|
.
KHI
NÀO CHIM SẮT BAY
Hành
Trình Phật Giáo Về Phương Tây
Tác Giả:
Ni Sư AYYA KHEMA - Việt Dịch: Diệu Liên Lý Thu Linh
Dịch
từ bản tiếng Anh: When the Iron Eagle Flies - Buddhism For the West
Wisdom
Publications 1991, 2000
|
|
Chương
5
Duyên
khởi Siêu Việt
Bước
I:
Lý duyên khởi là trọng tâm của Phật pháp, chỉ cho ta thấy
các nhân quả ở nội tâm và ngoại vật. Có hai lý thuyết
tách biệt, rõ ràng về duyên khởi. Một thuyết được
nhiều người biết đến gọi là lý duyên khởi tục đế
(lokiya paticca samuppàda). Thuyết nầy chú giảng về bánh
xe luân hồi sinh tử (samsàra), khởi đầu bằng vô minh, qua
vòng luân chuyển của ba giai đoạn trong cuộc sống: quá khứ,
hiện tại và tương lai—từ vô minh đến tái sinh và tử.
Trong vòng luân chuyển đó, chỉ có một cánh cửa để thoát
ra, đó là khoảng giữa của thọ và ái. Tất cả các
giai đoạn khác của lý duyên khởi đều là nhân quả tự
nhiên. Ta phải biết chấp nhận các lạc thọ và khổ
thọ, chứ không phải muốn bám víu, chạy đuổi theo thứ
nầy mà ghét bỏ thứ kia, nếu không ta khó mong tìm được
cánh cửa giải thoát kia—ta sẽ tiếp tục đi trong vòng sinh
tử luân hồi (samsàra) không dừng dứt. Sự tu hành giúp
ta đạt được xả thọ là đỉnh cao nhất của mọi cảm
thọ, để ta không còn phải lệ thuộc vào các cảm xúc của
mình. Khi nào ta còn lệ thuộc vào các cảm thọ, ta còn
chưa thực sự được tự do. Phật pháp hướng ta đến
tự do giải thoát, bao gồm cả sự độc lập. Trong quá
trình tư duy ta khởi tạo nghiệp, vì thế ta phải quán sát
các tư tưởng, không thể để mặc chúng.
Hành Thiền là để làm chủ được tâm, để nó không còn
dở trò với ta. Khi ta còn chưa có khả năng điều phục
tâm hành, thì nghiệp của ta còn bao gồm cả thiện và ác.
Vì tham muốn (ái) không ngừng len lỏi vào tâm, ta luôn bị
đau khổ (dukkha), là điều mà Đức Phật thuyết là diệu
đế thứ nhất và thứ hai, đó là, “Khổ (dukkha) hiện hữu”,
và “Nguyên nhân duy nhấtø của Khổ là –ái”. Khổ
khiến cuộc sống của ta không trọn vẹn, khiến ta phải tìm
kiếm một thực tại tốt đẹp, siêu việt hơn.
Do đó Đức Phật đã chỉ cho ta thấy những mắt xích nhân
quả của lý duyên khởi siêu việt (lokuttara paticca samuppàda),
không luân chuyển theo một vòng tròn. Trái lại, nó đi
theo một đường thẳng từ hiện tại đến giải thoát.
Lý duyên khởi trình bày theo hình một vòng tròn cho ta thấy
rõ hơn việc ta bị vướng vào trong chiếc lưới của nghiệp
quả.
Đức Phật thuyết giảng về lý duyên khởi siêu việt như
là mười hai bước kế tiếp nhau từ kiếp sống hiện tại
đến Niết bàn (nibbàna). Tất cả giáo lý của Đức
Phật cũng như mục đích duy nhất của việc tu thiền, là
để nâng tâm thế tục của ta lên trạng thái tâm Niết bàn.
Niết bàn là trạng thái tâm ai cũng có thể đạt
đến (nếu không ta đâu cần phải thực hành), nhưng nó bị
che phủ bởi ái dục. Theo truyền thống, những ngọn
nến ta đặt trên bàn thờ, chính là biểu tượng của tâm
giác ngộ.
Nếu chúng sanh không sẵn có khả năng thành đạo, thì bốn
mươi lăm năm thuyết pháp của Đức Phật thật là uổng phí.
Sau khi giác ngộ dưới gốc cây bồ đề, Đức Phật đã chứng
nghiệm được trạng thái hoan hỷ của tâm Niết bàn.
Sau một tháng, Ngài dự định loan báo tin nầy đến mọi người,
nhưng Ngài chợt nhận ra chúng sanh không dễ dàng hiểu được
chân lý thậm sâu nầy, và điều đó sẽ làm Đức Phật buồn
lòng. Kinh sách chép rằng, sau đó một vị đại Phạm
thiên ở cõi trời tên là Sahampati, đã đến cầu xin Đức
Phật hãy giảng pháp vì lợi ích của chư thiên và chúng sanh.
Đức Phật đã dùng thiên nhãn của mình để quán sát.
Thế tôn nhận thấy rằng cũng có những người ít bị uế
nhiễm, vì thế Ngài quyết định thuyết pháp.
Lúc nào và bao giờ cũng có những người có thể nương theo
lời dạy của Đức Phật để đạt đến được Niết bàn.
Chúng ta ngày nay cũng có những vấn đề, những khả năng,
và sự tín tâm như bao chúng sanh từ bao đời. Tất cả
những gì chúng ta đã hành theo giáo lý Đức Phật, đều có
mục đích tối hậu là để đạt đến Niết bàn. Ta
phải tâm tâm niệm niệm rằng ta cần phải tháo dở màn vô
minh che đậy tâm giác ngộ. Duyên khởi siêu việt bắt
đầu lúc duyên khởi tục đế chấm dứt, nói rõ ra tức là
khổ chấm dứt.
Khổ không chỉ là các tai họa, sự đau đớn, hay những điều
bất như ý. Nó bao gồm tất cả và còn nhiều hơn thế
nữa. Đó là lý do tại sao từ ngữ Pali nầy rất khó
dịch cho đúng; nó hàm chứa quá nhiều ý nghĩa. Nghĩa
chánh yếu của dukkha là sự thiếu khả năng để tìm được
sự thỏa mãn tuyệt đối ở bất cứ nơi nào trên thế gian.
Chỉ khi nào ta có thể hiểu được như thế, ta mới không
còn khổ đau.
Khi nào ta còn tìm kiếm sự toại nguyện, thỏa mãn ở thế
gian nầy –từ sự tử tế hay biết ơn của người khác,
từ những hoàn cảnh thuận lợi, từ tri thức, từ các nghiệp
thiện của mình- ta sẽ còn phải thất vọng, vì lẽ đơn
giản là chúng đều vô thường. Anicca (vô thường),
dukkha (khổ) và anattà (vô ngã) là ba đặc tính của tất
cả vạn pháp. Chừng nào ta còn có ý nghĩ rằng có thể
tìm được điều gì đó trên thế gian nầy khiến ta được
hoàn toàn hạnh phúc, mãi mãi trường tồn, thì ta còn khổ
đau mãi. Vì không tìm được, nên ta phải khổ đau.
Chúng ta tìm nơi nầy, kiếm nơi kia, bỏ nơi nầy, đến chốn
khác, thay người thương, đổi món ăn, thay tôn giáo, đổi
cách hành thiền, cách thực tập, và rồi điều gì sẽ xảy
ra? Không có gì cả ngoài những nỗi thất vọng.
Trong từ ngữ Pali, việc tìm kiếm nầy được gọi là papanca,
có nghĩa là sự biến hóa. Chính thiên nhiên cũng chứa
đựng muôn hình vạn vẻ. Thử nghĩ xem có bao nhiêu loại
cây, giống chim, hoa, sinh trùng, bao nhiêu màu sắc, bao khác
biệt ở con người ở khắp mọi nơi. Tất cả chúng
ta không ai giống ai, dù tất cả đều là con người.
Vạn vật luôn biến hóa. Nếu ta cứ chạy theo chúng,
là ta chạy đuổi theo những gì không phải là ta. Chỉ
bấy nhiêu đó cũng đủ khiến ta phải khổ. Sự tìm
kiếm đó chứng tỏ có cái gì đó trống vắng, thiếu hụt
trong nội tâm khiến ta phải tìm cách lấp đầy. Ta cần
nhận thức rõ được điều đó. Nếu không ta sẽ mãi
tìm kiếm ở bên ngoài qua các căn trần hầu lấp đầy trạng
thái trống rỗng, hụt hẫng trong nội tâm. Cách đó không
giúp ta thực hiện được mong muốn của mình; chỉ khi ta nhận
thức được rằng chính nội tâm ta mới cần phải được
làm tròn đầy, lúc đó ta mới bắt đầu tìm đến con đường
tâm linh.
Khi còn chưa nhận thức rõ được điều đó, khổ đau còn
khiến ta phản ứng theo thói quen. Trước hết là đổ
lỗi cho người khác. Đó là cách nhiều người thường
áp dụng, vì cách đó có vẻ là dễ nhất. Tuy nhiên,
làm thế không ích lợi gì, vì nếu một sự phiền não, khổ
đau nào đó chưa được thực sự giải quyết, thì nó lại
tiếp tục xảy ra. Cuộc sống tạm bợ của ta ở thế
gian nầy giống như nơi trường lớp, nếu ta không vượt
qua được kỳ thi, ta cứ phải học đi học lại lớp đó
mãi. Khổ đau mà ta chưa khuất phục được lại đối mặt
với ta như kỳ thi sát hạch phải trải qua.
Một phương cách khác mà ta thường dùng để đối phó với
khổ đau là trốn chạy. Không nhất thiết phải là một
cuộc trốn chạy thực sự, dầu hành động đó cũng không
hiếm. Mà chúng ta có thể dùng sách báo, TV, phim ảnh,
chuyện phiếm để nhận chìm mọi cảm giác.
Một phản ứng khá thông dụng khác nữa để đối phó với
khổ đau (dukkha) là tự thán, dầu rằng hành động đó hoàn
toàn vô ích, phản tác dụng vì nó khiến ta càng thêm đau
khổ. Vì hay tự than thân trách phận thì dễ dẫn đến
tuyệt vọng, trầm cảm. Đến nỗi có người thực sự
bám víu vào sự khổ đau của mình. Dầu có khuyên họ
cách thóat ra khỏi khổ đau, họ cũng từ chối, tại sao vậy?
Vì họ cảm thấy thực sự sống, cảm thấy như họ đang
làm chủ sự phiền não, khổ đau của mình, khiến họ cảm
thấy có một đời sống tình cảm phong phú, dầu là tiêu
cực.
Khổ là vị thầy tốt nhất của chúng ta. Dầu có
van xin, nó cũng không buông tha ta. Nếu ta nài nỉ một
vì thầy chúng sanh: “Tôi không được khỏe”, “Tôi đau
lưng”, “Sáng nay tôi không ngồi dậy được “, vị thầy
có thể trả lời: “Thật đáng tiếc, nhưng nếu bạn muốn
về nghỉ, cứ tự nhiên”. Nếu ta nói với khổ
những điều như thế, nó sẽ trả lời: “Được, nhưng bạn
đi đâu thì tôi theo đó”. Không có cách gì để thoát
khỏi khổ đau, trừ khi và cho đến khi ta chuyển đổi các
phản ứng của mình. Điều đó có nghĩa là ta phải đối
mặt với khổ đau, phải nhìn rõ được bản chất của nó
–bản chất tự nhiên của cuộc sống, và không có gì hơn
thế. Sở dĩ ta dễ bị lầm lạc vì trong cuộc sống
ta cũng có được những lúc vui sướng, các cảm giác khóai
lạc, nên ta nghĩ nếu ta có thể duy trì được hạnh phúc
nầy thì khổ đau sẽ không bao giờ đến nữa. Chúng
ta cố gắng mãi để thực hiện điều nầy, nhưng cuối cùng
rồi ta cũng nhận thấy rằng các dục lạc không thể kéo
dài mãi, vì chúng phải chịu sự chi phối của định luật
vô thường. Vậy mà tất cả các xã hội nhân loại đều
xây dựng trên khái niệm nầy –rằng hạnh phúc, khoái lạc
có thể được duy trì. Vì thế ta tiếp tục tìm kiếm,
khám phá những điều mới lạ, vì tất cả mọi người quanh
ta đều làm thế.
Chúng ta quên rằng các dục lạc phát sinh là do sự xúc chạm
của các giác quan, do đó vô thường; nếu không, chúng sẽ
trở thành những cảm giác khó chịu, khổ sở nhất dù đó
là nếm, xúc, thấy, nghe, ngữi hay nghĩ. Có vài cảm giác
có thể kéo dài hơn, nhưng tất cả đều phải chấm dứt
trước khi chúng trở thành một cực hình đối với ta.
Vậy mà ta lại dựa vào các xúc chạm để làm cho cuộc sống
của ta được hạnh phúc, sung sướng. Sau khi đã hoài
công cố gắng, có lẽ cuối cùng ta cũng nhận ra rằng, các
cảm thọ do xúc chạm mang đến không chỉ thoáng chốc, mà
còn không bao giờ vẹn toàn, ngay trong những giây phút dễ
chịu nhất, ta vẫn còn thấy thiếu cái gì đó. Chúng không
bao giờ mang đến cho ta sự thỏa mãn hoàn toàn, và đó là
khổ.
Sự tu tập, hành thiền có thể đến một lúc nào đó khiến
ta tin rằng mình có thể được toại nguyện trên con đường
tâm linh. Nhưng niềm tin nầy cũng có thể bị sai lạc
nếu ta không thể chấp nhận rằng ngay trong lãnh vực nầy
khổ cũng có mặt cho đến lúc ta có thể chuyển hoá tất
cả. Đức Phật thuyết rằng trên đường hành đạo
có bốn loại người. Loại người có nhiều phiền não,
khổ đau, cần nhiều thời gian hơn để đạt được kết
quả gì. Loại thứ hai cũng mang nhiều khổ, nhưng có
thể đạt được kết quả nhanh chóng hơn. Loại thứ
ba có nhiều thiện nghiệp (sukkha), nhưng cũng cần nhiều thời
gian để đạt được kết quả gì. Loại cuối cùng có
nhiều thiện nghiệp (sukkha), và có thể đạt được kết
quả nhanh chóng. Nếu chúng ta không thuộc vào loại cuối
cùng vừa kể, thì ta phải biết chịu đựng, chấp nhận những
hoàn cảnh bất như ý sẽ xảy đến cho chúng ta trong kiếp
sống nầy.
Niết bàn cao siêu hơn cuộc sống, còn khổ đau thuộc về
cuộc sống. Nếu ta có thể chấp nhận trọn vẹn điều
nầy, thì ta sẽ không còn khổ đau. Đó là khía cạnh
quan trọng nhất để hiểu được nghĩa của khổ đau.
Một khi tri kiến đó thấm nhuần cuộc sống của ta, ta mới
có thể bước lên phía trước để thừa hưởng nhiều thiện
nghiệp (sukkha) trên con đường đạo. Thân khổ là
điều không ai chối cãi được. Ngay chính Đức Phật
cũng thọ thân khổ. Thân khổ là điều phải chấp nhận,
nhưng tâm ta cũng phản ứng theo, nên khi thân đau đớn, tâm
cũng đau như thế. Những bậc giác ngộ dầu không thể
tránh thân bịnh, thân khổ nhưng tâm họ không khổ. Thân
ta quá mỏng manh, quá dễ bị hư hoại, bịnh tật, chết chóc,
nên lúc nào thân cũng có vấn đề, lúc thì vì tuổi già,
khi là cảm sốt, đau lưng, đau răng. Lúc nào ta cũng phải
quan tâm đến thân, nhưng tâm không cần phải bị ảnh hưởng
lây.
Trong cõi giới đau khổ nầy, ta cũng cần phải chấp nhận
rằng thân ta không bao giờ hoàn hảo. Người lớn tuổi
có thể dễ chấp nhận điều nầy hơn là tuổi trẻ.
Đức Phật gọi đó là ‘sự si mê của tuổi trẻ”, và
nhà biên kịch Bernard Shaw nói rằng: “Những người trẻ lãng
phí tuổi thanh xuân”.
Thân luôn cần được chăm sóc, quan tâm vì lúc nào nó cũng
có thể tan rã. Khi ta đã có thể nhận ra đó là một
trong những yếu tố gây ra khổ đau trong cuộc sống, thì ta
cũng có thể nghiệm ra rằng có thể tốt hơn là không tái
sinh với thân xác nữa. Khi đã có khái niệm đó rồi,
thì cảm giác nôn nóng (samvega) phát sinh, đúng hơn là sự
nôn nóng phải tu tập. Thân cần được cho ăn uống,
tiêu hóa luôn. Thân cần được chăm sóc sạch sẽ, được
nghỉ ngơi, móng tay, móng chân, tóc, răng, da cần được giữ
gìn; thân cần được thuốc men khi cần thiết. Lúc nào
thân cũng là mối quan tâm của ta. Khó có thể nói rằng
thân nầy mang đến cho ta sự khóai lạc.
Khi còn trẻ, người ta khó nhận ra điều đó, vì thân còn
khỏe mạnh, không có đau bịnh. Nhưng thử tưởng tượng
nếu ta có thể ngồi thiền mà không có thân. Có phải
là dễ dàng hơn nhiều không? Có thể điều đó khiến
ta nhận ra rằng có thân thật là khổ.
Tuy nhiên, Đức Phật dạy rằng cõi người là cõi giới tốt
nhất để đạt được giác ngộ , vì ở đó có nhiều đau
khổ –nhất là với thân- để thúc đẩy ta tu tập.
Tuy nhiên ta cũng có sự sung sướng (sukkha) tạo nên thế cân
bằng giúp ta có thể tu tập. Trong cõi giới thấp hơn,
khổ đau (dukkha) quá lớn khiến sự tu tập không thể thực
hiện được. Trong cõi giới cao hơn, thì sự sung sướng
(sukkha) tràn đầy khiến nỗi nôn nóng phải tu tập biến mất.
Quanh ta cũng có các vị chư thiên (devas) tu hành, nhưng đó
là thiểu số. Dĩ nhiên là với chúng sanh cũng thế, số
người biết tu tập, hành thiền cũng quá ít.
Dường như thân luôn đòi hỏi ta điều nầy, điều kia, nhưng
ta cần phải biết rằng chính là các phản ứng của tâm đã
mang đến cho ta khổ đau. Hãy trở về với cảm giác
khó chịu dấy khởi khi tọa thiền, ta sẽ nhận thấy ngay,
nếu ta không phản ứng theo các cảm thọ nầy, ta sẽ không
có khổ đau. Đây là điều thực tập rất quan trọng,
mà thỉnh thoảng ta cũng cảm nhận được. Chúng ta không
cần phải cầu mong sẽ được giải thoát khỏi khổ đau trong
tương lai, ngay hiện tại chúng ta cũng có cơ hội thực hiện
điều đó. Không khó khăn gì ta cũng nhận thấy các cảm
giác khó chịu chỉ làm ta khổ sở vì ta không muốn chấp
nhận chúng, vì ta mong muốn chúng phải khác đi. Nhưng
nếu chúng ta chấp nhận chúng đúng như bản thể của chúng,
một cảm giác khó chịu cũng chỉ là một cảm giác, như thế
ta sẽ không còn khổ đau.
Trong thuyết lý duyên khởi siêu việt rõ ràng Dukkha (Khổ)
được coi là trọng điểm, là đỉnh cao, vì trong lời dạy
của Đức Phật về sự giác ngộ giải thoát, đau khổ cũng
được nhắc đến nhiều nhất. Điều đầu tiên Đức
Phật dạy là: “Có một sự thật tuyệt đối về khổ”.
Điều nầy thường bị hiểu lầm khiến người ta cho là đạo
Phật yếm thế, chỉ nhấn mạnh đến khía cạnh đau đớn,
khổ sở, bất hạnh của nhân lọai. Sự thực trái ngược
lại. Giáo lý của Đức Phật giúp cho ta nhìn nhận khổ
đau một cách thực tế và chỉ cho ta phương cách để giải
thoát khỏi khổ đau.
Người ta cũng thường lầm tưởng rằng giáo lý của Đức
Phật dạy rằng mọi khổ đau sẽ chấm dứt nếu ta tu tập
thiền định, hay thay đổi cách nhìn. Không phải thế.
Khổ đau vẫn tồn tại; chỉ có kẻ khổ đau là không còn
nữa. Đó là giáo lý duyên khởi siêu việt.
Đức Phật đã nói: “Có hành động, nhưng không có người
thực hiện; có khổ đau, nhưng không có người đau khổ, có
con đường nhưng không ai dấn bước, có Niết bàn nhưng không
ai đạt được”. Nếu có ‘cái tôi’ nào đó muốn
đạt được Niết bàn, thì điều đó không bao giờ xảy ra.
Nói như thế giống như một câu thoại đầu nghịch lý trong
thiền, nhưng về sau, ta sẽ hiểu rõ hơn.
Tất cả chúng ta đều đã từng nếm trải thực tế của
cuộc sống bất như ý, vì ít khi ta hoàn toàn thỗ mãn với
cuộc sống của mình. Chúng ta đều có những kinh nghiệm
trong quá khứ khiến ta phải hối tiếc là chúng đã xảy ra.
Lại có những điều ta mong xảy ra thì chúng không bao giờ
đến. Cách tốt nhất để đón nhận khổ đau là bằng
lòng biết ơn, coi rằng nó xảy ra là để dạy cho ta những
bài học rất quan trọng. Cầu mong khổ đau chấm dứt
chỉ vô ích. Vì chúng vô thường, đằng nào chúng cũng
sẽ qua đi, nhưng nếu ta không học được điều gì từ những
bài học đó, thì khổ (dukkha) sẽ trở lại y như cũ.
Nếu ta học được kinh nghiệm nầy, thì khổ đau lại xuất
hiện trong một tình huống mới, cho đến khi ta nhận chân
được khổ, không gì hơn là sự hiện hữu trong vũ trụ.
Khổ không riêng dành cho ai. Không ai bị chọn lựa phải
hứng chịu một đau khổ nào đó. Nó chỉ xảy ra.
Sự chấp nhận “nó chỉ xảy ra” là bước đầu tiên tiến
đến giác ngộ. Khổ là như thế. Có những người
dầu sống sung sướng, vẫn cảm nhận được khổ đau.
Trái lại có nhiều người sống rất khổ sở, nhưng không
bao giờ nhận biết điều đó, chỉ biết oán trách hoàn cảnh.
Họ trách chính quyền, đổ cho bom đạn, nền kinh tế.
Có bao nhiêu thứ để người ta đổ lỗi. Dầu nếu soi
xét lại cuộc sống của mình, họ sẽ thấy họ cần học
từ kinh nghiệm đó để trưởng thành hơn. Mỗi ngày
chúng ta đều có cơ hội để học, vì đâu có mấy ai trải
qua một ngày không có khổ đau.
Khổ không nhất thiết chỉ thuộc về phần thể xác, dầu
rằng chính khía cạnh đó giúp ta thấy rõ sự liên hệ giữa
diệu đế thứ nhất và thứ nhì, do đó ta có thể dùng những
kinh nghiệm đó để tu tập. Cái mốc nối đó là ái
dục, lòng ham muốn có hay muốn không có. Đây hầu như
là lý do chung của tất cả mọi khổ đau, phiền não của
chúng ta. Khi đã biết rõ nguồn gốc của khổ đau, ta
có thể quán xét xem điều gì khiến ta ham muốn thứ nầy,
ghét bỏ thứ kia. Từ đó ta có thể huân tập để thay
đổi các cách phản ứng của ta, để có thể giúp ta sống
thuận theo con đường đạo. Khi ta vẫn còn phải xử
dụng tâm trí quẩn quanh với lòng ham muốn thứ nầy hay ghét
bỏ thứ khác, ta không có tự do xử ûû dụng năng lực của
mình để tu tập tinh tấn.
Có lần tôi tổ chức một khóa tu thiền cho các thanh thiếu
niên, và tôi muốn họ có kinh nghiệm tự thân về việc diệt
trừ đau khổ. Tôi mời họ tham dự một cuộc thể nghiệm.
Tôi yêu cầu họ hãy quán xét xem có điều gì đang làm cho
họ phiền não, không bằng lòng; rồi hãy buông bỏ lòng ước
muốn hay ý ghét bỏ, dù chỉ trong giây lát, sau đó xem thử
nỗi khổ đau (dukkha) của họ có biến mất không.
Hôm sau, tôi hỏi họ đã thể nghiệm chưa. Một cô gái
trả lời rằng mình đã, nên tôi yêu cầu cô chia xẻ kinh
nghiệm của mình. Cô bảo từ lúc đến tham dự khóa
tu thiền, cô đã ao ước có được quả chuông nhỏ với cái
đế đầy màu sắc của tôi; thật ra, cô đã suy nghĩ xem làm
sao tạo ra các thứ đó, mua các vật liệu ở đâu hay tìm
mua ở nơi nào. Sau khi nghe tôi giảng về khổ (dukkha),
cô nhận ra rằng những ý tưởng đó đã làm cô khổ đau
và bực bội. Vì thế, cô quyết định xả bỏ ước
muốn sở hữu cái chuông, đế chuông và các thứ trang sức
khác, giờ thì cô thấy rất an lạc.
Tôi đề nghị các bạn hãy thử nghiệm xem. Dĩ nhiên,
các nhu cầu vật chất dễ dàng được thỏa mãn ở phương
Tây, nhưng chúng ta cũng có thể quay vào, quán xét nội tâm,
xem điều gì đã khiến ta phiền não, hay điều gì chiếm lĩnh
tâm hồn ta khiến ta lo lắng, không an. Có phải là chuyện
tương lai? Khía cạnh nào của tương lai? Quán xét
trong giây lát, rồi hãy buông bỏ suy tưởng đó. Khi buông
bỏ rồi, ta sẽ thấy dễ chịu làm sao. Khi đã thực
tập như thế được giây lát, ta có thể thực hiện nhiều
lần sau nầy, ở nhiều lúc khác nhau. Đó là một kinh
nghiệm đáng cho ta thử, nhất là khi ta có thể khám phá ra
điều gì tiềm ẩn trong ta tiếp tục gây đau khổ cho ta, một
tác nhân liên tục gây đau khổ. Kinh nghiệm được điều
đó mới đáng kể, chứ không phải sự nghĩ suy.
Chúng ta có thể so sanh việc nầy với việc nếm thử mùi
vị một trái xoài. Nếu điều cố gắng diễn tả cho
ai đó về mùi vị nầy, chúng ta chỉ có thể nói: “Mùi vị
rất ngon; rất thơm, rất ngọt, mềm, nhiều nước”.
Nhưng liệu người nghe có thực sự biết mùi vị của quả
xoài? Chỉ khi thật sự nếm thử, họ mới thực sự
biết nó như thế nào. Biết nó không phải là trái mận
hay trái đào, mà là trái xoài, rõ ràng khác nhau. Cũng
thế đối với tất cả những lời dạy của Đức Phật;
chúng ta phải tự mình thực tập. Chúng ta đã có được
những lời hướng dẫn rõ ràng, dứt khoát của Đức Phật,
đó là điều thiết yếu. Khi chúng ta đem những lời
nầy ra áp dụng mà không lồng ghép thêm quan điểm của mình,
ta sẽ thực sự hiểu những kinh nghiệm nầy, từ đó đạt
được tri kiến giác ngộ. Đó là lý do tại
sao lời dạy của Đức Phật rất quan trọng đối với chúng
ta –chỉ khi nào ta đem chúng ra thực hành. Biết được
giáo lý Phật pháp là bước đầu tiên, kế tiếp là phải
nhập tâm các giáo lý đó, bước thứ ba là phải thực hành
những giáo lý đó để có thể tìm ra chân lý cho chính mình.
Ba giai đoạn nầy giúp ta đạt được trí tuệ.
THAM
VẤN
Thiền
Sinh (TS): Xin Ni Sư khai triển thêm làm sao mà cái
khổ do hiện hữu lại trở thành con đường đạo, chấm dứt
khổ. Ni Sư đã có giảng về điều nầy, nhưng con muốn
chắc chắn rằng mình đã thấu triệt, vì con rất dễ quên.
Thí dụ, khi con cảm thấy đau đớn nơi thân, thì dễ nói:
“Đây chỉ là thân giả tạm, tôi sẽ già, sẽ chết”.
Nhưng khi cái đau là ở tâm, con thường tự nhủ: “Ta phải
tu tập vì ta đau khổ quá”. Nhưng đôi khi sự thực
tập đi sai đường. Làm cho vấn đề trầm trọng thêm.
Đó là điều con muốn được khai triển thêm.
AYYA
KHEMA (AK): Trước hết hãy để tôi hỏi em: Khi
em nói “thực tập”, có phải ý em là ngồi xuống tọa thiền?
TS:
Dạ.
AK:
Thực tập, tu tập, không chỉ có tọa thiền. Còn
nhiều điều hơn thế nữa.
|