TRÙNG TRỊ TỲ NI
SỰ NGHĨA TẬP YẾU
CỔ
NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích
Việt
dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH
Nhuận văn
và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
---o0o---
TẬP II
QUYỂN THỨ 19
Quyển thứ 19 này, nguyên bản được lưu
hành riêng. Ðề mục chỉ gọi là “Tứ phần luật tạng”.... Nay hiệp lại in
chung thành một pho, chỉ thêm trước là “Trùng trị” sau là” Tỳ-ni”... nơi đề mục.
Trong chánh văn và văn giải thích, có
một số chữ nhỏ viết thành hai hàng là y theo nguyên bản. Lần khắc bản kỳ này
thưa rõ như vậy.
LƯỢC GIẢI THÍCH
KIỀN-ÐỘ TRÌ GIỚI CỦA ÐẠI, TIỂU THEO TỨ PHẦN LUẬT TẠNG
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Phật-đà-da-xá và ngài Trúc-phật-niệm
Bồ-tát Sa-di Trí Húc, tục danh Tế Minh, người (Mộc Ðộc) huyện Cổ Ngô giải
thích
Kiền-độ,
giải thích gọn
có hai nghĩa:
1. Thuyết
minh những phần
giống nhau.
2. Thuyết
minh riêng từng vấn
đề.
Phần
giống nhau thì “Ðại”
là Tỳ-kheo, “Tiểu”
là Sa-di, cả hai
đều lấy giới
làm gốc. Ai không
trì giới này, không
phải là
đệ tử
của Phật,
Phật không phải
là thầy của
họ. Do
đó có tên là
đại tiểu Trì giới
Kiền-độ. Chúng ta nên biết
trong phần này
đồng với giới
của Tỳ-kheo. Cho
đến những
phương pháp
đoạn
trừ tất cả
pháp chướng
đạo
được gọi
là Ba-la-đề-mộc-xoa
giới. Xả
ly 5 triền cái, an trú vào Tứ
thiền gọi
là Thiên giới. Chứng
được Ngũ
thông Tam minh gọi
là Vô lậu giới.
Ba loại giới
này là con đường
chung để ra khỏi thế
gian. Trong văn tuy
chỉ nói Tỳ-kheo, thật
ra chung cả Sa-di
cùng tu tập vậy.
Phần chi tiết
thì “Ðại” là Ðại thừa,
tự lợi lợi
tha. “Tiểu” là Tiểu
thừa, chuyên cầu
tự lợi. Cả
hai đều lấy
giới này làm gốc.
Không giữ giới
này, tự lợi
lợi tha
đều mất. Kinh Hoa nghiêm nói: “... thọ
trì đầy
đủ giới
pháp oai nghi, có khả
năng khiến
cho hột giống Tam bảo
không đoạn
tuyệt.”
Kinh
Niết-bàn nói:
“Bồ-tát thường
suy nghĩ,
đời sống
xuất gia thoải mái, rộng
rãi như hư
không, tất cả
pháp lành đều tăng
trưởng từ
đó. Ðời sống
tại gia bị
bức bách, ràng buộc
như lao ngục, tất
cả pháp ác
đều phát sanh từ
đó. Các ngài
đến chỗ
chư Tăng
ở, nghe Phật
nói đạo Vô thượng,
Chánh pháp Vô thượng,
đại chúng phạm
hạnh chơn
chánh, liền cầu
xuất gia, Bạch
tứ yết-ma,
thọ trì trọng
giới thuộc
tánh, dứt cơ
hiềm
ở
đời, bình
đẳng không sai biệt.
Như người
ôm phao nổi vượt
qua biển lớn.
Không thể vì sự
cầu xin tha thiết
của la-sát mà tự
hủy mình. Hành giả
trì giới này có thể
phát sanh năm chi
giới:
1. Căn
bản nghiệp
thanh tịnh giới:
Mười
điều
thiện là tánh giới
của các giới.
Tức chỉ
cho: Không sát sanh, không trộm
cắp v.v.... theo văn
này vậy.
2.
Những giới
thanh tịnh khác quyến
thuộc trước
sau: “Trước” là
chỉ cho thời
gian phương tiện
để phạm giới,
“Sau” là chỉ cho
hai thiên về sau.
Dù trước hay sau
đều lệ thuộc
vào căn bản
giới. Chữ
“khác” là chỉ cho
tùy luật oai nghi
và các kinh cấm chế. Như
24 giới trong kinh
Phương
đẳng.
Ở
đây gọi
là “chi” tức là chỉ cho sự
xa lìa các pháp chướng
đạo, theo văn này vậy.
3.
Phi chư ác giác,
Giác thanh tịnh giới:
Tức chỉ cho Ðịnh
côïng giới. Nghĩa
là một lòng trừ
triền cái
đạt
được các căn
của Thánh, theo văn
này vậy.
4) Hộ
trì chánh niệm, niệm
thanh tịnh giới:
Tức chỉ
cho Ðạo côïng giới.
Là Tứ niệm
xứ quán trong văn
này.
5) Hồi
hướng cụ
túc, Vô thượng
đạo giới:
Tức chỉ
cho Ðại thừa
giới. Nghĩa
là Bồ-tát
ở trong giới này
đủ Tứ
hoằng thệ
nguyện Lục
độ, hết
lòng phát nguyện hồi
hướng Bồ-đề.
Tứ hoằng thệ
nguyện: Bồ-tát
tự thương
thân mình và các chúng sanh phá giới,
tạo tội, mất
thân người, trời
và sự an lạc
của Niết-bàn,
tức biết
rõ Tập
đế. Khi qua lại
trong sanh tử, chịu quả
báo các đường ác, tức
biết rõ Khổ
đế. Vì khổ
và tập nghịch
chiều với
Giới, Ðịnh,
Tuệ, do
đó không có Ðạo
đế. Vì không có Ðạo
đế cho nên không chứng
đắc Niết-bàn,
tức không có Diệt
đế. Nay muốn
nhổ gốc
Khổ, Tập
nên khởi tâm
đại bi phát hai thệ
nguyện:
Y vào
Khổ
đế mà phát “Chúng
sanh không số lượng,
thệ nguyện
đều
độ khắp”.
Y vào Tập
đế mà phát “Phiền
não không cùng tận,
thệ nguyện
đều dứt sạch”.
Muốn
tu Ðạo
để chứng
Diệt phải khởi
tâm đại từ,
phát hai thệ nguyện:
Y vào Ðạo
đế mà phát “Pháp
môn không kể xiết,
thệ nguyện
đều tu học”.
Y vào
Diệt
đế mà phát “Phật
đạo không gì hơn,
thệ nguyện
được viên thành”.
Lục
Ðộ:
Ghê tởm
điều
ác, xuất gia từ
bỏ sự
yêu thích, tức
Ðàn-na Ba-la-mật (Bố thí Ba-la-mật).
Mảy may không phạm
giới chống
cự lại quỷ
la-sát, tức Thi-la
Ba-la-mật (Trì giới Ba-la-mật).
Hay kiểm soát thân
tâm, an nhiên truớc
sự
đánh mắng,
gọi là Sanh nhẫn.
Chịu
đựng nóng lạnh
nhiếp phục tham nhuế
và tám thứ gió... gọi
là Pháp nhẫn. Không
bị tổn
hoại bởi
ái kiến tức
là Sằn-đề
Ba-la-mật (Nhẫn
nhục Ba-la-mật).
Giữ gìn học
giới, không sanh
tâm trái phạm, tức là Tinh tấn
Ba-la-mật. Quyết
định trì giới,
không bị hồ
nghi cuồng loạn,
chuyên tâm bất
động, tức
Thiền-na Ba-la-mật.
Thấu rõ nhân quả,
biết Giới
là chánh thuận với
căn bổn của
giải thoát, xuất
sanh tất cả
Thánh quả của
ba thừa, chẳng
phải 62 tà kiến
của ngoại
đạo, gọi là Bát-nhã Ba-la-mật.
Hết lòng phát nguyện,
chỉ cho 12 thệ nguyện
để tự chế
tâm mình trong kinh Phạm
võng. Trong tạng
Luật cũng
thuyết minh
đầy
đủ ý này. Lại
phát nguyện: Nguyện tất
cả chúng sanh,
được giới thanh tịnh,
giới thiện
pháp, cho đến
đầy
đủ các giới
Ba-la-mật... Trong Diệu huyền
và Thích thiêm
có giải thích
đầy
đủ 10 chi giới
pháp này.
Hồi hướng
Bồ-đề,
tức dùng công
đức trì giới này trang nghiêm Vô thượng Bồ-đề.
Kinh Bồ-tát thiện
giới nói: Giới
cấm của
Thanh văn và tất cả
thiện pháp,
đều là nhân của
Vô thượng Chánh
đẳng Chánh giác.
Chi thứ năm
này là Vô thượng
đạo giới;
nếu xét theo văn
này thì Tứ thiền, Ngũ
thông, Tam minh, đều
thu vào bốn chi trước,
tất cả
đều quy về
Ðại thừa
vậy. Trí Giả Ðại
sư nói: Tam quy, Ngũ
giới, Thập
thiện, 250 pháp giới
đều là Ma-ha-diễn
(Ðại thừa). Ngài Kinh Khê nói: Một cử
chỉ, một
động tác,
đâu chẳng
phải là pháp giới.
Lại nói: Giới
không có đại tiểu, do tâm người
cảm thọ
phân định; Trung
đạo biến
nhập cả
Không quán và Giả
quán cùng sự luật nghi, có thể
mới
được gọi
là trì giới
đầy
đủ. Nên biết
Ðại thừa cũng
dùng giới này làm căn
bản, cần
phải phân chia khoa
tiết rõ ràng vậy.
Lược giải
nghĩa chữ
“đại” xong. Tiếp
theo đây là phần chánh văn
được chia làm hai:
thứ nhất
phát khởi nhân
duyên. Thứ hai, nói
về pháp yếu.
A. PHÁT KHỞI NHƠN DUYÊN:
Bấy
giờ,
đức Thế
Tôn trụ tại
nước Câu-thiểm-di
(hoặc gọi là Câu-thiểm-tỳ,
hay Kiều-thuởng-di,
thuộc về Trung
Ấn Ðộ).
Vua Ưu-đà-diên
là thân hậu trí thức
với ngài Tân-đầu-lô
(Ưu-đà-diên tức
là Ưu-điền, hay là Ô-đà-diễn-na,
Trung Hoa dịch là
Xuất Thọ,
Tân-đầu-lô, Trung
Hoa dịch là Bất
Ðộng. Họ
ngài là Phả-la-đọa.
Ngài rất thông
minh, có tài ăn nói).
Nhà vua sớm chiều thường
đến viếng
thăm Tôn giả.
Khi ấy, có một
đại thần
người Bà-la-môn
tháp tùng nhà vua, không có lòng tin
đối với
Phật Pháp, tâu với
vua rằng:
- Tại
sao Ðại vương
sớm chiều
đến thăm
hỏi kẻ
hành nghiệp hạ
tiện này, mà thấy
vua lại không
đứng dậy.
Vua liền phán rằng:
- Sáng
mai, ta sẽ
đến, nếu
cố ý không
đứng dậy,
sẽ giết
kẻ
ấy.
Sáng
ngày mai vua liền
đến, Tôn giả
Tân-đầu-lô tưø
xa thấy vua
đến, liền nghĩ:
- Hôm
nay vua đến với
ác tâm, nếu ta
không đứng dậy sẽ
bị mất mạng,
nếu ta
đứng dậy nhà vua sẽ
bị mất ngôi. Nhưng
nếu ta không
đứng dậy. Vua sẽ
giết ta, và sẽ
đọa
địa ngục.
Nên để cho vua
đọa
địa ngục
hay nên để cho vua mất
ngôi?
Tức
thời lại
nghĩ: “Thà
để cho vua mất
ngôi, chứ không nên
để cho vua
đọa
địa ngục”. Do vậy
liền
đứng dậy
từ xa
đón chào, vấn an nhà vua:
- Làm
thay! Ðại vương.
Nhà vua
liền hỏi:
- Tại
sao hôm nay Tôn giả
lại
đứng dậy
chào đón vấn an trẫm?
Tôn giả
đáp:
- Vì
vua cho nên đứng dậy.
Vua hỏi:
- Hôm
qua, tại sao không
đứng dậy?
- Cũng
vì vua.
- Tại
sao cũng vì trẫm?
- Hôm
qua nhà vua đến với
thiện tâm, nay nhà
vua đến với ác tâm. Nếu
tôi không đứng dậy,
vua sẽ giết
tôi, và chắc chắn
do vì giết tôi mà nhà vua sẽ
vào địa ngục.
Cho nên tôi nghĩ:
“Nhà vua này mang ác tâm
đến, nếu ta không
đứng dậy
sẽ giết
ta, nếu ta
đứng dậy,
ắt nhà vua sẽ
mất ngôi. Nếu vua giết
ta vua ắt sẽ
đọa vào
địa ngục.
Thà để vua mất
ngôi chứ không nên
để vua
đọa vào
địa ngục,
cho nên tôi đứng dậy.”
Vua hỏi:
- Trẫm
sẽ mất
ngôi à?
Tôn giả
trả lời:
- Sẽ
mất.
Vua lại
hỏi:
- Bao
nhiêu ngày nữa sẽ
mất ?
- Chậm
lắm là mười ngày.
Khi
ấy, Vua liền
trở về
Câu-thiểm-di, sửa
chữa thành trì, tích lũy
lương thực,
chuẩn bị
chất
đốt, tập
hợp binh sĩ
để thủ
thành. Cảnh giác
đầy
đủ trong vài ngày
và đếm từng
ngày... đến ngày thứ bảy,
nhà vua tuyên bố:
-
Sa-môn nói không thật.
Nhà vua
bèn cùng thể nữ
du ngoạn bằng
thuyền trên sông Hằng.
Lúc ấy, trong vương
quốc
Ủy-thiền
(do vua Mãnh Quang trị
vì, tên nước
ấy không thấy
chỗ nào phiên dịch
danh từ này) bảy
năm không mưa.
Vua nước
ấy nghe vua Bình-sa
ở nước
Ma-kiệt có viên ngọc
“Xuất thủy”.
Nếu
đưa viên ngọc
kia ra, thì trời liền
mưa.
(Ma-kiệt,
gọi
đủ là Ma-kiệt-đà, Trung Hoa dịch
là Thiện thắng,
hay Vô não, Bất hại, thuộc
Trung Ấn Ðộ.
Bình-sa, gọi
đủ là Tần-bà-sa-la,
Trung Hoa dịch là Mạc
thật, hay Hình lao,
hay Ảnh kiên, hoặc
Ảnh thắng.
Nhan sắc người
ở
đó
đoan chánh, thù diệu.)
Vua nước
Ủy-thiền liền
cử bốn bộ
binh (voi, ngựa,
xe, bộ)
đến vây kín thành Vương
Xá (tên đô thành
nước Ma-kiệt-đà). Thành
ấy phòng thủ
quá chắc chắn, không cách nào chiếm
được. Chỉ
có khi nào lương thực nước
uống trong thành hết,
mới có thể
chiếm
được. Lúc này, những
vị
đại thần
có trí tuệ, tài giỏi trung thành
đưa ra một
kế sách: Dùng cây
trúc nhỏ cắm
dưới
đáy ao,
đem các loại
sen cắm vào
đầu ngọn
các cây trúc. Khi ấy,
các vị
đại thần
đến tâu với
vua Bình-sa: “Bệ hạ
biết chăng?
Thành Vương Xá rất kiên cố,
không cách nào chiếm
được, trừ khi lương
thực cạn
hết, mới
có thể chiếm
được. Nay bệ
hạ nên sai sứ
đến nói với
Vua Ba-la-thù-đề (vua
Mãnh Quang) thế
này: Hãy ngưng vây
thành, chúng ta không cần
đấu nhau bằng
voi, ngựa, xe cộ, dáo, mác nữa.
Ngài có thể dùng
các loại hoa:
Ưu-bát-la (hoa sen xanh), Bát-đầu-ma (hoa sen hồng),
Câu-đầu-ma (hoa sen
vàng), Phân-đà-lợi
(hoa sen trắng),
cùng chúng ta đấu
nhau. Tôi cũng sẽ dùng các loại
hoa như vậy
để cùng
đấu. Hay ngài có thể
chiếân
đấu với
chúng tôi bằng lương thực,
chúng tôi cũng sẵn
sàng chiến
đấu với
ngài.”
Vua Bình-sa chấp thuận
ý kiến này và sai sứ
đến chỗ
vua Ba-la-thù-đề,
trình bày vấn
đề như
trên.
Vua Ba-la-thù-đề nghe sứ
giả trình bày, suy
nghĩ: “Thành Vương Xá rất
kiên cố, chỉ
khi nào trong thành lương
thực cạn
hết, mới
có thể chiếm
được. Nhưng
hiện nay lương
thực trong thành rất
dồi dào
đầy
đủ”. Vua nghĩ
như vậy
mới báo với
sứ giả:
- Ta
đến
đây không vì mục
đích vây thành, mà
vì đất nước
ta bảy năm
nay không mưa. Ta
nghe trong nước của
quý ngài có ngọc thủy châu; nếu
đưa ngọc
đó ra, thì trời
liền mưa.
Do đó, ta mới
xuất quân tới
đây.
Sứ
giả trả
lời với Ðại
vương:
- Tại
sao lúc ban đầu Ðại
vương không nói cần
ngọc. Nếu nói cần
ngọc chúng tôi sẽ
trao cho. Vậy, vua
nên rút binh, chúng tôi sẽ
đưa ngọc
sang.
Vua
Mãnh Quang rút binh, kéo về
hướng nước
Câu-thiểm-di. Trên
đường
đi, vua nghe tiếng
cười giỡn
của
Ưu-đà-diên
cùng với thể
nữ
đi thuyền
du ngoạn trên sông Hằng,
liền hỏi
người gần
bên:
-
Tieáng cười giỡn
ấy là của
ai?
Kẻ
thần bên cạnh
đáp:
- Ðại
vương không biết
hay sao? Vua Ưu-đà-diên
cùng các thể nữ
đi thuyền
du ngoạn trên sông
Hằng,
đó là tiếng
cười của
ông ta.
Vua
Mãnh Quang ra lệnh
cận thần
im lặng, và thả
voi xuống bên bờ
sông Hằng. Người
quản tượng
liền thả
voi trắng thứ
nhất xuống
sông, núp mình theo voi. Khi
ấy,
đại thần của
vua Ưu-đà-diên
thấy voi trắng
bên sông, liền tâu
vua:
- Tâu bệ
hạ có voi hoang
ở bờ
sông.
Vua liền
ra lệnh:
- Hãy
im lặng,
đưa thuyền vào gần
bờ sông, chỗ
voi đứng.
Vua
Ưu-đà-diên
giỏi về
phương pháp
điều
khiển voi. Vua tự
đi trước
một mình hò hét,
đánh
đàn
để bắt
voi. Người quản tượng
nhân cơ hội
ấy liền
bắt vua
Ưu-đà-diên.
Nhà vua rất sợ
sệt; Người
quản tượng
hỏi vua:
- Ngài
có sợ hay không?
Vua
đáp:
- Tôi rất
sợ.
Người
quản tượng
nói:
- Vua
đừng sợ,
Vua Ba-la-thù-đề mời
gọi ngài.
Vua
càng thêm sợ, nghĩ:
Vua Ba-la-thù-đề có
giết ta và tùy tùng của
ta không?
Sau
đó nhà vua
được áp giải
đến chỗ
vua Ba-la-thù-đề,
vua Thù-đề hỏi:
- Nhà
ngươi có sợ
không?
- Sợ.
- Ðừng
sợ! Ngươi có thể
dạy con trai ta là
Cù-ba-la (chưa
thấy phiên dịch)
phương pháp
điều
khiển voi, và dạy
con gái ta đánh
đàn cầm.
Vua Ưu-đà-diên
được
điệu
đến nước
Ủy-thiền,
quản thúc trong bảy
năm. Thời
gian đó
Ưu-đà-diên
dạy phương
pháp điều
khiển voi cho con trai và dạy
đàn cầm
cho con gái của vua
Mãnh Quang. Trong thời
gian này Ưu-đà-diên
tư thông với
con gái của vua,
Cù-ba-la biết việc
đó, tự
nghĩ: “Nếu ta tâu việc
này lên vua cha thì Ưu-đà-diên
bị giết,
ông ấy là thầy
của ta, dạy
dỗ ta cực khổ.
Ðây là con gái vua, kia là vua, xét ra cũng
được.” nên che giấu
không nói với ai.
Sau đó, vua
Ưu-đà-diên
muốn trốn
thoát, tự thu xếp
chuẩn bị
một con voi mẹ
chạy rất
mau. Cù-ba-la cũng
biết
được, suy nghĩ:
- Ông ấy tự
trang bị một
thớt voi chạy
mau, tất muốn
chạy trốn.
Nếu ta tâu lên vua cha, tất ông
ấy bị
giết. Ông
ấy là thầy
của ta,
đã dạy
dỗ ta cực
khổ; do
đó, không nói với
ai biết. Vua
Ưu-đà-diên,
đặt vương nữ
lên voi, chỉ trong
chớp nhoáng
đã từ
nước
Ủy-thiền
về
đến nước
Câu-thiểm-di. Vua
đến ngay nơi chỗ
phu nhơn Xa-di-bạt-đề
(chưa thấy
phiên dịch) nói
như vầy:
- Này phu nhơn!
Trong khi tôi bị quản
thúc, có nguyện sẽ
cúng dường tám vị
Bà-la-môn, đầy
đủ tất
cả mọi
sự nhu cầu.
Nay tôi muốn thực hiện
điều
đó, người
cần chu toàn
đầy
đủ.
Phu nhơn
đáp:
- Nếu như
vậy thì tất
cả mọi vật
sở hữu của
tôi của vua, như
voi, xe, ngựa, vàng
bạc, bảy
báu, đem dâng cho một
người, thì họ
cũng nhận
hết, vẫn
còn thấy chưa
đủ.
Vua nói:
- Như
vậy thì giải quyết
sao bây giờ?
Phu nhơn
nói:
-
Ở
đây có ngài Ma-ha
Ca-chiên-diên (phiên dịch
là Văn sức, hay là Ly hữu
vô, Phá ngã mạn
tâm, người Nam
Thiên Trúc, giòng họ
Bà-la-môn, một
trong mười người
đệ tử,
luận nghĩa
thứ nhất) là giòng họ
đại Bà-la-môn. Nay
chúng ta có thể thỉnh
ngài và bảy vị
Tỳ-kheo, Bà-la-môn,
cúng dường
đầy
đủ như
vua đã nguyện. Theo giáo pháp của
các ngài thì những
thứ chúng ta dâng
đó, các ngài không
được phép nhận.
Vua
nói:
- Rất
đúng.
Khi
ấy, Vua
Ưu-đà-diên
liền
đến chỗ
ngài Ca-chiên-diên, lạy
sát chân, qùy qua môt bên. Ngài Ca-chiên-diên thuyết
pháp cho vua nghe, làm cho vua
được hoan hỷ.
Vua nghe pháp hoan hỷ
rồi, bạch:
- Ngưỡng
mong Tôn giả và bảy
vị nhận
lời con mời thọ
trai vào ngày mai.
Khi
ấy, ngài
Ca-chiên-diên im lặng
nhận lời.
Vua thấy ngài
Ca-chiên-diên im lặng
nhận lời
rồi, từ
chỗ ngồi
đứng dậy,
lạy sát chân, vui vẻ
ra về. Vua về
đến cung sửa
soạn các món
ăn ngon, sáng sớm
hôm sau, vua đến thưa:
- Ðã
đến giờ,
mời các ngài quang
lâm!
Sáng
ngày hôm ấy, ngài
Ca-chiên-diên đắp
y, bưng bình bát, cả
thảy tám vị,
đến cung vua
Ưu-đà-diên,
trải tòa, yên ngồi,
vua Ưu-đà-diên,
tự tay dâng các món
ăn ngon, làm cho
các ngài được no
đủ. Các ngài dùng xong, Vua lấy bình bằng
vàng đựng nước
uống, với
tất cả lòng cung kính. Ngài Ca-chiên-diên nói:
- Ðừng,
đừng cúng dường như
vậy. Nhà vua cúng dường
bữa
ăn như
vậy là
đủ rồi.
Chúng tôi không được
phép nhận những thứ
cúng dường như
vậy.
Sau đó vua lại
đem xe, ngựa, người,
vàng, bạc, lưu
ly, pha lê, trân châu, xà cừ,
mã não bảy báu cúng dường.
Ngài Ca-chiên-diên từ
chối không nhận vật
nào cả. Vua lạy
sát chân ngài rồi lấy
ghế thấp
ngồi qua một
bên. Ngài vì vua nói các pháp mầu,
khiến vua
được hoan hỷ, từ
chỗ ngồi
đứng dậy
lui về.
Sau khi về
đến chùa, ngài
trình bày với các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo
bạch Phật.
Lúc bấy giờ,
Phật dùng nhân
duyên này, tập hợp
đại chúng Tỳ-kheo,
vì các Tỳ-kheo nói
về Kiền-độ
trì giới.
B. NÓI VỀ PHÁP
KIỀN-ÐỘ TRÌ GIỚI CỦA ÐẠI TIỂU
Văn
phần
đầu như
đã biết,
văn sau chia làm năm
phần:
- Thuyết
minh thắng diệu Pháp sư
- Thuyếât minh thắng
diệu do Tâm
- Thuyết minh thắng
diệu của
Ba-la-đề-mộc-xoa
- Thuyết minh thắng
diệu của
Thiền giới
- Thuyết minh thắng
diệu của
Vô lậu giới.
I. THẮNG DIỆU
PHÁP SƯ
Quốc vương
là cha mẹ của
dân, phước báu thù
thắng. Tại sao bị
mất ngôi vua, chỉ
vì Tỳ-kheo
đứng dậy
nghinh đón khi vua
đến chùa? Người
nào đầy
đủ các thắng
diệu nói trên thì
trời rồng
đều phải
tôn trọng, huống
nữa là bậc
vua trong loài người
sao dám xem thường.
Người xuất
gia ngày nay, tuy chưa
chứng
được Thiền
định, Lục thông, Tam minh, nhưng
y theo Phật xuất
gia, thọ trì các cấm
giới,
ở nơi
yên tịnh, vốn
đã thoát khỏi
vòng của
đời,
đâu cho phép
được trách, không
dùng nghi lễ
để nghinh tiếp.
Giả sử
có vị Tỳ-kheo
oai đức không bằng
ngài Tân-đầu-lô,
thì các vị cư
sĩ hiện nay có
được
đầy
đủ phước
đức như
quốc vương
kia chưa? Ai có
lòng tin trong sạch,
cần phải
suy nghĩ kỹ.
Lại nữa,
người xuất gia nên tự
suy nghĩ rằng:
Ta đã lìa bỏ
thế tục,
được dự
vào hàng Tăng bảo, tôn thờ
đức Phật
làm thầy, là
đệ tử
của Phật,
ta không nên lễ bái
quốc vương
cha mẹ; trời
rồng hộ
trì, quỷ thần
quy kính, nếu ta
không kiên trì cấm
giới, xa lìa ác
pháp, chuyên tu định
tuệ thì chính là mình dối
gạt, khi dối
tất cả
người trời
làm nhục nhã cho tất
cả hàng Tăng
bảo, hủy báng pháp luật,
chống trái
đức Như Lai, cho nên
đức Phật
vì các Tỳ-kheo dựa vào nhân duyên này mà nói sự quan trọng
của Kiền-độ
trì giới. Như
có người tự
cho mình không có đức,
trong lòng ôm sự
khiếp nhược, ngược
lại cung kính bạch
y, gọi là khiêm nhường
thì đấy là việc
làm quá đáng. Tại
sao? Sau khi đức Như
Lai thị hiện
diệt
độ, Pháp thân huệ
mạng hoàn toàn dựa
vào Tăng luân. Tỳ-kheo
tuy mới thấm
nhuần giới
phẩm nhưng
bản thể
Tăng bảo
thì không khác. Tăng
sĩ chỉ
nên nỗ lực
cố gắng,
không nên làm đảo lộn nghi biểu
Tăng bảo.
Vị nào tự
mình xem xét hai ba phen, thấy
mình thật không xứng
đáng với
danh nghĩa của
Tỳ-kheo, thà rằng
xả giới
đừng phá hoại
cửa
đạo. Xưa
kia ông Nguyên Tư từ
chối không nhận
bổng lộc,
đức Khổng
Tử không cho, dạy
rằng:
- Người
làm quan nhận bổng
lộc là lẽ
thường,
được quy
định xưa
nay. Người nào tài
năng không xứng với
chức vị,
thì nên từ quan, chứ không nên từ
chối bổng
lộc. Pháp thế
gian còn như vậy,
huống chi
đồi với
đại pháp xuất
thế,
đâu có thể
tiến thối
một cách cẩu
thả hay sao?! Ngay
như Tỳ-kheo
Thường Bất
Khinh lạy cả
bốn chúng. Ðây là bắt
đầu mở
cửa viên mãn giải
thoát, tuy mừng mà
vẫn lo; nhằm vào thời
cơ lúc bấy
giờ, cần
làm như vậy
để
đối trị
kẻ cang cường
độc ác. Trường hợp
này là quyền xảo
ngoại lệ,
không phải là những
phép tắc chung. Nếu
không như vậy,
tại sao
đức Thế
Tôn không dùng pháp này làm thường
pháp? Ngài Thường Bất Khinh là tiền
thân của
đức Như Lai. Ngài
đã nhờ
hạnh này nên sáu căn
trong sạch. Nếu
cho việc lễ
bái tứ chúng là con
đường
đi chung cho mọi
người thì lần
đầu tiên
đức Phật
chuyển pháp luân
đã nói rồi,
đâu cần giữ
kín, lại
đi kết
Mộc-xoa và cuối
cùng nơi song thọ
lại cũng
đề cao giới
luật. Huống chi, nay thời
mạt pháp, con người
ngày càng tập thêm
thói kiêu mạn, Tăng thể
ngày thêm đồi bại.
Giả sử
làm lại hạnh
của ngài Bất
Khinh, tuy không hướng
vào ty liệt mạn,
tà mạn, ngã mạn
quá mạn của
bốn chúng, nhưng
hành động lễ kính như
vậy chỉ
làm hại chứ
không lợi ích gì cả.
Cho nên trong kinh Bồ-tát
thiện giới
ghi rằng: “Khi Bồ-tát ngồi
thấy vua, hay trưởng
giả
đứng dậy
thì mắc tội.
Bồ-tát
đã kiết già; thấy
vua hay trưởng giả,
qùy thì mắc tội.
Nếu y phục
chưa chỉnh
tề, thấy
vua hay trưởng giả
đến, sửa
y phục thì mắc tội.
Nếu khi vua hay trưởng
giả nói lời
ác, khen tặng theo
ý họ thì mắc tội.
Nên biết Ðại,
Tiểu hai thừa
đều
đi theo một
đường, há những
việc làm như
vậy trong sinh hoạt
hằng ngày lại
tự gọi
cống cao
ư? Tuân theo giới
pháp của Phật,
nên vì vua và trưởng
giả mà tiếc phước
đức giúp cho họ
vậy!”
Trong
phần một
thuyết minh về
thắng diệu
Pháp sư chia làm 3 phần:
- Ðầy
đủ 10 hiệu.
- Tự
giác vượt khỏi
đời.
- Thuyết
pháp chơn thiện.
1) Mười hiệu:
Như
Lai, Xuất Thế
Ứng Cúng, Chánh Biến
Tri, Minh Hạnh Túc,
Thiên Thệ, Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ,
Ðiều Ngự
Trượng Phu, Thiên
Nhơn Sư,
Phật Thế
Tôn.
Như
Lai: Bản
giác là Như,
Thỉ giác là Lai. Thỉ
giác hiệp với
Bản giác nên gọi
là Như Lai. Lại
nữa, như
Nhị thừa
mà không đến nơi của
Nhị thừa,
đến với
lục
đạo mà không như
lục
đạo. Phật
biết Niết-bàn tức
sanh tử, nên không
đồng với Nhị
thừa. Biết
sanh tử tức
Niết-bàn cho nên
không đồng với lục
đạo.
Xuất
Thế: Thị hiện
trong ba cõi để
độ chúng sanh. Ðáng
nhận sự
cúng dường của
chúng sanh trong chín cõi nên gọi
là Ứng cúng. Biết
các pháp không sai biệt,
cũng không cùng tận
nên gọi là Chánh Biến
Tri. Theo sự
giải thích trong
giáo môn của Ba tạng thì Nhị
thừa
đoạn
được kiến
tư hoặc,
chưa
đoạn
được tập
khí, nên “chính” mà “chưa
biến”. Bồ-tát
tu các Lục
độ vạn
hạnh hàng phục
hoặc nghiệp
mà chưa
đoạn
hết, nên “biến”
mà chưa phải
“chánh”. Ðức Phật
đoạn
phiền não dứt
sạch cả
chánh khí và tập
khí, lại thấu
triệât tận
nguồn gốc
của các pháp sai biệt,
nên được gọi
là Chánh biến tri.
Minh Hạnh
Túc: Ðầy
đủ Tam minh, Lục
thông, Nhị thừa
cũng
được Tam minh nhưng
minh không đầy
đủ. Phật thì
đầy
đủ cho nên có khác
vậy.
Thiện
Thệ: Trong bộ Ðịa
trì
nói: Một phen vượt
lên khỏi rồi,
thì vĩnh viễn
không trở lại,
cũng gọi
là chuyến
đi tốt
đẹp. Ðại
luận
nói: Từ nơi
trí tuệ chánh
định sâu xa vô lượng
đi ra.
Thế
Gian Giải: Hiểu rõ tất
cả phiền
não và thanh tịnh của chúng sanh trong cõi thế gian.
Vô Thượng
Sĩ: Là bậc Tối
thắng trên hết
trong các loài chúng sanh.
Ðiều
Ngự Trượng
Phu: Là đại từ
đại bi,
điều
ngự tất
cả. Hoặc
có khi dùng lời nói
nhu nhuyến hoa mỹ, có khi dùng lời
nói thống thiết;
hoặc có khi phải
dùng lời nói phức
tạp, với
mục
đích
để cho mọi
người không mất
đạo.
Thiên Nhơn
Sư: Chỉ
vẽ, hướng
dẫn tất
cả pháp thiện
ác cho trời và người;
những
điều nên làm và những
điều
không nên làm.
Phật:
Nói cho đủ là Phật-đà,
Trung Hoa dịch là
người giác ngộ. Tự
giác, khác với phàm
phu. Giác tha, khác với
Nhị thừa;
Giác hạnh viên mãn,
khác với Bồ-tát.
Thế
Tôn: Ðầy
đủ 10 hiệu
như trên, ngôi vị
được cả
trời và người
tôn trọng. Nếu
giải thích tóm lược
thì:
Như
Lai là bậc không hư vọng.
Ứng Cúng là
ruộng phước tốt.
Chánh Biến Tri là
biết cả
pháp giới. Minh Hạnh
Túc là đủ
Tam minh. Thiện Thệ là không trở
ngại. Thế
Gian Giải là biết
quốc
độ của
chúng sanh. Vô Thượng
Sĩ là không ai bằng.
Ðiều Ngự
Trượng Phu
là điều
phục
được người
khác. Thiên Nhơn Sư
là làm con mắt cho
chúng sanh. Phật
là bậc biết ba tụ.
Thế Tôn là bậc
đủ 10
đức.
Cổ
Ðức lại
liệt kê 10 hiệu:
1)
Phỏng theo dấu vết
người
đi trước.
2)
Ðủ khả
năng làm ruộng
phước.
3)
Biết hết
hiệu của
cả pháp giới.
4)
Quả biểu
hiện cho nhân của
đức.
5)
Nhiệm mầu
đến Bồ-đề.
6)
Rõ ngụy thông chơn.
7)
Nhiếp hóa
để theo
đạo.
8)
Tùy cơ thuyết pháp.
9)
Giác ngộ trở
về chơn.
10) Ðộc Tôn
trong ba cõi.
Ở
đây hiệp Vô Thượng
Sĩ và Ðiệu
Ngự Trượng
Phu làm một hiệu,
dùng Thế Tôn cộng
thành 10 hiệu.
Trong khóa tụng của các Tùng lâm hiện
nay dùng Thiện Thệ,
Thế Gian Giải
làm một câu, là
không thể
được. Lược
giải 10 hiệu như
vậy; nếu
nói hết ý nghĩa
thì không thể nào hết
được.
2) Tự Giác Vượt
Khỏi Ðời
Ðối
với tất
cả chúng hội
Chư thiên, người
đời, Sa-môn,
Bà-la-môn, Thiên ma, Phạm
vương, Ngài tự
giác ngộ chứng
biết.
(Tất
cả Chư thiên cho
đến Phạm
vương trôi lăn
trong đêm dài sanh
tử mà không biết.
Dù có vọng xưng
là Nhất thiết
trí thì cũng không
phải là Chánh giác.
Vì họ chưa thoát
được nhân quả
trong ba cõi. Ðức
Phật từ nhiều
kiếp tu
đạo Bồ-đề
ứng hợp
với chúng sanh có
thể hóa
độ các cơ
duyên, thị hiện sanh vào cung vua, xuất
gia tu khổ hạnh, ngồi
dưới gốc
cây thành đạo. Ngài
dùng 34 tâm diệt trừ
hết chánh khí và tập khí trong ba cõi; như thật
biết Khổ
đế, như
thật biết
Tập, Diệt,
Ðạo
đế. Giấc
mộng dài trong ba cõi, từ
đây mới
tỉnh ngộ,
đêm dài tăm
tối từ
nay mới bừng sáng. Ngài không học với
một ai, nên gọi
là Tự giác, không
còn một mảy may mê hoaëc cho nên gọi
là Giác ngộ. Cảnh giới
hiện lượng
phân biệt rõ ràng
cho nên gọi là Chứng
tri.)
3) Thuyết Pháp Chơn
Thiện
Ngài vì người nói
pháp. Lời nói
đầu, lời nói giữa,
lời nói sau cùng
đều thiện. Văn
nghĩa
đầy
đủ làm sáng tỏ
sự thanh tịnh.
(Do sự giác ngộ,
đối với
các pháp không đảo
lộn, hợp
lý hợp căn cơ,
nên gọi là thiện.
Sơ, trung, hậu
có nhiều ý nghĩa.
Hoặc lấy một
bài kệ
để phân tích thì
câu đầu là sơ,
hai câu giữa là
trung, câu cuối là
hậu. Hoặc
lấy một
quyển sách
để phân tích thì phần
tựa là sơ,
phần chính thuyết
là trung, phần lưu thông là hậu.
Hoặc lấy
cả
đời giáo hóa của
đức Phật,
Ðại thừa,
Tiểu thừa
cộng lại
làm sơ, trung, hậu
thì Hoa nghiêm là sơ,
A-hàm, Phương
đẳng, Bát-nhã là trung; Pháp
hoa, Niết-bàn là hậu. Hoặc
là Ðại thừa,
Tiểu thừa
đều có sơ,
trung, hậu.
Tiểu
thừa
thì Lộc
Uyển
là
đầu hết,
Di Giáo là sau hết,
còn bao nhiêu kinh khác là trung. Ðại thừa thì Hoa nghiêm là
đầu
hết,
Niết-bàn
là sau hết,
còn bao nhiêu kinh khác là trung. Nếu lấy vấn
đề giáo hóa cho một người
để phân tích thì luận
nói về
vấn
đề bố
thí trì giới
được sanh thiên là sơ,
khen ngợi
sự
từ
bỏ,
chê trách dục
bất
tịnh
là trung; giảng
nói bốn
Chơn
đế khiến
cho họ
chứng
đạo quả
là hậu.
Lại
khiến
cho chứng
tiểu
quả
là sơ;
hồi
tiểu
hướng
đại là trung; thọ
ký làm Phật
là hậu.
Lại
khiến
trồng
các
ăn lành là sơ;
khiến
cho thuần
thục
gọi
là trung; làm cho giải
thoát là hậu.
Lại
“Thế
giới
tất-đàn"
là sơ;
“vì người
đối trị
‘tất-đàn’"
là trung; “Ðệ
nhất
nghĩa
tất-đàn”
là hậu.
Như
vậy,
sơ,
trung, hậu
đâu không hợp
lý, hợp
căn
cơ.
Văn,
nghĩa
đều nhằm
mục
đích chỉ
bày tịnh
hạnh
để thành tựu
tịnh
quả,
do
đó gọi
là chơn
thiện.)
II. THẮNG DIỆU
DO TAÂM
Chia làm ba:
- Ðược nghe Chánh pháp.
-
Nghe rồi tin
ưa.
-
Khó bỏ mà bỏ
được.
1) Ðược nghe Chánh pháp:
Người
cư sĩ, con của
người cư
sĩ, hoặc
các người sanh
trong họ hàng khác
nghe pháp.
2) Nghe rồi tin
ưa:
Vị
ấy nghe Chánh pháp,
bèn sanh tin ưa. Do
tâm tin ưa mà nghĩ: Ta hiện
nay sống trong gia
đình, vợ con trói buộc,
không tu phạm hạnh
được hoàn toàn. Ta
nay nên cạo bỏ
râu tóc, mặc cà-sa,
vì lòng tin từ bỏ
gia đình, sống
đời sống
không gia đình.
3) Khó bỏ mà bỏ
được:
Tiền
tài thân quyến là
những thứ quyến
luyến nhất
trong thế gian, một
lúc bỏ hết,
cho nên gọi xuất gia là cái việc
của
đại trượng
phu.
Vào thời
gian nào đó, vị
ấy từ
bỏ tất
cả tài sản
lớn nhỏ,
thân thuộc nội
ngoại, cạo
bỏ râu tóc, mặc
áo cà-sa, bỏ gia
đình, sống
cuộc sống
không gia đình.
III. THẮNG DIỆU
CỦA BA-LA-ÐỀ-MỘC-XOA
Chia
làm hai:
-
Thuyết minh về căn
bổn thiện
giới.
-
Thuyết minh xa lìa
các điều
ác.
1) Căn bổn
thiện giới:
Vị
ấy cùng người xuất
gia, đồng từ
bỏ
đồ trang sức
tốt
đẹp, cùng các Tỳ-kheo
đồng giữ
giới không sát
sanh. Buông bỏ
đao trượng,
luôn luôn có tâm tàm quý, dùng lòng từ
nghĩ
đến chúng sanh,
ấy là không sát
sanh. Vị
ấy xả
bỏ trộm cắp,
cho thì lấy, không
cho thì không lấy.
Tâm của họ
thanh tịnh, không
có ý trộm cắp,
ấy là không trộm
cắp. Vị
ấy bỏ
hạnh bất
tịnh, dâm dục,
tu phạm hạnh,
cần tinh tấn,
không đắm ái dục,
sống trong sạch
thanh tịnh;
ấy là bỏ
hạnh bất tịnh
dâm dục. Vị
ấy bỏ
nói vọng ngữ,
đối với
người nói
đúng sự
thật, không dối
trá, ấy là không nói láo. Vị
ấy bỏ nói hai lưỡi,
nghe lời nói nơi
đây không truyền
đến nơi kia, nghe lời
nói bên kia không truyền
đến bên này. Không
gây chia rẽ giữa
người này với
người kia. Nếu
có những người
ly biệt, vị
ấy khéo làm cho hòa
hiệp. Hòa hiệp thân ái, thường
khiến cho hoan hỷ.
Nói lời hòa hợp,
nói đúng lúc,
ấy là không nói hai
lưỡi. Xa lìa lời
thô ác, lời cộc
cằn, lời
đem lại
khổ não cho người,
khiến sanh giận
hờn không
ưa vui. Ðoạn trừ
những lời
thô ác như vậy,
nói lời nhu nhuyến
không sanh oán hại,
hay làm điều
lợi ích, mọi
người
ưa vui thích nghe vị
ấy nói. Thường nói lời
lành có ích, ấy là
không nói lời thô
ác. Xa lìa lời nói
không lợi ích, nói
đúng thời, nói thật,
có lợi ích, nói
đúng pháp,
đúng luật,
chấm dứt
sự tranh cãi, cần
thì nói, nói đúng
thời,
ấy là lìa lời
nói không lợi ích.
Vị
ấy không uống
rượu, xa chỗ phóng dật.
Không say đắm hoa hương
anh lạc. Không ngồi
nằm giường
cao rộng lớn.
Không ăn phi thời,
chỉ
ăn một
bữa. Không cầm
vàng bạc bảy
báu. Không lấy vợ
nhỏ vợ hầu,
không nuôi nô tỳ,
voi, ngựa, xe cộ, gà, chó, heo, dê, nhà cửa ruộng
vườn, chất
chứa tất
cả các vật
ấy. Vị
ấy từ
bỏ tất cả
các việc gian lận
bằng cân và
đo lường.
Không chế tạo
vật ác, không sống
bằng nghề
buôn. Vị
ấy từ
bỏ việc làm thương
tổn người
khác, không sát hại,
trói buộc họ.
Vị
ấy không bức
đoạt tiền
tài của người
khác, không áp bức
họ phải
làm việc cho mình.
Vị
ấy từ
bỏ không lường
gạt, dối
trá làm phát sanh kiện
tụng, tránh lấn
hiếp người khác. Vị
ấy từ bỏ
các việc bất
thiện như
vậy. Vị
ấy làm việc
gì cũng
đúng lúc, không
đúng lúc không làm.
Vị
ấy sống
biết
đủ,
ăn vừa
đủ no, biết
tự lượng khi
ăn. Vị
ấy bằng
lòng với tấm
y che thân, đi
đâu cũng
mang theo y bát như
con chim bay đến
đâu cũng
mang theo hai cánh. Tỳ-kheo
cũng vậy,
đi
đến chỗ
nào cũng mang theo
y bát.
(Nơi
đây ba giới
sát,
đạo, dâm là
độc
lập. Giới
không vọng ngữ chia làm bốn,
đều thuyết
minh “chỉ và hành” hai
điều
thiện. Không uống
rượu... sáu giới
chỉ liệt
kê giới tướng,
không cưới vợ nhỏ,
vợ hầu...
lược nêu nét chính của oai nghi. Ngoài ra như
trong luật có thuyết minh
đầy
đủ.)
2) Xa lìa các điều
ác:
Như
một số Sa-môn, Bà-la-môn khác, nhận món
ăn của
tín thí, nhưng vẫn tìm cầu
tích chứa nhiều
tài sản khác, như
y phục thực
phẩm, hương
vị và các vật
vừa ý. Sa-môn Thích
tử phải
xa lánh những sự việc
không tri túc ấy.
Như
một số
Sa-môn, Bà-la-môn khác, ăn
món ăn của
tín thí, nhưng vẫn chứa
cất các hạt
giống, trồng
cây cối. Sa-môn
Thích tử không làm
những việc như
vậy.
Như
một số
Sa-môn, Bà-la-môn khác, ăn
món ăn của
tín thí, nhưng vẫn tạo
các điều
kiện
để tìm cầu
những vật quý làm lợi
dưỡng, như
ngà voi, giường cao
rộng, các loại
chăn nệm
trang sức vẽ
vời loè loẹt,
với những
tấm da nhiều
màu. Sa-môn Thích tử
không làm những việc như
vậy.
Như
một số
Sa-môn, Bà-la-môn khác, ăn
món ăn của
tín thí, nhưng vẫn làm các phương
tiện
để trang sức
thân thể cho
đẹp, như xoa dầu
thơm vào thân, tắm
rửa bằng
nước thơm, dùng hương
thơm xoa thân, xức
dầu thơm
trên đầu; mang những
vòng hoa; nhuộm y
phục màu thiên thanh, trang
điểm
trên đầu trên mặt
với nhiều
hình thức; cột tơ
vào tay, cầm gậy,
cầm
đao kiếm,
che lọng bằng lông con công, lấy
ngọc quý gắn
vào quạt, soi gương
trang điểm,
dép da thêu nhiều
màu sắc, mặc
y phục toàn màu trắng.
Sa-môn Thích tử phải
tránh xa tất cả
những việc
trang sức như vậy.
Như
một số
Sa-môn, Bà-la-môn khác, ăn
món ăn của
tín thí, nhưng vẫn chơi
để giải trí, như
các loại cờ,
loại bạc,
hoặc chơi
tám cách, hoặc chơi mười
cách; hoaëc gõ khánh bằng
đá... Sa-môn Thích
tử phải
tránh xa những việc
chơi bời
như vậy.
Như
một số
Sa-môn, Bà-la-môn khác, ăn
món ăn của
tín thí, nhưng chỉ nói những
việc làm trở
ngại
đạo pháp, như
nói chuyện về
vua, chúa, về giặc
giã, về xe ngựa,
chiến
đấu, về
đại thần,
chuyện
đi xa, ra vào vườn,
chuyện nằm
ngồi, chuyện
ăn uống,
chuyện
đàn bà, y phục,
chuyện xóm làng,
chuyện quốc
độ, chuyện
nhân gian, chuyện
đi biển.
Sa-môn Thích tử phải
từ bỏ không nói về
những việc
làm trở ngại
đạo như
vậy.
Như
một số Sa-môn, Bà-la-môn khác,
ăn món
ăn của
tín thí, tạo các phương tiện
dùng lời hoa mỹ
để nịnh
hót, hiện tướng
chê bai, hủy báng,
dùng lợi cầu
lợi. Sa-môn Thích tử
nên từ bỏ
lối sống tà mạng
nịnh hót như
vậy.
Như
một số Sa-môn, Bà-la-môn khác,
ăn món
ăn của
tín thí, thường
tranh cãi lẫn nhau,
hoặc
ở trong vườn,
hoặc
ở nơi
ao tắm, hoặc
ở nơi
nhà giảng nói:
- Tôi
biết pháp luật
như vậy,
thầy không biết.
Thầy
đến với
tà đạo, tôi
đến với
chánh đạo. Lấy
lời trước
chép ra sau, lấy lời
sau chép ra trước.
Tôi nhẫn
được, thầy
không thể nhẫn,
tôi hơn thầy.
Việc cần
hỏi mới nên hỏi.
Sa-môn
Thích tử nên từ
bỏ tất cả,
tránh sự như
vậy.
Như
một số Sa-môn, Bà-la-môn khác,
ăn món
ăn của
tín thí, vẫn tạo
các phương tiện
để làm môi giới
như làm thông tin
cho vua, cho đại thần của
vua, cho Bà-la-môn, cư
sĩ, như là: từ
chỗ này
đến chỗ kia, hoặc
từ chỗ kia về
chỗ này; mang tin của
người này
đến cho người
kia; đưa tin của người
kia đến cho người
này, tự hành
động hay dạy
bảo người khác làm. Sa-môn Thích tử phải
từ bỏ những
việc như
vậy.
Như
một số
Sa-môn, Bà-la-môn khác, ăn
món ăn của
tín thí, nhưng vẫn làm những
việc tranh
đấu nhau
để mua vui, như
đấu bắn cung,
đấu kiếm,
đấu gậy,
đấu gà chọi,
đấu dê
đen,
đấu dê
đực,
đấu nai,
đấu voi,
đấu ngựa,
đấu lạc
đà,
đấu bò,
đấu bò rừng,
đấu trai,
đấu gái,
đấu
đồng nam,
đấu
đồng nữ. Sa-môn Thích tử
hãy từ bỏ
những việc
mua vui bằng cách
đấu tranh như
vậy.
Như
một số
Sa-môn, Bà-la-môn khác, ăn
món ăn của
tín thí, nhưng lại làm những
việc trở
ngại
đạo pháp, sinh hoạt
tà mạng, như
xem tướng tốt
xấu của
trai gái và các loại
súc sanh để cầu
lợi dưỡng. Sa-môn Thích tử
phải từ
bỏ tất
cả những
việc làm chướng
ngại
đạo pháp
ấy.
Như
một số
Sa-môn, Bà-la-môn khác, ăn
món ăn của
tín thí, sinh hoạt
tà mạng bằng
những việc
chướng ngại
đạo pháp như
mời thỉnh
sai khiến quỷ thần,
làm nhiều cách yếm
đảo... Sa-môn Thích
tử phải
từ bỏ
tất cả
những việc
làm chướng ngại
đạo pháp
ấy.
Như
một số
Sa-môn, Bà-la-môn khác, ăn
món ăn của
tín thí; mà làm những
việc chướng
ngại
đạo pháp, sinh hoạt
tà mạng; hoặc
đọc chú làm cho người
bệnh; hoặc
đọc ác thuật;
hoặc tụng
thiện chú; hoặc
trị bệnh
đau lưng; hoặc
làm cho ra mồ hôi;
hoặc châm cứu trị
bệnh, trị
bệnh mũi,
bệnh hạ bộ.
Sa-môn Thích tử phải
từ bỏ
tất cả
những việc
làm chướng ngại
đạo pháp
ấy.
Như
một số
Sa-môn, Bà-la-môn khác, ăn
món ăn của
tín thí, mà làm những
việc chướng
ngại
đạo pháp, sinh hoạt
bằng tà mạng,
như
điều
chế thuốc
thang, trị bệnh
cho người, hoặc
là mửa, hoặc
là xổ, trị
bệnh nan y, trị
bệnh nữ.
Sa-môn Thích tử phải
lìa bỏ tất
cả những
việc làm chướng ngại
đạo pháp
ấy.
Như
một số
Sa-môn, Bà-la-môn khác, ăn
món ăn của
tín thí, mà vẫn làm
những việc
chướng ngại
đạo pháp, sinh hoạt
bằng tà mạng, như
đọc chú lửa,
đọc chú cho
đi lại
được bình an,
đọc chú cho chiến
sĩ ra trận,
đọc chú chim, chú
chi tiết, vẽ bùa,
đọc chú, chú an trú
nhà cửa,
đọc chú giải trừ
lửa
đốt, chuột
cắn vật dụng.
Hoặc tụng
các thứ sách
đoán mộng,
hoặc xem tướng tay, tướng
tai, hoặc tụng
những lời
trời người
cầu xin. Hoặc
tụng những
âm thanh riêng biệt
của thú chim.
Sa-môn Thích tử phải
từ bỏ
tất cả
những việc
làm chướng ngại
đạo pháp
ấy.
Như
một số
Sa-môn, Bà-la-môn khác, ăn
món ăn của
tín thí, nhưng sinh
hoạt tà mạng,
như xem thiên văn
thời tiết,
hoặc
đoán sẽ
có mưa,
được trúng mùa, bị
mất mùa, có bệnh,
không có bệnh, gặp tai nạn
sợ hãi hay bình an,
có động
đất, có sao chổi
xuất hiện,
có nhật thực,
không có nhật thực,
có nguyệt thực,
không có nguyệt thực,
có tinh thực, hay
không có tinh thực.
Ðoán nguyệt thực, nhật
thực, tinh thực,
đưa tới
kết quả
tốt, kết
quả xấu.
Sa-môn Thích tử phải
từ bỏ
cả những
pháp tà mạng
ấy.
Như
một số Sa-môn, Bà-la-môn khác,
ăn món
ăn của
tín thí, mà làm những
việc chướng
ngại
đạo, sinh hoạt
tà mạng, như
nói: Nước này sẽ
thắng, nước
kia thua; nước kia
thắng, nước
này thua. Phe này thắng,
phe kia thua; phe kia thắng,
phe này thua. Ðoán tất
cả việc
lành dữ tốt
xấu như
vậy. Sa-môn Thích tử
phải từ
bỏ tất
cả những
chướng ngại
đạo pháp
ấy.
(Trong đây gồm
có 17 đoạn.
Hoặc gọi là không nhàm chán, không biết
đủ; hoặc
gọi là pháp lợi
dưỡng, cho
đến hoặc
gọi là tà mạng
chướng
đạo;
đều là việc
làm của một số
các Sa-môn, Bà-la-môn khác, mà Sa-môn Thích tử không làm. Nếu
Sa-môn Thích tử cũng
làm như vậy thì bỏ
nhà đến chùa
ở làm gì? Vì không
làm các điều trên là căn
bản chính yếu
thuận cho vấn
đề giải
thoát. Cho nên gọi
là Ba-la-đề-mộc-xoa,
cũng gọi
là tăng thượng
giới học.)
IV. THẮNG
DIỆU
CỦA
THIỀN
GIỚI
Thiền
giới cũng
gọi là Ðịnh
côïng giới. Ðịnh
côïng giới này bao
gồm cả
định của
cõi dục, nhưng
ở
đây chỉ
nói về
định căn bản
cho nên có khác.
Văn
chia làm 4 phần:
-
Nhờ giới
nhiếp các căn.
-
Tiết chế cơ
thể
ăn uống
vừa
đủ.
-
Tinh tấn tu các niệm
xứ.
-
Trừ bỏ
hẳn 5 triền
cái.
1) Nhờ giới
nhiếp các căn:
Vị
ấy trong nếp sống
này, tu tập Thánh
giới. Bên trong tâm
không chấp trước gì cả,
nên tâm an lạc. Bên
ngoài mắt vị
ấy tuy thấy
sắc nhưng
không nắm giữ tướng,
nên không bị sắc
lôi kéo. Nhãn căn
đã kiên cố,
tịch nhiên mà trụ,
không còn tham dục
không còn lo buồn.
Kiên trì giới phẩm, không chạy
theo các ác bất thiện
pháp. Khéo hộ trì
được nhãn căn,
thì nhĩ, tỹ,
thiệt, thân, ý cũng
lại như
vậy. Ðối
với sáu căn
khi tiếp xúc với
sáu trần, khéo hộ
trì điều
phục, khiến
vọng tâm
đình chỉ, giống
như voi ngựa
xe qua lại giữa
ngã tư
đường trên mặt
đất bằng
phẳng. Người khéo léo
điều
khiển xe ngựa,
tay trái cầm cương,
tay phải cầm
roi. Người
ấy
đã khéo học
hộ giới
và điều phục
luật
đi
đường, không hề
vi phạm. Tỳ-kheo cũng
như vậy, sáu căn
tiếp xúc với
sáu trần phải
khéo học hộ
trì, điều
phục và phải
được giữ
vững luật
định, một
cách sáng suốt.
(Giới
pháp trên là miêu tả
đường
đi của
bậc
Thánh. Tất
cả
Thánh nhơn
đều lấy
giới
này làm căn
bản;
đều y vào giới
này mà
được giải
thoát. Khi một
người
mới
thọ
giới,
Vô tác luật
nghi
được phát sanh ngay,
tức
Vô lậu
sắc
pháp, cùng với
Thánh nhơn
đồng thể
nên gọi
là Thánh giới.
Y vào giới
này tu tập
thì ba nghiệp
của
thân và bốn
nghiệp
của
miệng
được thanh tịnh,
tâm
được an lạc,
lục
tặc
không thể
cướp
gia bảo
của
ta
được, nên gọi
là kiên cố.
Khi lục
căn
tiếp
xúc với
sáu trần
gọi
là lục
nhập.
Hộ
trì là giới,
điều
phục
là
định, giữ
vững
là tuệ.
Ngã tư
đường bằng
phẳng
dụ
cho bốn
Thánh
đế là con
đường xuất
thế.
Cầm
cương
giữ
vững
ngựa
dụ
cho “chỉ
thiện”,
cầm
roi giục
ngựa
tiến
tới
dụ
cho “hành thiện.”)
2) Tiết chế
cơ thể
ăn uống
vừa
đủ:
Vị
ấy có Thánh giới
như vậy,
thì sẽ
được Thánh nhãn căn.
Vị
ấy
ăn biết vừa
đủ, không tham lam
mùi vị,
ăn với
mục
đích nuôi cơ
thể, không cống cao kiêu mạn...
Vị
ấy tự
phòng hộ thân thể,
không cho phát sanh các đau
khổ, bệnh
hoạn,
để tu tịnh hạnh.
Nhờ
đó, vị
ấy diệt trừ
đau khổ
cũ, không cho phát
sanh những
đau khổ mới,
các khổ không còn tăng
giảm với
vị
ấy nữa.
Vị
ấy
đủ sức
nên vô sự, làm cho
thân được an lạc. Ví như
người nam nữ
nào đó, trên thân bị
vết thương
đau
đớn, họ
lấy thuốc
xức lên làm cho vết
thương
được lành. Tỳ-kheo
cũng như vậy,
biết
đủ trong việc
ăn uống, làm cho thân an
ổn.
(Tất
cả chúng sanh
đều nhờ
ăn uống
mà sống. Không
ăn thì không thể
tồn tại
được, mà tham
đắm việc
ăn lại
là tăng thêm gốc
khổ. Thế
nên Phật chế
giới không
ăn phi thời,
chỉ
ăn
đúng thời.
Lại cần phải
biết
ăn vừa
đủ, như
đã nêu rõ trong
pháp tu hạnh
đầu-đà,
ăn một
bữa,
ăn vừa
đủ no,
để nuôi sống
thân thể, ít ham muốn,
không lăng xăn
nhiều việc,
có thế mới tự
an ổn
được. Tùy duyên sống
qua ngày, nên các khổ
tiêu diệt. Không tạo
các nghiệp nên sự
khổ mới
không phát sanh, giữ
lấy gia phong người
tu hành, kiên tâm không thay
đổi, nên không có tăng
giảm. Tâm thanh tịnh
nên có sức, không
mong cầu nên vô sự,
đói khát như
vết thương,
ăn uống như
thuốc chữa,
làm sao sanh tham đắm
được!?)
3) Tinh tấn tu các niệm
xứ:
Như
có người lấy
mỡ bôi vào xe, vì
muốn xe chuyển
động, vận
tải tài vật
đến chỗ
theo ý mình. Tỳ-kheo
khi ăn biết
vừa
đủ
để nuôi thân thể,
cũng như vậy.
Tỳ-kheo có Thánh giới
pháp như vậy,
được Thánh hóa các
căn
đối với
sự
ăn uống,
biết dừng
lại khi vừa
đủ. Ðầu
đêm cuối
đêm, vị
ấy tinh tấn
tỉnh giác. Giữa
ban ngày, khi đi,
khi ngồi vị
ấy luôn luôn nhất
tâm, chánh niệm trừ các triền
cái. Vào lúc đầu
đêm, khi
đi, khi ngồi,
vị
ấy thường
nhất tâm chánh niệm
trừ các triền
cái. Vào lúc giữa
đêm, vị
ấy nằm
nghiêng về phía bên
phải, hai chân gác
lên nhau, nghĩ
đến lúc thức
dậy,
đặt tư
tưởng vào ánh sáng, tâm không loạn
động. Ðến
cuối
đêm vị
ấy thức
dậy tư duy, khi
đi, khi ngồi,
thường nhất tâm chánh niệm,
trừ các triền
cái. Tỳ-kheo có Thánh giới
như vậy
đạt
được Thánh hộ
trì các căn,
ăn biết
vừa
đủ. Ðầu
đêm cuối
đêm tinh tấn
giác ngộ, luôn luôn nhất
tâm chánh niệm
không tán loạn.
Thế
nào là Tỳ-kheo
chánh niệm không
tán loạn?
Tỳ-kheo
phải như thế
này: Vị
ấy quán sát nội
thân, thân niệm xứ
(thân là chỗ niệm),
tinh tấn không biếng
nhác, chánh niệm
không tán loạn,
điều
phục
được xan tham và
ưu não trong thế
gian. Vị
ấy quán ngoại
thân, thân niệm xứ,
tinh tấn không biếng
nhác, chánh niệm
không tán loạn,
điều
phục
được xan tham và
ưu não trong thế
gian. Vị
ấy quán nội
ngoại thân, thân niệm
xứ, tinh tấn
không biếng nhác,
Chánh niệm không
tán loạn
điều
phục xan tham và
ưu não trong thế
gian. Vị
ấy niệm
thọ, niệm tâm, niệm
pháp cũng như
vậy. Ðó gọi
là Tỳ-kheo niệm không tán loạn.
Thế nào gọi
là Tỳ-kheo nhất
tâm?
Vị
ấy khi
đi kinh hành, khi
đi vào,
đi ra, khi nhìn ngó
hai bên, khi co duỗi
tay, khi cúi xuống
ngửa lên, khi mang
y bát, khi ăn uống,
khi đi
đại tiểu tiện,
khi nằm ngủ
đều tỉnh
giác. Vị
ấy khi ngồi,
khi đứng, khi nói,
khi yên lặng, tất cả
mọi hành
động luôn luôn nhất
tâm. Ðó là Tỳ-kheo
nhất tâm. Dụ
như có người
cùng đi với
nhiều người,
hoặc
đi trước,
hoặc
đi giữa,
hoặc
đi sau,
đều
được an lạc, không có gì sợ
hãi. Tỳ-kheo cũng
như vậy.
Khi đi kinh hành
vào ra... cho đến
khi im lặng, luôn
luôn nhất tâm, Tỳ-kheo có Thánh giới
như vậy, thành tựu
Thánh giới căn,
khi ăn biết
vừa
đủ,
đầu
đêm cuối
đêm tinh tấn
tỉnh giác, luôn
luôn nhất tâm không
tán loạn.
(Ðoạn
kinh văn này trước
ví dụ, sau nói
pháp. Bôi dầu vào
xe là để xe vận
tải
được. Vì mục
đích thành
đạo nên mới
ăn các món
ăn. Nếu
ta chỉ biết có vô sự
là an lạc, mà
đêm ngày không tinh
tấn cần cầu
giác ngộ thì khác
nào hổ, nai trong
núi rừng vắng.
Thế nên cần
phải nhất
tâm niệm không tán
loạn. Ðó là quán Tứ
niệm xứ,
trong bốn oai nghi,
đã thành một
chuỗi dài suốt
thời gian 12 thời,
không gián đoạn, mới
được gọi
là không dụng tâm tạp
loạn. Ý nghĩa
của Tứ
niệm xứ,
nay sẽ lược nói. Thứ
nhất Thân niệm
xứ. Thứ
hai, Thọ niệm
xứ. Thứ
ba, Tâm niệm xứ.
Thứ tư, Pháp niệm
xứ. Y cứ
vào niệm xứ này, tu
đạo xuất
thế, chính là cửa
ngõ tối yếu của
Phật pháp. Không những
37 phẩm trợ
đạo trong tạng
giáo lấy Tứ
niệm xứ
làm đầu, mà Thông,
Biệt, Viên giáo
không có giáo nào là không y vào
đây
để hành
đạo. Thế
nên khi Phật sắp nhập
Niết-bàn,
để trả
lời câu hỏi
cuối cùng của
Tôn giả A-nan, Ngài
dạy các Tỳ-kheo:
Hành đạo thì y cứ
Tứ niệm
xứ, sống
‘trụ’ thì y cứ
vào Ba-la-đề-mộc-xoa. Thế
nên nếu không lên
đàn thọ
giới thì không thể
côïng trú, không tu Tứ
niệm xứ
thì cuối cùng không
thể tiến tới
được.)
Trí Giả
Ðại sư
giảng rõ pháp môn
này thành bốn cuốn,
chỉ bày cho hành giả
trong bốn giáo về
phương tiện
tu hành. Nếu ai muốn biết
rõ, cần phải
đọc cho kỹ,
ở
đây chỉ
trình bày những nét
chính để
đáp
ứng cho người
mới học.
Nếu không có trí tuệ
niệm xứ
thì tất cả
pháp hành đều không
phải là Phật pháp, không phải
người hành
đạo, cạo
đầu vô ích, khác
nào kẻ chăn
trâu thuê. Những người
ấy mặc
cà-sa vô ích, khác nào phướng
treo đầu sào. Những người
ấy tuy mang bát cầm
tích trượng khác nào bị
bệnh,
đi xin
ăn. Tuy
đọc kinh
điển,
như người
mù tụng phú. Tuy
siêng năng lễ bái khác nào chày giã gạo. Tuy họ
cố gắng làm, cũng
như việc
làm của người
huyễn thuật,
không có kết quả gì. Tuy xả
bỏ thân mạng,
tài vật, chỉ
được gọi
là bố thí, không phải
là Ba-la-mật. Tuy
có trì giới
đâu thoát khỏi
giới cấm
thủ. Tuy có tọa
thiền khác nào như
gốc cây. Tuy họ
muốn tri giải
nhưng chỉ làm cho trí tuệ
điên cuồng.
Thế nên họ
ở mãi bên bờ
này, không qua được
bên bờ kia, không hàng phục
được ái kiến,
không phá được chấp tướng,
không nhập vào
đạo phẩm, không vào
được
địa vị Hiền
Thánh.
Nếu có trí tuệ
Tứ niệm xứ
thì mới có thể
phá tà hiển chánh, thành tựu
đạo quả
xuất thế
của Ba thừa,
đưa
đến thành tựu
Vô thượng Bồ-đề.
Giải thích Tứ
niệm xứ
này thông qua bốn
ý:
- Tứ niệm
xứ theo Tam tạng.
- Tứ niệm
xứ theo Thông giáo.
- Tứ niệm
xứ theo Biệt
giáo.
- Tứ niệm
xứ theo Viên giáo.
Danh nghĩa của
Tạng, Thông, Biệt,
Viên trong văn
đã ghi
đầy
đủ,
ở
đây khỏi
phiền dẫn
lại nữa.
1) Giải thích Tứ
niệm xứ
quán theo Tam tạng
Tứ là số
mục, niệm
là tuệ, xứ
là cảnh giới.
Số có khai ra có hợp
lại. Nếu
người mê về
tâm nặng, thì Phật
vì họ mà nói năm
uẩn, là hợp
với sắc
để khai tâm. Nếu
người mê sắc
nặng, Phật
vì họ nói 12 xứ, là hợp
với tâm
để khai sắc. Nếu
người mê cả
tâm và sắc, Phật
vì họ mà nói 18 giới,
là khai cả tâm và sắc. Nay
đề cập
đến con số
4. Người ta
đối với năm
ấm sanh ra bốn
đảo lộn
như: Ðối
với sắc sanh ra tịnh
đảo. Ðối
với thọ
sanh ta lạc
đảo. Ðối
với tưởng
và hành sanh ra ngã đảo.
Ðối với
tâm thức sanh ra thường
đảo. Ðể
trừ bốn
đảo nên nói bốn
niệm xứ
vậy.
Thân niệm xứ:
Tất cả các pháp
đều gọi
là thân. Tự kỷ
gọi là nội
thân, quyến thuộc và người
khác gọi là ngoại
thân. Quán sát cả
ta và người gọi
là nội ngoại
thân. Niệm không tán loạn
là quán sát ngay thân ta, sanh ra từ
nghiệp bất
tịnh của
đời trước.
Do đời trước
ta không sợ sanh tử, không nhàm chán sự
ràng buộc, không
ham chuộng sự giải
thoát, không mong cầu
Niết-bàn. Ta
đối bốn
Thánh đế không chút
nào ham thích, trồng
cái nghiệp
điên
đảo, nghiệp
cột vào thức,
đầu thai vào thai mẹ,
thì có năm thứ
bất tịnh:
a) Sanh
xứ bất
tịnh: Mười
tháng trong thai cùng ở
với phân uế,
rồi nương
vào chỗ nhớp
nhúa mà chui ra.
b) Chủng tử
bất tịnh:
Lấy tinh cha huyết
mẹ làm thể.
c) Tướng
bất tịnh:
Từ
đầu
đến chân
đều là vật
nhơ bẩn.
d) Tánh bất tịnh:
Căn bổn
từ nơi uế
nghiệp sanh ra, nương
nơi uế
vật lớn lên, tánh chất
nó là như vậy,
không thể thay
đổi
được. Trong thân có
36 vật. Phần
bên trong có 12 gọi
là tánh bất tịnh
(da, da ngoài, máu, thịt,
gân, mạch máu, xương,
tủy, mỡ
nước, mỡ
miếng, não, hoành
cách mô). Bên ngoài có 12 gọi
là tướng bất
tịnh (tóc, lông,
móng, răng, ghèn, nước
mắt, nước miếng,
đàm, phân, nước
tiểu, dơ
bẩn, mồ
hôi). Bên giữa có
12 gồm cả
tánh và tướng (gan,
ruột, mật, dạ
dày, lá lách, thận,
tim, phổi, sanh tạng, thục
tạng,
đàm
đỏ,
đàm trắng).
e) Cứu cánh bất
tịnh: Khi nghiệp
báo đời này chấm
dứt, như
cây hư mục,
đại tiểu
bất tịnh,
chảy tràn ra ngoài.
Thân sanh ra giòi bọ,
chúng ăn lại
thịt của
ta, da thịt hết
rồi, chỉ
còn xương trắng.
Thân ta như vậy,
thân người khác cũng
như vậy. Quán sát như
vậy thì không thể
ngay trên thân ta và thân người,
sanh ra nhận thức
điên
đảo cho là tịnh
được. Cho nên tâm
không tán loạn, do
tâm không tán loạn
thì ta có thể
điều
phục
được xan tham
ưu não. Lược
nêu hai món nhân khổ
trong ba cõi. Hai món này có thể
bao quát tất cả
phiền não, Kiến,
Tư hoặc.
Ðiều phục,
có ý nghĩa là lấy trí tuệ
quán sát tu tập, bắt
đầu từ
tướng riêng, phân tích rõ ràng cặn
kẽ rồi
đến tướng
chung. Quán thân bất
tịnh, thọ, tâm, pháp
đều bất
tịnh. Cho
đến quán pháp vô
ngã, thân, thọ, tâm
cũng vô ngã. Do tuệ
quán này có công năng
làm cho các ác pháp chưa
sanh thì không sanh, các ác pháp
đã sanh bị
diệt hết.
Các thiện pháp chưa sanh
được sanh, các thiện
pháp đã sanh
được tăng
trưởng. Ðây gọi
là Tứ chánh cần.
Bốn món
định sanh gọi là tứ
Như ý túc. Năm
thiện căn
sanh gọi là năm
căn. Phá năm
phiền não gọi là năm
lực. Phân biệt
công dụng của
đạo là Thất
giác chi. An ổn tu
hành trong Chánh pháp gọi
là Bát chánh đạo. Năm
ấm
được thiện
hữu lậu
gọi là Noãn pháp. Từ
đây hàng phục
mê hoặc trong ba cõi, tiến
vào Ðảnh vị,
Nhẫn vị,
Thế
đệ nhất
vị, phát chơn
Vô lậu trải
qua 16 tâm được thấy
dấu
đạo. Tiến
đến chín vô ngại,
chín giải thoát,
thành vô học
đạo. Tất
cả những
pháp trên đều y vào
niệm xứ
để hành trì mà
được
điều
phục thành tựu.
Thọ
niệm xứ:
Lãnh nạp gọi
là thọ. Duyên vào bên trong là nội thọ,
duyên ra bên ngoài là ngoại
thọ. Cả
căn thọ
gọi là nội
ngoại thọ.
Tại một
căn có thuận
thọ, nghịch
thọ, không thuận
không nghịch thọ.
Ðối với
thuận cảnh
thì sanh lạc thọ;
đối với
nghịch cảnh thì sanh khổ
thọ;
đối với
không thuận, không
nghịch cảnh thì sanh bất
khổ, bất
lạc thọ;
cũng gọi là xả
thọ. Sáu căn
của 18 thọ:
Căn, trần, năng,
sở hiệp lại
có 36 thọ. Kết
hợp ba
đời có 108 thọ.
Các thọ
đều là khổ,
lạc thọ là Hoại
khổ vì lạc
bị phá hoại
thì khổ. Khổ thọ
là Khổ khổ,
vì ngay tính chất của
nó là khổ. Xả
thọ là Hành khổ,
vì thay đổi thì
sanh ra khổ. Phối hợp
riêng như
ở
đây, thì chung cho
cả ba
đều có ba khổ.
Tâm niệm
xứ: Là Tâm vương, liệt
kê ra như trên, có
nội tâm, ngoại tâm, nội
ngoại tâm. Tâm vương
không dừng một chỗ,
tánh nó dời
đổi. Tâm này hoặc
thô, hoặc tế,
hoặc trong, hoặc
ngoài đều vô thường,
thay đoåi từng
sát-na. Hơi thở ra tuy còn, khó giữ
được hơi
thở vào.
Pháp niệm
xứ: Liệt kê như
trước, nhưng
có nội pháp, ngoại
pháp, nội ngoại
pháp. Lại có pháp thiện,
pháp ác, pháp vô ký. Người
đời dựa vào pháp
để lập
ra cái ta, như ta
làm thiện, ta làm
ác, ta làm việc vô
ký, nếu y vào Tâm vương
mà cho là đã có ngã
thì nhiếp vào trong
tâm niệm xứ.
Nếu y vào Tâm sở
mà cho là có ngã thì trừ
thọ Tâm sở
trong năm Biến hành ra, bốn
Tâm sở còn lại
là Biệt cảnh
Tâm sở, thiện,
ác, Bất
định, cho
đến Bất
tương
ưng hành...
đều thuộc vào pháp niệm
xứ. Trong tất
cả các pháp này, muốn
tìm cầu ngã thì
không thể
được.
Nếu
pháp thiện là ngã,
thì ác pháp đâu phải là ngã. Nếu
pháp ác là ngã, thì thiện
pháp lẽ ra không có
ngã; hay nếu pháp
ác là ngã, thì tại
sao làm ác lại tự
hại mình? Nếu
pháp Vô ký là ngã, thì pháp vô ký không thể
sanh ra nghiệp, làm
sao có nhân để tạo
ra ngã? Nó chỉ
được gọi là “nhân
đẳng khởi”,
tức là nhờ vào Vô ký này khởi
thiện, khởi
ác, thiện ác còn chẳng
phải là ngã, nhân
đẳng khơûi làm sao
được gọi
là ngã? Từ
đó chúng ta biết
rằng tất cả
đều vô ngã, chỉ
là Hành uẩn
(ấm), cho nên Khế
kinh có chép: Khởi
lên chỉ có pháp khởi,
diệt chỉ
có pháp diệt, không có ngã,
nhơn, chúng sanh,
thọ mạng.
Ấm, pháp, khởi
diệt
đều là
điên
đảo. Ðiên
đảo chỉ
cho thân kiến, biên
kiến, là năm
ấm ô uế.
Vô ký cũng là năm
ấm ô uế.
Vô ký duyên vào quả
báo hiện tại
khởi lên nên
đều là vô ngã. Tuy
Tâm vương Tâm sở cùng khởi
lên một lúc, nhưng
tác dụng có mạnh
có yếu. Nếu
Tâm vương mạnh
thì thuộc về
Tâm niệm xứ;
nếu Tâm sở
mạnh thì thuộc
về Pháp niệm xứ.
Như vậy tất
cả pháp thiện,
ác, trong, ngoài, tìm ngã rõ thật
không thể
được. Nên gọi
là Pháp niệm xứ.
Tu bốn pháp niệm
xứ này có ba loại
không đồng nhau:
1) Tánh niệm xứ,
thành tuệ giải
thoát, phá tất cả trí của
ngoại
đạo.
2) Cộng niệm
xứ, thành câu giải
thoát, đối phá thần
thông của ngoại
đạo.
3) Duyên niệm xứ,
thành vô ngại giải
thoát, đối phá Vệ-đà của
Bà-la-môn.
Lại có ba hạng
người không
đồng nhau:
1) Thanh văn, y vào
Tứ
đế quán, Khổ
đế là cửa
đầu tiên, tu bốn
niệm xứ
này, đoạn
Kiến, Tư
hoặc. Chứng
bốn
đạo quả.
2)
Duyên giác, Ðộc
giác, y vào 12 nhân duyên quán Tập
đế làm cửa
đầu, tu bốn
niệm xứ
này, trí tuệ sắc
bén, phá tan tập
khí, chứng quả
Bích-chi Phật.
3) Bồ-tát,
phát Tứ hoằng thệ
nguyện, quán Ðạo
đế làm môn
đầu, y vào Lục
độ, tu Tứ
niệm xứ
này, trải qua ba
đại A-tăng-kỳ
kiếp, hàng phục
phiền não,
đồng thời
làm việc lợi
sanh, cơ duyên
đầy
đủ, trải
qua 34 tâm, đoạn
trừ kiết
sử,
đoạn hết
chánh khí, tập khí,
thành đạo Vô thượng. Ta nên biết
rằng pháp quán Tứ
niệm xứ
là con đường chung
cho cả Ba thừa, cũng
vừa phân biệt
rõ tà và chánh. Nếu
hành giả
đắc Tứ
niệm xứ
thì tất cả
pháp tu đều chánh. Nếu
hành giả không
đắc Tứ niệm
xứ thì tất
cả các pháp tu
đều là tà. Người
tu hành đời nay,
không biết rõ ý
này, dù tu thiện
đến bao nhiêu
đi nữa
cũng chỉ
được nhơn
thiên, tự siêng năng
khó nhọc, mà chẳng
được phần
nào của Phật
pháp cả. Ðau xót như
vậy làm sao không
nói! Lại nữa,
chúng ta nên biết rằng
ý chính của ba tạng
Thánh giáo là chán ghét sanh tử,
ưa chuộng
Niết-bàn.
Thứ
nhất: Phải rõ nhân duyên chính và chi pháp nhân
duyên, tức là trong
Tứ
đế, vô minh, hành,
ái, thủ, hữu
thuộc về
Tập
đế. Thức,
danh sắc, lục
nhập, xúc, thọ,
sanh, lão tử là Khổ
đế. Biết
khổ
đoạn
tuyệt tập
là Ðạo
đế. Không còn tập
thì không có khổ là
Diệt
đế. Biết
rõ đây là vô minh,
lão tử thì phá
được chủ
thuyết tà nhân
duyên, phá được chủ thuyết
nói rằng các pháp
không do nhân duyên sanh, các chủ
thuyết
điên
đảo của
người ngoài. Không
còn tin theo những
tư tưởng
tà ngụy, hẹp
hòi, mà tin sâu và hiểu
rõ pháp chánh nhân duyên.
Thứ hai: Cần
phải phát tâm chơn
chánh, cảnh giác ngọn
lửa vô thường
thiêu đốt thế
gian. Nhất tâm tìm
cách để ra khỏi, không biếng
nhác trong sát-na nào cả,
tu tập thiền
tuệ, như
chữa lửa
cháy đầu.
Thứ ba: Cần
phải khéo tu
định tuệ,
vì nó là con đường
xuất thế. Loạn
tâm trong Dục giới
như
đèn trước
gió, chiếu soi các
vật không rõ ràng.
Nếu ta có
định không tuệ
như trong tối
không thể thấy.
Thế nên cần
phải tu cả
hai pháp định và tuệ.
Thứ tư:
Cần phải
biết phá pháp; quán
sát khắp các nhân
duyên sanh diệt
để phá tất
cả các pháp ái kiến,
hý luận.
Thứ năm:
Cần phải biết
Thông và Tắc. Biết
tất cả
các pháp ái kiến
đều có cái lý của
Ðạo
đế và Diệt
đế gọi
là Thông; đều có Khổ,
Tập gọi
là Tắc.
Thứ sáu: Cần
phải khéo tu Ðạo
phẩm, tu theo Tứ
niệm xứ,
hoặc Biệt
hoặc Tổng,
cho đến ba Giải
thoát môn.
Thứ bảy:
Cần phải khéo tu các trợ
đạo, tức
Ngũ
đình tâm quán,
côïng niệm, duyên
niệm, sáu pháp thiền
thẩm quán, tức
là tám loại niệm
(niệm Phật,
niệm Pháp, niệm
Tăng, niệm
Giới, niệm Xả,
niệm Thiền,
niệm Hơi
thở, niệm
Sự chết).
Cửu tưởng
(sình, hư, huyết,
mủ, máu,
ứ, trùng
ăn, tan rã, xương
trắng,
đốt cháy). Mười
tưởng (vô thường, khổ,
vô ngã, thực, bất
tịnh, tất
cả thế
gian không thể
ưa thích, tưởng sự
chết, tưởng
bất tịnh,
đoạn tưởng
lìa tưởng). Tám bối
xả:
1)
Trong có tướng sắc,
bên ngoài quán sắc.
2)
Trong không tướng sắc,
ngoài quán sắc.
3) Xả
bỏ tịnh thân tác chứng.
4) Xả
bỏ hư không.
5) Xả
bỏ thức xứ.
6) Xả
bỏ chỗ không dùng.
7) Xả
bỏ Phi hữu
tưởng Phi vô tưởng.
8) Xả
bỏ Diệt thọ
tưởng.
Tám thắng xứ:
1)
Trong có sắc tướng,
ngoài quán sát sắc,
hoặc tốt,
hoặc xấu,
đó gọi
là thắng tri, thắng kiến.
2)
Trong có tướng sắc ngoài quán nhiều
sắc.
3)
Trong không tướng sắc, ngoài quán có sắc.
4)
Trong không có tướng
sắc, ngoài có nhiều
sắc.
5) Chỗ
xanh hơn.
6) Chỗ
vàng hơn.
7) Chỗ
đỏ hơn.
8) Chỗ
trắng hơn.
Mười nhất
thiết xứ...
(Xanh, vàng, đỏ, trắng,
đất, nước,
lửa, gió, không, thức).
Thứ
tám: Cần phải biết
thứ vị, không sanh tăng
thượng mạn,
thành vị Tăng
biết sỉ
nhục, biết
xấu hổ,
chiếu sáng cả
trong ngoài, khéo biết
tà chánh, đâu là Phật pháp,
đâu chẳng
phải là Phật pháp, phá tà ngoại
đạo.
Thứ
chín: Phải an nhiên
và nhẫn chịu trước
hai loại giặc
mạnh và yếu.
Bên ngoài, thì quyến
thuộc là giặc
yếu mềm; ác pháp gọi
là uế, xưng
là mạnh bạo,
nếu không nhẫn
chịu thì sẽ
bị chúng làm hại.
Bên trong phải nhẫn chịu
tất cả,
để chứng
đắc các thiền, nếu
chấp trước
thì sanh lòng mềm yếu,
tất bị giặc
yếu mềm làm hại
ngay; bị hoàn cảnh
xung quanh bức bách
chính là giặc mạnh
bạo vậy.
Thứ
mười: Cần phải
từ bỏ các pháp ái. Nếu
phát hiện ra bên
ngoài, hay ẩn dấu
bên trong, tất cả
các thiện pháp thuận
với
đạo, nhưng
tâm không ái trước,
thì đó mới
là ý chính yếu.
2) Thuyết minh Tứ
niệm xứ
theo Thông giáo
Tánh niệm
xứ, Cộng
niệm xứ,
Duyên niệm xứ
như
đã
đề cập
ở trước,
chỉ thấy
lý sanh diệt, phát
ra chơn,
đoạn
kiết sử
là bốn cách thô thiển
có vẻ khô khan; hay thuyeát minh về vô sanh Tứ
Thánh đế tức
sự mà chơn,
quán thô tế như
nhau, đều như
huyễn hóa. Ðó là bốn
cách xảo diệu
tinh anh. Theo đây
thì vô sanh quán tuệ
là niệm. Cảnh
giới Vô thượng
để quán là xứ.
Quán nội thân, ngoại
thân, nội ngoại
thân, tất cả
sắc pháp hoặc
thô hoặc tế
đều là huyễn
hóa, gọi là thân niệm
xứ. Thọ,
tâm, pháp đều là
tánh khổ. Tánh khổ vốn
không, chúng như
huyễn hóa, gọi là thọ,
tâm, pháp niệm xứ.
Chúng
có 3 loại: Tánh tứ
niệm xứ,
Cộng tứ
niệm xứ,
Duyên tứ niệm
xứ, không giống
nhau như
đã thuyết
minh. Ba hạng người
đều lấy
bốn tánh
để suy nghiệm,
phá thường, lạc, ngã, tịnh,
điên
đảo
để chứng
ngộ Vô sanh. Hàng
Nhị thừa
đoạn tuyệt
như tro tàn, cùng với
Tứ niệm
xứ theo Tam tạng
thì đồng, chỉ
có thiên lệch về
chứng chơn.
Duy có cửa vào khác
nhau ở chỗ
tổng thể
hay chi tiết, tinh
tế hay thô phù mà thôi. Bồ-tát
đã thấy
lý không, cũng thấy lý bất
không, nên lần lượt
bước vào Biệt,
Viên.
3) Thuyết minh Tứ
niệm xứ
theo Biệt giáo
Hành giả
tín ngưỡng trung
đạo Phật
tánh, lý này khó hiểu
rõ, nên phải giả
lập phương
tiện. Hành giả y vào Trí tuệ
sanh diệt
để tu Tứ niệm
xứ, thành bậc
ngoại phàm Thập
tín. Hành giả y vào
Trí tuệ vô sanh, tu
Tứ niệm
xứ, thành bậc
nội phàm Thập
trụ. Hành giả y vào Vô lượng
tuệ, tu Tứ
niệm xứ,
thành bậc Thập hạnh.
Hành giả y vào tương
tợ Vô tác tuệ,
tu Tứ niệm
xứ, thành bậc
Thập Hồi
hướng. Nếu
vị
ấy bước vào Sơ
địa phá từng
phần vô minh, chứng
từng phần
Trung đạo, mới
chính là Vô tác thật
tuệ, tu chứng Tứ
niệm xứ.
Nay
đứng về
mặt “giáo” mà nói
thì vô lượng quán
tuệ là niệm,
cảnh giới
vô lượng
được quán là xứ.
Trong từng vị
đều có; Tánh niệm
xứ, Cộng
niệm xứ,
Duyên niệm xứ.
Nếu
đối trị
riêng biệt thì: Bậc
Thập trụ
tu tánh niệm xứ
quán, bậc Thập
hạnh tu cộng
niệm xứ
quán, bậc Thập
Hồi hướng
tu duyên niệm xứ
quaùn. Ðến Sơ
địa ba phần
niệm xứ
quán trên đều thành
tựu riêng: Tánh niệm
xứ hiển
bày là Pháp thân. Côïng niệm
xứ hiển
bày là đại Bát-nhã.
Duyên niệm xứ
hiển bày là Giải
thoát.
Sự
điều
phục
được chúng sanh gọi
là giải thoát. Ðây
cũng là lấy tánh niệm
xứ là Bát-nhã; Cộng
niệm xứ
là Giải thoát;
Duyên niệm xứ
là Pháp thân; không còn qua lại
lên xuống gọi
là đại Niết-bàn.
Ðược sắc
giải thoát, thọ,
tưởng, hành, thức
giải thoát. Ðầy
đủ bốn
đức thường,
lạc, ngã, tịnh, phá hết
bốn
đảo của
phàm phu ngoại
đạo và bốn
đảo của
Nhị thừa.
4) Thuyết minh Tứ
niệm xứ
theo Viên giáo
Số
4 là số không thể nghĩ
bàn, một tức
vô lượng, vô lượng
tức một. Nhất
nhất
đều là pháp giới
ba đế, thu nhiếp
đầy
đủ tất cả
các pháp, ngoài pháp giới
không có pháp nào cả.
Ngay tại một
niệm xứ
cùng ba niệm xứ
kia, không hai không khác. Tất
cả các pháp
đều hướng về
Tứ niệm xứ,
sự hướng về
đúng như
vậy. Niệm
là quán tuệ, xứ
là cảnh giới.
Trí năng quán chiếu
mà thường tịch
nên gọi là niệm.
Cảnh giới
sở quán tịch
mà thường chiếu nên gọi
là xứ. Cảnh
tịch, trí cũng
tịch, trí chiếu
cảnh cũng
chiếu. Một tướng
vô tướng, vô tướng
một tướng,
tức là thật
tướng. Thật
tướng chính là Nhất
đế, cũng
gọi là hư không Phật
tánh, cũng gọi
là Ðại bát Niết-bàn.
Cảnh trí như
vậy, không hai
không khác, cảnh như
như tức
trí như như.
Trí tức là cảnh.
Thuyết trí và trí xứ
đều gọi
là Bát-nhã, nói ngược
lại, thuyết
xứ và xứ
trí đều là sở
đế. Cảnh chẳng
phải cảnh
mà nói cảnh, trí chẳng phải
trí mà gọi là trí,
cũng gọi là tâm tịch
tam-muội, cũng
gọi là sắc
tịch tam-muội,
cũng gọi
là minh tâm tam-muội,
cũng gọi là minh sắc
tam-muội. Sắc
và Tâm không hai, không hai mà hai, vì hóa
độ chúng sanh, nên
giả nói có hai vậy.
Quán tuệ này chỉ
quán tâm chúng sanh trong một
niệm vô minh, tâm
này là pháp tánh, là nhân duyên phát sanh, tức
là không, tức là giả,
tức là trung, một
tâm mà là ba tâm, ba tâm mà là một
tâm. Quán này cũng
gọi là Nhất thiết
chủng trí. Cảnh
này cũng gọi
là Nhất viên
đế. Một
đế
đủ ba
đế, ba
đế trong một
đế. Chư
Phật vì một
đại sự nhân duyên này nên xuất
hiện
ở
đời. Quán một
niệm này trong tâm
đầy
đủ sắc
trong mười giới gọi
là thân, thọ trong
mười giới gọi
là thọ. Thức
trong mười giới
gọi là tâm, tưởng,
hành trong mười giới gọi
laø pháp. Sắc trong
pháp tánh: Một sắc
bao hàm tất cả
thọ, tất
cả thọ
trong một thọ. Một
tâm bao gồm tất
cả tâm, tất
cả tâm trong một
tâm. Một pháp tưởng
hành bao gồm tất
cả pháp, tất
cả pháp trong một
pháp. Dùng tánh trí tuệ,
quán sắc tánh của
mười giới
gọi là quán. Thấu
triệt trong sắc, không cấu
không tịnh gọi
là xứ. Dùng tánh trí tuệ
quán thọ trong mười
giới gọi
là quán. Thấu triệt
trong thọ không phải
khổ, không phải
lạc gọi
là xứ. Dùng tánh
trí tuệ, quán tánh
của tâm trong mười
giới gọi
là quán. Thấu triệt
tánh của tâm chẳng
phải tánh thường
chẳng phải
tánh vô thường gọi
là xứ. Dùng tánh trí tuệ,
quán tánh pháp trong mười
giới gọi
là quán. Thấu triệt
tánh các pháp không phải
ngã, không phải vô
ngã, gọi là xứ. Hợp
cả chủ thể
và đối tượng
thì gọi là quán tánh niệm
xứ. Nếu quán sắc
trong mười giới,
chẳng phải
nhơ, chẳng
phải sạch
song song chiếu vào
Nhị
đế, thì nhơ
và sạch tánh chúng
không hai. Tánh không hai
đó tức là thật tánh. Cho
đến quán pháp trong
mười giới,
chẳng phải
ngã chẳng phải
vô ngã, song song chiếu
vào Nhị
đế, ngã cùng vô ngã
tánh nó không hai. Tánh không hai là thật tánh,
đó gọi
là Cộng niệm xứ
quán. Quán thân, thọ,
tâm, pháp vô duyên từ
bi, vô duyên, vô niệm
này, như
đá nam châm hút sắt,
vắng lặng mà thường
chiếu. Tuy vô niệm
bất
động nhưng
mà vận dụng
đại từ che khắp
cả mười giới
chúng sanh, bằng
vào từ bi thệ nguyện
rộng lớn
không cùng tận,
đó gọi
là Duyên niệm xứ
quán. Trong một tâm
ba loại niệm xứ
đầy
đủ. Quán tánh trí tuệ
của thân, thọ,
tâm, pháp, gọi là
Tánh niệm xứ.
Ðịnh tuệ
quân bình, có khả năng
hỗ trợ
đại
đạo, gọi
là Cộng niệm
xứ. Có
được từ bi là Duyên niệm
xứ. Một tánh niệm
xứ, tất cả
tánh đều niệm
xứ, cộng
niệm xứ,
duyên niệm xứ
cũng vậy.
Ðây là nghĩa lý của Viên giáo. Tu Tứ
niệm xứ
theo ba loại Thông,
Biệt, Viên
đều có mười
ý chính tên giống
nhau, ý nghĩa khác
nhau. Cần phải nghiên cứu
thêm.
Chánh
niệm xứ
không tán loạn... Tạng giáo như
đã lược nói
ở trước.
Thông giáo thì lấy
vô sanh quán tuệ
làm không tán loạn.
Thấu triệt
tham ái như hư
không, không thể nắm
bắt
được,
để
điều phục.
Biệt giáo lấy
thứ lớp
của tam quán làm
không tán loạn,
để
điều
phục vô lượng
tham ái của
đồng cư thế
gian, phương tiện
thế gian và quả
báo thế gian. Viên
giáo lấy vô túc
quán tuệ làm không
tán loạn. Thấu triệt
tính chất của
tham ưu, tức
là thật tánh. Ban
đầu từ danh tự
điều phục,
tiến
đến cứu
cánh điều
phục,
đó mới
là thật nghĩa của
Tứ niệm xứ.
Ðức
Như Lai có di huấn,
khiến cho các Tỳ-kheo
y vào niệm xứ
để hành
đạo chính là
ở
điểm
này vậy. Thế
nên trong đây, chỉ
nói Thân niệm xứ
tinh tấn không biếng
nhác. Thọ, Tâm,
Pháp cũng như vậy,
không nói thẳng là
bất tịnh,
khổ... Chính vì người
tu hành trong bốn
giáo đều cùng chấp
nhận. Nếu
hiểu
được ý này thì
đối với
năm triền
cái, Tứ thiền, Ngũ
thông, Tam minh... tất
cả pháp môn
đều có thể
giải thích bốn
cách. Hãy suy nghĩ!
Hãy suy nghĩ!
5) Bỏ hẳn
5 triền cái.
Chia làm ba:
- Thuyết minh chỗ
trú xứ.
- Thuyết minh các
phương tiện
trừ 5 triền
cái.
- Thuyết minh trừ
hẳn 5 triền cái.
1) Thuyết minh chỗ
trú xứ:
Vị
ấy
ưa thích
ở chỗ
A-lan-nhã nhàn tịnh,
dưới gốc
cây, hang núi đá,
bãi đất trống, cạnh
đống phân, giữa
nghĩa
địa, bên bờ
nước...
(A-lan-nhã dịch là
trống vắng,
không ồn ào. Tất
cả các
địa
điểm
này, đều cách xa sự
tụ tập
ồn ào nên có thể
tấn tu.)
2) Thuyết minh các phương
tiện trừ
5 triền cái:
Vị
ấy sau khi
đi khất
thực về,
sau khi ăn xong, rửa
chân, xếp
đặt y bát, ngồi
kiết già, lưng
thẳng, chánh ý,
đặt niệm
ở trước
mặt.
(Khất
thực nuôi thân thì
không còn mong cầu.
Ngồi kiết
già thì tâm dễ nhập
định. Lưng
thẳng thì thân
không bệnh hoạn,
chánh ý thì ý không tà đảo.
Ðặt niệm
trước mặt
thì không sanh hôn trầm
tán loạn.)
3) Thuyết minh trừ
hẳn 5 triền
cái:
Phần này chia làm
ba:
- Nói rõ về việc
chê trách, trừ bỏ
5 triền cái.
- Ví dụ làm sáng tỏ
việc trừ
5 triền cái.
- Thuyết minh
đủ về
các pháp đoạn
trừ hẳn
5 triền cái.
a) Thuyết minh chê trách, trừ bỏ
5 triền cái:
Vị
ấy
đoạn
trừ xan tham, tâm
không câu hữu với nó. Vị
ấy
đoạn
trừ sân giận,
không có oán ghét, tâm trụ
nơi không sân,
thanh tịnh không giận,
thường có lòng từ
mẫn. Vị
ấy từ
bỏ thùy miên, không câu hữu với
nó, buộc tư
tưởng nơi
ánh sáng, niệm
không tán loạn. Vị
ấy trừ
bỏ trạo
hối, không câu hữu
với nó, tâm trầm
lặng, lòng sạch không hối
tiếc. Vị
ấy trừ
bỏ nghi ngờ,
đối với thiện
pháp xác định rõ hướng
đi.
(Xan
tham là đối với
cảnh ngũ
dục ái luyến
không bỏ. Sân giận
là đối với
cảnh nghịch
lại ý mình sanh ra
tức tối bực
bội. Thùy miên là
trạng thái tâm mờ
mịt không phân biệt
rõ, các căn dã dượi,
không chủ
động hoạt
động. Trạo
hối là ba nghiệp
tán động,
ưu sầu buồn
bực chuyện
đã qua. Nghi là
đối với
Sư trưởng, giáo pháp, bản thân, tâm chưa
tin tưởng, còn do dự.
Năm pháp này ngăn
che định tuệ
không cho phát mở
nên gọi là cái. Nếu
nói riêng từng phần,
thì tham là che trí tuệ
và lợi làm trí tuệ
bị tăm
tối. Sân là
định cái, chính là
cây gai của thiền
định. Hôn trầm,
là tuệ cái, tánh nó
không chủ
động. Trạo
hối là
định cái, không thể
duyên vào một cảnh.
Nghi là đủ cả
định tuệ
cái, không có chánh tín. Tóm lại,
tất cả triền
cái đều chướng
ngại cho
định tuệ.)
b)
Ví dụ làm sáng tỏ
việc trừ
năm triền
cái:
Ví như
có người nô lệ,
được người
chủ cho
được tự
do, an ổn thoát khỏi
cảnh nô lệ.
Người
ấy tự
nghĩ: Ta trước
đây là nô lệ,
nay an ổn thoát khỏi cảnh
nô lệ,
đã
được tự
tại, không còn lệ
thuộc người
khác. Người này nhờ vậy
được hoan hỷ,
tâm được an lạc.
Ví như có người
mượn tiền
của người
khác kinh doanh các nghề
nghiệp. Sau
đó, họ
được phát
đạt về
lợi tức,
trả
được nợ
cho người còn có tiền
dư,
đủ
để nuôi dưỡng
vợ con. Người
ấy tự
nghĩ: Ta trước
đây vay mượn
tiền
để kinh doanh, nay
được phát
đạt có lợi tức,
đã trả nợ
cho người, lại
có tiền dư,
đủ
để nuôi vợ
con. Nay ta được
thoải mái, không
còn thua ai nữa. Người này nhờ
đó
được vui vẻ,
tâm được an lạc.
Ví như
có người bị bệnh
lâu ngày, sau khi hết
bệnh,
ăn uống
trở lại bình thường,
thân thể khỏe
mạnh. Người
ấy tự
suy nghĩ: Ta trước
đây có bệnh,
nay được hết bệnh,
ăn uống bình thường,
thân thể khỏe
mạnh. Nhờ
đó, người
này được vui vẻ,
an lạc.
Ví như
có người bị giam lâu ngày trong ngục, người
ấy
được bình an ra khỏi
ngục, suy nghĩ:
Ta trước
đây bị
nhốt trong ngục,
nay ta được ra khỏi,
không còn gì sợ
hãi. Người này nhờ
đó
được hoan hỷ,
tâm được an lạc.
Ví như
có người mang nhiều
tiền của,
đi qua vùng hoang vắng,
không gặp trộm cướp,
được bình an
đi qua. Người
ấy tự
nghĩ: Ta trước
đây
đã mang nhiều
bảo vật,
đi qua vùng hoang vắng,
nay không còn sợ
hãi. Nhờ
đó, người
ấy
được hoan hỷ,
tâm được an lạc.
(Tham dục như
nô lệ, bị người
sai khiến. Sân hận
như mắc nợ,
quả báo ác phải
trả không ngừng.
Hôn trầm, thùy miên
như bệnh trầm
trọng lâu ngày
không dậy
được. Trạo
hối như
lao ngục, từ
trạo hối
sanh ra hối hận,
từ hối hận
tạo thành triền
cái, không thoát ra được.
Nghi như vùng hoang
vắng, tâm nhiều
do dự.)
c)
Thuyết minh
đủ về
các pháp đoạn trừ
những triền
cái:
Tỳ-kheo còn năm
triền cái thì không
thể tu tập thiền
định. Nếu
không có sức
đắc thiền
định thì không thể
đoạn
trừ triền
cái.
Tỳ-kheo còn năm
triền cái cũng như
vậy. Như
bị nô lệ,
như bị
mắc nợ, như
bệnh lâu ngày, như
bị giam trong ngục,
như
đi qua vùng hoang vắng.
Vị
ấy tự
thấy mình chưa
đoạn trừ
được các triền
cái, làm cho tâm, bị
nhiễm ô, trí tuệ
không sáng suốt. Vị
ấy liền
từ bỏ
dục, bỏ
pháp ác bất thiện,
với
đủ tầm,
tứ
được hỷ
lạc, chứng
và trú Sơ thiền. Toàn thân vị
ấy
được thấm
nhuần với
hỷ lạc,
sung mãn tràn đầy với hỷ
lạc, không chỗ
nào trên người
không sung mãn. Như
người khác dùng bột
tắm nhỏ mịn
cho vào thau để tắm,
lấy nước
nhồi bột
ấy, làm cho cục
bột
ấy
được tẩm
ướt với
nước, thấm
từ trong ra ngoài với
nước, nhưng
bột không chảy thành giọt.
Tỳ-kheo chứng
Sơ thiền
cũng như
vậy, hỷ
lạc toàn thân, không chỗ
nào trên thân không có hỷ
lạc. Ðó là trạng
thái đầu tiên ngay trên thân này chứng
được lạc.
Tại sao vậy? Do không phóng dật,
tinh tấn không biếng
nhác, chánh niệm
không tán loạn.
Thân tâm vị
ấy an trú trong an
lạc trầm
lặng.
Vị
ấy xả
tầm tứ, trong tâm sanh tín, trú tâm một
chỗ, không còn tầm
tứ, tâm
định hỷ lạc,
nhập và trú Nhị
thiền. Vị
ấy dùng tâm
định hỷ lạc,
thấm
ướt toàn thân sung mãn tràn
đầy với
hỷ lạc, không chỗ
nào không sung mãn. Như
dòng nước trên
đỉnh núi, từ từ
trên núi chảy xuống,
không phải từ
Ðông, Tây, Nam, Bắc
hay từ trên trời chảy
xuống. Ngay trong
ao, nước trong mát,
tự chảy
ra, tràn đầy cả
ao, không chỗ nào
không tràn đầy. Tỳ-kheo chứng
và trú Nhị thiền
cũng như
vậy, tâm do hỷ
lạc sanh, sung mãn
tràn đầy với hỷ
lạc. Ðây là trạng
thái thứ hai tự
thân chứng
đắc hỷ lạc.
Vị
ấy xả
hỷ tâm, trú niệm
nơi lạc
thân cảm thọ khoái lạc
mà các bậc Thánh gọi
là “hộ niệm
khoái lạc”. Vị
ấy chứng
và trú Thiền thứ ba, không có hỷ
thấm nhuần
toàn thân an lạc.
Không chỗ nào trên
thân không được thấm nhuần
sự an lạc
ấy. Như
hoa sen trắng, sen
hồng, sen xanh, tuy sanh ra từ
đất trong ao nước,
nhưng chưa ra khỏi
nước, rễ
cọng hoa lá
đều thấm
nhuần nước.
Toàn cây hoa được nước
thấm nhuần,
Tỳ-kheo trú nơi
Thiền thứ
ba cũng như
vậy, ly hỷ
trú lạc, thấm nhuần
toàn thân, không chỗ
nào không thấm nhuần
diệu lạc,
không có hỷ
ấy. Ðó là Tỳ-kheo chứng
Thiền thứ
ba, tự thân chứng
được khoái lạc
ấy, thành tựu
và an trú trong chỗ
tự tại.
Vị
ấy xả
khổ lạc, diệt
ưu hỷ,
đã cảm
thọ trước.
Không khổ không lạc,
giữ niệm
thanh tịnh, chứng
và trú Thiền thứ tư.
Vị
ấy thân tâm thanh tịnh,
sung mãn tràn đầy,
không chỗ nào trên
thân tâm không được
sung mãn với thanh
tịnh
ấy.
Như người
nam nữ nào
đó, sau khi tắm
rửa sạch sẽ
che kín khắp thân
thể bằng
một tấm y mới,
trắng tinh sạch
sẽ, không chỗ
nào trên thân không được
che kín bởi tấm
y. Tỳ-kheo trú Thiền
thứ tư cũng
vậy. Tâm vị
ấy thanh tịnh
sung mãn khắp thân,
không chỗ nào không
có sung mãn.
Vị
ấy chứng và trú Thiền
thứ tư, tâm không lay
động. Không mỏi
mệt, không tương
ứng với
khát ái, sân giận,
an trú nơi trạng thái bất
động.
Như trong một
phòng kín, trong ngoài đều
được trét kín với
đất bùn, khép kín cửa
không cho tiếng
động lọt vào, không cho gió bụi
lọt vào. Trong
phòng thắp một
ngọn
đèn, không cho người,
phi nhơn, gió,
chim, quạt làm cho
lay động. Ngọn
đèn
đứng yên, hướng
thẳng lên bên trên, không có nghiêng ngã,
đứng yên mà chiếu
sáng. Tỳ-kheo trú Thiền
thứ tư cũng
như vậy. Không có lay
động, tâm không mỏi
mệt không tương
ứng với
khát ái và sân giận,
đã trú
ở
địa vị bất
động.
Ðây là Thiền thứ
tư, ngay thân này
được an trú trong
an lạc. Tại
sao? Do vị
ấy không phóng dật,
tinh tấn không lười biếng,
chánh niệm không
tán loạn,
ưa thích chỗ
tịch lặng.
(Trước
đây tuy nói vị
ấy
đoạn
trừ xan tham nhưng
thật ra chưa
đoạn
trừ vĩnh
viễn các triền
cái, mà chỉ chê
trách chúng và hướng
tâm đến thiện
pháp, đồng thời
dùng sức giác quán
để xả bỏ
ái dục, pháp bất
thiện
để nhập
vào Sơ thiền,
cho đến tuần
tự vào Tứ
thiền mới
được chứng
đắc sự
hoan hỷ an lạc,
tâm không trạo cử vọng
động, chính là
đoạn trừ
hết hối
triền cái. Không
còn giải
đãi là
đoạn
trừ hết miên triền
cái. Không tương
ưng với
khát ái sân nhuế là
đoạn trừ
hết tham triền
cái và sân nhuế
cái. Trú ở
địa vị
bất
động là trừ
hết nghi triền
cái. Phòng kín trong ngoài
đều trét hết,
dụ cho không trạo
hối. Ðóng cửa
không cho âm thanh lọt
vào, dụ cho không
giải
đãi. Không gió bụi,
dụ cho không tham
sân. Ðèn cháy sáng, dụ
cho không nghi ngờ,
ánh sáng cháy thẳng
đứng, không cong quẹo,
chiếu sáng, dụ
cho định tuệ
quân bình, có khả năng phát ra ba minh và lục
thông. Lại nữa, không có người,
dụ cho không tham,
không có phi nhơn,
dụ cho không sân,
không có gió, dụ
cho không trạo cử, không có chim, dụ cho không thùy miên. Không cong quẹo,
dụ cho không si.
Cách tu bốn pháp
thiền này, chép
đầy
đủ trong kinh luận,
và các pháp môn theo thứ
tự của
thiền Ba-la-mật.
Người có chí học
cần phải
tự nghiên cứu
lấy. Ðoạn
chánh văn này tức
nhân giới sanh ra
định, cũng
gọi là tăng
thượng tâm học.)
V. THUYẾT
MINH THẮNG
DIỆU
CỦA
VÔ LẬU
GIỚI
Vô lậu
giới cũng
gọi là Ðạo
cộng giới.
Ðạo cộng
là chung cả việc
lấy niệm
xứ làm phương tiện
đạo. Ðây chỉ
lấy sự
phát khởi chơn Vô lậu.
Văn
chia làm hai:
- Thứ
nhất là Ngũ thông.
- Thứ
hai là Tam minh.
Chỗ
khác gọi
là Tam minh, Lục
thông. Côïng lại chỉ
có sáu pháp. Bởi vì
Túc mạng, Thiên nhãn, Lậu
tận có công
đức thù thắng nên gọi
là minh. Nay chia riêng Thần
túc ra làm ba, gồm
Thiên nhĩ, Tha tâm,
cộng thành năm thông. Xếp
riêng Túc mạng,
Thiên nhãn, Lậu tận làm Tam minh. Tuy phân ra và hợp
lại không
đồng,
đều là sáu thần
thông cả. Sáu loại
này đều là thần
thông. Kinh Anh lạc
chép: Thần là thiên
tánh, thông là huệ
tánh, trí tuệ tự
nhiên, chiếu soi tất
cả không có gì ngăn
ngại.
1) Thuyết minh về
Ngũ thông:
Vị
ấy thành tựu
được
định, tâm thanh tịnh,
không có cấu uế,
được
điều
phục một
cách nhu nhuyến, an
trú chỗ bất
động. Vị
ấy tự
thân mình - nếu muốn, vị
ấy có thể
hóa ra một thân khác,
đầy
đủ chi tiết,
các căn không thiếu
sót, vị
ấy quán sát lại
thân này. Thân sắc
chất này do tứ
đại hợp thành, do sắc
chất hóa hiện
nên có, sắc thân tứ
đại này khác với
thân tứ
đại
được biến
hóa ra kia. Từ
trong sắc thân tứ
đại này khởi
ra ý muốn hóa ra thân kia với
đầy
đủ các chi tiết
của thân căn.
Như có người
rút con dao trong bao đựng
dao ra. Người
ấy tự
nghĩ: Ðây là bao,
đây là dao, dao
khác, bao khác. Từ
trong bao này dao được
rút ra.
Như có người
nhìn rắn từ
trong ống bò ra, người
ấy tự
nghĩ: Ðây là
ống,
đây là rắn,
ống khác, rắn khác. Từ
trong ống này rắn
bò ra.
Như
có người lấy áo từ
trong rương ra, người
ấy tự
suy nghĩ: Ðây là rương,
đây là áo, rương
khác áo khác. Áo đây
lấy từ
trong rương ra.
Tỳ-kheo
cũng như vậy,
đây là thắng
pháp, đây là thắng
pháp đầu tiên của
vị Tỳ-kheo.
Tại sao vậy? Do không phóng dật,
tinh tấn không biếng
nhác, chánh niệm
không tán loạn,
ưa thích chỗ
tịch lặng.
Vị
ấy với
tâm định tĩnh,
thanh tịnh tiến
đến an trú vào
địa vị
bất
động. Vị
này từ sắc
thân tứ
đại của mình, phát khởi
ý muốn hóa ra một
thân khác với
đầy
đủ các căn
và tất cả
chi tiết, vị
này suy nghĩ: Sắc
thân ta đây, do tứ
đại hợp
thành, thân kia do biến
hóa mà có. Sắc thân
tứ
đại của
ta, khác với sắc
thân tứ
đại do ta biến
hóa. Tâm này hoạt
động tại
thân này, y cứ vào
thân này, bị trói
buộc vào thân này.
Ví như
viên ngọc kim cương lưu
ly khéo gọt giũa
làm cho sáng mắt,
trong suốt không có
tì vết gì cả. Nếu
ta dùng sợi dây màu
vàng hay xanh, hay đỏ
xỏ qua nó. Người
có mắt sáng
để nó lên bàn tay
nhìn ngắm: Ðây là
viên ngọc,
đây là sợi chỉ,
viên ngọc khác, sợi
chỉ khác, viên ngọc
bị xâu bởi
sợi dây. Tỳ-kheo
cũng như vậy,
từ sắc thân tứ
đại này, sanh ra ý
tưởng, muốn hóa ra một
thân khác, đầy
đủ các căn với
tất cảû chi tiết;
Vị này tự
nghĩ: Thân này do tứ
đại hợp thành. Hóa thân kia từ thân này mà có; Sắc
thân tứ
đại này khác, sắc
thân tứ
đại do biến
hóa ra kia khác. Tâm này hoạt
động tại thân này, y cứ
vào thân này, bị
trói buộc vào thân
này. Ðây là thắng
pháp thứ hai vị
Tỳ-kheo chứng
được. Nhờ
vào đâu? Do không
phóng dật, tinh tấn không biếng
nhác, chánh niệm
không tán loạn,
ưa thích tịch lặng.
Vị
ấy với
tâm định tĩnh,
thanh tịnh tiến
đến an trú vào
địa vị
bất
động. Vị
ấy nhất
tâm tu tập thần thông trí chứng.
Vị
ấy có thể
làm nhiều cách biến
hóa, từ một
thân hiện ra vô số
thân, từ vô số
thân thu trở lại
còn một thân. Vị
ấy, tự nhiên có thể
bay ngang qua hư
không, xuyên qua đá,
xuyên qua vách. Không có gì ngăn
ngại cả,
như
đi trong hư
không. Vị
ấy,
đi trên hư
không như chim bay,
độn thổ và trồi
lên từ
đất, như
đang bơi
lội trong nước.
Vị
ấy có thể
đi qua
đám khói, lửa, lửa
cháy lớn. Tay vị
ấy có thể
rờ và chạm mặt
trời, mặt
trăng, và tự
thân có thể bay lên
cõi Phạm thiên.
Như
có người thợ gốm,
khéo nhồi
đất sét cho nhuyễn
theo ý muốn. Người
ấy muốn
làm việc gì, có thể
làm theo ý muốn, những vật
dụng có ích.
Như
người thợ mộc,
với tay nghề
giỏi, có thể
đẽo gọt các loại
gỗ theo ý muốn,
để thành những
vật có thể sử
dụng
được.
Như
người thợ ngà khéo léo, giũa
chạm ngà theo ý
mình, để thành các
đồ vật
bằng ngà có thể
sử dụng
được.
Như
người thợ kim hoàn, khéo làm những
vật dụng bằng
vàng theo ý thích, để
thành đồ hữu
dụng.
Tỳ-kheo
cũng như vậy,
với tâm
định tĩnh, thanh tịnh,
đạt
đến chỗ
bất
động, có thể
làm bất cứ
việc gì theo ý muốn,
cho đến có thể tự
thân bay đến cõi Phạm
thiên. Ðó là thắng
pháp thứ ba vị
Tỳ-kheo chứng
được.
Vị
ấy với
tâm định tĩnh,
thanh tịnh, cho
đến trú vào
địa vị
bất
động, nhất
tâm tu tập, chứng Thiên nhĩ
trí. Vị
ấy với
Thiên nhĩ thanh tịnh,
vượt xa hơn
lỗ tai người
thường, nghe
được cả
hai loại âm thanh của
người và phi nhơn.
Như trong thành
vách của thành phố thuộc
đất nước kia có tòa giảng
đường cao rộng
to lớn, có người
với lỗ tai thính
đang ngồi
trong ấy. Người
đó không cần
phải lắng
tai mà có thể nghe
tất cả
mọi âm thanh (trong
giảng
đường). Tỳ-kheo
cũng như vậy,
với
định tâm nên Thiên nhĩ
thanh tịnh, nghe
được cả tiếng
người, tiếng
phi nhơn và các loại
âm thanh. Ðây là thắng
pháp thứ tư mà vị
Tỳ-kheo chứng
được.
Vị
ấy với
tâm định tĩnh
thanh tịnh, tiến
đến
địa vị
bất
động. Vị
ấy nhất tâm tu tập,
chứng Tha tâm trí;
Vị
ấy biết
rõ tâm của các
chúng sanh, có dục,
không có dục, có cấu, không có cấu,
có si, không có si, tâm rộng
lớn, tâm nhỏ
hẹp, tâm
đại hành, tâm không
đại hành, tâm
định tĩnh, tâm loạn
động, tâm còn triền
phược, tâm giải
thoát, tâm tăng thượng,
tâm không tăng thượng. Bằng
vào tâm của mình, vị
ấy biết
rõ tất cả
các loại tâm kia của
chúng sanh.
Như
người trai hay gái
thích ngắm nhìn mặt mình, lấy
gương soi, thấy
rõ hết mặt.
Tỳ-kheo cũng
như vậy.
Với
định tâm thanh tịnh
nên biết tất
cả tâm niệm
của chúng sanh bên
ngoài. Ðây là thắng
pháp thứ năm.
(Ban
đầu khởi
tâm, hóa ra một
thân khác, rồi
đưa ra ba ví dụ
liên tiếp như
dao từ trong bao
rút ra... Những ví
dụ này nêu ra các sự
biến hóa
đều từ
tâm phát sanh. Sau đó
quán sát lại thân
được biến
hóa ra kia, từ biến hóa mà có. Tâm dụ như
sợi dây, thân dụ
như viên ngọc.
Thân tâm không thay đổi,
nhưng từ
thân này hóa ra một
thân khác, quan hệ
mật thiết
không rời nhau. Hai
sự biến hóa này là tiền
phương tiện
của thần
thông trí chứng.
Sau đó phô bày thần
thông trí chứng.
Trí chứng nghĩa
là: Thần thông chứng
được do chánh trí xuất thế,
không đồng với
quả báo của
chư thiên, không
đồng với
phàm phu ngoại
đạo
đạt
được thần
thông do tu hành trên cơ
sở kiến
và ái.
Ví dụ về
bốn loại
thợ khéo,
đều nêu lên vấn
đề tùy ý năng
thành. Gỗ cứng
hơn bùn, ngà cứng
hơn gỗ, vàng cứng
hơn ngà, nhưng
với kỹ thuật
tay nghề của
người thợ,
chúng ta đều biến
thành đồ vật sử
dụng
được. Huống
chi tâm pháp trùm cả
hư không. với
Thánh đạo vi diệu,
mà lại không thể
như ý tự
tại hay sao? Ðến
Thiên nhĩ trí, Tha
tâm trí, đều như
văn
đây có thể
hiểu
được.)
2) Thuyết minh về
Tam minh:
Vị
ấy với tâm
định tĩnh
thanh tịnh dẫn tâm
đến chỗ
bất
động, tu tập
tất cả
để chứng Túc mạng
trí, có thể nhớ
lại vô số
đời trước với
tất cả các sự
việc. Vị
ấy nhớ
lại một
đời, mười
đời, trăm
đời, ngàn
đời, vô số
trăm ngàn
đời. Vào cuối
cùng của kiếp
thiêu, quốc
độ kia
được khai sanh, ta
sanh ra ở nước
đó, tên như
vậy, thuộc giòng họ
như vậy, chủng
tộc như
vậy,
ăn uống như
vậy, tuổi
thọ như
vậy,
đời sống
như vậy, tuổi
thọ chấm
dứt như
vậy, chịu
khổ vui như
vậy. Ta từ
chỗ
ấy sau khi chết,
sanh đến chỗ kia, sanh tử
như vậy, lần
lượt ta sanh
đến chỗ này, hình sắc
tướng mạo
như thế
này, tất cả
vô số sự
việc như
vậy, vị
ấy
đều nhớ
rõ. Như có người từ
làng xóm của mình
đi
đến
đất nước khác. Tại
nước kia, người
ấy hoặc
đi, hoặc
đứng, hoặc
nói năng, hoặc
im lặng. Lần
lượt như
vậy, người
ấy trở về
nước cũ,
không cần vận
dụng trí nhớ
nhiều, vị
ấy có thể
nhớ lại
tất cả
những việc
mình đã làm
ở các nước
đã
đi qua. Ta
đi từ
nước này
đến nước
kia. Tại nước
kia, ta đi,
đứng, nói năng, im lặng,
như vậy. Tại
nước kia
đến nước khác, ta
đi,
đứng, nói năng,
im lặng như
vậy. Lần
lượt như
vậy, ta trở
về nước mình.
Tỳ-kheo
cũng như vậy,
với tâm
định tĩnh thanh tịnh,
dẫn tâm
đến chỗ bất
động, tâm chứng
Túc mạng trí. Vị
ấy có thể
nhớ tất
cả các sự
việc của
chính mình trong vô số
trăm ngàn kiếp
trước. Ðây là Tỳ-kheo
chứng
đắc minh thứ
nhất,
đoạn
trừ vô minh, minh sanh, tối
tăm
đã hết,
pháp sáng suốt còn
lại. Ðây là Tỳ-kheo
thành tựu Túc mạng trí chứng
minh. Nhờ
đâu? Do vị
ấy không phóng
dâït, tinh tấn
không lười nhác,
chánh tâm không tán loạn,
ưa thích chỗ tịch
lặng.
(Túc
mạng trí,
được gọi
là minh thứ nhất, biết
rõ về quá khứ.
Do trừ diệt
được vô minh, minh
được phát sanh. Vô
minh là phiền não
Kiến hoặc
và Tư hoặc ngăn
che sự tịch
lặng. Nay
đoạn diệt
vô minh, thì minh tự
sanh. Nghĩa là ta
chỉ trừ các pháp cấu
uế, không cần
phải tìm kiếm
minh. Không còn bóng tối
thì ánh sáng còn lại,
ánh sáng đã có thì
không bị mất. Như
vàng đã
được tinh luyện,
lọc thành vàng ròng
thì không thể trở lại
thành vàng quặng
được.)
Vị
ấy với
tâm định tĩnh
thanh tịnh, dẫn
tâm đến chỗ
bất
động. Vị
ấy nhất
tâm tu tập, chứng
được trí tuệ,
thấy chúng sanh
sanh chỗ này, chết chỗ
kia, hình dáng đẹp,
xấu, sanh tử trong các
đường thiện,
ác, kẻ sang trọng người
bần tiện,
đều từ
nhân duyên nghiệp
báo do chúng tạo
ra, vị
ấy
đều biết
rõ. Như người
này tạo ác hạnh
về thân, ác hạnh
về khẩu, ác hạnh
về ý, với
tà kiến phỉ
báng các bậc Thánh.
Do quả báo của tà kiến
nên đọa
địa ngục, ngạ
quỷ, súc sanh. Như
chúng sanh này thân làm thiện,
chánh kiến không phỉ báng các bậc
Thánh, tu tập chánh
nghiệp, sau khi
thân này chết
được sanh cõi trời
hay cõi người. Vị
ấy với
Thiên nhãn thanh tịnh
như vậy,
thấy chúng sanh chết
chỗ này sanh chỗ
kia, tùy theo nghiệp
nhân chúng đã tạo, vị
ấy
đều biết
rõ hết. Như
giữa khoảng
đất trống bằng
phẳng, chỗ
ngã tư
đường, có một
tòa nhà cao lớn, có
một người
với mắt sáng
đứng trên lầu
tòa nhà ấy, thấy mọi
người
đi từ
Ðông sang Tây, từ
Tây sang Ðông, từ
Nam sang Bắc, từ Bắc
sang Nam. Vị Tỳ-kheo
cũng như
vậy, với
tâm định tĩnh
thanh tịnh... bình
thản bất
động, chứng
trí tuệ thấy
các chúng sanh, sanh chỗ
này chết chỗ
kia. Vị
ấy với
Thiên nhãn thanh tịnh,
thấy chúng sanh chết
đây sanh kia, sanh
đây chết kia, tùy theo nhân duyên nghiệp
báo chúng đã tạo,
vị
ấy
đều biết
rõ hết. Ðây là vị
Tỳ-kheo
đã chứng
đắc
được minh thứ
hai. Vị
ấy trừ
vô minh, minh sanh, tối
tăm hết,
ánh sáng hiển hiện. Ðây là trí chứng
minh, thấy rõ chúng
sanh chết chỗ này, sanh qua chỗ
kia. Nhờ
đâu vậy? Do vị
ấy không phóng dật,
tinh tấn không biếng
nhác, chánh tâm không tán loạn,
ưa thích tịch
lặng.
(Minh thứ hai là
Thiên nhãn minh, biết
việc tương lai một
cách rõ ràng. Thấy
rõ cả ba
đời. Vì tương
lai khó thấy mà thấy
trước
được, nên nêu ra chỗ thù thắng
đó, chứng
về quá khứ
là Túc mạng, chứng
về hiện tại
là Lậu tận.)
Vị
ấy với
tâm định tĩnh,
thanh tịnh,
đưa
đến bất
động, vị
ấy nhất tâm tu tập,
chứng trí Vô lậu.
Vị
ấy như
thật biết Khổ
Thánh đế, Tập,
Diệt, Ðạo
Thánh đế. Vị
ấy như
thật biết hữu
lậu, sự
tập khởi
của hữu
lậu, sự
đoạn
diệt của
hữu lậu và như
thật biết
con đường
đưa
đến diệt
tận hữu
lậu, tức
Ðạo Thánh
đế. Vị
ấy nhờ
nhận thức như
vậy, thấy
rõ như vậy,
tâm được giải
thoát khỏi dục
lậu, vô minh lậu,
đã
được trí tuệ
giải thoát. Vị
ấy biết: Sanh tử
của ta
đã hết,
phạm hạnh
đã thành, việc
phải làm
đã làm, không còn bị
tái sanh nữa.
Như
trong hồ nước
trong suốt, có gỗ,
đá, cá, rùa và các
loài thủy tộc
đang bơi
lội trong nước
đó. Một người
có mắt sáng
đứng nhìn kỹ, thấy
rõ đây là gỗ,
đây là
đá,
đây là cá,
đây là rùa,
đây là loài thủy
tộc
đang bơi
lội.
Tỳ-kheo
cũng như vậy,
với tâm
định tĩnh thanh tịnh,
bình thản bất
động, chứng
đắc trí Vô lậu.
Cho đến không còn tái sanh nữa. Ðây là Tỳ-kheo
chứng
đắc minh thứ ba. Vị
ấy
đoạn
trừ vô minh, minh
sanh, bóng tối tan
hết, ánh sáng còn lại
đầy
đủ. Ðó là Vô lậu
trí minh. Do đâu? Vị
ấy nhờ
không phóng dật,
siêng năng không biếng
nhác, chánh niệm
không tán loạn,
ưa
ở chỗ
tịch lặng.
(Minh thứ ba là trí
vô lậu, hiểu
biết sáng suốt
trong hiện tại. Ðối
với pháp trong ba
đời, không còn sanh
ra nữa. Bởi
vì ngay nơi sự chứng
đắc này,
đã
đoạn
hết ba
đời các pháp không
còn cơ hội phát sanh, nên gọi là sáng suốt
hiện tại.
Khổ Thánh
đế, ba cõi
đều khổ,
chắc chắn
và xác thật như
vậy, chỉ
có bậc Thánh mới
liễu tri nên gọi
là Thánh đế. Tập
là nguyên nhân của
khổ. Tận là diệt
hết khổ.
Ðạo là con
đường tất
yếu
để thoát khỏi
khổ. Tất
cả bốn
đế
đều chơn
thật. Không hư
dối nên gọi
là Thánh đế. Hữu
lậu là quả
của khổ,
lậu tập
là nhân của khổ,
lậu tận
là diệt của
khổ, con
đường
đưa
đến lậu
tận là con
đường tất
yếu
để giải
thoát. Tóm lại, phần
đầu nói rõ về
kiến
đạo, phần
sau nói rõ về tu
đạo. Hoặc
phần
đầu nói rõ về
Dục giới,
phần sau nói rõ về
Sắc và Vô sắc
giới. Chánh trí
được gọi
là tri. Tuệ nhãn
được gọi
là kiến. Tư
hoặc
ở Dục
giới
được gọi
là dục lậu.
Tư hoặc
ở Sắc
giới và Vô sắc
giới gọi là hữu
lậu. Kiến
hoặc trong ba cõi gọi
là vô minh lậu.)
Giải
thoát gồm: Kiến
đạo 16 tâm, tu
đạo 18 tâm, thuộc
Căn bản trí. Chứng
đắc trí giải
thoát, tức Hậu
đắc trí. Sanh tử
của ta
đã hết, tức
là vĩnh viễn
không còn quả báo,
nên gọi là không
còn sanh. Phạm hạnh
đã thành tức
đầy
đủ trí
đức và
đoạn
đức, nên gọi
là ứng cúng. Việc
phải làm
đã làm xong, tức
là diệt hết lậu
hoặc
đạt
đến thuần
chơn, nên gọi
là vô học. Không
còn thọ thân sau, tức
cắt
đứt phiền
não, nên gọi là sát
tặc.
Lại
nữa, sanh tử
của ta
đã hết
tức trịn
đầy trí tuệ
về Khổ
đế, phạm
hạnh
đã thành, tức
trí tuệ tròn
đầy về
Ðạo
đế. Việc
cần phải
làm đã làm xong, tức
trí tuệ tràn
đầy về
Diệt
đế. Không còn tái
sanh tức trí
tuệ tròn
đầy về
Tập
đế. Nước
trong suốt dụ cho tâm
định; gỗ,
đá, cá, rùa dụ
cho đời sống
hiện tại; mắt
pháp dụ cho trí tuệ.
Tuy có mắt sáng nhưng
nước không trong suốt
thì không thể phân
biệt rõ cây,
đá, cá, rùa, như
có tuệ mà không
định. Ngược
lại tuy nước
trong suốt nhưng
mắt không sáng tỏ
thì cũng không phân
biệt
được cây,
đá, cá, rùa. Như
có định mà không tuệ.
Nay
định và tuệ
đầy
đủ liễu
tri Sanh không và Pháp không. Không khởi
ra tư tưởng
điên
đảo
đối với
pháp sanh diệt,
đó là Vô lậu
trí minh.
Năm
đoạn
văn này thuyết
minh vấn
đề nhân
định phát tuệ,
cũng gọi
là tăng thượng
tuệ học. Các
đối tượng
Thiền
định, Ngũ
thông vẫn còn thuộc
định học.
Trong này đều gọi
là trí chứng, nên
nhiếp vào tuệ
học. Sau mỗi
đoạn
thuyết minh về
Thiền
định, Sáu thông, Ba minh,
đều kết
luận bằng câu: Do không phóng dật...
đều nhằm
mục
đích nêu rõ một
cách sâu sắc về việc
trì giới không
phóng dật là căn
bản của
Thánh đạo. Tứ
niệm xứ
là cửa chính
để
đi vào Bát Chánh
đạo. Hạnh
đầu
đà là pháp xuất
ly hơn hết.)
Nay tôi
đã y cứ
vào Tam tạng thuyết
minh sơ lược
như trên, hơn
ba lần xem lại,
thấy tạm
vừa ý. Lại
nữa, các pháp môn
trong Tam tạng này
hoặc chuyển
nhập trực
tiếp một
cách vi diệu hoặc tiến
tu theo thứ tự
cũng là vi diệu.
Người
đọc nên suy nghĩ
cho kỹ, chớ nên khinh thường
xem qua loa.
Kiền-độ
trì giới của
Ðại, Tiểu
lược giải
thích.
TRÙNG TRỊ
TỲ-NI SỰ NGHĨA TẬP YẾU HẾT QUYỂN THỨ MƯỜI CHÍN
(Dịch xong Ngày 04 tháng 07 năm Mậu Thìn - 1984)
LỜI CUỐI SÁCH
(Lời
bạt)
Than ôi! Luật học không
được xương
minh học hỏi
đã lâu ngày. Nếu
không rõ Luật thì
làm sao rõ Giáo, không rõ Giáo thì làm sao hiểu
Tông. Người giỏi
thì bỏ qua, người
kém thì không hiểu
kịp. Huống
lại cái tri kiến
theo thế tục
đã thấm
vào xương tủy,
nên hễ nghe nói
đến Chánh pháp của
Như Lai thì sợ
hãi coi xa vời như
sông Thiên hà, đâu
còn chịu
để mắt
đến 500 cuốn
gồm lời
Phật dạy,
làm quy củ hay lo
cho đời
ư?
Tôi hổ thẹn
đối với
môn hành trì còn sơ
sót, cô phụ cửa Phật,
cho nên từ lâu ngậm
miệng, không dám
bàn đến việc
nên hư của người
đương thời.
Như một tia sáng qua kẽ hở
này, ngưỡng nhờ
Phật Tổ
giúp mở cửa
cho thì cũng có thể
gọi
đây là kẻ
dẫn dắt cho người
cất bước.
Hoặc có ai bắt
chước theo ý tôi mà
dốc chí hành trì,
thì họ sẽ
được an
ổn
đạt
đến chỗ
thanh tịnh, chắc
chắn không nghi.
HẾT
--- o0o ---
Mục
Lục |
01
|
02
|
03
|
04
|
05
|
06
|
07
|
08
|
09
|
10
11
|
12
|
13
|
14
|
15
|
16
|
17
|
18
|
19
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-6-2007