TRÙNG TRỊ TỲ NI
SỰ NGHĨA TẬP YẾU
CỔ
NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích
Việt
dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH
Nhuận văn
và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
---o0o---
TẬP II
QUYỂN THỨ 16
I.
GIỚI CỦA
TỲ-KHEO-NI
Pháp Bố-tát
của Ni cùng với
Tỳ-kheo
đồng.
Những giới
chung của Tỳ-kheo
và Tỳ-kheo-ni như
trước
đã
nói.
Ở
đây,
chỉ những
giới không chung mới
lục ra. Chủ
ý là giản lược
chỗ cốt
yếu, chứ
không giải thích rộng.
I. TÁM PHÁP BA-LA-DI
1. Giới
dâm.
2. Giới
trộm.
3. Giới
sát.
4. Giới
đại
vọng
ngữ.
Bốn
giới
này
đều
đồng
với Tỳ-kheo.
5. Cùng với
thân người
nam xúc chạm.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo-ni
nào, với
tâm nhiễm
ô cùng người
nam có tâm nhiễm
ô, trên thân từ
nách trở
xuống,
từ
đầu
gối
trở
lên; hoặc
nắm,
hoặc
rờ,
hoặc
kéo, hoặc
đẩy,
hoặc
rờ
lên, hoặc
rờ
xuống,
hoặc
nâng lên, hoặc
để
xuống.
Tỳ-kheo-ni
ấy
là kẻ
Ba-la-di không
được
sống
chung. Ðây là giới
thân xúc chạm.
NGUYÊN DO:
Trưởng
giả Lộc
Lạc cùng với
Tỳ-kheo-ni
Thâu-la-nan-đà
để ý lẫn
nhau. Một hôm nọ
trưởng giả
mời chư
Ni thời cơm.
Thâu-la-nan-đà biết
trưởng giả
vì mình mà mời chư
Ni, nên
ở chùa không
đi.
Trưởng giả
nhìn khắp Ni chúng không thấy
Thâu-la-nan-đà, bèn hỏi:
- Thâu-la-nan-đà
ở
đâu mà không thấy
đến?
-
Ở
chùa, không
đến.
Truởng
giả vội
sớt thức
ăn xong, liền
đến chùa.
Thâu-la-nan-đà từ
xa thấy
trưởng giả
đến liền
nằm trên giường,
Trưởng giả
hỏi:
- Cô có bệnh
hay sao?
- Không bệnh
chi cả. Ðiều
tôi muốn trưởng
giả không thỏa
mãn cho.
Trưởng
giả nói:
- Tôi cũng
muốn chứ
không phải không.
Trưởng giả liền
ôm choàng
đằng trước
nằm xuống,
tay sờ, miệng
hôn. Sa-di-ni nhỏ
giữ
phòng thấy vậy,
đến báo cáo với
chư Ni. Chư
Ni hiềm trách, bạch
các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo
bạch Phật.
Thế Tôn họp
Tăng, quở
trách, kiết giới.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Nam tử,
tưởng nam tử,
tay rờ thân, thân xúc chạm
nhau, nhận sự
thích thú, phạm Ba-la-di. Nghi là
nam tử,
Thâu-lan-giá. Cho
đến nắm
cái
đãy cũng
như vậy.
Ni dùng thân xúc chạm
y người
nam,
đồ anh lạc;
và ngược lại
nam dùng y,
đồ anh lạc
chạm xúc thân Ni với
dục tâm
đắm
nhiễm, thì phạm
Thâu-lan-giá. Dùng áo nơi
thân hay
đồ anh lạc,
xúc chạm y nơi
thân, hay
đồ anh lạc
của
đối
tượng với
dục tâm
đắm
nhiễm, thì phạm
Ðột-kiết-la.
Với dục
tâm
đắm nhiễm,
thân xúc chạm nhau, dù không
thích thú, phạm Thâu-lan-giá. Cho
đến
nắm, kéo cũng
vậy. Nếu
nam của loài trời,
nam của A-tu-la, cho
đến súc sanh giống
đực,
có thể biến
hình, thân xúc chạm
nhau, thì phạm Thâu-lan-giá. Loại
không thể biến
hình, thì phạm Ðột-kiết-la. Thân của
người nữ
xúc chạm nhau, thì Ðột-kiết-la. Thân của
kẻ hai hình xúc chạm
nhau, thì Thâu-lan-giá. Với
dục tâm chạm
y, bát v.v... cho
đến tự
xúc chạm thân mình, tất
cả
đều
Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Nếu khi trao nhận
nhầm xúc chạm,
hoặc khi cứu
giải mà xúc chạm,
tất cả
không dục tâm và ban
đầu
khi chưa kiết
giới, si cuồng,
tâm loạn, thống
não, ràng buộc.
6. Phạm
tám việc.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo-ni
nào, với
tâm nhiễm
ô, biết
người
nam có tâm nhiễm
ô, chấp
nhận
sự
nắm
tay, nắm
áo, vào chỗ
vắng,
cùng đứng,
cùng nói, cùng
đi,
thân dựa
kề
nhau, hẹn
nhau. Tỳ-kheo-ni
ấy
là kẻ
Ba-la-di không
được
sống
chung. Ðây là phạm
tám việc.
NGUYÊN DO:
Cũng
do Thâu-la-nan-đà, cho nên chế
cấm.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Từ
nắm
tay cho
đến thân dựa
kề nhau, mỗi
mỗi
đều
phạm Thâu-lan-giá. Phạm
đến việc
thứ tám, Ba-la-di. Trời,
rồng, cho
đến
súc sanh có thể
biến
hóa
được phạm
bảy việc,
mỗi mỗi
Ðột-kiết-la.
Phạm
đến
việc thứ
tám, Thâu-lan-giá. Súc sanh không biến
hình
được và người
nữ có tâm nhiễm
ô, phạm
đến
việc thứ
tám Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Nếu vì sự
trao nhận nên tay chạm
nhau, hoặc có sự
cứu giải
nên nắm áo. Hoặc
có chỗ dâng cúng, hoặc
lễ bái hoặc
sám hối, hoặc
thọ pháp, vào chỗ
vắng, cùng
đứng,
cùng nói, cùng
đi.
Hoặc
bị người
đánh, hoặc
có giặc
đến,
voi
đến, ác thú
đến,
kẻ thích khách
đến,
nghiêng mình
để tránh nhằm dựa
nhau. Trường
hợp
đến
cầu giáo thọ,
hoặc thỉnh
pháp, hoặc thọ
thỉnh, hoặc
đến chùa, hoặc
cùng hẹn nơi
chỗ không thể
làm việc xấu
(bậy).
7. Che giấu
trọng
tội
của
người.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo-ni
nào, biết
Tỳ-kheo-ni
phạm
Ba-la-di, không tự
phát lồ,
không nói với
người
trong chúng, không bạch
với
đại
chúng. Thời
gian khác Tỳ-kheo-ni
kia, hoặc
mạng
chung, hoặc
bị
chúng cử
tội,
hoặc
thôi tu, hoặc
theo ngoại
đạo.
Khi đó
lại
nói rằng:
“Tôi, trước
đây
đã
biết
cô ấy
có tội
như
vậy,
như
vậy.”
Tỳ-kheo-ni
ấy
là kẻ
Ba-la-di không
được
sống
chung. đây
là giới
che giấu
trọng
tội
của
người.
NGUYÊN DO:
Em của
Thâu-la-nan-đà là Ðề-xá-nan-đà, phạm
Ba-la-di. Thâu-la-nan-đà
sợ em mình bị
tiếng xấu,
nên làm thinh không nói. Thời
gian sau, Ðề-xá thôi tu, chư
Ni hỏi:
- Em của
cô thôi tu phải không?
Thâu-la-nan-đà
nói:
- Trước
đây
tôi
đã biết
nó có tội như
vậy, như
vậy.
Chư
Ni trách rằng:
- Tại
sao cô che giấu trọng
tội của
kẻ khác.
Chư
Ni bạch
với Tỳ-kheo,
Tỳ-kheo bạch
Thế Tôn kiết
giới.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Biết
bữa
ăn trước
đến bữa
ăn sau mới
nói, cho
đến biết
nửa
đêm,
sau
đêm mới
nói, phạm Thâu-lan-giá. Biết
sau
đêm mà không nói,
đến khi tướng mặt
trời xuất
hiện là phạm
Ba-la-di. Trừ tám tội
Ba-la-di, còn che giấu
tội
khác, tùy theo chỗ
phạm,
tự che giấu
trọng tội,
phạm Thâu-lan-giá, che
giấu
tội của
người khác, phạm
Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Nếu không biết,
nếu không có người
để có thể
nói, nếu nói sẽ
có mạng nạn,
phạm hạnh
nạn.
Luật
Thập tụng
nói:
Nếu
Tăng
cùng với Ni cô này tác
pháp “bất
kiến” các tội
tẫn xuất.
Hoặc cuồng
tâm, loạn tâm, bịnh
hoại tâm. Khi
ấy
không nói tội của
người khác, không phạm.
Nếu Tăng
cùng với Ni cô này
đã
giải tẫn,
hoặc
bịnh thống
khổ
đã
chấm dứt,
bình phục rồi.
Lúc bấy giờ
che tội của
người khác cho
đến
khi thấy rõ
đất
(tức minh tướng
xuất hiện)
phạm Ba-la-di.
8. Theo kẻ
bị
cử
tội,
ba phen can gián không bỏ.
GIỚI BỔN:
Tỳ-kheo-ni
nào, biết
Tỳ-kheo
bị
Tăng
cử
tội,
như
pháp như
luật,
như
lời
Phật
dạy,
mà không thuận
theo, không sám hối,
Tăng
chưa
cho tác pháp
ở
chung. Cô Ni kia lại
thuận
theo. Các Tỳ-kheo-ni
nói rằng:
“Ðại
tỷ,
Tỳ-kheo
này bị
Tăng
cử
tội,
như
pháp như
luật,
như
lời
Phật
dạy,
mà không thuận
theo, không sám hối,
Tăng
chưa
cho tác pháp
ở
chung. Cô
đừng
thuận
theo.”
Khi Tỳ-kheo-ni
can gián Tỳ-kheo-ni
kia như
vậy
mà kiên trì không bỏ.
Tỳ-kheo-ni
nên can gián hai ba lần
cho bỏ
việc
ấy.
Nếu
ba lần
can gián bỏ
thì tốt,
không bỏ
thì Tỳ-kheo-ni
kia là kẻ
Ba-la-di không
được
sống
chung. Ðây là tội
theo kẻ
bị
cử.
NGUYÊN DO:
Tôn giả
Xiển-đà
bị Tăng
cử tội,
Tỳ-kheo-ni Úy-thứ,
tới lui phục
vụ, các Ni can gián
ngăn
chặn. Cô ta trả
lời: - Ðây là anh của
tôi, nay không cúng dường
đợi
đến
khi nào.
Cho nên vẫn
tùy thuận phục
vụ không thôi. Các Ni
hiềm
trách nói với các Tỳ-kheo
để bạch
Phật. Phật
bảo Chúng Tỳ-khèo-ni
Bạch tứ
yết-ma can gián (quở
trách) mà kiết giới
này.
Tùy thuận
có 2 loại: một
là pháp, hai là y thực.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Yết-ma
lần thứ
ba xong, phạm Ba-la-di. Hai lần
Yết-ma xong, mà bỏ
phạm ba Thâu-lan-giá.
Một
lần Yết-ma
xong mà bỏ, phạm
hai Thâu-lan-giá. Bạch
xong mà bỏ,
phaïn một Thâu-lan-giá. Ai
bảo:
đừng bỏ,
người
ấy
phạm Thâu-lan-giá. Nếu
không quở trách phạm
Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Phi pháp, biệt chúng Yết-ma
v.v...
Luật
Thập tụng
nói:
Chư
Ni nên nói với vị
Tỳ-kheo bị
tẫn: “Thầy
nên chiết phục
hạ ý,
đến
đại Tăng.
Nếu không chiếc
phục hạ
ý, thì Ni Chúng sẽ
tác Yết-ma
không lễ bái, không nói
chuyện,
không cúng dường. Trường
hợp khi Chúng Tỳ-khèo-ni
chưa tác pháp Yết-ma
không lễ bái, mà dạy
pháp thọ pháp, cho vật,
nhận vật,
mỗi mỗi
Ðột-kiết-la.
Nếu sau khi
đã
tác pháp Yết-ma, thì mỗi
mỗi phạm
Thâu-lan-giá. Chư
Ni trước
nên nhỏ nhẹ
khuyên bảo, nếu
chịu bỏ
thì tác nhiều Ðột-kiết-la, nhiều
Thâu-lan-giá sám hối,
nếu
không chịu bỏ
thì mới Bạch
tứ yết-ma.
II. MƯỜI
BẢY
PHÁP TĂNG-GIÀ-BÀ-THI-SA
Luật
Tăng kỳ
thì có 19 pháp, Luật Căn
bản
thì lại có 20 pháp.
1. Giới
mai mối.
2. Giới
hủy
báng vô căn
cứ.
3. Giới
hủy
báng phiến
diện.
Ba giới
này
đồng với
Tỳ-kheo.
GIỚI
THỨ
4 (Tố
tụng):
Tỳ-kheo-ni
nào, đến
thưa
kiện
cư
sĩ,
con cư
sĩ,
kẻ
tôi tớ,
người
làm thuê, hoặc
ngày, hoặc
đêm,
hay trong khoảnh
khắc
khảy
móng tay, hay trong chốc
lát. Tỳ-kheo-ni
này, vừa
làm nên bỏ,
bằng
không, phạm
Tăng-già-bà-thi-sa.
(Phạm
sơ pháp,
ưng
xả: sơ
pháp giả, sơ
tác, tiện phạm
dã.
Ưng xả
giả,
ưng
xả nhi bất
phạm dã).
NGUYÊN DO:
Có cư
sĩ
nước Xá-vệ
làm một tinh xá cúng cho
Ni. Sau
đó
một thời
gian, chư Ni bỏ
tinh xá
đi nơi
khác. Cư sĩ
đó qua
đời,
con của cư
sĩ bèn cày
đất
nơi tinh xá
đó.
Chư Ni nói: “Ðây là
đất của Tăng
đừng cày”.
Con của
cư sĩ
trả lời:
- Thật
vậy,
cha tôi lúc sanh tiền,
làm tinh xá này cúng cho Ni Chúng, Ni Chúng bỏ
đi, cha tôi qua
đời. Nay tôi tự
do, trong khi cả
hai
đều
không sử dụng,
tại sao lại
bỏ trống
đất này? Chư
Ni liền
đến
quan
đoán sự
thưa kiện,
quan kêu con của
cư
sĩ
đến,
y pháp luật
để
quyết
đoán:
Tịch thu tài sản
nhập vào kho của
nhà nước. Ðức
Phật nghe nên chế
cấm.
Cũng
khi
ấy
vợ nhỏ
của vua Ba-tư-nặc làm một
tinh xá cúng cho Ni. Ni
đã
nhận
ở
rồi, sau
đó
du hành trong nhơn
gian. Vợ
nhỏ vua liền
chuyển cúng cho nữ
Phạm chí. Khi Ni trở
lại tinh xá, bảo
nữ Phạm
chí
đi. Ðược
trả lời:
- Ðây thật là tinh xá của
cô, thí chủ vì cô làm. Nhưng
cô
đi du hành, thí chủ
lại cúng cho tôi, nay
tôi không thể
đi.
Ni giận
xô
đuổi,
kéo ra khỏi tinh xá. Người
đó liền
đến quan
đoán
sự thưa.
Quan mời Ni
đến,
vị Ni không dám
đến.
Phật
dạy:
- Có mời thì nên
đến.
Ni liền
đến chỗ
quan nói: - Tất cả
đất
đây
đều thuộc
nhà vua. Mọi việc
thuộc cư
sĩ, phòng xá thuộc
thí chủ, giường
tòa ngọa cụ
cũng vậy.
Sửa chữa
phòng
ốc, khiến
cho Tăng có chỗ
nghỉ ngơi,
đươïc phước
nhiều. Tại
sao vậy? Vì người
ấy cho tôi, nên tôi
được
ở yên. Quan
đoán
sự liền
lấy tinh xá giao cho
nữ
Phạm chí.
Ðức
Phật
bảo Tỳ-kheo:
- Cô Ni này không khéo nói, quan cũng
không khéo xử. Tại
sao vậy? Thí lần
trước là
đúng
pháp (xứng với
bổn tâm vậy),
thí lần sau là phi pháp
(trái với
bổn tâm vậy).
GIẢI THÍCH:
Tương ngôn:
là
đến
chỗ quan cùng tranh
nhau cãi ngay, gian.
Tôi tớ:
là người làm thuê,
được
trả bằng
tiền.
Nữ
Phạm
chí: là người nữ
xuất gia trong pháp
ngoại
đạo.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Quan
đoán
sự ghi chép thành văn
bản, Tăng
tàn. Miệng nói chứ
không ghi tên họ,
Thâu-lan-giá. Tỳ-kheo v.v... Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Hoặc bị
kêu, hoặc muốn
thưa trình
điều gì, hoặc
bị cường
lực kéo
đi,
hoặc bị
trói dẫn
đi,
hoặc mạng
nạn, phạm
hạnh nạn;
tuy miệng nói mà không kiện
cáo với quan.
Luật
Ngũ phần
nói:
Nếu
Tỳ-kheo-ni
bị người
khinh mạn lăng
nhục, nên nói với
cha mẹ họ.
Nếu không có cha mẹ
nên nói với thân tộc,
nếu không thân tộc
nên nói với Tỳ-kheo,
hay là
Ưu-bà-di. Nếu
Tỳ-kheo và Ni có thế
lực mà không giúp
đỡ, Ðột-kiết-la.
Khi nói, nên nói thế
này:
- Người kia khinh mạn lăng
nhục
tôi, vì tôi quở
trách can gián
để họ
khỏi
nói những
điều
đó.
GIỚI
THỨ
5 (Ðộ
nữ
tặc):
Tỳ-kheo-ni
nào, trước
có biết
cô gái gian tặc,
tội
đáng
chết,
có người
biết,
mà không hỏi
đại
thần
của
vua, không hỏi
họ
hàng, liền
độ
cho xuất
gia, thọ
Cụ
túc. Tỳ-kheo-ni
này vừa
làm liền
bỏ,
bằng
không bỏ,
phạm
Tăng-già-bà-thi-sa.
NGUYÊN DO:
Có người
nữ gian tặc,
ăn trộm
của cải
của Ly-xa
trốn
đi.
Các Ly-xa bảo người
tìm giết. Tặc
nữ liền
vào trong thành Vương Xá,
đến trong vườn
của Ni xin xuất
gia. Ly-xa báo cáo với
vua Bình-sa
để truy tầm.
Vua nghe
đã xuất
gia, bảo người
tin cho Ly-xa, Ly-xa cơ
hiềm cho nên Phật
chế cấm.
Khi
ấy, các Ni hoặc
không biết là tặc,
hay chẳng phải
tặc,
đáng
chết hay không
đáng
chết. Phật
dạy: - Không biết,
không phạm.
GIẢI THÍCH:
Giặc
(cướp):
là người lấy
5 tiền hay hơn
5 tiền.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Ba lần
Yết-ma
xong, Hòa thượng Ni, Tăng tàn.
Không phạm:
Nếu không biết,
hoặc hỏi
đại thần
của vua, họ
hàng, rồi cho xuất
gia. Hoặc bị
bắt giam, phóng thích
cho xuất gia. Hoặc
cứu khiến
cho
được thoát.
Luật Thập
tụng
nói:
Hòa thượng Ni biết,
thì phạm Tăng
tàn. A-xà-lê Ni biết,
thì phạm
Thâu-lan-giá. Tăng
biết
thì phạm Ðột-kiết-la.
GIỚI
THỨ 6 (Tự
ý giải
tội):
Tỳ-kheo-ni
nào, biết
Tỳ-kheo-ni
kia bị
Tăng
cử
tội
(xả
trí), như
pháp, như
luật,
như
lời
Phật
dạy,
mà không thuận
theo, chưa
sám hối,
Tăng
chưa
cho tác pháp Yết-ma
ở chung. Vì thương
nhau không hỏi
Tăng,
Tăng
không sai bảo,
ra ngoài giới,
tác Yết-ma
cho giải
tội.
Tỳ-kheo-ni
này vừa
làm nên bỏ,
bằng
không bỏ,
phạm
Tăng-già-bà-thi-sa.
NGUYÊN DO:
Tỳ-kheo-ni
Úy-thứ,
bị Tăng
cử tội,
Thâu-la-nan-đà không bạch
Ni Chúng. Tăng không sai bảo,
vội tự
ý ra ngoài giới, cùng tác Yết-ma
giải tội,
cho nên Phật chế
cấm.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Ba phen Yết-ma
xong, Tăng tàn; Hai phen Yết-ma
xong ba Thâu-lan-giá. Một
lần Yết-ma
xong, hai Thâu-lan-giá. Bạch
xong, một Thâu-lan-giá. Phương
tiện họp
Tăng, Ðột-kiết-la. Tỳ-kheo,
Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Bạch Tăng,
Tăng dạy
bảo, nếu
có thể hạ
ý
ăn năn
tội lỗi.
Nếu Tăng
có sân, không cho giải
tội, người
kia giải, không phạm.
Nếu
được
trao pháp tác Yết-ma
rồi
Tăng dời
chỗ hoặc
chết, hoặc
đi xa, thôi tu
v.v... nên vị kia giải,
không phạm.
GIỚI
THỨ
7 (Ðộc
hành):
Tỳ-kheo-ni
nào, lội
nước
một
mình, vào xóm một
mình, ngủ
một
mình, đi
sau một
mình. Vừa
làm nên bỏ,
bằng
không bỏ
phạm
Tăng-già-bà-thi-sa
(Bộ khác hoặc
chia làm bốn giới).
NGUYÊN DO:
Có cô Ni một
mình vén cao y lội
nước,
kẻ gian tặc
thấy
để
ý, bèn nắm xúc phạm
quấy nhiễu.
Cư sĩ
hiềm chê như
dâm nữ. Lại,
(Tỳ-kheo-ni) Sai-ma có
nhiều
đệ tử,
cách Tăng-già-lam không
xa, trong thôn có bà con, vì có chút duyên sự,
nên một
mình vào thôn, và ngủ
một
mình trong thôn. Có cư
sĩ nói: - Ni kia muốn
được nam tử.
Lại
nữa,
Lục quần
Ni, cùng với Ni Chúng
đi,
thường
đi
một bên
đường
và
đằng sau. Chư
Ni hiềm trách, bạch
Tỳ-kheo
để
bạch lên Thế
Tôn kiết giới.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Nên tìm một
Ni
để cùng lội,
nên từ từ
vén y
để lội,
đợi bạn.
Ni
đi trước
lội mau, khiến
bạn lội
không kịp, phạm
Tăng tàn. Khi vào nước,
tùy nước sâu cạn,
vén y,
đợi bạn,
nếu lội
vào nước mau, không
đợi bạn
đi
sau, phạm Thâu-lan-giá. Nếu
đến bờ
bên kia, thì từ từ
hạ y,
đợi
bạn, nếu
không từ từ
hạ y, lên bờ,
không
đợi bạn,
phạm Thâu-lan-giá. Nếu
một mình
đến
thôn, tùy theo thôn
đã
đến, phạm Tăng
tàn. Nếu một
mình
đi
đến
chỗ khoảng
trống tầm
xa khoảng nghe tiếng
trống, phạm
Tăng tàn. Chưa
đến thôn dưới
độ nghe của
tiếng trống,
phạm Thâu-lan-giá. Một
mình
đi một
giới hạn
nào
đó của
thôn, phạm Ðột-kiết-la. Phương
tiện muốn
đi mà không
đi,
phạm Ðột-kiết-la. Nếu
cùng ngủ
ở
trong thôn, thì khi nằm
duỗi
tay phải
đụng
nhau, nếu không
đụng
phạm Tăng
tàn. Trường hợp
không thấy nhau, nhưng
nghe tiếng nói nhau, hoặc
không nghe tiếng nhau nhưng
thấy nhau thì phạm
Thâu-lan-giá.
Không phạm:
Hoặc lội
bằng thần
túc, qua bằng thuyền
bè, bằng cầu,
bằng
đò,
bằng
đá
qua sông. Nếu bạn
Ni qua
đời, thôi tu v.v...
hoặc
mạng nạn,
phạm hạnh
nạn, ác thú nạn,
hoặc cường
lực
đem
đi, hoặc
bị nước
trôi. Vào thôn cũng
vậy.
Hai Ni ngủ chỗ
duỗi tay
đụng
nhau, một Ni ra ngoài
đại tiểu tiện,
hoặc thọ
kinh, tụng kinh, hoặc
vì Ni bệnh nấu
cháo, cơm, canh và mạng
nạn v.v... Cùng
đi cũng vậy.
GIỚI
THỨ
8 (Nhận
của
nam nhiễm
tâm):
Tỳ-kheo-ni
nào, với
tâm nhiễm
ô, biết
người
nam tử
có tâm nhiễm
ô, theo họ
nhận
thức
ăn và
ăn, cùng các vật
khác, Tỳ-kheo-ni
ấy, vừa
làm nên bỏ,
bằng
không bỏ,
phạm
Tăng-già-bà-thi-sa.
NGUYÊN DO:
Lúc bấy giờ,
mất mùa, khất
thực khó
được.
Ðề-xá Nan-đà
đến một
nhà buôn khất thực.
Người chủ
nhà buôn
để ý cô, bèn cho cơm
canh
đầy bát. Ðề-xá
sau
đó thường
đến nhà buôn này khất
thực. Một
hôm nọ, người
kia từ xa thấy
cô Ni
đến, bèn tự
tính nhẩm: Số
vật thực
trước sau cho cô này
ăn, trị giá có thể
năm trăm
kim tiền,
đủ
để mua một
người
đàn
bà, liền
đến
trước ôm cô Ni, muốn
hành dâm, cô Ni la to:
- Ðừng
làm vậy,
đừng
làm vậy.
Người
lân cận hỏi,
biết sự
việc và hỏi
cô Ni:
- Cô có biết ý của
người kia cho cô
ăn vì việc gì không?
Trả
lời: - Biết.
Người
lân cận nói: - Ðã biết,
tại sao lại
la lớn?
Khi
ấy,
các Ni hiềm trách, bạch
Tỳ-kheo thưa
lại Thế
Tôn kiết giới.
GIẢI THÍCH:
Thứ
có thể
ăn: là chỉ
cho căn, cành, lá, hoa,
quả,
dầu, hồ
ma, hắc thạch
mật, thức
ăn nhỏ
mịn vậy.
Thức
ăn: là chỉ cho cơm,
bún, cơm khô...
Các vật
khác: là chỉ cho vàng, bạc,
trân bảo v.v...
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Với
tâm nhiễm
ô, biết người
nam tử có tâm nhiễm,
theo nhận vật
thực, phạm
Tăng tàn. Thiên tử,
A-tu-la tử, cho
đến
súc sanh có thể
biến
hình, phạm Thâu-lan-giá.
Không biến
hình
được, phạm
Ðột-kiết-la.
Tỳ-kheo, phạm
Ðột-kiết-la.
Ba chúng dưới, phạm Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Không biết họ
có tâm nhiễm ô.
Luật
Căn bản
nói:
Ni có nhiễm
tâm, nam tử không có nhiễm
tâm, mắc tội
thổ-la (Thâu-lan-giá);
Ni không có nhiễm tâm, mắc
tội ác tác.
GIỚI
THỨ
9 (Tán trợ ni khất
thực bất
chính):
Tỳ-kheo-ni
nào, dạy
Tỳ-kheo-ni
nói như
vầy:
“Ðại
ty,û dầu
người
kia có tâm nhiễm
ô, hay không có tâm nhiễm
ô, can hệ
gì đến
cô? Miễn
sao nơi
cô không có tâm nhiễm
ô. Nếu
được
thức
ăn
nơi
họ,
hợp
thời
thanh tịnh
thì nhận.”
Tỳ-kheo-ni
này, vừa
làm nên bỏ,
bằng
không bỏ,
phạm
Tăng-già-bà-thi-sa.
NGUYÊN DO:
Ðề-xá
vào thành khất thực,
mang bát không trở
về,
Lục quần
Ni và mẹ của
Ðề-xá nói với
Ðề-xá những
lời như
vậy,
nên chế.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Bốn
chúng kia, Ðột-kiết-la.
Không phạm:
nói vui giỡn v.v...
GIỚI
THỨ
10:
Không bỏ
pháp phá hoại
Tăng.
GIỚI
THỨ
11:
Không bỏ
bè đảng
phá Tăng.
GIỚI
THỨ
12:
Bị
tẫn
không phục
tùng.
GIỚI
THỨ
13 :
Không bỏ
ác tánh.
Bốn
giới
này
đồng với
Tỳ-kheo.
GIỚI
THỨ
14 (Tương thân tương trợ ác hành):
Tỳ-kheo-ni
nào, gần
gũi
ở
chung, cùng làm hạnh
ác, tiếng
xấu
đồn
khắp,
lần
lượt
che tội
cho nhau. Tỳ-kheo-ni
này nên can gián Tỳ-kheo-ni
kia rằng:
“Ðại
tỷ,
các chị
chớ
gần
gũi
ở
chung, cùng làm hạnh
ác, tiếng
xấu
đồn
khắp,
cùng nhau che tội.
Nếu
các chị
không gần
gũi
ở
chung, đối
với
trong Phật
pháp được
tăng
ích an vui mà sống”.
Khi Tỳ-kheo-ni
này can gián, Tỳ-kheo-ni
kia kiên trì không bỏ.
Tỳ-kheo-ni
này ba phen can gián
để
bỏ
việc
vày. Cho
đến ba phen can gián, bỏ
thì tốt,
không bỏ,
Tỳ-kheo-ni
kia, phạm
pháp ba phen không bỏ,
Tăng-già-bà-thi-sa.
(Tam pháp giả, Tam gián bất xả,
phương hoạch
Tăng tàn tội
dã.
Ưng xả
giả, diệc
ưng xả
nhi bất phạm
dã).
NGUYÊN DO:
Có hai Tỳ-kheo-ni,
thường gần
gũi
ở
chung, cho
đến cùng che tội
cho nhau, chư Ni can gián mà
không chịu
thay
đổi. Phật
khiến Ni Chúng tác Yết-ma
can gián mà kiết
giới
này.
GIẢI THÍCH:
Gần
gũi:
là thường cười
giỡn với
nhau, thường cợt
ghẹo qua lại,
thường chuyện
trò với nhau.
Hạnh
ác: là tự
trồng cây bông, dạy
người trồng,
tưới nước,
xâu hoa. Cho
đến cùng với người
lớn, trẻ
con nằm một
giường một
ghế,
ăn
chung một
đồ
đựng, ca múa, hát xướng
v.v...
Tiếng
ác: là tiếng
ác lưu khắp
bốn phương,
đâu
đâu
cũng nghe.
Tội:
là che giấu
các tội, trừ
pháp bát khí (tám pháp Ba-la-di).
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Ba phen Yết-ma
xong, phạm Tăng
tàn. Các việc khác như
giới trước.
Luật
Thập tụng
nói:
Nếu
tạo
nhân duyên không tốt,
phạm
Thâu-lan-giá. Có tiếng
xấu
ác, làm phiền Ni Chúng, che tội
cho nhau,
đều phạm
Thâu-lan-giá. Trước hết
nên dùng lời nhoû nhẹ
khuyên bảo, như
trước.
GIỚI
THỨ
15 (Tán trợ hạnh ác):
Tỳ-kheo-ni
nào, khi Tỳ-kheo-ni
Chúng vì họ
tác pháp ha trách, mà Tỳ-kheo-ni
khác dạy
họ
như
thế
này: “Các chị
đừng
ở riêng, nên
ở với
nhau. Tôi cũng
thấy
các Tỳ-kheo-ni
khác không
ở riêng, cùng
ở với
nhau làm các hạnh
xấu,
tiếng
ác
đồn khắp,
che giấu
tội
cho nhau. Tăng
vì không bằng
lòng chị,
nên bảo
chị
ở riêng.” Tỳ-kheo-ni
này nên can gián Tỳ-kheo-ni
kia rằng:
“Ðại
tỷ,
đừng daïy các Tỳ-kheo-ni
khác rằng:
‘Các chị
đừng
ở riêng, tôi cũng
thấy
các Tỳ-kheo-ni
khác,
ở với
nhau, làm các hạnh
ác, tiếng
xấu
đồn vang, che tội
cho nhau. Tăng
vì không bằng
lòng chị
nên bảo
chị
ở riêng.’ Nay chỉ
có hai Tỳ-kheo-ni
này, cùng
ở với
nhau làm các hạnh
ác, tiếng
xấu
đồn khắp,
che tội
cho nhau, chứ
không có cô nào nữa.
Nếu
Tỳ-kheo-ni
này
ở riêng thì mới
có nếp
sống
tăng
ích an lạc
trong Phật
pháp.” Tỳ-kheo-ni
này khi can gián Tỳ-kheo-ni
kia, kiên trì không bỏ.
Tỳ-kheo-ni
này nên can ba lần,
khiến
cho bỏ
việc
ấy. cho
đến ba lần
can, bỏ
thì tốt,
không bỏ
Tỳ-kheo-ni
kia phạm
pháp ba lần
can không bỏ,
Tăng-già-bà-thi-sa.
NGUYÊN DO:
Lục
quần
Ni dạy hai Tỳ-kheo-ni
kia như vậy,
cho nên chế.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Phạm
nhẹ
nặng
đồng
như giới
trước.
Luật
Thập tụng
nói:
Nếu
nói rằng:
“Các chị
đừng
nên làm riêng rẽ,
mà nên
đồng
tâm. Vì người làm riêng rẽ
không tăng trưởng
được, mà người
đồng tâm làm thì
được tăng trưởng”;
tất cả
đều phạm
Thâu-lan-giá. Hoặc
nói rằng:
“Tăng giận
nên bảo chị
làm riêng”, thì phạm
Ba-dật-đề. Trước
không dùng lời nhỏ
nhẹ khuyeân bảo,
đồng như
giới trước.
GIỚI
THỨ
16 (Dọa bỏ
đạo):
Tỳ-kheo-ni
nào, chỉ
vì một
việc
nhỏ,
giận
hờn
không vui, bèn nói: “Tôi bỏ
Phật,
bỏ
Pháp, bỏ
Tăng.
không phải
riêng trong Thích tử
mới
có Sa-môn; Bà-la-môn cũng
có các Sa-môn, tu phạm
hạnh.
Chúng tôi cũng
có thể
đến
nơi
đó
tu phạm
hạnh”.
Tỳ-kheo-ni
này nên can Tỳ-kheo-ni
kia rằng:
“Ðại
tỷ,
đừng
chỉ
vì một
việc
nhỏ,
giận
hờn
không vui, bèn nói: Tôi bỏ
Phật,
bỏ
Pháp, bỏ
Tăng.
Không phải
riêng chỉ
Thích tử
mới
có Sa-môn; Bà-la-môn cũng
có Sa-môn tu phạm
hạnh.
Chúng tôi cũng
có thể
đến
nơi
đó
tu phạm
hạnh.”
Tỳ-kheo-ni
này khi can Tỳ-kheo-ni
kia kiên trì không bỏ,
Tỳ-kheo-ni
này nên can ba lần,
cho bỏ
việc
ấy,
cho đến
ba lần
can, bỏ
thì tốt,
không bỏ
Tỳ-kheo-ni
kia phạm
pháp ba lần
can không bỏ,
Tăng-già-bà-thi-sa.
NGUYÊN DO:
Cũng
do Lục quần
Ni, cho nên chế.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Phạm
nhẹ
nặng
đều
đồng như
giới trước.
Luật
Thập tụng
nói:
Nếu
nói rằng:
Tôi bỏ Phật,
bỏ Pháp, bỏ
Tăng, bỏ
Giới, tất
cả
đều
phạm Thâu-lan-giá. Nếu
nói rằng: Chẳng
phải chỉ
có Sa-môn, Thích tử
biết
đạo, vì chê trách Tăng,
nên phạm Ba-dật-đề. Trước
phải dùng lời
nhỏ nhẹ
khuyên bảo.
GIỚI
THỨ
17 (Vu tăng thiên vị):
Tỳ-kheo-ni
nào, ưa
đấu
tranh, không nhớ
những
điều
đấu
tranh, sau
đó
giận
hờn
nói: “Tăng
có ái, có giận
hờn,
có bất
minh, có sợ
hãi”. Tỳ-kheo-ni
này nên can gián Tỳ-kheo-ni
kia rằng:
Này em,
đừng
ưa
đấu
tranh, mà không nhớ
những
điều
đấu
tranh, sau
đó
giận
hờn
nói: Tăng
có ái, có giận
hờn,
có bất
minh, có sợ
hãi’. Mà thật
ra Tăng
không có ái, không có giận
hờn,
không có bất
minh, không có sợ
hãi. Cô tự
có ái, có giận
hờn,
có bất
minh, có sợ
hãi.” Tỳ-kheo-ni
này, khi can gián Tỳ-kheo-ni
kia, kiên trì không bỏ.
Tỳ-kheo-ni
này nên can ba lần
cho bỏ
việc
ấy.
Cho đến
ba lần
can, bỏ
thì tốt,
không bỏ,
Tỳ-kheo-ni
kia phạm
pháp ba phen can gián không bỏ,
Tăng-già-bà-thi-sa.
NGUYÊN DO:
Do Tỳ-kheo-ni
tên Hắc,
cho nên chế.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Phạm
nhẹ,
nặng
đều
đồng như
giới trước.
III. BA MƯƠI
PHÁP NI-TÁT-KỲ
BA-DẬT-ÐỀ
(Luật
Căn bản
lại
có tới 33 pháp).
GIỚI
THỨ
1:
Chứa
y dư.
(Luật Tăng
kỳ nói: “Cho phép Ni
chứa 20 y: 5 y thọ
trì, 15 y tịnh thí rồi thọ
dụng. Nếu
chứa quá số
đó, phạm
Xả
đọa.
Tỳ-kheo không hạn
định vấn
đề tịnh
thí, thọ dụng không phạm).
GIỚI
THỨ
2:
Lìa y ngủ.
GIỚI
THỨ
3:
Chứa
y quá một
tháng.
GIỚI
THỨ
4:
Ðến
xin nơi
người
không phải
thân quyến.
GIỚI
THỨ
5:
Thọ
y quá số.
GIỚI
THỨ
6:
Yêu
cầu
tăng
thêm tiền
sắm
y.
GIỚI
THỨ
7:
Yêu cầu
chung tiền
sắm
y.
GIỚI
THỨ
8:
Ðòi y quá sáu lần.
GIỚI
THỨ
9:
Nhận
kim ngân.
GIỚI
THỨ
10:
Mua bán bảo
vật.
GIỚI
THỨ
11:
Buôn bán.
GIỚI
THỨ
12:
Chứa
bát đẹp.
GIỚI
THỨ
13:
Nhờ
thợ
may y không phải
bà con.
GIỚI
THỨ
14:
Cầu
dệt
y tốt.
GIỚI
THỨ
15:
Cho y rồi
giận
đòi
lại.
GIỚI
THỨ
16:
Thuốc
quá bảy
ngày.
GIỚI
THỨ
17:
Chứa
y cấp
thí quá thời
hạn.
GIỚI
THỨ
18:
Xoay vật
của
Tăng
về
cho mình.
Ðều
đồng với Tỳ-kheo.
Giới
thứ
19:
Tỳ-kheo-ni
nào, cần
vật
này lại
đòi
vật
kia, phạm
Ni-tát-kỳ
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Thâu-la-nan-đà
đến nhà Ðàn-việt
nói cần váng sữa
(tô). Họ mua váng sữa
trao cho, lại nói: - Không cần
váng sữa, cần
dầu (du). Ðàn-việt
cơ hiềm,
cho nên chế. Cầu
các vật khác cũng
như vậy.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Nên xả
cho Ni Chúng, hoặc
nhiều
người, hoặc
một người,
không
được xả
riêng chúng, nếu xả
không thành xả, thì phạm
Ðột-kiết-la.
Xả rồi
nên sám hối. Người
nhận sám hối,
bạch chúng rồi
sau
đó nhận
sám hối. Nói với
phạm nhơn
rằng: - Hãy tự
trách tâm mình. Ðương sự
đáp: - Dạ.
Ni Chúng liền nên Bạch
nhị yết-ma
hoàn vật xả
này trả lại
cho chủ. Không trả
lại phạm
Ðột-kiết-la.
Ai bảo
đừng
trả cũng
phạm Ðột-kiết-la. Bốn
chúng kia, Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Cần váng sữa
đòi váng sữa,
cần dầu
đòi dầu.
Cần vật
gì
đòi vật
ấy.
Giới
thứ
20:
Tỳ-kheo-ni
nào, biết
Ðàn-việt
vì Tăng
cúng để
làm việc
này, đem
làm việc
khác, phạm
Ni-tát-kỳ
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Ni Chúng thuyết
giới nơi
đất trống.
Cư sĩ
cúng vật tư
để làm nhà thuyết
giới. Ni lại
nghĩ: Chúng ta thấy
chỗ nào tiện,
thì ngồi thuyết
giới. Y phục
khoù có
đủ 5 y nên chúng tôi
đem vật liệu
đổi lấy
y, chia cho nhau, vì vậy
vẫn thuyết
giới chỗ
đất trống.
Cư sĩ
cơ hiềm,
nên chế.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Cúng
để
may y
đem làm phòng. Cúng
chỗ
này
đem làm chỗ
khác, tất cả
cùng phạm. Bốn
chúng khác, Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Hỏi chủ
rồi sử
dụng, theo chỗ
đã phân dụng.
Khi họ cúng, có nói tùy ý
sử
dụng.
Giới
thứ
21:
Tỳ-kheo-ni
nào, vì Tăng
tìm cầu
vật
để
làm việc
này, rồi
lại
đem
làm việc
khác, phạm
Ni-tát-kỳ
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Cựu
trú của
Ni
ở nước
Xá-vệ, nghe Ni An
Ẩn
muốn
đến,
liền
đến
từng nhà xin thức
ăn
được
nhiều tài vật
y thực. Nhưng
sau
đó Ni An
Ẩn
không
đến, họ
bèn
đem tài vật
đó
đổi
chác chia nhau. Thời
gian sau
đó,
cô Ni An
Ẩn
đến
và vào thành khất
thực.
Cư sĩ
hỏi biết
cô không nhận tài vật
đó nơi
Tăng, bèn
đến
nơi cựu
trú hỏi, biết
việc
ấy,
mọi người
cơ hiềm
cho nên Phật chế
cấm.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Cầu
để làm y
đem
làm thức
ăn,
cầu
để
làm việc này
đem
làm việc khác. Tất
cả cùng phạm.
Bốn chúng kia Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Nói với cư
sĩ tùy ý sử
dụng. Hoặc
cư sĩ
cúng vật rồi
nói: tùy ý sử dụng.
Sau
đây
đều
đồng.
Giới
thứ
22:
Tỳ-kheo-ni
nào, người
Ðàn-việt
cúng vật
để
làm việc
này, đem
làm việc
kia, phạm
Ni-tát-kỳ
Ba-dật-đề
NGUYÊN DO:
Có cư
sĩ hỏi
cô An
Ẩn rằng:
- Nếp
sống có an vui không?
Ðược
trả lời:
- Chỗ
ở
ồn
ào không vui.
Lại
hỏi:
- Cô không có phòng riêng hay không?
Ðược
đáp:
- Không có.
Người
ấy liền
cúng
đủ số
tiền
đeå
cất phòng. Cô Ni lại
nghĩ: Nếu
làm phòng sẽ sanh ra
đa
sự phiền
bận, còn y phục
khó
được. Nên dùng nó
đổi lấy y phục.
Cư sĩ
cơ hiềm,
nên chế.
Giới
thứ
23:
Tỳ-kheo-ni
nào, Ðàn-việt
vì Tăng
cúng vật
để
làm việc
này, đem
làm các việc
khác, phạm
Ni-tát-kỳ
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Ni Chúng vì làm phòng,
đi
khắp nơi
tìm cầu tài vật
rồi
đem
đổi y chia nhau, nên
chế.
Giới
thứ
24:
Tỳ-kheo-ni
nào, chứa
bát dư,
phạm
Ni-tát-kỳ
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Do bởi
Lục
quần Ni, cho nên chế.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Ngày này
được
bát, ngày này nên thọ
trì một
bát, còn dư nên tịnh
thí.
Luật
Căn bản
nói:
Ðược phép trải qua một
đêm.
Luật
Tăng kỳ
nói:
Ni
được phép chứa 16 cái bát. Một
cái thọ trì, ba cái tác tịnh
thí, bốn cái quá bát, bốn
cái giảm bát, bốn
cái tùy bát. Nếu
chứa
quá số, phạm
Xả
đọa.
Giới
thứ
25:
Tỳ-kheo-ni
nào, sắm
nhiều
đồ
có màu sắc
đẹp,
phạm
Ni-tát-kỳ
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Cũng
do bởi
Lục quần
Ni, cho nên chế.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Ngày này
được
đồ nên thọ.
Vật cần
dùng có thể là 16 cái, dư
nên tịnh thí. 16 cái là:
cái chõ lớn,
cái vung chõ, cái bồn
lớn,
cái thìa, chõ nhỏ,
vung chõ nhỏ, bồn
nhỏ,
cái thìa, bình nước, nắp
bình, bồn vừa,
thìa vừa, bình rửa,
nắp bình, bồn
thìa nhỏ.
Giới
thứ
26:
Tỳ-kheo-ni
nào, hứa
cho Tỳ-kheo-ni
khác Tỳ-kheo-ni
bệnh,
sau không cho, phạm
Ni-tát-kỳ
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Chiên-đàn-thâu-na
thường tự
bảo không dục
tưởng, nói với
một cô Ni rằng:
“Nếu nguyệt
thủy (kinh nguyệt)
của cô có thì
đến
tôi lấy cái y bệnh
ấy”. Sau
đó,
Thâu-na nguyệt kỳ
ra, cô Ni kia cũng
ra. Cô Ni kia bảo người
đến lấy
y bệnh. Thâu-na không
đưa. Cô Ni kia hiềm trách, cho nên chế.
GIẢI THÍCH:
Y bệnh:
là cái y che thân khi nguyệt thủy
ra, bên trong mặc
Niết-bàn
tăng.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Trừ
y bệnh,
hứa cho y khác, và
các vật
cần dùng khác mà
không cho, phạm Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Nếu không có bệnh,
hoặc may y bệnh,
hay cô Ni kia phá giới,
cho
đến mạng
nạn v.v...
Giới
thứ
27:
Tỳ-kheo-ni
nào, dùng y phi thời,
sử
dụng
làm y đúng
thời,
phạm
Ni-tát-kỳ
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Bởi
lục
quần Ni, cho nên chế.
GIẢI THÍCH:
Thời
y (y
đúng
thời): là an cư
rồi, không thọ
y Ca-thi-na, một tháng; có thọ,
Ca-thi-na, năm tháng.
Phi thời
y: là ngoài thời
gian
đó,
bất cứ
lúc nào nhận
được
là y dư vậy.
Không phạm:
Phi thời y sử
dụng làm phi thời
y. Thời y sử
dụng làm thời
y.
Luật
Thập tụng
nói:
Thời
y làm phi thời y
để
chia, phi thời y làm thời
y
để chia,
đều
phạm Xả
đọa. Thời
y, “an cư Tăng”
nên chia. Phi thời
y “hiện
tiền Tăng”
nên chia.
Giới
thứ
28:
Tỳ-kheo-ni
nào, cùng với
Tỳ-kheo-ni
khác trao
đổi
y. Sau giận
hờn,
tự
đoạt
lấy
lại,
hoặc
bảo
người
đoạt
lấy,
nói: “Em trả
y tôi lại,
tôi không
đổi
cho em. Y em thuộc
của
em, y tôi trả
lại
tôi”. Phạm
Ni-tát-kỳ
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Bởi
Thâu-la-nan-đà cho, nên chế.
GIẢI THÍCH :
Ðổi
chác: là dùng y
đổi y; hoặc
dùng y
đổi phi y, hoặc
dùng phi y
đổi y; hoặc
dùng phi y
đổi phi y, kim may,
dao chỉ,
vật nhỏ...
cho
đến một
viên thuốc.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Ðoạt
rồi
lấy cất
phạm Xả
đọa; không cất
giấu, phạm
Ðột-kiết-la.
Lấy khỏi
chỗ, phạm
Xả
đọa,
không khỏi chỗ
phạm Ðột-kiết-la. Bốn
chúng kia phạm Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Dùng lời ôn hòa khuyên dụ
nói: “Em! Tôi hối
hận,
trả y tôi lại.”
Người kia biết
có ý hối hận
trả lại.
Hoặc các Ni khác bảo
họ trả
lại. Hoặc
người kia mượn
mặc trái phép, nên lấy
lại, hoặc
đoán biết
sẽ mất,
hoặc sợ
hư, hoặc
người kia phá giới
v.v... cho
đến mạng
nạn,
đoạt mà không cất
giấu.
Giới
thứ 29:
Tỳ-kheo-ni
nào, xin y nặng,
tối
đa
là bằng
giá bốn
lớp
trương
điệp.
Nếu
quá, phạm
Ni-tát-kỳ
Ba-dật-đề.
GIẢI THÍCH:
Y nhiều
lớp: là y ngăn
lạnh. Tìm cầu
y nhiều lớp,
tối
đa
là 16
điều.
Không phạm:
Tìm cầu bốn
lớp, hoặc
ít hơn, hoặc
không
đòi mà
được.
Giới
thứ 30:
Tỳ-kheo-ni
nào, muốn
xin y mỏng
(ít lớp)
ít nhất
cũng
hai trương
điệp
rưỡi.
Nếu
quá, Ni-tát-kỳ
Ba-dật-đề.
GIẢI THÍCH:
Y nhẹ
mỏng:
là y chống nóng.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Xin y mỏng,
ít nhất là 10
điều.
Không phạm:
Ðồng như
giới trước.
VI. MỘT
TRAÊM BẢY MƯƠI
TÁM PHÁP BA-DẬT-ÐỀ
Luật
Tăng kỳ
chỉ
có 141 pháp.
Luật
Ngũ phần
có tới
210 pháp.
Luật
Căn bản
có 180 pháp.
1) Vọng
ngữ.
2) Hủy
báng.
3) Hai lưỡi.
4) Cùng nam tử
đồng
nhà ngủ
đêm.
5) Ngủ
quá ba đêm
với
người
nữ
chưa
thọ
giới.
6) Cùng người
chưa
thọ
giới,
tụng
pháp.
7) Ðến
người
ngoài nói tội
thô của
người
khác.
8) Nói pháp
đã
chứng
với
người
ngoài.
9) Cùng nam tử
nói pháp quá lời.
10) Ðào
đất.
11) Phá hoại
mầm
sống
cây cỏ
(Quỷ
thần
thôn).
12) Nói quanh não người.
13) Hiềm
mắng.
14) Trải
tọa
cụ
của
Tăng
không dọn.
15) Trong phòng Tăng
không dọn
ngọa
cụ.
16) Cưỡng
đoạt
chỗ
ngủ.
17) Kéo người
khác ra khỏi
phòng.
18) Ngồi
giường
sút chân trên lầu.
19) Nước
có trùng nhồi
đất,
tưới
cây.
20) Lợp
phòng quá ba lớp
tranh.
21) Thọ
quá một
bữa
ăn.
22)
Ăn
riêng chúng.
23) Thọ
quá ba bát.
24) Phi thời
ăn.
25)
Ăn
đồ
cách đêm.
26) Tự
thọ
đồ
ăn.
27) Ðến
nhà khác không dặn
người.
28) Cưỡng
ngồi
nhà ăn.
29) Ngồi
nơi
chỗ
vắng
nơi
nhà ăn.
30) Ngồi
riêng với
người
nam tử.
31) Cố
ý không cho người
khác ăn.
32) Thọ
thuốc
quá.
33) Xem quân trận.
34) Ngủ
quá ba đêm
nơi
quân trận.
35) Xem quân sự.
36) Uống
rượu.
37) Giỡn
trong nước.
38) Thọt
lét.
39) Không nhận
lời
can.
40) Khủng
bố
người.
41) Tắm
quá mức.
42) Nhen lửa
nơi
đất
trống.
43) Giỡn
giấu
của
người.
44) Vội
bận
y tịnh
thí.
45) Y không nhuộm.
46) Giết
súc sanh.
47) Uống
nước
có trùng.
48) Cố
ý não người.
49) Che tội
thô của
người.
50) Phát khởi
tránh sự.
51) Ðồng
giặc
cùng đi.
52) Không bỏ
ác kiến.
53) Người
bạn
ác kiến.
54) Nuôi Sa-di-ni bị
đuổi.
55) Chống
cự
lời
can, lại
cật
vấn.
56) Coi thường
nói giới.
57) Vô tri thức.
58) Vi phạm
Yết-ma.
59) Không dữ
dục.
60) Dữ
dục
rồi
lại
hối
hận.
61) Nghe lén.
62) Giận
đánh
Tỳ-kheo-ni.
63) Giận
dọa
Tỳ-kheo-ni.
64) Vô căn
cứ
hủy
báng, Tăng
tàn.
65) Vội
vào cửa
cung.
66) Cầm
vật
báu.
67) Vào xóm phi thời.
68) Làm giường
cao.
69) Làm nệm
bông.
Ðều
đồng
với Tỳ-kheo.
Giới
thứ
70:
Tỳ-kheo-ni
nào ăn
tỏi,
phạm
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Thâu-la-nan-đà
lấy hết
tỏi trong vườn.
Chủ vườn
cơ hiềm
cho nên chế.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Bốn
chúng khác, phạm
Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Bịnh không
ăn
tỏi không lành, cho
phép dùng hoặc
để thoa ghẻ.
Giới
thứ
71:
Tỳ-kheo-ni
nào cạo
lông ba chỗ,
phạm
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Như
dâm nữ, tặc
nữ cho nên chế.
GIẢI THÍCH:
Lông ba chỗ:
là
đại, tiểu
tiện và dưới
nách.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Một
lần
động dao là một
Ba-dật-đề.
Nếu nhổ,
hớt,
đốt
đều mắc
tội Ðột-kiết-la. Tỳ-kheo
Thâu-lan-giá, ba chúng dưới
Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Có ghẻ cần
cạo
để
xức thuốc.
Giới
thứ
72:
Tỳ-kheo-ni
nào, dùng nước
tác tịnh,
nên dùng hai ngón tay, mỗi
ngón một
lóng. Nếu
quá, phạm
Ba-dật-đề.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Hai chúng kia phạm
Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Nếu trong
đó
có cỏ, có trùng cần
móc ra.
Giới
thứ 73:
Tỳ-kheo-ni
nào, dùng hồ
giao làm nam căn,
phạm
Ba-dật-đề.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Dùng các vật
khác làm và sử dụng
đều phạm
Ba-dật-đề.
Không sử dụng,
Ðột-kiết-la.
Hai chúng nữ
khác, Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Hoặc có bệnh
cần xức
thuốc, hoặc
bệnh y làm nghẹt
nguyệt thủy.
Giới
thứ
74:
Tỳ-kheo-ni
nào, cùng vỗ
với
nhau, phạm
Ba-dật-đề.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Nếu
dùng bàn tay hoặc bàn chân vỗ.
Người vỗ,
Ðột-kiết-la.
Người nhận
vỗ, Ba-dật-đề, nếu
hai nữ căn
cùng nhau vỗ, cả
hai
đều phạm
Ba-dật-đề.
Hai chúng nữ khác Ðột-kiết-la.
Giới
thứ
75:
Tỳ-kheo-ni
nào, Tỳ-kheo
không bệnh,
khi ăn
cung cấp
nước,
đứng
phía trước,
dùng quạt,
quạt,
phạm
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Có một
trưởng
giả cùng với
vợ
đều
xuất gia. Khi
đang
ăn, người
vợ cũ
bưng nước
đứng phía trước,
lấy quạt,
quạt. Tỳ-kheo
nói rằng:
- Ðứng
tránh một chút, tôi mắc
cỡ với
người ta.
Cô Ni nói:
- Tôi
đứng
thế này nói mắc
cỡ, trước
kia làm việc như
vậy như
vậy, sao không mắc
cỡ?
Cô ta liền
dùng cán quạt
đánh,
rót nước trên
đầu,
rồi bỏ
vào phòng. Vì vậy
nên Phật
chế.
Khi
ấy,
các Ni không dám nuôi bệnh
Tỳ-kheo, không có người
rót nước, không dám hỏi.
Phật dạy:
“Cho phép các Ni nuôi Tỳ-kheo
bệnh, nếu
không có ai rót nước,
được
phép thưa hỏi”.
Giới
thứ
76:
Tỳ-kheo-ni
nào, xin ngũ
cốc
sống,
phạm
Ba-dật-đề.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Xin ngũ
cốc sống
như hồ
ma (mè), gạo,
đậu,
đại tiểu
mạch, tất
cả
đều
Ba-dật-đề.
Bốn chúng khác Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Ðến bà con xin,
đến người xuất
gia xin, không xin mà họ
tự cho.
Giới
thứ
77:
Tỳ-kheo-ni
nào, đại
tiểu
tiện
trên cỏ
tươi,
phạm
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Cách tinh xá của
Ni không xa, có một
vùng cỏ
tươi tốt
các cư sĩ
thường
đến
đó nằm
ngồi
đùa
giỡn, làm
động
chư Ni ngồi
thiền. Các Ni coi
đó là một hoạn
nạn, nên dùng phẩn
quét lên trên cỏ,
các cư
sĩ
đến
giờ thường
lệ, trở
lại ngồi
chơi, bị
nhớp thân và y, cùng
nhau cơ
hiềm, cho nên chế.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Bốn
chúng kia, Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Ðại tiểu
tiện nơi
không có cỏ tươi
rồi nước
chảy
đến
trên cỏ tươi
v.v...
Giới
thứ
78:
Tỳ-kheo-ni
nào, sau
đêm
đại tiểu
trong bô, sáng ngày
đem
đổ ngoài tường
mà không xem trước,
phạm
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Lục
quần Ni, ban
đêm
đại tiện
trong bô, sáng sớm
không xem trước mà
đem
đổ ngoài tường.
Sáng sớm có một
đại thần
cỡi xe, muốn
đến yết
kiến Bình-sa vương.
Trên lộ trình phải
đi ngang qua bên
tinh xá, nên bị
đổ
đại
tiểu tiện
rớt trên
đầu.
Ðại thần
muốn
đến
kiện quan
đoán
sự. Có vị
quan Bà-la-môn giàu lòng tin, can gián không cho kiện,
rồi
đến
tinh xá Ni nói: Về
sau
đừng
làm như vậy.
Cho nên Tỳ-kheo bạch
Phật, kiết
giới.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Nếu
ban
đêm không tằng
hắng, hay khảy
móng tay mà
đổ, phạm
Ðột-kiết-la.
Bốn chúng khác, Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Nếu chỗ
đoù
đã
có gạch
đá...
nhơ nhớp
v.v...
Giới
thứ
79:
Tỳ-kheo-ni
nào, đến
xem nghe kỹ
nhạc,
phạm
Ba-dật-đề.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Ðến
mà thấy, Ba-dật-đề, không thấy
Ðột-kiết-la.
Muốn
đi
rồi trở
lại,
đều
Ðột-kiết-la.
Bốn chúng khác, Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Hoặc có việc
cần tìm
đến
trình, hoặc bị
gọi
đến,
trên lộ trình
đi
qua, hoặc chỗ
họ ngủ
lại
đêm,
hoặc bị
cường lực
bắt
đi,
hoặc mạng
nạn v.v...
Giới
thứ
80:
Tỳ-kheo-ni
nào, vào trong xóm, cùng người
nam tử
đứng
chỗ
vắng
nói chuyện,
phạm
Ba-dật-đề.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Với
đồng bạn
đui không
điếc,
điếc không
đui,
phạm Ðột-kiết-la. Ðứng
mà không nói, Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Hai Ni làm bạn nhau, có người
tri thức làm bạn,
có nhiều người
nữ cùng
đứng.
Hoặc không
đui,
không
điếc
hoặc
đi
chứ không
đứng
lại, hoặc
bị bệnh
té xỉu cho
đến
mạng nạn
v.v...
Giới
thứ
81:
Tỳ-kheo-ni
nào, cùng nam tử
vào chỗ
khuất
kín, phạm
Ba-dật-đề.
Giới
thứ
82:
Tỳ-kheo-ni
nào, vào trong
đường
hẻm,
bảo
bạn
đi
cách xa,
ở chỗ
vắng
cùng nam tử
đứng,
nói nhỏ,
phạm
Ba-dật-đề.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Bảo
bạn
rời chỗ
thấy, không rời
chỗ nghe, rời
chỗ nghe không rời
chỗ thấy,
đều phạm
Ðột-kiết-la.
Giới
thứ
83:
Tỳ-kheo-ni
nào, vào nhà bạch
y ngồi,
không nói với
chủ
nhà mà bỏ
đi,
phạm
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Có cô Ni
đến
nhà cư sĩ,
vợ cư
sĩ trải
giường riêng mời
ngồi, rồi
vào trong nhà trong. Người
Ni không nói với
chủ
mà
đi. Lúc
đó
lại có một
Ma-nạp
vào nhà
đó,
nhìn bốn
phía không thấy ai, bèn xách giường
đi cho nên chế.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Một
chân trong cửa v.v...
đều
phạm Ðột-kiết-la. Bốn
chúng khác, Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Trên chỗ ngồi
có người khác cùng ngồi.
Hoặc dặn
người ngồi
gần, họ
nói cứ
đi.
Hoặc ngồi
trên
đá, trên gỗ,
trên tường, trên cỏ,
trên
đất cứng.
Hoặc nhà sắp
sập, hoặc
lửa cháy, hoặc
có rắn
độc,
ác thú,
đạo tặc,
cho
đến mạng
nạn...
Giới
thứ
84:
Tỳ-kheo-ni
nào, vào trong nhà bạch
y, không hỏi
chủ
vội
ngồi
trên giường,
phạm
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Nơi
thành La-duyệt có một
vị
đại
thần, không tin Phật
pháp, có một giường
riêng, không ai dám ngồi.
Thâu-la-nan-đà không hỏi
mà ngồi, nguyệt
thủy nhớp
nệm giường
ông ta. Ðại thần
hiềm giận,
cho nên chế.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Bốn
chúng khác, Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Hoặc chỗ
thường ngồi,
hoặc là bà con, hoặc
có bà con bảo ngồi,
hoặc ngồi
trên cây trên
đá
v.v...
Giới
thứ
85:
Tỳ-kheo-ni
nào, vào trong nhà của
bạch
y, mà không hỏi
chủ,
vội
tự
trải
tòa ngủ,
phạm
Ba-dật-đề.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Bốn
chúng khác, Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Nếu nhà không, nhà phước
(nhà từ thiện),
hoặc tri thức.
Giới
thứ
86:
Tỳ-kheo-ni
nào, cùng nam tử
vào trong nhà tối,
phạm
Ba-dật-đề.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Bốn
chúng khác, Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Có
đèn, lửa,
cửa mở
có ánh sáng, cho
đến mạng
nạn v.v...
Giới
thứ
87:
Tỳ-kheo-ni
nào, không xét kỹ
lời
nói, mà
đến nói người
khác, phạm
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Tỳ-kheo-ni
Sám-ma bảo
đệ tử
lấy y, bát, tọa
cụ,
ống
kim,
đệ tử
nghe không kỹ, nói với
các Ni rằng: Thaày tôi bảo
tôi trộm y, bát... Chư
Ni hỏi, biết
rõ vấn
đề,
hiềm trách, cho nên bạch
Phật chế
giới.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Bốn
chúng kia phạm Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Sự thật
là vậy. Hoặc
nói giỡn chơi,
cho
đến nói nhầm.
Giới
thứ
88:
Tỳ-kheo-ni
nào, chỉ
vì chút việc
nhỏ,
liền
thề
thốt
sẽ
đọa
ba đường
ác, không sanh trong Phật
pháp. Hoặc
nói tôi có việc
như
vậy,
cũng
sẽ
đọa
ba đường
ác, không sanh trong Phật
pháp. Hoặc
bảo
cô có việc
như
vậy
cũng
sẽ
đọa
ba đường
ác, không sanh trong Phật
pháp, tất
cả
đều
phạm
Ba-dật-đề.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Phật
dạy:
Từ nay về
sau cho phép xưng “Nam mô Phật”
nếu tôi có việc
như vậy,
“Nam mô Phật”. Nếu
cô có việc như
vậy cũng
“Nam mô Phật”. Nếu
thốt ra lời
thề phạm
Ba-dật-đề.
Bốn chúng kia, Ðột-kiết-la.
Giới
thứ
89:
Tỳ-kheo-ni
nào, cùng nhau
đấu
tranh, không khéo ghi nhớ
việc
đấu
tranh, đấm
ngực
khóc la, phạm
Ba-dật-đề.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Một
lần
đấm
ngực, phạm
một Ba-dật-đề. Rớt
một giọt
nước mắt,
phạm một
Ba-dật-đề.
Bốn chúng kia Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Hoặc
ăn
bị nghẹn
tự
đấm,
hoặc nhân
đại
tiểu tiện,
hoặc nhân gió nóng lạnh,
hoặc bị
khói xông, hoặc nghe pháp tâm
sanh nhàm chán thân, hoặc mắt
bị bệnh
nhỏ thuốc,
nước mắt
chảy.
Giới
thứ
90:
Tỳ-kheo-ni
nào, không bệnh
mà hai người
cùng nằm
một
giường,
phạm
Ba-dật-đề.
Không phạm:
Có bệnh, hoặc
bị trói...
Giới
thứ
91:
Tỳ-kheo-ni
nào, nằm
chung một
nệm,
đắp
một
mền,
trừ
dư
thời
(trường
hợp
đặc
biệt),
phạm
Ba-dật-đề.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Một
nệm khác mền,
một mền
khác nệm, Ðột-kiết-la. Bốn
chúng kia, Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Trời lạnh
mà chỉ có một
cái mền, cho phép mỗi
người
đều
mặt áo lót.
Giới
thứ 92:
Tỳ-kheo-ni
nào, biết
cô kia ở
trước,
mình đến
sau, hoặc
biết
cô kia ở
sau, mình
đến
trước.
Vì muốn
gây phiền
não, nên
ở trước
mặt
tụng
kinh, hỏi
nghĩa,
dạy
bảo,
phạm
Ba-dật-đề.
Không phạm:
Nếu không biết,
nếu cho phép trước,
hoặc là thân hậu
(bằng hữu),
hoặc người
thân hậu nói, cứ
dạy bảo.
Nếu người
ở trước
đến người
ở sau thọ
kinh. Hoặc người
đến sau, tới
người
ở
trước thọ
tụng. Hoặc
là hai người
đến
người khác thọ.
Hay là hai người này hỏi,
người kia
đáp.
Hay cùng nhau tụng
v.v...
Giới
thứ 93:
Tỳ-kheo-ni
nào, cùng sống
mà Tỳ-kheo-ni
kia bệnh,
không săn
sóc, phạm
Ba-dật-đề.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Trừ
người
đồng bệnh
nếu hai thầy
(Hòa thượng, A-xà-lê) cho
đến người thân hậu,
tri thức mà không săn
sóc,
đều phạm
Ðột-kiết-la.
Bốn chúng kia phạm
Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Nếu mình cũng
bệnh, hoặc
mạng nạn
v.v...
Giới
thứ 94:
Tỳ-kheo-ni
nào, khi mới
an cư
đã
cho phép Tỳ-kheo-ni
khác để
giường
trong phòng, sau
đó
vì giận
đuổi
ra, phạm
Ba-dật-đề.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Tùy theo nhiều
người, nhiều
cửa, mỗi
mỗi phạm
một Ba-dật-đề.
Bỏ
các y vật khác ra ngoài, hoặc
đóng cửa
khiến họ
không vô
được
đều
phạm Ðột-kiết-la. Bốn
chúng kia, Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Không vì giận hờn,
tùy theo thứ tự
bảo hạ
tọa ra. Người
chưa thọ
giới, cùng ngủ
đủ hai
đêm,
đêm thứ
ba bảo ra. Nếu
người kia phá giới,
cho
đến nên diệt
tẫn. Hoặc
do những việc
này mà có mạng nạn,
phạm hạnh
nạn.
Giới
thứ
95:
Tỳ-kheo-ni
nào, xuân, hạ,
thu, đông
tất
cả
thời
đều
du hành trong nhơn
gian, trừ
nhân duyên khác, phạm
Ba-dật-đề.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
(Sự
không phạm):
Nếu vì việc
của Tam bảo,
việc nuôi bệnh,
cho phép thọ phép bảy
ngày,
đi ra ngoài.
Giới
thứ
96:
Tỳ-kheo-ni
nào, an cư
mùa hạ
rồi,
không đi,
phạm
Ba-dật-đề.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
An cư
rồi
nên xuất hành. Cho
đến
một
đêm
không xuất hành, phạm
Ba-dật-đề.
Không phạm:
Cư sĩ
kia mời
ở
lại, hoặc
nhà nhà mời cơm,
hoặc bà con nam nữ
mời. Hoặc
gặp bệnh
nhơn không có bạn
chăm sóc, hoặc
nạn nước,
cho
đến bị
trói, mạng nạn.
Luật
Ngũ phần
nói:
Nếu
chưa
ngang mức thời
gian
đã thỉnh,
hoặc chẳng
phải chỗ
thỉnh an cư,
không
đi, không phạm.
Giới
thứ
97:
Tỳ-kheo-ni
nào, nơi
biên giới
có chỗ
nghi là khủng
bố
mà vẫn
dạo
trong nhơn
gian, phạm
Ba-dật-đề.
GIẢI THÍCH:
Biên giới
là nơi cách thành thị.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Vào trong thôn, cứ
mỗi giới
hạn của
thôn, phạm Ba-dật-đề. Ði nơi
khoảng
đất
trống (A-lan-nhã) mười
dặm, phạm
một Ba-dật-đề. Dưới
một thôn hay dưới
mười dặm,
Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Bị kêu, hoặc
có việc cần
nói, hoặc bị
bắt... Hay
đến
trước rồi,
sau mới nghi có việc
khủng bố
phát khởi.
Luật
Ngũ phần
nói:
Nếu
phi hành (đi trên không) thì
không phạm.
Giơùi
thứ
98:
Tỳ-kheo-ni
nào, trong phạm
vi của
cương
giới,
nghi có khủng
bố,
mà đi
du hành, phạm
Ba-dật-đề.
GIẢI THÍCH:
Cương giới là trong phạm
vi bốn cửa
thành.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Phạm,
không phạm
đồng
như giới
trước.
Giới
thứ
99:
Tỳ-kheo-ni
nào, gần
gũi
với
cư
sĩ,
con cư
sĩ,
cùng ở,
làm hạnh
không tùy thuận.
Các Tỳ-kheo-ni
khác, can Tỳ-kheo-ni
này rằng:
“Cô đừng
gần
gũi
cư
sĩ,
cùng ở
với
con cư
sĩ,
làm hạnh
không tùy thuận.
Cô, có thể
ở
riêng, nếu
ở
riêng thì có sự
tăng
ích sống
an lạc
trong Phật
pháp.” Tỳ-kheo-ni
kia, khi can Tỳ-kheo-ni
này kiên trì không bỏ.
Tỳ-kheo-ni
kia nên can ba lần
để
bỏ
việc
này. Cho
đến ba lần
can, bỏ
thì tốt,
không bỏ,
phạm
Ba-dật-đề.
GIẢI THÍCH:
Gần
gũi:
là thường thường
nói cười giỡn
cợt.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Ba phen Yết-ma
xong, Ba-dật-đề.
Hai lần Yết-ma
xong mà bỏ, ba Ðột-kiết-la. Một
phen Yết-ma xong mà bỏ,
hai Ðột-kiết-la.
Bạch rồi
mà bỏ, một
Ðột-kiết-la.
Trước khi chưa
bạch làm hạnh
không tùy thuận,
tất
cả
đều
phạm Ðột-kiết-la. Bốn
chúng kia Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Khi vừa nói liền
bỏ, hoặc
quở trách phi pháp biệt
chúng.
Giới
thứ
100:
Tỳ-kheo-ni
nào, đến
cung vua, xem coi nhà vẽ,
vườn,
rừng,
hồ
tắm,
phạm
Ba-dật-đề.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Ðến
mà thấy,
Ba-dật-đề,
không thấy, Ðột-kiết-la, phương
tiện muốn
đi...
đều
Ðột-kiết-la.
Bốn chúng kia, Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Có việc cần
trình, hoặc bị
kêu thỉnh, hoặc
lộ trình phải
đi qua, hoặc
nghỉ
đêm
hay bị bắt...
Hay vì việc Tăng,
việc Tháp, xem
để
vẽ mô hình.
Giới
thứ
101:
Tỳ-kheo-ni
nào, lõa hình tắm
trong nước
sông, nước
suối,
nước
rạch,
nước
ao, phạm
Ba-dật-đề.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Bốn
chúng kia, Ðột-kiết-la
Không phạm:
Bị cường
lực bắt
buộc.
Giới
thứ
102:
Tỳ-kheo-ni
nào, may y tắm,
cần
may đúng
lượng.
Ðúng lượng
là bề
dài sáu gang tay, bề
rộng
hai gang rưỡi
tay Phật.
Nếu
quá, phạm
Ba-dật-đề.
GIẢI THÍCH:
Y tắm:
là y dùng
để che thân khi tắm.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Bề
dài thì quá lượng, rộng
thì
đủ; bề
dài
đủ, bề
rộng quá. Hay hai bề
đều quá, tự
mình làm hay bảo người
làm mà thành
đều phạm
Ba-dật-đề;
không thành,
đều phạm
Ðột-kiết-la.
Vì người làm thành, không
thành
đều phạm
Ðột-kiết-la.
Tỳ-kheo, Ba-dật-đề. Ba chúng kia, Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Làm
đúng lượng,
làm giảm lại.
Hay nhận
được
vật
đã
thành rồi, cắt
bỏ
đúng
pháp mà dùng, hoặc
may chồng
lên.
Giới
thứ
103:
Tỳ-kheo-ni
nào, may Tăng-già-lê
quá năm
ngày, trừ
còn tìm cầu
Tăng-già-lê,
xuất
y công đức,
sáu nạn
khởi,
phạm
Ba-dật-đề.
(Tám nạn
trừ 2: phi nhơn
và ác thú, còn sáu: vì Ni không
ở
nơi A-lan-nhã vậy).
NGUYÊN DO:
Thâu-la-nan-đà
vì một cô Ni cắt
y, muốn cho cô Ni kia phải
cúng dường nên
để
lâu, y không may liền.
Khi
ấy,
tinh xá bị cháy, vải
may y bị cháy, nên chế
cấm.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Tỳ-kheo,
... Ðột-kiết-la
Không phạm:
Không có dao, kim, chỉ
hay vì thiếu vải.
Hoặc mạng
nạn...
Giới
thứ
104:
Tỳ-kheo-ni
nào, quá năm
ngày không xem Tăng-già-lê,
phạm
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Có một
cô Ni
để Tăng-già-lê
trong phòng, không coi lại
để phơi
hong, bị trùng cắn
hư hoại,
nên chế.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Các y khác và các vật khác, mỗi
năm ngày, không xem
phạm
Ðột-kiết-la.
Tỳ-kheo... Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Cất chỗ
bảo
đảm.
Hoặc nhờ
người khác coi sóc. Hoặc
xem sợ mất.
Giới
thứ
105:
Tỳ-kheo-ni
nào, cản
trở
người
cúng y cho Tăng,
phạm
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Thâu-la-nan-đà
có người quen biết
tri thức muốn
cúng cơm vaø y cho Tăng.
Cô ta
đến nói:
- Ðại
Tăng oai
đức,
nhiều Ðàn-việt
cúng dường. Ông còn nhiều
chỗ
để
cúng dường, chỉ
nên cúng cơm, khỏi
phải cúng y.
Người
quen kia nghe lời,
không cúng y. Sáng ngày Ni Chúng
đến, thấy
oai nghi nghiêm chỉnh.
Gia chủ
mới nói lớn
lời
ăn
năn không
được
cúng y
đó. Chư
Ni hỏi, biết
rõ vấn
đề...
đến bạch
Phật chế
cấm.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Làm cản
trở vật
khác, phạm Ðột-kiết-la. Làm trở
ngại (lưu
nạn) việc
cho người khác, phạm
Ðột-kiết-la.
Tỳ-kheo... Ðột-kiết-la.
Giới
thứ
106:
Tỳ-kheo-ni
nào, không hỏi
chủ
mà mặc
y của
họ,
phạm
Ba-dật-đề.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Tỳ-kheo,
... Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Người thân quen nói,
“Cô cứ
bận
đi!”.
Giới
thứ
107:
Tỳ-kheo-ni
nào, đem
y của
Sa-môn cho người
ngoại
đạo,
người
bạch
y, phạm
Ba-dật-đề.
GIẢI THÍCH:
Bạch
y là người
tại gia.
Ngoại
đạo là người
xuất gia ngoài Phật
pháp.
Y Sa-môn là y hoại
sắc.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Người
kia nhận, phạm
Ba-dật-đề.
Người kia không nhận,
phạm Ðột-kiết-la. Phương
tiện muốn
cho... Ðột-kiết-la.
Tỳ-kheo... Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Cho cha mẹ, cho người
coi tháp, coi giảng
đường, làm việc, tính theo thức
ăn mà cho. Hoặc
bị cường
lực cưỡng
đoạt.
Luật
Ngũ phần
nói:
Nếu
đổi y của
Ni, hoặc trả
nợ,
đều
không phạm.
Luật
Tăng kỳ
nói:
Cô Ni có
đức,
tín
đồ xin một
miếng cà-sa
để
trừ tai
ương,
nên khiến tịnh
nhơn cho.
Giới
thứ
108:
Tỳ-kheo-ni
nào, chúng Tăng
chia y đúng
pháp, mà nghĩ
đến
việc
cản
ngăn
không cho chia, vì sợ
đệ
tử
của
mình không có phần,
phạm
Ba-dật-đề.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Tỳ-kheo...
Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Vì phi thời, phi pháp, biệt
chúng...
Giới
thứ
109:
Tỳ-kheo-ni
nào, có ý nghĩ
như
vầy:
Nay muốn
chúng Tăng
đừng
xả
công đức
y, sau sẽ
xả,
muốn
cho năm
điều
phóng xả
được
lâu, phạm
Ba-dật-đề.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Tỳ-kheo,
Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Xả phi thời,
phi pháp biệt chúng v.v...
Giới
thứ 110:
Tỳ-kheo-ni
nào, có ý nghĩ
ngăn
Tỳ-kheo-ni
Chúng, không xả
y Ca-thi-na, vì muốn
được
hưởng
năm
việc
phóng xả
lâu hơn,
phạm
Ba-dật-đề.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Nói mà rõ ràng, Ba-dật-đề, không rõ ràng, Ðột-kiết-la.
Giới
thứ
111:
Tỳ-kheo-ni
nào, được
Tỳ-kheo-ni
khác yêu cầu
rằng:
“Cô vì tôi dập
tắt
tránh sự
này”, mà không tìm cách
để
dập
tắt,
phạm
Ba-dật-đề.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Những
việc
tranh cãi nhỏ khác, không dùng
phương
tiện
để
diệt, Ðột-kiết-la. Nếu
việc tranh cãi của
bản thân, không dùng
phương
tiện diệt,
hoặc việc
tranh cãi của người
khác, không dùng phương tiện diệt,
đều phạm
Ðột-kiết-la.
Tỳ-kheo... Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Nếu bệnh,
hoặc nói mà không làm,
hay người
đó
phá giới
v.v... Hoặc do việc
ấy mà có mạng
nạn.
Giơùi
thứ 112:
Tỳ-kheo-ni
nào, tự
tay đem
thức
ăn
cho người
bạch
y và ngoại
đạo
ăn,
phạm
Ba-dật-đề.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Phạm,
không phạm
đồng như
giới “cho y” trước.
Không phạm:
Hoặc
để
dưới
đất
cho hay bảo người
khác cho.
Giới
thứ 113:
Tỳ-kheo-ni
nào, làm sứ
giả
cho bạch
y, phạm
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Lục
quần Ni trông coi quản
lý nhà người như:
Xay lúa giã gạo, nấu
cơm, cháo, thức
ăn, hoặc
trải giường
chiếu, ngọa
cụ, quét nhà, xách nước,
hoặc nhận
cho người sai khiến.
Vì vậy cư
sĩ chê cười,
không cung kính, cho nên chế
cấm.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Tỳ-kheo
tùy theo chỗ
làm mà phạm.
Ba chúng kia, Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Nếu cha mẹ
bệnh, hoặc
bị trói buộc,
vì họ trải
giường, ngọa
cụ, quét
đất,
xách nước, cung cấp
những việc
cần, nhận
làm sứ giả.
Hoặc kẻ
Ưu-bà-tắc
có lòng tin bị bệnh...
cũng vậy,
hoặc bị
cường lực
bắt buộc.
Giới
thứ
114:
Tỳ-kheo-ni
nào, tự
tay quay chỉ,
phạm
Ba-dật-đề.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Một
sợi
chỉ kéo ra là một
Ba-dật-đề.
Tỳ-kheo v.v... Ðột-kiết-la.
Không phạm:
Tự mình tách sợi
tơ, se sợi
tơ, hoặc
bị sức
mạnh bắt
buộc.
Giới
thứ
115:
Tỳ-kheo-ni
nào, vào nhà bạch
y, ngồi,
nằm
nơi
giường
lớn,
giường
nhỏ,
phạm
Ba-dật-đề.
NGUYÊN DO:
Thâu-la-nan-đà
đến một
nhà cư sĩ,
vợ cư
sĩ cởi
áo, anh lạc, vào trong nhà tắm,
Thâu-la-nan-đà bèn vội
lấy áo, anh lạc,
mặc vào, nằm
trên giường của
cư sĩ.
Chồng của
cư sĩ
trở về
nhà, thấy nằm,
tưởng là vợ
mình, liền
đến
nằm, rờ
mò, hôn miệng, khi rờ
gặp
đầu
trọc hỏi
ra mới biết,
hiềm trách, nên chế.
TƯỚNG
TRẠNG
CỦA
TỘI
Lưng dính chiếu,
Ba-dật-đề.
Tỳ-kheo... Ðột-kiết-la.
Không phạm: Giường
riêng, ghế riêng. Nếu
vì Ni Chúng, trải
cho nhiều
người ngồi,
bệnh té xuống,
hay dùng sức mạnh
bắt v.v...
TRÙNG TRỊ
TỲ-NI
SỰ
NGHĨA
TẬP
YẾU
HẾT QUYỂN
THỨ MƯỜI SÁU
--- o0o ---
Mục
Lục |
01
|
02
|
03
|
04
|
05
|
06
|
07
|
08
|
09
|
10
11
|
12
|
13
|
14
|
15
| 16
|
17
|
18
|
19
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-6-2007