sô vì sự
hiềm khích nên bươi
móc tội lỗi
nhau, nói nhiều lời
khác lạ, hủy
báng nhau thậm tệ.
Ðối với
hai người này nên tin người
trì giới. Nếu
cả hai người
đều trì giới
nên tin người
đa
văn. Nếu
hai người
đều
đa văn,
nên tin người thiểu
dục. Nếu
hai người
đều
thiểu dục,
nên tin người nhiều
thiểu dục.
Nếu hai người
đều rất
nhiều thiểu
dục mà có sự
hiềm khích thì không
có
điều
đó
(vô hữu thị
xứ).
Luật
Tăng kỳ
nói:
Nếu
có vị
đức lớn
lỗi lạc
muốn nghe chúng Tăng
đoán sự,
thì
được phép nghe
đoán
sự, và nên sai một
người
ở
trong chúng có tài
ăn
nói trình bày
để cho sự
việc
được
rõ ràng. Nếu
ở
trước người
tầm thường
kém cõi mà
đoán sự,
phạm tội
Việt tỳ-ni.
BIỆN
MINH:
Hỏi:
- Phàm
đoán sự
chỉ có trong bốn
tránh sự. Bốn
tránh sự này
đều
là lỗi lầm
của Tỳ-kheo.
Ai nói với người
ngoài
đều bị
trọng cấm.
Nay
đã không cho phép
đến
trước người
tầm thường
kém cõi mà
đoán sự;
tại sao riêng
đối
với vị
có
đức lớn
lỗi lạc
cho phép
được nghe, dầu
người kia có trí tuệ,
biết
đâu
vẫn là người
chưa thọ
Cụ túc giới?
Có mặt họ
không trái luật sao?
Ðáp:
- Ðoán sự tuy là thông suốt
tứ tránh, nhưng
đại
ước
trong vấn
đề
ngôn tránh chiếm
đa
số. Trong
đó,
vấn
đề
pháp, phi pháp v.v... phân tích chiết
phục, có thể
khiến cho người
có
đức lớn
lỗi lạc
nghe
để tăng
trưởng lòng tin, cho
nên cho phép sự có mặt
của họ.
Ở
đây,
chẳng phải
chỉ cho những
vấn
đề
Yết-ma trị
tội cùng các việc
khác. Nói người có
đức
lớn lỗi
lạc là như
vua Ba-tư-nặc,
Trưởng giả
Cấp Cô Ðộc;
hạng người
như vậy,
trí tuệ của
họ sâu sắc,
chánh tín không hủy
báng, nên gọi là người
có
đức lớn.
Do phước của
họ trọng
có khả năng
hộ Chánh pháp, cho
nên gọi
là lỗi lạc
(thắng
nhơn). Ðâu phải
chỉ hạng
tầm thường
giàu sang mà thôi.
PHỤ:
Tỳ-kheo
có 10 pháp sau
đây mới
sai làm người xử
kiện (đoán
sự) công bình:
1) Trì giới
đầy
đủ.
2) Ða văn.
3) Tụng 2 bộ
Tỳ-ni nhuần
nhuyễn.
4) Rộng
giải nghĩa
của Luật.
5) Lời
lẽ khéo léo, nói năng
luận biện
rõ ràng,
đủ
khả
năng
vấn
đáp,
khiến cho
đương
sự hoan hỷ.
6) Sự
tranh chấp phát sinh, có thể
trừ diệt.
7) Không ái.
8) Không sân.
9) Không sợ.
10) Không si mê.
Phần
thứ tứ
(luật Tứ
phần)
nói:
Phật bảo Tỳ-kheo: Dùng 22 chủng
hành, biết là người
đoán sự
(xử kiện)
công bình:
1) Giữ
đủ
250 giới.
2) và 3) Học
nhiều hiểu
rõ A-tỳ-đàm,
Tỳ-ni.
4) Không cùng người tranh cãi.
5) Không kiên trụ
(chấp
chặt) nơi
việc này.
6) Nên ngăn
thì ngăn, sau
đó
mới trụ.
7) Nên dạy thì dạy,
sau
đó mới
trụ.
8) Nên diệt tẫn
thì diệt tẫn,
sau
đó mới
trụ.
9) Không có ái.
10) Không có sân.
11) Không sợ sệt.
12) Không si mê.
13) Không nhận thức
ăn của
bên này.
14) Không nhận thức
ăn của
bên kia.
15) Không nhận y, bát, tọa
cụ,
ống
đựng kim của
bên này.
16) Không nhận y, bát, tọa
cụ,
ống
đựng kim của
bên kia.
17) Không cung cấp
bên này.
18) Không cung cấp
bên kia.
19) Không cùng với
bên này vào thôn.
20) Không cùng với
bên kia vào thôn.
21) Không cùng nhau hẹn
hò.
22) Cũng không
đến
nơi kia,
đến
sau ngồi sau.
Luật
Tăng kỳ
nói:
Tỳ-kheo
thành tựu
5 pháp, có thể diệt
mọi tránh sự.
- Biết
là thật,
chứ không phải
không thật.
- Là lợi
ích chứ không phải
không lợi ích.
- Ðược bạn
chứ không phải
không
được bạn.
- Ðược bạn
bình
đẳng chứ
không phải không
được
bạn bình
đẳng.
- Ðúng lúc chứ
không phải không
đúng
lúc.
Người thành tựu 14 pháp, gọi
đó là trì luật
tối
đệ
nhất, trừ
Như Lai,
Ứng
Cúng, Chaùnh Biến
Tri. Những
gì là 14: Biết tội,
biết không tội,
biết nặng,
biết nhẹ,
biết che giấu,
biết không che giấu,
biết có thể
trị, biết
không có thể trị,
biết
được
thanh tịnh, biết
không
được thanh tịnh,
được bốn
phước công
đức,
trụ nơi
pháp lạc hiện
tại, gọi
là Thiên nhãn, Thiên nhĩ,
Túc mạng thông, hết
hữu lậu,
được vô lậu.
Ðó gọi là 14 pháp.
Có 7 pháp chẳng
phải Tha-la-thá, in tuồng
Tha-la-thá (cũng
gọi là Thát-lại-tra.
Luận Tát-bà-đa nói: Thát-lại
hay Ðịa-tra-lợi,
gọi là trụ.
Trí thắng tự
tại,
đối
với Chánh pháp không
lay
động. Như
người
đứng
nơi
đất
không bị nghiêng úp vậy).
Những gì là bảy?
- Hoặc
có kẻ cuồng,
không
đứng về
chúng bên này, không
đứng về
chúng bên kia, tức
là Tha-la-thá, là tối sơ
chẳng phải
Tha-la-thá, in tuồng
Tha-la-thá,
đó là người
bị tâm loạn
cuồng si. Vì bệnh
cho nên không
đứng về
bên này, không
đứng về
bên kia.
- Lại
nữa, hoặc có người
vì lợi nên nghĩ:
Nếu ta
đứng
về chúng bên này thì
thất
lợi bên kia;
đứng
về chúng bên kia, thất
lợi bên này. Cho nên
ta không
đứng
về bên nào.
- Lại
nữa, hoặc
có người
được
cái lợi của
hai chúng, nên nghĩ:
Ta vì
được
lợi cả
hai bên, nên không
đứng về
chúng bên này, không
đứng về
chúng bên kia. Cho nên gọi
là chẳng phải
Tha-la-thá, in tuồng
Tha-la-thá.
- Có hai Tha-la-thá: Một là tự
hộ tâm, thấy
việc phải
quấy của
kẻ khác, nghĩ
rằng: Hành
động
người
ấy
làm họ tự
biết. Thí như
bị lửa
cháy, chỉ tự
cứu mình,
đâu
biết việc
của người
khác. Hai là
đợi thời,
thấy người
khác cùng nhau tranh tụng,
nghĩ rằng:
Vấn
đề
cùng nhau tranh tụng
này, thời
đến tự
họ sẽ
phán
đoán.
Ấy
là hai hạng Tha-la-thá.
- Cùng với
chúng này thọ pháp thực,
vị thực,
cũng cùng chúng kia
thọ
pháp thực, vị
thực. Hoặc
được thỉnh
mà
đoán sự
việc, hoặc
không thỉnh mà
đoán
sự việc.
Luật
Thập tụng
nói:
Dùng sân hận
không thể diệt
sân hận, chỉ
có sức nhẫn
nhục mới
có thể diệt
được.
Có 5 việc
tranh cãi khó chấm
dứt:
- Không cầu Tăng
xử.
- Không thuận lời
Phật dạy.
- Không thưa
đúng
pháp.
- Hai bên, tâm tranh không dứt.
- Can phạm không cầu
thanh tịnh.
Ngược lại
5
điều
trên thì dễ trừ
diệt.
- Tỳ-kheo
Thát-lợi-tra,
khi tranh cãi, dùng 5
điều suy nghĩ:
Trong
đây, trước
hết ai là người
trì giới thanh tịnh
– Ai
đa văn
trí tuệ, khéo tụng
A-hàm – Ai
đối với
thầy như
pháp – Ai tin Phật,
Pháp, Tăng
– Ai không khinh giới
(luật)
Phật.
Tỳ-kheo
Ô-huýnh-cưu-la,
có 10 việc Tăng
nên sai (Luật
Tát-bà-đa nói: Ô-huýnh gọi là hai. Cưu-la
gọi là bình
đẳng.
Tâm bình
đẳng không hai, giống như
cái cân):
- Biết
việc
tranh cãi từ
đâu
đưa
đến
– Khéo biết việc
tranh cãi – Có thể
phân biệt
việc tranh cãi – Biết
nhân duyên của việc
tranh cãi khởi lên – Biết
ý nghĩa việc
tranh cãi – Khéo chấm
dứt
việc tranh cãi – Dứt
việc tranh cãi rồi,
không cho khởi lên lại
– Trì giới thanh tịnh
– Ða văn – Ða trí.
Tỳ-kheo
Thát-lợi-tra
hành 22 pháp, phải
biết
đó là pháp lợi
căn
đa
văn :
1) Khéo biết cội
gốc
của sự
việc khởi
lên.
2) Khéo phân biệt tướng
trạng của
sự việc.
3) Khéo biết sai khác của
sự việc.
4) Khéo biết
đầu
đuôi
của sự
việc.
5) Khéo biết
sự việc
nặng nhẹ.
6) Khéo biết
trừ
diệt sự
việc.
7) Khéo biết
cách diệt
sự việc,
không
để xảy
ra lại.
8) Khéo biết
người
tác sự và người
hữu sự.
9) Có khả năng
giáo dục người
khác.
10) Có thể khiến
người thọ
giáo.
11) Có phương tiện
ngôn ngữ uyển
chuyển,lôi cuốn.
12) Cũng có thể
khiến người
thọ nhận.
13) Có sức tự
chiết phục.
14) Cũng có sức
khiến người
chấp nhận.
15) Biết tàm quý.
16) Tâm không kiêu mạn.
17) Không có lời
kiêu mạn.
18) Hành
động của
thân, khẩu, ý không thiên lệch.
19) Không làm theo ái.
20) Không làm theo sân.
21) Không làm theo sự
sợ sệt.
22) Không làm theo si mê.
B. NÊU
RIÊNG
Có 7, thứ
nhất từ
pháp Hiện tiền
diệt tránh,
đến
thứ bảy
là pháp Thảo phú
địa
diệt tránh.
1. Pháp Hiện
tiền diệt
tránh
GIỚI BỔN:
Cần
giải
quyết
bằng
hiện
tiền
Tỳ-ni,
phải
giải
quyết
bằng
hiện
tiền
Tỳ-ni.
GIẢI THÍCH:
Không
được
tác pháp Yết-ma vắng
mặt
đương
sự.
- Thế
nào là hiện
tiền? Hiện
tiền gồm
có: Pháp, Tỳ-ni, nhơn,
Tăng, giới.
- Thế
nào gọi
là pháp hiện tiền?
Ðem Chánh pháp
để
chấm dứt
sự tranh cãi vậy.
- Thế
nào gọi
là hiện tiền
Tỳ-ni?
Ðem Luật
để chấm
dứt sự
tranh cãi vậy.
- Thế
nào gọi
là nhơn hiện
tiền?
Bị
can tự
biện hộ
vậy.
- Thế
nào gọi
là Tăng hiện
tiền?
Ðồng
Yết-ma,
hòa hợp một
chỗ, người
không
đến có dữ
dục. Người
có mặt
được
quyền ngăn
chặn, không ngăn
chặn.
- Thế
nào gọi
là giới hiện
tiền?
Tác pháp Yết-ma
trong phạm vi cương
giới
đã
quy
định.
TƯỚNG TRẠNG
CỦA TỘI
Nếu
sự
tranh cãi
đã chấm
dứt, làm khởi
lại, Ba-dật-đề. Dữ
dục rồi
sau hối hận,
Ba-dật-đề.
Sáu pháp Tỳ-ni sau cũng
như vậy.
PHỤ:
Tát-bà-đa ma-đắc-lặc-già nói:
Mười
loại tác Yết-ma
mà
đương sự
không hiện tiền:
Phú bát, xả phú bát, học
gia, xả học
gia, làm phòng, Sa-di, cuồng,
không lễ bái, không cộng
ngữ, không cúng dường.
1) Phú bát: Trị
phạt người
thế tục,
chỉ từ
đằng xa tác pháp Yết-ma.
2) Xả
phú bát: Họ
đã 3 lần
xin, bảo họ
ở chỗ
mắt thấy
mà tai không nghe, vì họ
xả.
3) Học
gia : Bảo
vệ sự
sa sút của Ðàn-việt,
cũng từ
đằng xa tác pháp.
4) Xả
học gia:
Nếu họ
3 phen xin, cũng bảo
họ
ở
chỗ mắt
thaáy, tai không nghe, vì họ
xả.
5) Làm phòng: Tức
là nhà cũ hư
trong
đất của
Tăng, Yết-ma
cho bạch y, tùy họ
vì Tăng làm lại
phòng
ốc, cũng
3 lần xin rồi,
bảo họ
ở chỗ
mắt thấy
tai không nghe mà tác pháp cho.
6) Sa-di: Diệt
tẫn Sa-di ác kiến,
cũng bảo
họ
ở
chỗ mắt
thấy tai không nghe
tác pháp diệt tẫn.
8) Không lễ
bái.
9) Không cộng
ngữ.
10) Không cúng dường:
Tức
là Tỳ-kheo làm các
điều phi pháp, xúc não
Chúng Tỳ-kheo-ni. Ni chúng làm pháp Yết-ma
này, chỉ có thể
từ
đàng
xa làm, không cần
đợi
Tỳ-kheo có mặt,
mà trị phạt.
Chỉ
có 10 cách Yết-ma này là không cần
hiện tiền,
ngoài ra
đều phải
hiện tiền
minh bạch vậy.
2. Pháp
ức
niệm diệt
tránh
GIỚI BỔN:
Cần
giải
quyết
bằng
ức niệm
Tỳ-ni,
phải
giải
quyết
bằng
ức niệm
Tỳ-ni.
NGUYÊN DO:
Ðạp-bà-ma-la-tử không phạm
thô tội, người
kia cố hỏi
không thôi, nên cho
Ức
niệm
Tỳ-ni. Ðương
sự nên
ở
giưõa Tăng
ba lần xin:
“Ðại
đức
Tăng,
xin lắng
nghe! Tôi ... không phạm
trọng
tội.
Các Tỳ-kheo
nói tôi phạm
trọng
tội
Ba-la-di, Tăng
tàn, Thâu-lan-giá, hỏi
tôi rằng:
Thầy
nhớ
phạm
trọng
tội
chăng?
Tôi không nhớ
phạm
trọng
tội,
nên trả
lời:
Tôi không nhớ
phạm
trọng
tội
như
vậy.
Các Trưởng
lão, đáng
lý không nên nạn
vấn
tôi mãi, nhưng
các Trưởng
lão lại
cố
nạn
vấn
không thôi. Tôi nay không nhớ
được,
đến
Tăng
xin ức
niệm
Tỳ-ni.
Xin Tăng
cho tôi
ức
niệm
Tỳ-ni,
thương
xót cho”.
Tăng
nên vì
đương sự
Bạch
tứ
yết-ma
cho.
GIẢI THÍCH:
Thế
nào gọi
là
ức niệm
Tỳ-ni?
Tỳ-kheo
kia với
tội này, không nên cử,
không nên tác
ức
niệm.
(Nhân bởi chúng Tỳ-kheo cứ
bảo họ
nhớ nghĩ.
Nay tác
ức niệm Tỳ-ni
này khiến cho chúng không hỏi nữa
vậy).
3. Pháp Bất
si diệt tránh
GIỚI BỔN:
Cần
giải
quyết
bằng
bất
si Tỳ-ni,
phải
giải
quyết
bằng
bất
si Tỳ-ni.
NGUYÊN DO:
Nan-đề
điên
cuồng tâm loạn
phạm các tội
nhiều. Sau bình phục
trở lại,
các Tỳ-kheo cật
vấn không thôi, nên
cho bất
si Tỳ-ni. Ðương
sự nên ba lần
xin. Tăng Bạch
tứ yết-ma
cho.
GIẢI THÍCH:
Thế
nào gọi
là bất si Tỳ-ni?
Tỳ-kheo kia với
tội này, không nên cử,
không nên tác
ức
niệm
vậy.
4. Pháp tự
ngôn diệt tránh
GIỚI BỔN:
Cần
giải
quyết
bằng
Tự
ngôn trị,
phải
giải
quyết
bằng
Tự
ngôn trị.
NGUYÊN DO:
Khi Thế
Tôn nói giới, có người
phạm giới
ngồi gần
đức Phật.
Ðức Phật
mặc nhiên không nói
(giới),
Tôn giả Mục-liên
biết, nắm
tay kéo ra. Phật
dạy:
Không nên như vậy.
Phải khiến
người kia nhận
tội, vậy
sau mới cử
tội.
Luật
Ngũ phần
nói:
Tỳ-kheo-ni
tên là Từ,
dùng pháp vô căn
Ba-la-di hủy báng Tỳ-kheo
Ðà-bà. Tự nói: Ðà-bà làm nhớp
mình. Liền trao cho pháp Tự
ngôn diệt tránh.
GIẢI THÍCH:
- Thế
nào là Tự
ngôn?
Nói tên tội,
chủng loại
của tội,
sám hối vậy.
- Thế
nào gọi
là trị?
Nói lời:
tự trách lòng mình,
sanh tâm nhàm chán.
5. Pháp mích tội
tướng
diệt
tránh
GIỚI BỔN:
Cần
phải
giải
quyết
bằng
mích tội
tướng,
phải
giải
quyết
bằng
mích tội
tướng.
(Thập tụng
gọi là thật
mích. Ngũ phần gọi
là Bổn ngôn trị.
Căn bản
gọi là cầu
tội tự
tánh).
NGUYÊN DO:
Luật
Tăng kỳ
nói:
Tỳ-kheo
Thi-lợi-da-ta,
đối trước
Tăng nói: Thấy
tội, lại
nói không thấy tội.
Không thấy tội
lại nói thấy,
rồi lại
nói không nhớ. Nên trao cho pháp
Yết-ma
mích tướng.
GIẢI THÍCH:
Tức
là kết
tội xứ
sở. Thế
nào gọi là tội
xứ sở?
Tỳ-kheo kia với
tội này, trao việc
cử tội,
tác
ức niệm.
TƯỚNG
TRẠNG CỦA
TỘI
Luật
Tăng kỳ
nói:
Người này trọn
đời không nên làm 8 việc:
- Không
được
độ người.
- Không
được
cho người thọ
Cụ túc.
- Không
được
cho người Y chỉ.
- Không
được
nhận Tỳ-kheo
hầu hạ
cung cấp.
- Không
được
làm sứ giả
cho Tỳ-kheo.
- Không
được
nhận phó hội
theo thứ tự.
- Khoâng
được
vì Tăng làm người
thuyết pháp, và người
thuyết Tỳ-ni.
- Trọn
đời
không nên cho xả
(Yết-ma
này).
Luật
Ngũ phần
nói:
Có hai loại:
Một có thể
sám hối, hai không thể
sám hối. Nếu
phạm trọng
tội mà che giấu,
nên Bạch tứ
yết-ma không cho sám
hối.
6. Pháp
đa
nhơn ngữ
diệt tránh
GIỚI BỔN:
Cần
giải
quyết
bằng
Ða nhơn
mích tội
tướng,
phải
giải
quyết
bằng
Ða nhơn
mích tội
tướng.
GIẢI THÍCH:
Dùng lời
nói của nhiều
người biết
pháp. Cho phép hành trù, sai người
hành trù, Bạch nhị
yết-ma.
Có 5 pháp không nên sai: Ái, sân, sợ,
si, không biết
đã
hành hay chưa hành. Ngược
với 5 pháp trên thì
nên sai. Có 3 loại hành trù: Một
là bỏ phiếu
công khai, hai là bỏ
phiếu
kín, ba là bỏ phiếu
rỉ tai.
- Nếu
trong chúng tuy Tỳ-kheo phi pháp nhiều,
song hai thầy (Hòa thượng,
A-xà-lê) của họ,
hoặc bậc
Thượng tọa
nhiều hiểu
biết
đều
như pháp, nên bỏ
phiếu công khai.
- Làm hai loại
thẻ: Một
là chẻ hai, hai là
nguyên. Bạch
rằng: “Người
nào
đồng ý thế
này thì bốc thẻ
nguyên. Người nào
đồng
ý thế này thì bốc
thẻ chẻ
hai.” Hành trù xong nên
đến
chỗ riêng
để
kiểm phiếu.
Nếu
thẻ
như
pháp nhiều,
nên công bố:
Nói như
thế
là việc
tranh cãi
đã chấm
dứt.
Nếu
thẻ
như
pháp ít, nên tác lễ
giải tán, sai người
đủ tin cậy
đến trú xứ
Tỳ-kheo khác bạch
rằng: Trú xứ
kia Tỳ-kheo phi pháp nhiều.
Lành thay, Trưởng lão có thể
đến trú xứ kia, làm thế
nào
để cho Tỳ-kheo
như pháp nhiều,
để việc
tranh cãi
được chấm
dứt, công
đức
Trưởng lão nhiều.
Tỳ-kheo này khi nghe
như
vậy, nên
đến,
nếu không
đến,
như pháp trị.
- Nếu
trong chúng tuy như
pháp nhiều
mà hai thầy của
họ và Thượng
tọa... không như
pháp. Sợ bỏ
phiếu công khai, các Tỳ-kheo
bỏ theo hai thầy
của họ...
nên phải bỏ
phiếu kín.
- Nếu
trong chúng tuy như
pháp nhiều
mà hai Thầy của
họ... nói phi pháp,
nên bỏ
phiếu bằng
phương thức
rỉ tai. Khi hành trù
nên bố
trí chỗ ngồi,
cách nhau
độ một
người nghiêng mình
đi.
Tỳ-kheo kia rỉ
tai nói: Hòa thượng của
thầy...
đã
bốc thẻ
như vậy.
Lành thay! Thầy
cũng
bốc thẻ
như vậy.
Từ mẫn
cố! Nếu
Tỳ-kheo như
pháp nhiều, việc
tranh cãi
được chấm
dứt, công
đức
của thầy
nhiều. Hành trù xong,
đến
một bên
để
kiểm phiếu.
Luật
Thập tụng
nói:
Dùng thẻ
dài cho như pháp, thẻ
ngắn cho phi pháp. Thẻ
trắng cho như
pháp, thẻ
đen
cho phi pháp. Như
pháp dùng tay tả bốc,
phi pháp dùng tay hữu bốc.
Như pháp bốc
một cách thong thả,
phi pháp bốc một
cách gấp gáp. Thẻ
như pháp bốc
trước, thẻ
phi pháp bốc sau. Tất
cả nên hòa hợp
nhóm họp lại
một chỗ,
không
được nhận
dục.
Luật
Tăng kỳ
nói:
Hành trù xong, nếu
thẻ phi pháp nhiều
hơn chỉ
một thẻ,
không nên xướng là người
phi pháp nhiều, như
pháp ít, nên tác phương tiện giải
tán. Nếu bữa
ăn trước
đã
đến,
nên xướng tiền
thực
đến.
Nếu giờ
hậu thực
đến, hay giờ
tắm, giờ
thuyết pháp, thuyết
Tỳ-ni, tùy theo
đó
mà xướng. Nếu
người phi pháp biết,
nói rằng: “Vì chúng tôi
đắc
thắng cho nên giải
tán, chúng tôi không
đứng
dậy, cứ
ngồi nơi
tòa này,
để quyết
đoán việc
này”. Khi
ấy bên tịnh
xá nếu có cái phòng nhỏ
nào không trùng, nên sai tịnh
nhơn phóng hỏa
xướng rằng:
“Lửa cháy! Lửa
cháy!” Liền giải
tán
để chữa
lửa. Sau
đó
đến tìm bạn
như pháp.
7. Pháp NHƯ
cỏ che
đất
diệt tránh
GIỚI BỔN:
Cần
giải
quyết
bằng
như
Thảo
phú địa,
phải
giải
quyết
bằng
như
Thảo
phú địa.
NGUYÊN DO:
Nước
Xá-vệ, các Tỳ-kheo
cùng nhau tranh cãi, phạm
các giới nhiều,
chẳng phải
pháp của Sa-môn; nói, làm
lung tung, ra vào không phép tắc hạn
định. Sau
đó,
họ tự
nghĩ rằng:
Chúng ta nếu trở
lại, cùng nhau tìm hiểu
việc này, hoặc
khiến cho vấn
đề tranh cãi trở
nên sâu
đậm, trải
nhiều năm
tháng không chấm
dứt
được, khiến
cho Tăng không
được
an lạc. Do vậy,
bạch Phật.
Phaät dạy: “Nên chấm
dứt vấn
đề tranh cãi này như
lấy cỏ
che
đất.”
Một
trong hai chúng kia, Tỳ-kheo
có khả năng
về trí tuệ,
từ chỗ
ngồi
đứng
dậy, quỳ
gối, chắp
tay, bạch thế
này: “Thưa các Trưởng
lão, việc tranh cãi của
chúng ta
đây, phạm
các tội nhiều,
chẳng phải
pháp của Sa-môn, nói năng
không chừng mức,
ra vào, tới lui không thuộc
oai nghi. Nếu chúng ta tìm hiểu
việc này sợ
khiến tội
càng sâu nặng, không
được
như pháp, như
Tỳ-ni, như
lời Phật
dạy, khiến
các Tỳ-kheo không
được
yên
ổn an lạc.
Ðể chấm
dứt sự
tranh cãi, nếu Trưởng
lão
đồng ý, tôi nay vì
các Trưởng
lão, tác pháp như
lấy
cỏ che
đất
để sám hối
tội này.”
Trong chúng thứ
hai, cũng có một
người nói như
vậy. Vị
ấy bạch:
“Ðại
đức
Tăng,
xin lắng
nghe ! Nếu
thời
gian thích hợp
đối
với
Tăng,
Tăng
chấp
thuận,
nay, việc
tranh cãi này, Tăng
tác pháp lấy
cỏ
che đất
sám hối.
Ðây là lời
tác bạch.”
Bạch rồi,
tác pháp như lấy
cỏ che
đất
sám hối. Vị
có trí huệ kham năng,
hồ quỳ,
hiệp chưởng
bạch: “Thưa
các Trưởng
lão, tôi nay trong vấn
đề
tranh cãi này, những
tội
đã
phạm,
trừ
trọng
tội,
Yết-ma
ngăn
không
đến nhà bạch
y. Nếu
các Trưởng
lão cho phép, sẽ
vì các Trưởng
lão và tôi, tác pháp sám hối
như
lấy
cỏ
che đất.”
Chúng thứ hai cũng
nói và làm như
vậy.
(Trừ những tội
nặng nghĩa
là pháp như thảo phú
địa
này, tất cả
nhân việc tranh cãi khởi
lên, những tội thuộc
Ba-dật-đề,
Ðột-kiết-la...
tất cả
đều
được sám hối
trừ diệt.
Chỉ trừ
tội nặng
Ba-la-di, phải diệt tẫn.
Còn tội nặng
Tăng tàn và
Thâu-lan-giá vẫn phải
thi hành sám hối
riêng,
ở nơi
đây
chẳng diệt
được. Lại
nữa, trừ
Yết-ma ngăn
không cho
đến nhà bạch y, cũng
không nhân
đây mà giải vậy).
GIẢI THÍCH:
Thế
nào gọi
là cỏ che
đất?
- Không phải
nói rõ tên tội, chủng
loại của
tội
để
sám hối.
Luật
Thập tụng
nói:
Cỏ
che
đất có hai nghĩa:
Một là
đấu
tranh thường khởi,
người tranh cãi cũng
nhiều, việc
ấy chuyển
đến chúng, suy cứu
để tìm nguồn
gốc khó có thể
được. Phật
cho phép trải cỏ
trừ diệt,
như cỏ
rối
đến
mức
độ
không thể chỉnh
lý, rối quá cần
phải bỏ
đi. Hai là có bậc
Thượng tọa
đức
độ,
khuyến dụ
người tranh cãi, khiến
đến hai bên, như
lấy da dê trải
bốn phía sám hối.
(Theo Ngũ phần
nói thì duỗi tay duỗi
chân sát
đất, như
trải da dê vậy).
Hai chúng
đều có người
yểm trợ,
cho nên khiến
đều
ở một
chỗ.
Luật
Ngũ phần
nói:
Nếu
các Tỳ-kheo
đấu tranh mắng
nhiếc nhau, khởi
ác nghiệp, thân, khẩu,
ý, sau muốn
đối
giữa Tăng
trừ tội,
tác pháp cỏ che
đất
sám hối. Ðương
sự nên ba lần
xin rồi, duỗi
tay chân sát
đất, hướng
về vị
Yết-ma, một
lòng nghe nhận lấy
lời Yết-ma.
Vị Yết-ma
vì
đương sự
bạch tứ
Yết-ma, gọi
là hiện tiền
Tỳ-ni thảo
bố
địa,
diệt phạm
tội tránh. Tại
sao gọi là cỏ
trải
đất?
Các Tỳ-kheo kia không tìm
hiểu
căn nguyên của
tội. Tăng
cũng không tra hỏi
cội gốc
của vấn
đề.
C. Hỏi
ÐỂ KẾT THÚC
Thưa
các Ðại
đức,
tôi đã
tụng
xong bảy
pháp diệt
tránh. Nay hỏi
các Ðại
đức
trong đây
có thanh tịnh
không? (3 lần).
Các Ðại
đức
trong đây
thanh tịnh,
vì im lặng.
Việc
ấy
tôi ghi nhận
như
vậy.
Bảy
pháp diệt
tránh đã
xong
·
Phần
hai liệt kê tướng
của giới
rồi.
·
Phần
ba kết khuyến
hồi hướng,
chia làm 3:
- Trước
hết kết
phần trước,
chỉ rõ các việc.
- Thứ
hai, thuật lại
Giới kinh bảy
đức Phật.
- Thứ
ba, kệ khen hồi
hướng.
·
Trong phần
đầu chia làm hai:
Trước hết
kết phần
trước. Hai là chỉ
rõ các việc.
A. PHẦN
ÐẦU
1) Kết
phần trước
Thưa
các Ðại
đức,
tôi đã
tụng
tựa
của
Giới
kinh, đã
tụng
bốn
pháp Ba-la-di,
đã
tụng
mười
ba pháp Tăng-già-bà-thi-sa,
đã
tụng
hai pháp Bất
định,
đã
tụng
ba mươi
pháp Ni-tát-kỳ
ba-dật-đề,
đã
tụng
chín mươi
pháp Ba-dật-đề,
đã
tụng
bốn
pháp Ba-la-đề
đề-xá-ni,
đã
tụng
một
trăm
pháp Chúng học,
đã
tụng
bảy
pháp Diệt
tránh. Ðó là những
điều
Phật
đã
thuyết,
xuất
từ
Giới
kinh mỗi
nửa
tháng tụng
một
lần.
2) Chỉ
rõ các việc
Và còn có các Phật
pháp khác nữa
trong đây
cần
phải
cùng hòa hợp
học
tập.
Các Phật
pháp khác, chỉ cho các tùy luật
oai nghi và tất cả
Tu-đa-la (kinh), A-tỳ-đàm (luận).
Huệ
mạng của
chư Phật
gởi gắm
trong ba tạng, không học
thì con mắt của
thế gian bị
tiêu diệt. Không hòa hợp
để học
thì cũng như
chỉ nói
ăn,
làm sao no? Cho nên cần
phải như
pháp
đồng
ở,
mai chiều nghiên cứu,
khiến cho chánh nghĩa
sáng rực. Ðạo
sáng láng,
đức
đầy
đủ, mới
không nhục
đối
với Tăng
bảo; mới
có thể nối
thạnh giống
Thánh. Chẳng vậy
thì không những chỉ
chuốc lấy
lời chê trách là loại
nhụ dương
(dê câm) còn phải
đọa
vào vô gián. (Tai hại
như
vậy sao không tránh
ư?
Kết phần
trước và chỉ
rõ các việc xong).
B. PHẦN
HAI
Thuật
lại Giới
kinh của bảy
đức Phật.
Chia làm bảy. Trước
hết
đức
Phật Tỳ-bà-thi
nói, cho
đến thứ
bảy
đức
Bổn Sư
Thích-ca Phật nói.
1) Ðức
Phật Tỳ-Bà-Thi
nói
Nhẫn:
khổ
hạnh
bậc
nhất,
Niết-bàn:
đạo tối
thượng,
Xuất
gia não hại
người,
Không xứng
danh Sa-môn.
Ðây là lời
Giới
kinh mà
đức Tỳ-bà-thi
Như
Lai, bậc
Vô sở
trước,
Ðẳng
Chánh giác
đã giảng
dạy.
Lược
nói Giới kinh, khen riêng
hạnh
nhẫn nhục,
vì trì giới chưa
chắc có thể
nhẫn nhục,
mà nhẫn nhục
thì quyết chắc
chắn do trì giới
mà
được. Cho nên kinh
Di giáo nói: Nhẫn là Ðức,
trì giới khổ
hạnh không thể
bì kịp, nếu
gặp nhục
mà có thể nhẫn
được, thì trường
hợp thân khẩu
không làm việc trả
thù lại, nhưng
trong tâm cũng quyết
khó thoát qua vậy.
Chỉ
một niệm
chưa thoát qua cùng với
danh nghĩa “cần
tức” của
Sa-môn
đã không
được
tương
ưng.
Chỉ cần
quán sâu vào pháp tánh vô vi hoặc
sanh (ngã), hoặc
pháp
đều
không có chỗ
đặng
(vô sở
đắc).
Nhục
đã
không có thì ai là người
chịu nhục?!
Cho nên gọi: nhẫn
nhục là
đệ
nhất nghĩa,
tức
đệ
nhất
đạo
vậy. Tiếng
Phạn gọi
là Ða-đà-a-già-độ
(Tathāgata),
Hán dịch là Như
Lai. Tiếng Phạn
gọi là A-la-ha (arhat),
Hán dịch
là
Ứng Cúng, cũng
dịch là Vô sở
trước. Tiếng
Phạn gọi
Tam-miệu-tam-phật-đà (samyak-saṃbuddha), Hán dịch là Chánh biến
tri, cũng dịch
là Ðẳng chánh giác, tức
là
được cử
ba trong 10 hiệu vậy.
2. Ðức
Phật Thi Khí nói
Cũng
như
người
mắt
sáng,
Tránh khỏi
lối
hiểm
nghèo,
Bậc
có trí trong
đời,
Tránh xa các xấu
ác.
Ðây là Giới
kinh mà
đức
Thi Khí Như
Lai, bậc
Vô sở
trước,
Ðẳng
chánh giác
đã
giảng
dạy.
Trong ba cõi không chỗ
nào là không nguy hiểm,
không
độc
ác. Người ngu vô trí không
nghĩ
cách vượt ra, cho nên nhiều
kiếp luân hồi.
Thông là có khả
năng nghe
đạo,
minh là có khả
năng
thấy
đạo.
Tin pháp nhiệm mầu
của Phật,
hiểu tận
tường khổ
nhân, xa lìa cái ác, nên không có quả
ác. Các ác là chỉ
cho ba hoặc:
Kiến tư
hoặc, Trần
sa hoặc, Vô minh hoặc;
tất cả
hiện hành và chủng
tử của
nó.
3) Ðức
Phật Tỳ-Diếp-La nói
Không báng bổ,
tật
đố,
Vâng hành các học
giới,
Ăn
uống
vừa
biết
đủ,
Thường
ưa
chỗ
nhàn tịnh,
Tâm
định
vui tinh tấn,
Là lời
chư
Phật
dạy.
Ðây là Giới
kinh mà
đức
Tỳ-diếp-la
Như
Lai, bậc
Vô sở
trước,
Ðẳng
chánh giác
đã
giảng
dạy.
Báng là khẩu
nói lời ác. Tật:
tâm nghĩ
điều ác. Không có hai
điều này, phụng
hành giới, ba nghiệp
đều tịnh.
Biết
đủ,
xa lìa là thắng pháp của
đầu-đà.
Chấm dứt
chạy theo thế
gian cho nên tâm
định. Siêng năng
đạo nghiệp xuất
thế, nên gọi
là tinh tấn. Pháp yếu
của ba
đời
các
đức Phật
đều không ra khỏi
điều
này.
4) Ðức
Phật Câu-Lưu-Tôn
nói
Như
ong đến
tìm hoa,
Không hại
sắc
và hương,
Chỉ
hút nhụy
rồi
đi,
Vậy
Tỳ-kheo
vào xóm,
Không chống
trái việc
người,
Không xét làm, không làm,
Chỉ
xét hành vi mình,
Ðoan chánh, không
đoan
chánh.
Ðây là Giới
kinh mà
đức
Câu-lưu-tôn
Như
Lai, bậc
Vô sở
trước,
Ðẳng
chánh giác,
đã
giảng
dạy.
Tụ
là làng xóm. Nhiên là chỉ cho pháp khất
thực,
điều dĩ
nhiên. Lại nữa,
tụ là
đại
chúng. Nhiên là con
đường cầu
pháp, cũng là
điều dĩ
nhiên. Không chống
trái việc
người tức
là không phá hư
sắc
hương. Câu “không xét
...”, tức là không
để
ý việc làm của
người khác thiện
hay không thiện.
Hỏi: Không chống trái việc
người, là
điều nên. Còn không
để
ý việc người
làm hay không làm, như
vậy
đâu không thiên lệch
vấn
đề
tự lơïi
mà thiếu lòng từ
bi vậy?
Ðáp: Bản
thân mình
đoan chánh, không
khiến
họ làm mà họ
tự làm. Bản
thân mình không
đoan
chánh, tuy khiến mà họ
không làm theo. Cho nên muốn
lợi người,
trước hết
cần tự
lợi. Tuy tự
lợi, thật
ra bao trùm cả lợi
người. Sao gọi
là thiên lệch? Nếu
bỏ quên bản
thân không tự quán sát mà muốn
quán sát người làm hay không
làm thì người ta chưa
chắc
đã
lợi, chính mình có hại
trước. Mình
đã
có hại, cũng
có thể hại
người. Như
người bệnh
hủi lại
bán thuốc trị
bệnh
nhọt.
Hoặc
như
người
muốn
bắt
quỉ
thì phải
dùng phù chú hay mới không bị
chê cười,
đó
là người giỏi
vậy! Cho nên trong
kinh Ðại thừa
lý thú nói: “Nếu
các phàm phu chính mình không thanh tịnh,
hủy báng giới
cấm, tuy nói Chánh
pháp, khuyên người trì giới,
rốt cuộc
không ai tin theo, lại
bị
họ khinh chê. Vì vậy
nên biết, trước
phải kiểm
điểm
thân mình, lìa các phóng dật,
kiên trì tịnh giới
Ba-la-mật-đa,
sau
đó mới
vì người nói chỗ
cốt yếu
của Chánh pháp. Nhờ
vậy loài hữu
tình nghe rồi mới
có thể chịu
tin”.
Lại
nói: Biết mình
đã
trái với lời
răn, thì nên phản
tỉnh xét tự
tâm vậy. Không thấy
người khác trái với
lời răn
là bảo vệ
ý của người
kia. Ðó chính là
đồng với
ý nghĩa của
bài kệ này.
Than ôi! Mạt
vận
đạo
pháp bị suy vi, kẻ
trì luật vấn
đề khinh, trọng
không biết, khai giá chẳng
rõ thông. Người học
tập giáo pháp, mãi chạy
theo bề ngoài, buông lỏng
thân tâm. Người tham thiền
thì tiếp hướng
thừa hư,
như cuồng
như say,
đầy
dẫy khắp
nơi, nguy ngập
như thế
ai hay sửa chữa.
Vừa mở
maét nhìn, huyết lệ
liền tuôn!
Cho nên Kinh tạng
Phật nói: Chính lúc
này, không nên nhập chúng, dù chỉ
một
đêm.
Nên cần
ở
nơi núi rừng
xa vắng, suốt
đời. Chết
như con dã thú. Nên
sanh tâm nhàm chán như vầy:
Ta
đâu có thể
để thấy
Chánh pháp bị phá loạn,
nhìn thấy hạnh
Sa-môn thế này! Trong
đời
ác nguy hiểm, ta cần
phải siêng năng
tinh tấn, sớm
đặng
đạo
quả. Luận
rằng: Phật
tạng là kinh luật
Ðại thừa,
trình bày như vậy.
Ðó chính là hoằng
pháp
độ
sanh, vốn không phải
ở chỗ
phô trương thanh thế.
Chỉ còn trong thâm sơn
cùng cốc,
ở
Nam Diêm-phù-đề, có 5 Tỳ-kheo
trì giới thanh tịnh,
thì chủng tánh ngôi Tăng
bảo không
đoạn. Có một
Tỳ-kheo thanh tịnh
chánh kiến, tức
là Chánh pháp nhãn tạng
không dứt.
Xin các bạn
đồng
chí hướng của
tôi luôn luôn nghĩ
Chánh pháp gần bị
lấp
mất, thương
chúng sanh chìm
đắm, kính trọng lời
dạy của
đấng Từ
Tôn, hết lòng bảo
vệ Chánh pháp cho
được
lâu dài. Ðóng cửa
hai
đường
danh, lợi, thống
thiết một
điểm
tâm thành. Cầu mong nói lên lời
thiết yếu,
dành dụm tư
lương. Giới
châu xán lạn, nước
định lóng trong, nêu
cao mặt
trời huệ
để
được
chuyển xoay. Chỉ
mong trên hợp với
tâm Phật, dưới
lo gì bỏ sót chúng sanh.
Ðôi khi muốn vội
thấy
điều
nhỏ, chưa
khỏi cái nạn
đi vòng quanh, vừa
xa vừa lâu. Kẻ
cao minh không coi rẻ
lời
của người.
Người dị
kiến
ắt
vì lời nói mà tự
tạo tội
cho mình. Cảnh giới
của bậc
đại nhơn
khác với cảnh
giới của
hạng tầm
thường (Ðiển
tích).
5) Ðức
Phật Câu-Na-Hàm-Mâu-Ni
dạy
Chớ
để
tâm buông lung,
Hãy cần
học
Thánh pháp,
Như
thế
dứt
ưu
sầu,
Tâm định
nhập
Niết-bàn.
Ðây là Giới
kinh mà
đức
Phật
Câu-na-hàm-mâu-ni Như
Lai, bậc
Vô sở
trước,
Ðẳng
chánh giác,
đã
giảng
dạy.
Không buông lung cho nên không hoạn nạn,
ưu sầu.
Học pháp của
Thánh cho nên không sầu
lo. Không
ưu sầu
cho nên tâm
định.
Ưu
sầu thuộc
về khổ,
phóng dật là tập,
Thánh pháp là
đạo, nhập Niết-bàn
là diệt. Nếu
dùng tứ chủng,
Tứ
đế
để giải
thích thì mênh mông không bờ
bến, cần
suy nghĩ
đó.
6) Ðức
Phật Ca-Diếp
dạy
Hết
thảy
ác chớ
làm,
Hãy vâng hành các thiện.
Tự
lóng sạch
tâm trí,
Là lời
chư
Phật
dạy.
Ðây là Giới
kinh mà
đức
Ca-diếp
Như
Lai, bậc
Vô sở
trước,
Ðẳng
chánh giác,
đã
giảng
dạy.
Ngũ
trụ
phiền não
đều
gọi là ác. Tất
cả chớ
làm, tức là viên phục
(điều phục
hoàn toàn), viên
đoạn
(diệt trừ
hoàn toàn). Thể tánh vốn
đủ các công
đức,
nên gọi là thiện.
Tất cả
nên phụng hành tức
là viên tu (tu tập
tròn
đầy), viên chứng
(chứng
ngộ hoàn thành) vậy.
Trọn ngày
đình
chỉ các
điều ác mà không có
cái tướng
năng chỉ.
Trọn ngày thực
hành các
điều
thiện mà không có cái tướng
năng hành. Cho nên gọi
là tự lóng sạch
tâm trí.
7) Ðức
Phật Bổn
Sư Thích-Ca dạy
Khéo phòng hộ
lời
nói,
Tự
lắng
đọng tâm chí,
Thân không làm các
ác,
Thực
hành
được như
thế.
Ba tịnh
nghiệp
đạo này,
Là
đạo
đấng Ðại
tiên.
Ðây là Giới
kinh mà
đức Thích-ca
Mâu-ni Như
Lai, bậc
Vô sở
trước,
Ðẳng
chánh giác
đã giảng
cho các Tỳ-kheo
vô sự
trong khoảng
mười
hai năm
đầu. Từ
đó về
sau
được phân biệt
rộng
rãi. Các Tỳ-kheo
tự
mình hâm mộ
Chánh pháp, hâm mộ
Sa-môn hạnh,
có tàm có quý, hâm mộ
học
giới,
hãy tự
học
ở trong này.
Ba nghiệp
đạo thanh tịnh,
tức là pháp Thập
thiện
đạo.
Thiên, nhơn, Thanh văn,
Duyên giác, Bồ-tát,
và chư
Phật,
đều
nương vào
đó.
Như trong kinh Hoa
nghiêm, phẩm Thập
địa
thuyết minh một
cách
đầy
đủ.
Vô sự Tăng,
là Tăng không phạm
giới. Bảy
Giới kinh này
đều
nhằm thời
cơ mà nói, nên “chỉ
thú” (nghĩa lý) của
nó
đều có chỗ
trọng yếu
riêng. Ðây là theo bệnh
cho thuốc.
Ðến khi vào Niết-bàn,
chỉ có một
mà thôi.
Trong các bộ,
chỉ có bộ
căn bổn
trình bày phần duyên khởi
rõ ràng nhưng phần
văn tự
cú pháp của nó có phần
khác
ở
đây,
cho nên không lục
ra. Quảng
phân biệt thuyết
(phân biệt rộng
rãi) là khi pháp hữu
lậu
phát sanh, mới kết
250 giới
để
chận
đứng
pháp hữu lậu
vậy. Trong mỗi
giới lại
có căn bổn, tùng sanh, phương
tiện,
đẳng
lưu
không
đồng. Là Tỳ-kheo,
đều nên phải
học. Trừ
phi không tự cho mình là
Sa-môn, không
ưa Chánh pháp,
ưa
làm phi Sa-môn, phi Thích tử,
không xấu không hổ,
không
ưa học
giới, mới
không học vậy.
Hỏi:
Trước
12 năm học
cái gì?
Ðáp:
Tăng
vô sự tức
là vô học. Vị
nào chưa
đạt
được quả
vị vô học,
thì học cái
đạo
tịnh ba nghiệp.
Hỏi: Nay, ta cũng học
cái
đạo tịnh
ba nghiệp, tại
sao phải học
các giới tướng
vụn vặt
này?
Ðáp:
Nay, ông
ở trong thời
gian sau 12 năm mà muốn
làm cái việc của
trước 12 năm
sao?
Lại
nữa,
không luận thời
gian trước, thời
gian sau, xin
được phép hỏi ông: Ba nghiệp
của ông hiện
nay,
đồng với
các ngài Tăng vô sự
hay là không
đồng với
các ngài Vô sự Tăng?
Ðã không
đồng với
Vô sự Tăng,
nếu không học
giới này, làm sao biết
trì, biết phạm?
Nếu nói là: Giới
không cần phải
học, tức
phạm khinh giới
Ba-dật-đề;
chỉ một
niệm khinh giới
này, laø tịnh hay bất
tịnh? Nếu
bảo: trì, thủ,
phạm, giới
đều không thể
có
được (bất
khả
đắc).
Tại sao riêng ông,
nay chẳng
đạt
được
việc trì giới
mà chỉ có việc
phạm giới?
Nếu nói phạm
tức là không phạm,
thì cũng có thể
trì tức là không trì, nhưng
tại sao laïi bỏ
cái trì lấy cái phạm?
Nếu nói tịnh
không thủ xả,
tức là không nên thủ
cái hẹp, xả
cái rộng. Hoặc
nói tịnh uế
bình
đẳng, thì
địa
ngục thiên
đường
cũng bình
đẳng,
mắng chửi,
khen ngợi cùng bình
đẳng,
Chiên-đàn xạ
hương cùng với
phân uế cũng
bình
đẳng, cam lồ
máu mủ cũng
bình
đẳng, thiên y
đao
trượng cũng
bình
đẳng. Sao ông không
thường
ở nơi
địa ngục?
Sao ông không có tên là heo, chó, súc sanh, ngốc
nô, ngốc tặc?
Sao ông không thường ngửi
đồ hôi thúi? Sao ông không
ăn nuốt
máu mủ? Sao ông không tự
lấy
đao
trượng
đánh
đập thân mình? Nếu
ông
đã thật
sự chứng
được bình
đẳng
pháp tánh, thì tự
nhiên không phá hoại Tục
đế,
chắc chắn
thọ nhận
pháp lạc hiện
tiền, khéo léo giáo
hóa hữu
tình. Nếu ông miễn
cưỡng nhận
lấy việc
cao thượng
ấy
tức là ma
đã
nhập vào tâm ông, cũng
chẳng phải
là Chánh
đạo. Nếu
ông chưa chứng
được bình
đẳng
pháp tánh, cũng chưa
nhận
được
việc cao thượng
như vậy,
mà tùy tiện làm theo ý thường
tình của mình, biếng
nhác giải
đãi,
không chịu học
giới pháp này, tức
là tặc trụ,
tức là phi Sa-môn, tức
là kẻ không biết
xấu hổ,
tức là loài trùng
trong thân con sư tử,
tức
là hơn bọn
đại tặc,
tức là quyến
thuộc của
ác ma, tức là chủng
tử của
địa ngục.
Sao ông không biết,
đức
Như Lai chứng
được Sắc
bình
đẳng có thể
khiến
địa
ngục, thiên cung
đều
là Tịnh
độ.
Như Lai chứng
được Thanh bình
đẳng
có thể khiến
tiếng xấu
ác của thiên ma thành tiếng
khen ngợi. Như
Lai chứng
được
Hương bình
đẳng
có thể khiến
nơi nhơ
nhớp hóa thành hương
điện.
Như Lai chứng
được Vị
bình
đẳng
có thể khiến
thuốc
độc
trong thức
ăn
biến thành cam lồ.
Như Lai chứng
được Xúc bình
đẳng
có thể khiến
đao cung của
quân ma hóa thành thiên hoa. Như
Lai chứng
được
Pháp bình
đẳng, không bị
vật chuyển,
hằng có thể
chuyển vật,
đầy
đủ
vô lượng thần
thông diệu dụng
không thể nghĩ
bàn. Như Lai chứng
được Trì, Phạm
bình
đẳng ba nghiệp
đều hành
động
theo trí tuệ, hay khiến
chúng sanh phá giới
trở
lại
được
thanh tịnh. Ông
đã
vọng xưng
Trì, Phạm bình
đẳng,
tại sao ba nghiệp
vẫn nhiều
bừa bãi nhơ
nhớp,
đối
với giới
pháp khởi lên khó khăn
trở ngại
ư? Tâm khinh thường
này chỉ làm hại
cho chính mình mà thôi. Than ôi! Ðau
đớn
thay!
Thuật
Giới
kinh của
bảy đức
Phật đã
xong
C. PHẦN
BA
Kệ
khen hồi
hướng, chia làm bảy.
Thứ nhất
là từ khéo hộ
giới
để
được lợi
ích hơn hết,
cho
đến thứ
bảy là hồi
hướng Phật
đạo.
1) Khéo hộ
giới
Kẻ
trí khéo hộ
giới,
Sẽ
được
ba điều
vui:
Danh thơm
và lợi
dưỡng,
Sau khi chết
sanh Thiên.
Hãy quán sát
điều
này,
Bậc
trí siêng hộ
giới,
Giới
tịnh
sanh trí huệ,
Thành tựu
đạo
Tối
thượng.
Kẻ
trí là người
hộ trì giới,
chẳng phải
kẻ ngu si có thể
làm
được.
Ba
điều vui: Trước
hết nêu “hoa báo”
ở
hiện tại
và vị lai
để
khuyến dụ,
chẳng phải
bổn ý hộ
giới thật
sự như
vậy. Ðiều
này (như thị
xứ) là chỉ
cho học xứ.
Nhân trí khiến cho giới
thanh tịnh. Nhân giới
cho nên tánh trí tuệ
hiển
bày. Lại nữa,
tướng do dựa
vào
đó mà trở
thành phước huệ
nhị nghiêm, thẳng
đến thành Phật,
là thật quả
của hộ
giới vậy.
Chữ “Trí” trước,
là văn tư
Chánh kiến. Chữ
“Trí” sau, là Vô lậu
Thỉ
giác
Thỉ giác hợp
với Bản
giác,
gọi là Cứu
Cánh giác
Cho nên thành tựu
đạo Tối
thượng.
2) Thuyết
minh chư Phật
đạo
đồng
Như
chư
Phật
quá khứ,
Và chư
Phật
vị
lai,
Các Thế
Tôn hiện
tại,
Ðấng
chiến
thắng
khổ
đau,
Thảy
đều
tôn kính giới,
Ðây là pháp chư
Phật.
Tất
cả khổ
đau do phiền
não và sở tri. Hai chướng
này làm nhân; phân
đoạn
và biến dịch,
hai món sanh tử
này làm quả. Chỉ
cần tôn kính giới
này là có thể thắng
được. Vì mỗi
một giới
có khả năng
đối trị
phiền não. Nếu
thông
đạt
được
tánh của giới,
thì có thể lìa cái ngu sở
tri.
3) Khuyên tuân theo lời
dạy của
Ðức Phật
Nếu ai vì tự thân,
Mong cầu nơi Phật đạo,
Hãy tôn trọng Chánh pháp,
Ðây lời chư Phật dạy.
Vì tự
thân tức
không phải vì danh vì lợi.
Cầu Phật
đạo tức
không phải là cầu
Thanh văn, Duyên giác.
Chánh pháp tức chỉ
cho Ba-la-đề-mộc-xoa,
nhờ Phật
ra
đời mới
có. Không
đồng với
Ðịnh cộng
giới, Ðạo
cộng giới,
và Ngũ thường
trị thế,
hay Thập thiện,
cho nên gọi là Chánh pháp.
Lại
nữa,
có giới này là có Tăng
bảo. Có Tăng
bảo là khiến
cho Phật pháp không dứt,
cho nên gọi là Chánh pháp. Muốn
cầu Phật
đạo,
ắt
phải tôn trọng
giới này. Ðâu nên vội
cho là khuôn phép nhỏ
nhặt,
mà hủy báng lời
dạy sáng suốt
của
đức
Phật.
4) Chứng
minh lợi ích CỦA
Giới Kinh
Bảy đấng Thế Tôn Phật,
Diệt trừ mọi kiết sử,
Thuyết bảy Giới kinh này,
Giải thoát các hệ phược,
Các Ngài đã Niết-bàn.
Các hý luận vắng bặt.
Các đệ tử tuân hành,
Lời dạy đấng Ðại tiên,
Giới Thánh Hiền khen ngợi,
Thảy đều nhập Niết-bàn.
Bảy
đức
Thế Tôn Phật,
vì muốn diệt
trừ các kiết
sử của
chúng sanh, cho nên nói các Giới
kinh này, khiến tất
cả chúng sanh giải
thoát các trói buộc,
đồng
nhập vào Niết-bàn,
diệt các hý luận
trong ba cõi. Cho nên biết
giới của
vị Ðại
tiên này nói, là giới
mà Thánh Hiền khen ngợi.
Phàm là
đệ tử
của Phật,
đâu không phụng
hành theo
đây, mà nhập
vào Niết-bàn
được.
5) Thuật
lại lời
di chúc của Thế
Tôn Phật
Thế Tôn khi Niết-bàn,
Vận khởi tâm Ðại bi,
Hợp các Tỳ-kheo chúng,
Ban giáo giới như vầy:
Chớ nghĩ Ta Niết-bàn,
Không còn ai dìu dắt.
Giới kinh và Tỳ-ni,
Những điều Ta dạy rõ,
Hãy xem đó như Phật,
Dù Ta nhập Niết-bàn,
Giới kinh này còn mãi.
Phật pháp còn sáng rõ,
Do sự sáng rõ ấy,
Niết-bàn được chứng nhập.
Nếu không trì Giới này,
Không Bố-tát như Pháp,
Khác gì mặt trời lặn,
Thế giới thành tối tăm.
Gần
Niết-bàn
mà trao cho lời
răn
dạy, chính là như
di chúc của cha mẹ
đối với
con, so sánh với
nỗi
khổ tâm cứu
khổ
độ
lạc lúc bình thường
thì thống thiết
hơn nhiều.
Giới
kinh là chỉ
cho 5 thiên học
xứ.
Tỳ-ni
là phương
pháp diệt
tội.
Ðây tức
là Pháp thân của
Như
Lai thường trụ
nơi thế
gian, cho nên phải
xem như
Thế Tôn. Có như
pháp thực hiện
Yết-ma, có làm theo
như
lời nói, gọi
là kinh này
ở
đời,
gọi là Chánh pháp
ở
đời. Giáo, Hạnh,
Quả
cả ba
đều
đầy
đủ.
Chẳng vậy
thì bánh xe pháp bị
sa lầy,
đường ác dẫy
đầy. Cho nên dụ
như mặt
trời lặn,
mờ mịt
không thấy
đường
đi vậy.
6) Hộ
trì lời răn
dạy
Hãy hộ trì Giới này,
Như trâu Mao tiếc đuôi.
Hòa hợp ngồi một chỗ,
Như lời Phật đã dạy.
Mao
犛I:
âm là mao 茅,
tên của loài trâu vậy.
Con trâu Mao tiếc
cái
đuôi
của nó
đến
nỗi quên cả
cái thân. Dụ người
trì giới vì hộ
trì giới mà không kể
gì thân mạng. Như
lời Phật
dạy nửa
tháng tụng một
lần như
pháp nói, không phạm
phi pháp, biệt chúng cùng các lỗi.
7) Hồi
hướng Phật
đạo
Tôi đã thuyết Giới kinh,
Chúng Tăng Bố-tát xong
Tôi nay thuyết Giới kinh,
Công đức thuyết Giới này,
Nguyện ban khắp chúng sanh,
Cùng trọn thành Phật đạo.
Hỏi:
Giới
này vốn vì Thanh văn
kiến lập,
tại sao hồi
hướng Phật
đạo? Nếu
pháp của Thanh văn,
quả thật
đồng Phật
đạo, tại
sao trong kinh có nói: Thanh văn
trì giới gọi
là Bồ-tát phá giới.
Thanh văn phá giơùi,
gọi là Bồ-tát
trì giới?
Ðáp:
Trong tất cả
kinh, chỉ trách tâm của
Thanh văn, không trách luật
của Thanh văn.
Do vì, chỉ muốn
tự
độ,
không nghĩ
đến
việc
độ
người, rơi
vào hầm vô vi, thiếu
cái dụng Ðại
bi cho nên bị trách. Vả
lại, Thanh văn
lấy thú tịch
diệt làm chí hướng,
cho nên tâm sân phạm
khinh tội,
tâm tham phạm trọng
tội. Bồ-tát
lấy
độ
sanh làm gốc, cho nên tâm sân
phạm
trọng tội,
tâm tham phạm khinh tội.
Ðến như
tên gọi Tỳ-kheo,
vốn thông cả
đại lẫn
tiểu. Có Tỳ-kheo
Thanh văn, có Tỳ-kheo
Bồ-tát. Nơi
đến tuy có khác mà
thể
của Tỳ-kheo
thì
đồng. Thể
đồng thì giới
cũng
đồng.
Nếu không có giới
này, thì giống như
tại gia Bồ-tát,
đâu phải
đợi bỏ
nhà
đời
đến
nhà
đạo (phi gia). Cho
nên biết
giới pháp của
Tỳ-kheo
đại
tiểu
đều
phụng hành. Ví như
cùng một phương
thang mà hai lương y sử dụng
đem
lại kết
quả khác nhau (điển tích).
Hồi
hướng Phật
đạo, làm sao trái với
kinh
đã dạy.
Kệ
khen hồi
hướng xong.
Toàn
văn chia làm ba.
Ðây là mục ba, kế
khuyến hồi
hướng. Luật
này toàn văn chia
làm hai.
Phần hai nhập văn hoàn tất
TRÙNG TRỊ
TỲ-NI
SỰ
NGHĨA
TẬP
YẾU
HẾT
QUYỂN THỨ MƯỜI