|
.
KHI
NÀO CHIM SẮT BAY
Hành
Trình Phật Giáo Về Phương Tây
Tác Giả:
Ni Sư AYYA KHEMA - Việt Dịch: Diệu Liên Lý Thu Linh
Dịch
từ bản tiếng Anh: When the Iron Eagle Flies - Buddhism For the West
Wisdom
Publications 1991, 2000
|
|
Chương
2
Bản
Chất Tâm
Tình cảm đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành cá
tính con người. Mà cũng chính tình cảm khiến ta thường
thấy lúng túng, khó xửû. Đức Phật đã nói về bốn
loại tình cảm tối thượng, và chỉ các tình cảm nầy mới
đáng có. Ngoài ra tất cả các tình cảm khác đều đáng
bỏ đi hay nên thay thế bằng một trong bốn loại tình cảm
tối thượng nầy. Người ta gọi chúng trong Pali ngữ
là brahmavihàra (ba-la-mật). Brahmas có nghĩa là thánh,
vihàra nghĩa là nơi lưu trú. Vì thế, các tình cảm nầy
là ‘nơi nương trú thánh thiện’. Một mặt, chúng là
phương tiện đưa ta đến cõi trời, cõi vô sắc. Mặt
khác, chúng là những tình cảm giúp ta sống ở cõi nhân gian
hiện tiền nầy với lương tâm thỏa mái, cao thượng hơn.
Các trạng thái tâm thanh tịnh đem lại trí sáng suốt.
Tất cả chúng ta hẳn đều biết cái cảm giác khi ta bị nhấn
chìm bởi các cảm xúc mạnh mẽ –chúng như những làn sóng
biển, nhấn chìm ta cho đến khi ta không còn cảm thấy gì
nữa. Cũng thế, ta không thể còn sáng suốt khi các cảm
xúc chế ngự ta. Sự sáng suốt trong quá trình tư duy
bắt rễ từ sự thanh tịnh hóa các cảm xúc, khiến ta không
còn phải chịu ảnh hưởng hay bị các cảm xúc mãnh liệt
chế ngự làm ta không còn sáng suốt.
Con đường tâm linh trọn vẹn là con đường của sự thanh
tịnh hóa, có nghĩa là một sự buông xả liên tục, không
ngừng nghỉ. Vấn đề là nhận ra được những phiền
não nội tâm và huân tập để buông bỏ chúng. Thiền
là phương tiện để rèn luyện nghệ thuật xả bỏ.
Bốn tâm vô lượng đó là Từ (mettà), Bi (karunà), Hỉ (mudità)
và Xả (upekkhà). Tôi muốn nhấn mạnh đến lòng từ.
Danh từ nầy có nhiều ý nghĩa hơn ta tưởng. Trong tiếng
Pali, metta, hay trong Sanskrit là maitri, cả hai đều có nghĩa
là quyền lực, mạnh mẽ. Đối với chúng ta (người
Tây Phương-ND) từ ‘loving-kindness’ (lòng từ) không mang nhiều
ý nghĩa. Từ ‘love’ (yêu, thương) thường được dùng
để dịch chữ mettà, là từ rất quen thuộc, mang một ý nghĩa
rõ ràng đối với chúng ta. Tất cả mọi người đều
trong chừng mực nào đó, kinh nghiệm qua yêu thương, nhưng
nó lại không thể diễn tả được cái cảm xúc trong chữ
mettà.
Khi chúng ta nói đến ‘love’ (yêu, thương), ta nghĩ đến
tình cảm dành cho một đối tượng nào đó, hay có thể hai,
ba, bốn người mà ta ưa thích. Chúng ta cũng có thể nghĩ
đến tình thương yêu khi ta hướng đến một lý tưởng nào
đó, như tình yêu quê hương, tình yêu một công việc nào
đó. Tình thương yêu đó được dẫn dắt và hàm chứa
một điều kiện quan trọng, đó là nó phải được đáp đền.
Ta thường nghĩ đó là một bi kịch nếu như ta dành tình thương
yêu cho ai đó mà không được đáp trả. Trong từ mettà
hoàn toàn không có ý nghĩa nào giống như thế. Tình thương
yêu mà ta thường dùng và đối mặt trong cuộc sống hằng
ngày không có tính cách cao thượng, trong sạch của mettà.
Khi hướng tình yêu đến một đối tượng và mong muốn được
đáp trả, thì tình thương đó nhuốm đầy sợ hãi –sợ
đánh mất tình yêu của người đó. Lòng sợ hãi không
thể đối xứng với tình yêu, vì sợ hãi luôn dẫn đến
sân hận. Thực ra chúng ta không ghét đối tượng, mà
chỉ ghét sự có thể đánh mất người ấy, tình yêu của
người ấy, hay một hoàn cảnh thuận lợi, thoải mái nào
đó. Ta chỉ biết có loại tình thương pha sự sợ hãi
nầy. Dĩ nhiên điều đó khiến ta không được thỏai
mái, rồi trong cái vòng luẩn quẩn thường tình ta lại đổ
lỗi cho người khác; do đó ta nghĩ là mình phải bỏ người
nầy đi tìm người khác. Hoặc giả như ta có nghĩ
đó là lỗi mình, ta cũng không thấy an lòng, tự tại.
Trái lại các tình cảm cao thượng, siêu việt kia lại có
thể mang đến cho ta sự trọn vẹn, vì trong chúng hoàn toàn
không ẩn chứa sự tiêu cực nào.
Mettà là một đặc tính của tâm. Nó không liên quan gì
đến việc được đáp trả, đối với ai hay với bất cứ
điều gì. Nó chỉ là kết quả của sự rèn luyện tình
cảm. Cũng như thiền là để luyện tâm, không phụ thuộc
vào bất cứ những gì được nạp vào tâm, cũng thế đối
với mettà trong tình cảm.
Trong Pali ngữ, tình cảm (trái tim) và tâm (lý trí) chỉ là
một từ citta, nhưng trong tiếng Anh, chúng ta có sự
phân biệt giữa hai từ nầy mới làm rõ nghĩa. Khi ta
nói đến tâm, ta nghĩ đến quá trình tư duy, với tri thức
do trí tuệ mang đến, với khả năng sàng lọc, ứng dụng
tri thức. Khi ta nói đến ‘trái tim’, ta nghĩ đến tình
cảm, cảm xúc, khả năng phản ứng trong cuộc sống.
Dầu ta thường nghĩ là mình đang sống theo lý trí, nhưng sự
thật không phải thế. Nếu chúng ta có thể tự vấn
mình lắng sâu hơn, ta sẽ thấy ngược lại, ta thường sống
theo tình cảm, và những nghĩ suy của ta cũng tùy thuộc vào
tình cảm. Khía cạnh tình cảm của chúng ta khá quan trọng.
Do đó sự thanh tịnh hoá tình cảm, cảm xúc là cơ bản cho
một cuộc sống hoà hợp, hạnh phúc, và cũng rất tốt cho
việc hành thiền.
Khi nói về mettà theo tinh thần Phật giáo, chúng ta thường
nghĩ đến những tình cảm tử tế, ấm áp dành cho tha nhân.
Không có vấn đề phán xét –xem người khác có xứng đáng
với tình thương của ta, có đáp trả lại tình thương của
ta, có sẵn lòng làm bạn, làm người hỗ trợ ta, có chấp
nhận tình cảm của ta hay không. Mà đơn thuần chỉ là
việc xóa bỏ đi các phản ứng tiêu cực của ta, dựa trên
các phán đoán tiêu cực. Ganh tỵ, ghét bỏ không có mặt
ở đây. Chỉ có sự phân biệt đúng sai là được có
mặt. Chúng ta có thể tìm thấy nhiều khuyết điểm ở
nơi bản thân cũng như ở người khác, nhưng không có nghĩa
là ta có thể xử dụng tình cảm một cách tiêu cực.
Thí dụ như người mẹ với đứa con. Có thể người
mẹ vừa lau dọn nhà cửa sạch sẽ thì con bà bước vào nhà,
vô ý làm nhà cửa dơ bẩn trở lại. Không thể vì lý
do đó mà người mẹ sinh lòng ghét con mình, tuy nhiên bà có
thể nói cho con biết lỗi của nó. Chúng ta không đánh
mất khả năng phân biệt tốt xấu, nhưng khi đã thanh tịnh
hóa tình cảm của mình, ta buông bỏ được các phản ứng
tiêu cực.
Hãy bắt đầu ngay nơi bản thân. Nếu ta có thể nhận
ra được lỗi của bản thân, màø không ưa, không ghét, chỉ
biết và chấp nhận bản chất chúng, như thế ta mới có thể
dần chuyển đổi chúng. Chúng ta cũng sẽ nghiệm ra rằng
ý muốn chuyển đổi và sự chuyển đổi thực sự không phải
là một. Sự chuyển đổi thực sự cần có thời gian.
Biết chấp nhận những khuyết điểm của mình, nhận rõ chúng,
sẽ giúp ta cảm thông với kẻ khác. Họ cũng có những
khó khăn –đa số giống như ta. Đây là một trong những
ưu điểm và yếu tố đặc biệt trong giáo lý của Đức Phật:
Ngài đã dạy rằng tất cả chúng sanh đều cấu tạo bởi
những thành phần giống nhau; tất cả chúng sanh có cùng những
nỗi khổ (dukkha) và tất cả chúng sanh đều mong muốn thoát
khổ.
Trước hết, nếu ta có thể biết những gì đang xảy ra trong
nội tâm, tập chấp nhận và thương yêu bản thân bất chấp
những khổ đau, phiền não, tức là ta đã có bước khởi
đầu tốt. Nếu không bắt đầu từ chính bản thân,
ta khó mà có thể thực sự chấp nhận, yêu thương người
khác. Thường người ta nói (và họ rất chân thật) thương
yêu người khác dễ hơn thương bản thân. Đó không phải
là điều khó hiểu. Vì họ chỉ yêu thương những người
họ chấp nhận, nhưng không phải là vô điều kiện.
Ta phải biết yêu thương bản thân vô điều kiện, trước
khi ta có thể mỡ rộng lòng thương yêu kẻ khác. Mettà
là như thế: thương yêu vô điều kiện. Không có nghĩa
là ta đánh mất sự phân biệt, sự hiểu biết. Hiểu
như thế thì thật là tai họa. Ta chỉ bỏ đi thái độ
phán xét đối với bản thân và tha nhân.
Khi chúng ta đã huân tập để chấp nhận bản thể sự việc,
dần dần ta sẽ thành công, nhờ đó ta sẽ tránh khỏi nhiều
đau khổ. Dukkha (Khổ) là lực kéo ta chống lại những
gì đang xảy ra. Khi ta chống cự, đẩy cái gì đó ra
xa, thí dụ một cánh cửa khóa, sau một lúc, tay ta sẽ bị
đau; nhưng nếu chúng ta chấp nhận sự thật là cánh cửa
không thể mở được để tìm một lối ra khác, thì ta sẽ
tránh được đau đớn. Khổ sinh ra là do ta chống cự,
không chấp nhận, muốn hoàn cảnh, con người phải như ý
ta muốn. Ta không thể chấp nhận chúng như chúng hiện
hữu, hơn thế nữa ta không muốn sống theo luật tự nhiên.
Tuy nhiên, ta không có lựa chọn nào khác, vì vậy ta sinh ra
khổ đau.
Với metta cũng thế. Chúng ta cố gắng thương yêu những
gì ta nghĩ là đáng yêu. Người khác có thể không đồng
ý với chúng ta vì họ có quan điểm khác ta. Trong kinh
Cái Lưới Bao Trùm Mọi Quan Điểm, Đức Phật đã diễn tả,
dưới sáu mươi hai đầu đề tất cả những quan điểm ta
có thể có, và Đức Phật kết luận tất cả đều sai, vì
tất cả đều dựa vào cái nhìn của ngã. “Tôi nghĩ”,
“Tôi có ý kiến rằng”, “Tôi nhìn như thế nầy” –tất
cả đều méo mó bởi ngã tưởng, do đó không thể nào đúng
tuyệt đối. Nếu chúng ta có thể nhớ rằng ta không
bao giờ hoàn toàn đúng, đúng tuyệt đối, mà chỉ có thể
đúng một cách tương đối, thì có thể ta sẽ bỏ được
thái độ luôn phán xét người. Phải bắt đầu nơi bản
thân. Như thế chúng ta có thể bình tĩnh, dễ chịu hơn,
và một khi tâm tự tại thì ta dễ hành thiền tốt hơn.
Đức Phật đã dạy rằng muốn hành thiền cho đúng, thì thân
tâm phải tự tại. Chúng ta cần có những cảm nghĩ tốt
đẹp về chính bản thân, không những điều nầy giúp cho
cuộc sống thường ngày của ta dễ chịu mà còn giúp cho sự
hành thiền của ta nữa. Sự tự tại nơi nội tâm không
có nghĩa là ta không biết đến những cấu uế trong ta, nhưng
ta nhận biết rằng chúng cũng có thể được chấp nhận.
Chúng ta có thể so sánh quá trình nầy giống như sự trưởng
thành của một đứa trẻ. Chúng ta không mong mỏi một
đứa trẻ bốn tuổi có thể thi vào đại học hay tiểu học.
Đứa trẻ cần thời gian để từ từ lớn lên, trưởng thành.
Đức Phật đã ví chúng sanh như những đứa trẻ chơi đùa
trong ngôi nhà lửa, không muốn bỏ đồ chơi lại để chạy
ra khỏi nhà, tự cứu lấy thân. Ngôi nhà lửa chính là
luân hồi sinh tử (samsàra), và chúng ta không muốn buông bỏ
đồ chơi, xe hơi, máy tính, nhà cửa, nhất là thân tâm, là
những thứ mà ta nghĩ là của ta. Nếu ta coi mình là những
đứa trẻ cần trưởng thành, cần thời gian, cần sự chăm
sóc, thì các tội lỗi, tánh xấu của ta có thể chấp nhận
được trong quá trình trưởng thành.
Biết chấp nhận bản thân là bước đầu tiên tiến đến
lòng từ bi (mettà). Lòng từ bi phải có mặt trong ta,
vì ta, chỉ như thế ta mới biết nó ra sao, mới cảm được
nó thế nào. Kẻ thù lộ diện, đối mặt với lòng từ
bi, chính là hận thù, nhưng kẻ thù giấu mặt lại chính là
ái dục. Đối với đa số, điều nầy nghe khó chấp
nhận, vì ái thọ phải là điều tốt chứ. Nhưng ái
thọ là kẻ thù của lòng từ bi , vì nó dựa trên trói buộc,
chấp chặt. Nếu chúng ta cảm thấy thương yêu một,
hai, ba hay mười người nào đó, thấy khó thể quay đi nơi
khác; là ta đã bị trói buộc. Lòng luyến ái phát sinh
thiên vị, khiến ta không thể vượt lên được những thái
độ phán xét. Tình thương ta cần cho bản thân là vì
sự phát triển, hạnh phúc của ta, chứ không phải vì những
thành kiến của ngã chấp. Phân biệt được hai điều
nầy không phải dễ, nó đòi hỏi ta phải luôn tự soi lại
mình. Yêu thương bản thân khiến ta dễ chấp nhận mình,
tự tại khi chỉ một mình, mà không cảm thấy cô đơn.
Ta không có nhu cầu muốn có thêm, có nhiều hơn thêm nữa,
là những biểu hiện của việc tìm kiếm mọi cách để củng
cố thêm ngã chấp của mình. Sự luyến ái đối với
bản thân hay với người khác, cản trở lòng từ bi thuần
túy. Khi trong ta tràn đầy tình cảm dành cho ai đó hay
ước muốn được thông minh, giỏi giang, đẹp đẻ hay gì
gì đó, thì ta không còn chỗ cho tình cảm thương yêu đến
với tất cả chúng sanh.
Thiền quán hỗ trợ rất nhiều cho lòng từ bi , vì nó chỉ
cho ta thấy sự phân biệt giữa người và ta chỉ là ảo tưởng.
Khi ta biết được rằng tất cả chúng ta là những bộ phận
của một tổng thể, và khi ta thật sự cảm được điều
đó khi hành thiền, thì việc yêu thương người như chính
bản thân sẽ trở nên dễ dàng hơn. Đó không phải là
một tình cảm đam mê, mà là một cảm giác hòa hợp, thân
thiện, tự tại đối với người và bản thân. Con đường
đạo của Đức Phật dẫn ta đi từ dục vọng đam mê đến
thoát dục.
Lòng từ bi cần được hướng đến tất cả chúng sanh, mọi
loài, nhưng cái khó của chúng ta thường là yêu thương người
khác. Yêu chó, mèo, chim chóc, cây cối dễ hơn là yêu
thương con người. Cây cối, thú vật không đối đáp
lại với ta như con người, vì thế ta cần tập luyện bắt
đầu ở điểm nầy. Ta cần coi việc thực hành lòng
từ bi như là một phần trong chương trình phát triển tâm
linh của mình. Bạn sẽ tìm thấy trong quyển sách nầy
nhiều hướng dẫn tọa thiền về lòng từ bi (mettà); chúng
là phương tiện dẫn dắt tâm tiến đến trạng thái thanh
tịnh các cảm thọ.
Đôi khi thiền sinh không có cảm giác gì khi thiền quán về
lòng từ bi (mettà). Không có gì phải lo âu; nếu ta biết
dẫn tâm về đúng hướng, thì dần dần tình cảm chánh đáng
đó sẽ phát sinh. Tất cả các giác quan khi xúc chạm
đều phát sinh cảm thọ. Ý là giác quan thứ sáu của
ta, ta chỉ cần nghĩ đến lòng từ bi thì dần dần tình cảm
đó sẽ phát sinh. Quán tưởng là một cách để giúp
ta có được tình cảm nầy, nhưng không phải là cách duy nhất.
Trong sinh hoạt hằng ngày, tất cả chúng ta đều phải tiếp
xúc với người khác, trong đó có những người ta thật sự
không muốn giao tiếp chút nào. Nhưng họ chính là sự
thử thách, bài học, bài trắc nghiệm của ta. Nếu ta
có thể suy nghĩ theo cách đó, ta sẽ không thấy bực tức
khi gặp phải kinh nghiệm đó, hoặc không có những suy nghĩ
như: “ Giá mà chuyện nầy không xảy ra”, hay “Phải chi
nó đi khuất mắt tôi”, “Phải chi nó đừng nói thêm tiếng
nào nữa”, từ đó tạo ra đau khổ (dukkha) cho chính
bản thân. Khi chúng ta nhận thức được rằng những
cuộc đối đầu như thế, chính là cái ta cần ở thời điểm
đó để vượt qua những tình cảm tiêu cực, chống đối,
và để thay chúng bằng lòng từ bi. Lúc đó ta sẽ cảm
thấy những cơ hội như thế thật quý báu biết bao.
Dần dần, ta sẽ thấy (dĩ nhiên là sau khi tự soi lại mình)
rằng ta cần phải biết ơn những người làm cuộc sống của
ta khốn khổ.
Vượt qua được rào cản đó, chúng ta đã tiến một bước
dài. Trái lại, nếu chúng ta cứ tiếp tục nghĩ đến
những bất công mình đã phải chịu, thì ta sẽ khó tiến
bộ. Làm chủ được sự phản kháng, chống đối và
các phản ứng tiêu cực, là con đường đưa đến thanh tịnh,
con đường tâm linh mà ta chỉ có thể tìm thấy chính trong
tâm trí ta. Không thể tìm được ở bên ngoài ta,
và cũng không thể có nếu không có chánh niệm và quán sát
nội tâm. Khi ta đã có thể nhận thức rõ ràng như thế,
ta mới có thể sửa đổi.
Dĩ nhiên, không phải lúc nào ta cũng có thể chiến thắng
các phản ứng tiêu cực, nhưng khi chúng xảy ra, ta lại nhớ
đến những gì ta đang cố thực hiện. Chỉ khi nào ta
hoàn toàn quên thì có nghĩa là ta chẳng thực hành gì hết.
Con đường tâm linh của ta, phân nữa là để nhắc nhở ta
đang phấn đấu tu sửa những gì, ta đang tiến đến đâu.
Lòng từ bi (Mettà), tình thương vô điều kiện không phải
dễ có được, nhưng chúng ta không thể thiếu vắng lòng từ
bi.
Khi tiếp xúc với những người ta không yêu không ghét, ta
thờ ơ, bàng quang đối với họ; đó chính là lúc ta cần
phát khởi lòng từ bi. Khi ta dùng lời lẽ hay hành động
để biểu lộ cho người khác biết ta quan tâm đến họ, thì
ta tăng trưởng thêm sự thanh tịnh. Khi chúng ta chợt
nhớ, “Tôi cần phải rèn luyện tâm mình”, thì ta có thể
làm được như thế một cách chánh niệm. Huân tập được
như thế sẽ mang lại kết quả. Vì trong ta có quá nhiều
chướng ngại, chế ngự được chúng dần dần, hết lần
nầy đến lần khác, sẽ mang đến cho ta bao lợi ích.
Người khác cũng được lợi ích do tình thương của ta mang
đến, nhưng đó không phải là thành quảû chánh, tâm hồn
ta được thanh tịnh, đó mới là thành quả chánh yếu.
Lòng từ bi của ta càng bao la, thì ảnh hưởng của nó càng
lan rộng đến những người quanh ta như sự tỏa sáng tự
nhiên của một nhân cách. Lòng từ bi của Đức Phật
mạnh mẽ đến độ Người có thể cảm hóa được voi dữ.
Chúng ta chưa có được khả năng đó, nhưng lòng từ bi của
một nội tâm trong sạch cũng có thể khiến cho người quanh
ta được phấn chấn. Người đầy lòng từ bi không thấy
nhiều lỗi nơi người khác. Mà tha nhân có gì khác hơn
là những tấm gương phản chiếu những gì ở trước chúng
–đó là chúng ta. Những gì ta thấy nơi người khác,
cũng ẩn chứa trong ta, vì thế tốt hơn hết là ta nên dùng
các tấm gương phản chiếu đó trong quá trình tu tập của
mình. Người có tâm từ bi sẽ không thấy nơi người
khác nhiều điều mình không thể chấp nhận được.
Do đó cuộc sống của chúng ta cũng như sự thực tập tâm
linh trở nên phẳng lặng, tốt đẹp hơn.
Tất cả chúng ta đều biết cái cảm giác dễ chịu, phấn
chấn khi ta cảm thấy thương yêu, tôn trọng người khác.
Và ta cũng biết cảm giác khó chịu khi ta chống đối, ghét
bỏ người khác. Nếu có chút suy nghĩ, hẳn nhiên ta muốn
rằng cuộc sống của ta dễ chịu, yên ổn, hoà ái, ít khúc
mắc hơn. Ta có thể quán sát rằng khi ta thay đổi chính
tình cảm, cảm xúc của mình, thì mọi thứ quanh ta cũng đổi
thay. Mức độ đổi thay quanh ta tùy thuộc vào sức mạnh
của lòng từ bi (mettà) của chúng ta. Dầu ảnh hưởng
của chúng ta chưa sâu xa, nhưng chắc chắn là cuộc sống quanh
ta sẽ được thay đổi tốt hơn.
Người có lòng từ bi bao la giống như thỏi nam châm.
Người ta luôn bị nó thu hút. Tuy nhiên, nếu ta muốn
nếm trải lòng từ bi, thì chính ta cũng phải sở hữu nó.
Không có cách gì khác, vì lòng từ bi của người khác, dầu
có ngọt ngào, cũng sẽ biến mất khi người đó đi nơi khác.
Chúng ta không thể đeo bám theo họ mãi, dầu người đó là
ai, vì điều đó khiến ta trở nên phụ thuộc vào người
khác, trong khi con đường ta đã chọn, dạy ta phải độc lập.
Hơn nữa, lòng từ bi của người khác là biểu hiện của
sự thanh tịnh của họ, không giúp gì cho sự phát triển,
trưởng thành của ta. Chúng ta phải tự phát khởi lòng
từ bi từ nội tâm. Ai cũng có thể làm được điều
đó, dầu rằng không phải là dễ dàng đối với mọi người.
Điều đó đòi hỏi công phu rèn luyện.
Tất cả chúng ta đều đau khổ vì ngã tưởng, khiến ta sinh
lòng sân hận, tham lam. Những người có lòng tham lại
dễ sinh lòng từ bi hơn người hay nóng giận. Người
hay nóng giận cũng có những ưu điểm khác. Họ dễ kiên
trì thực tập để sửa đổi vì họ cảm thấy bất an hơn.
Một vị đại lão thiền sư ở Thái Lan có lần đã nói thà
là các đệ tử của ông có nhiều sân hơn là tham. Người
hay nóng giận khiến ta khó lại gần, nhưng họ tu tập phấn
chấn hơn vì họ dễ đổi thay. Một phần quan trọng
trong sự phát triển tâm linh của ta là phải thực tập lòng
từ bi (mettà), bất cứ lúc nào, không phải đợi một hoàn
cảnh, cơ hội nào, dầu là lúc bạn đi mua sắm, đến bưu
điện, ở ngoài đường phố hay trả lời điện thoại.
Lúc nào cũng là cơ hội cho ta thực hành. Có nhiều cơ
hội như thế thì ta mau tiến triển hơn, nhưng ngược lại
nó cũng khiến ta dễ quên hơn. Nghe và nhớ là hai
khía cạnh chính của pháp. Chỉ khi nào ta có thể nhớ,
ta mới có thể biến Pháp thành của riêng mình. Nếu
không ta sẽ không biết thực hành như thế nào.
Mettà (từ bi) là một mỹ từ –chỉ với năm tự, để biểu
lộ sự thanh tịnh của lòng ta, một đặc tính của tâm, thường
bị che mờ, nhưng lúc nào cũng có mặt.
THAM
VẤN :
Thiền
Sinh (TS): Thưa Ni Sư, đối với bản thân, hình như
con cảm thấy bám víu, nhưng không thực sự thương yêu.
Đối với người khác, lại cảm thấy cả hai, bám víu và
thương yêu.
AYYA
KHEMA (AK): Thực ra, đối với bản thân, ta
cũng cảm thấy cả hai, nhưng chúng đan xen –đôi khi ta cảm
thấy nghiêng về tình cảm nầy hơn tình cảm kia. Chúng
ta cần phải tìm được trạng thái cân bằng thì ta mới có
thể thực sự chấp nhận mình, chứ không chỉ cái tự ngã
to lớn mà ta bám víu vào.
Chúng ta sẽ không thể hoàn toàn diệt bỏ được sự bám
víu, cho đến khi ta đã phần nào hủy diệt được ngã tưởng.
Nhưng ta có thể thực tập khi nào ta cảm thấy sự bám víu
đó có hại cho ta, vì nó tạo ra nghiệp (khổ -dukkha).
Khi hoàn toàn tự tại, ta có thể thấy thỏa mái khi ở một
mình mà không cần đến những phương tiện hỗ trợ bên ngoài,
là chúng ta đã thành công trong việc cân bằng nội tâm.
Có thể chúng ta chỉ ý thức đến sự có mặt của luyến
ái, bám víu, nhưng thực ra trong đó cũng tiềm ẩn tình thương.
Ta có thể thấy chúng đi đôi với nhau như thế nào khi ta
quán sát các hành động của ta đối với bản thân.
Chúng ta không muốn bất cứ điều gì xảy ra cho mình, dầu
chỉ là một vết trầy nhỏ. Khi ta không muốn thấy người
khác bị tổn thương, ta coi đó là tình thương, lòng từ bi
đối với họ, phải không?
|