|
.
KHI
NÀO CHIM SẮT BAY
Hành
Trình Phật Giáo Về Phương Tây
Tác Giả:
Ni Sư AYYA KHEMA - Việt Dịch: Diệu Liên Lý Thu Linh
Dịch
từ bản tiếng Anh: When the Iron Eagle Flies - Buddhism For the West
Wisdom
Publications 1991, 2000
|
|
Chương
11
Những
Bước Kế Tiếp
Bước
Thứ 5 – 7
Theo mạch bài giảng về duyên khởi siêu việt, tiếp nối
là các tầng thiền định sâu xa hơn. Đã bước vào được
căn phòng thứ nhất trong lâu đài có tám phòng mà chúng ta
đã nhắc đến trước đó, thì không khó khăn gì để tìm
đưỡng vào những căn phòng còn lại. Đó chỉ là một
diễn tiến tự nhiên thôi.
Trong nhị thiền có hai yếu tố không còn hiện hữu nữa:
tầm và tứ. Chúng không còn cần thiết nữa, vì nếu
ta đã có thể trụ tâm vào một chỗ, ta không cần phải qua
những bước khởi động nữa. Vì thế đó
là một diễn biến tự nhiên tập trung vào một trong các thiền
chi đã phát khởi ở sơ thiền, đó chính là hạnh phúc,
niềm vui nội tâm. Chính nhờ vào các lạc thọ vật lý
ở sơ thiền mà hỷ lạc phát sinh. Trong nhị thiền, hành
giả cần tách biệt cảm thọ vật lý ra khỏi niềm vui tâm
linh. Ở giai đoạn nầy, hành giả đã có thể tự biết
là các cảm thọ vật lý còn rất thô, nên tự nhiên sẽ muốn
tiến đến cái gì tốt đẹp hơn. Hỷ lạc tâm linh, so
sánh ra thì vi tế hơn lạc thọ vật lý. Vì lạc thọ
đã có mặt trong sơ thiền, nên trụ tâm vào đó không khó
gì. Vấn đề là ở chỗ tách biệt, có nghĩa là buông
bỏ các cảm thọ vật lý, để trụ tâm vào những khía cạnh
tâm linh của trạng thái an lạc.
Đó là tiến trình của sự buông xả, và bước đầu tiên
là biết buông xả các lạc thọ vật lý. Cả hai cảm
xúc vật lý và tâm linh, đều mang đến cho ta niềm hồ hởi.
Lúc khởi đầu, chúng mang đến sự ngạc nhiên, thích thú.
Dầu đạt được chúng, ta cũng đã phần nào phải vào sâu
trong định, nhưng nhận thức tự nhiên báo cho ta biết rằng
đây chắc hẳn chưa phải là tất cả.
Trong nhị thiền, lòng tự tin phát khởi. Đây không phải
là một cảm giác tự tôn, thường dựa trên mặc cảm tự
ti mà ra, nhưng đó là sự chắc chắn vào khả năng có thể
tìm được niềm an lạc ở nội tâm, tùy theo ý của mình.
Khi thiền giả còn trong cuộc kiếm tìm ‘có không’, thì
chưa thể có sự tự tin, tuy nhiên, khi quá trình đã được
thành hình, vào khuôn nếp thì thiền giả sẽ đạt được
điều đó. Lòng tự tin nầy không chỉđược tạo ra
do có được niềm an lạc trong nội tâm, mà còn do khả năng
có thể tiến bộ trên con đường tâm linh –một sự tiến
bộ rõ nét khiến hành giả có thể biết chắc chắn rằng
nó hoàn toàn khác với tâm lăng xăng trước đây, do đó một
nội tâm vững chãi được thành hình. Lòng tự tin vào
khả năng có thể tiến trên con đường tâm linh và có thể
tìm được hạnh phúc trong các quả vị ngay trong cuộc sống
hằng ngày. Một thành tựu, khá quan trọng nữa, là nhu
cầu được người khác tán thưởng, hỗ trợ yếu dần đi,
vì với sự hỗ trợ từ nội tâm, hành giả đang tiến dần
đến sự độc lập, tự tin, tự thấy đủ.
Vì tất cả chúng ta đều đi tìm hạnh phúc, nên có được
cảm giác đầy đủ trong hạnh phúc, dĩ nhiên, là một bước
rất quan trọng. Trước đây chúng ta vẫn thường tìm
kiếm hạnh phúc đâu đó ở bên ngoài ta. Để thực sự
có thể tự thấy đủ trong khía cạnh tình cảm quan trọng
nhất nầy của chúng ta, mang dấu ấn của một sự vững chãi
trong nội tâm, không tùy thuộc vào sự khen ngợi của người
khác. Nó cũng không tùy thuộc vào sự thông cảm hay tình
cảm của người khác. Không có chúng, hạnh phúc cũng
không hề bị ảnh hưởng.
Hạnh phúc nội tâm tùy thuộc vào mức độ thiền định chứ
không phải vào sự tán thưởng của ai đó. Nhận biết
được điều đó giúp ta hiểu rõ rằng chính ta là người
tạo ra hạnh phúc hay bất hạnh cho mình mà thôi. Sẽ
không còn những sự dại khờ mà phần lớn chúng ta vẫn mắc
phải, đó là những cách suy nghĩ làm ảnh hưởng đến hạnh
phúc của bản thân. Sự thực hành thiền chỉ (samatha - tịch
tĩnh), nếu đúng phương pháp, sẽ đưa đến tuệ giác (vipassana
-tri kiến), và là một phương tiện thiện xảo giúp ta đạt
được mục đích nầy.
Tuệ giác phát sinh trong một tâm thông minh là một thực tại
nội tâm. Không có gì cần phải bám víu hay ao ước để
đạt được trí tuệ nầy. Với sự hiểu biết về những
kinh nghiệm đã trải qua khiến ta có thể thấy được sự
tương quan giữa nhân quả, và thấm thía sâu xa. Tất
cả mọi việc xảy ra trong đời sống cũng không nằm ngoài
những định luật nầy. Thí dụ không nhìn cẩn thận
trước khi qua đường, và việc suýt bị đụng phải, giúp
ta liên hệ giữa việc băng qua đường với việc phải cẩn
thận hơn, mà không cần phải tìm kiếm suy nghĩ sâu xa.
Đó là một diễn biến tự nhiên. Khi đã nếm trải được
hạnh phúc nội tâm do kết quả của thiền định mang đến,
chúng ta tự nhiên sẽ hiểu được rằng tha nhân hay hoàn cảnh
bên ngoài tự chúng không thể mang hạnh phúc hay bất hạnh
đến cho ta. Tất cả hoàn toàn tùy thuộc vào bản thân
ta. Lòng tự tin phát sinh, giúp ta thấy rằng ta thực sự
có khả năng mang lại hạnh phúc cho bản thân, không phải
bằng việc chạy theo hay hưởng thụ các dục lạc do các căn
mang tới, nhưng hoàn toàn qua con đường tu tập tâm linh.
Tự giác là yếu tố quan trọng nhất, có ý nghĩa nhất trong
việc duy trì sự thực tập, dần dần ta càng xem đó là ưu
tiên bậc nhất.
Mặc dù nhị thiền mang đến lòng tự tin, thiền giả hiểu
rằng đặc tính cố hữu của niềm an lạc nội tâm nầy vẫn
còn những khía cạnh thô lậu, vì nó còn chứa đựng một
niềm háo hức vi tế. Do đó theo sự phát triển tự nhiên,
thiền giả sẽ nghiêng về một điều gì đó lắng đọng
hơn, an tĩnh hơn.
Tầng thiền định sâu xa kế tiếp có thể được diễn tả
như một sự bằng lòng, tự tại. Trước đây, người
ta không gọi như thế, nhưng qua kinh nghiệm, ta thấy rõ ràng
có những đặc tính như thế. Tâm dần lắng dịu, trong
khi ở những giai đoạn trước với sự phấn khích vật lý
và niềm vui nội tâm, nó có vẻ thăng hoa. Cảm giác thực
sự lúc ấy như là tâm đang chuyển đến một tầng sâu hơn.
Những ước muốn thông thường vẫn còn có mặt, dầu chỉ
ở trong tiềm thức, dần lắng xuống sau khi ta đã đạt được
niềm vui nội tại. Khi không còn ái dục, không còn mong
muốn, thì cũng không còn khổ đau, điều đó mang đến cho
hành giả sự khinh an, tự tại.
Một ẩn dụ thú vị được dùng để nói về bốn tầng thiền
đầu tiên, sẽ diễn tả rõ ràng hơn những gì đang xảy ra.
Một kẻ lữ hành đang lang thang qua sa mạc khô cằn và đang
khổ sở vì cơn khát cùng cực. Đó là chúng ta khi còn
bị tâm lăng xăng điều khiển. Chúng ta khát khao sự
bình yên, tâm tĩnh lặng, hoà hợp khi đang lang thang trong sa
mạc của tâm vọng tưởng. Chưa có giải pháp nào hiện
ra trứơc mắt.
Kẻ lữ hành trên sa mạc bỗng thấy một hồ nước ở đằng
xa. Anh ta trở nên khá phấn khởi, và chắc chắn là rất
muốn tới được nơi đó. Đây có thể coi như tầng
thiền thứ nhất, gồm có những sảng khoái vật lý, mà trong
đó có yếu tố phấn khởi. Có thể dịch chữ piti (sản
khoái vật lý) như là ‘hứng thú’, vì thuờng sự hứng
thú trong thiền định bắt đầu ở điểm nầy –một cảm
giác đầy hy vọng, đầy sảng khoái phát sinh khi thấy cơn
khát sắp được giải rồi.
Kẻ lữ hành đến gần với hồ nước hơn, đứng cạnh ngay
bờ hồ, biết rằng giờ anh ta có thể tìm được sự giải
thoát. Viễn ảnh đó mang đến hạnh phúc cùng sự hưng
phấn. Đó là ẩn dụ cho tầng thiền định thứ hai.
Anh ta cúi xuống uống nước, cảm thấy hài lòng vì đã đạt
được những gì anh ta cần, anh ta mong mỏi. Cuối cùng
thì anh ta nằm xuống một bóng cây cạnh bên bờ hồ, cảm
thấy hoàn toàn thỏai mái.
Tầng thiền định thứ ba được diễn tả như một sự an
nhiên, tự tại, cảm giác sảng khoái vật lý đã không còn.
Chỉ còn nhất tâm và lạc là hai thiền chi còn lại của năm
thiền chi đầu tiên chứng nghiệm được từ tầng thiền
định thứ nhất. Trong tầng thiền thứ tư, chỉ còn
lại nhất tâm; từ đó đưa đến tâm xả, hoàn toàn thanh
tịnh, có thể so sánh với trạng thái thỏa mãn của kẻ lữ
hành nằm nghỉ dưới bóng cây. Sự thanh tịnh có thể
sâu lắng đến độ tai không còn nghe các âm thanh nữa, khiến
tâm được hoàn toàn nghỉ ngơi. Đây là trạng thái thiền
định trong đó tâm có thể được hồi sức bằng những nguồn
năng lượng mới.
Chúng ta quen coi thường tâm. Bắt nó suy nghĩ từ sáng
đến tối, rồi lại mơ màng từ tối đến sáng, lúc nào
cũng bận rộn. Ta cứ nghĩ tâm sẽ cứ phải như thế
mãi, hay một ngày nào đó phải hoạt động tốt hơn thế
nữa. Tuy nhiên, trừ trường hợp ta tạo cơ hội để
tâm được phát triển như thế, nếu không điều đó khó
thể xảy ra. Trái lại, có thể càng ngày tâm càng hoạt
động yếu kém đi, vì tâm, một dụng cụ tinh vi nhất trong
vũ trụ, cũng cần phải được chăm sóc như tất cả những
dụng cụ mỏng manh, vi tế khác. Nếu ta lạm dụng tâm,
không cho nó được một phút nghỉ ngơi, dần dần nó sẽ
ngưng hoạt động, hoặc ít ra cũng không còn hoạt động tốt
nữa. Vì thế, thay vì mơ ước suông rằng tâm ta một
ngày nào đó sẽ hoạt động tốt hơn, ta cần phải nhận
thức được rằng ta sẽ bào mòn khả năng của tâm nếu cứ
tiếp tục dồn ép nó với công việc phải luôn suy nghĩ lăng
xăng. Tâm ta có khả năng tự hồi phục, vì thế ta nhất
thiết không được bỏ qua khả năng nầy. Khi tâm hoàn
toàn được ngơi nghỉ, nó không phải lo lắng đến các căn
trần, nó hoàn toàn tịch tĩnh và có thể chuyển trở về
trạng thái thanh tịnh ban sơ để hồi phục năng lực.
Bốn tầng thiền định là những phương tiện để ta trở
về với tâm thanh tịnh ban sơ, luôn sẵn có khi ta không lăng
xăng suy nghĩ. Chính quá trình tư duy đã mang những ô
uế, bất tịnh đến với tâm. Chúng ta đã đánh mất
khả năng dừng suy nghĩ lăng xăng, do đó ta không còn biết
đến tâm thanh tịnh ban sơ. Trong thiền định hành giả
có cơ hội để truy tìm tâm ban sơ, có khả năng mang đến
cho ta sự sảng khoái, niềm vui, khinh an và hạnh phúc.
Chứng nghiệm được các trạng thái nầy giúp ta có thể tiến
bước trên con đường đến tuệ giác.
Khi chúng ta đã chứng nghiệm được niềm hạnh phúc, tự
tại sâu lắng, không còn những ước mơ, lo lắng, thế giới
nầy không còn quyến rũ ta như trước đây, tức là ta đã
bước được một bước đến giải thoát. Khi ta đã
có khả năng biến những ước mơ thầm kín thành hiện thực
trong nội tâm, ta không còn phải tìm kiếm hạnh phúc bên ngoài.
Chứng nghiệm được một trạng thái tâm hoàn toàn thanh tịnh,
không qua sự tiếp xúc của các căn, cho ta thấy rằng các
căn chính là những cạm bẫy của ta. Chúng luôn cám dỗ
ta phải phản ứng. Chỉ khi nào ta đã chứng nghiệm được
rằng khi không có sự tiếp xúc với các căn –hạnh phúc
tuyệt vời hơn tất cả những gì ta đã biết đến trước
đây- lúc ấy ta mới có ý muốn, có khả năng buông bỏ việc
tìm kiếm những cảm giác dễ chịu. Điều đó không
có nghĩa là từ giờ ta sẽ không còn có những cảm giác như
thế; chỉ là niềm kỳ vọng rằng ta sẽ tìm được thỏa
mãn qua các căn được buông bỏ, do đó ta không còn phải
thất vọng nữa. Khi ta không còn tìm kiếm những cảm
giác thường hằng qua các căn, ta có thể hoàn toàn tự tại
với bản thân.
Từ kết quả của tâm thanh tịnh do các tầng thiền định
mang đến, tâm có thể chấp nhận giả thuyết rằng không
có một cá tính riêng biệt nào. Tâm chưa đạt được
sự thanh tịnh, an lạc bên trong sẽ thấy khó chấp nhận rằng
tất cả những cố gắng để được hạnh phúc là vô vọng.
Nhưng tâm thanh tịnh, an vui, tự tại không phủ nhận
điều đó. Trái lại, tâm hoan hỷ nhận ra rằng tất
cả những gì thuộc thế tục đều kém thua. Qua các tầng
thiền định, con đường đưa đến tri kiến chấp nhận có
một chân lý tuyệt đối không bị bủa vây bởi nhiều chướng
ngại.
Dầu hành giả có thể đạt được tri kiến mà không cần
phải nhập định, vì khi tọa thiền khá lâu, thì tâm cũng
lắng đọng xuống, nhưng đó là một con đường gian nan.
Vì tâm thường phản kháng những gì nó chưa biết, chưa từng
trải, do đó có thể ngăn trở các tri kiến, là điều mà
tâm hoàn toàn hạnh phúc, an nhiên, tĩnh lặng sẽ không bao
giờ làm. Trái lại tâm tự tại phóng khoáng, nhu nhuyễn,
dễ uốn nắn, rộng mở. Đức Phật đã chọn con đường
của thiền định.
Có hành giả nghiêng về con đường yên tĩnh, bình lặng, nhẹ
nhàng, người khác lại bị thu hút bởi phương thức mạnh
mẽ, nhanh chóng, quyết liệt hơn. Phương thức thứ hai
dễ dẫn đến xung đột. Tốt hơn ta nên xử dụng khả
năng định tĩnh của tâm để thay đổi các nhận thức của
mình đến độ ta không còn cảm thấy khó khăn trong việc
chấp nhận chân lý tuyệt đối của ‘vô ngã’. Điều
đó đòi hỏi sự can đảm, ý chí để từ bỏ các khái niệm
cũ. Để có thể toạ thiền với tâm không lăng xăng
vọng tưởng đòi hỏi sự buông bỏ các cảm nhận về bản
ngã, là cái chỉ hiện hữu qua sự hỗ trợ của tư tưởng.
Dĩ nhiên là sau khi xả thiền, cái ngã lại xuất hiện.
Nhưng nếu chúng ta đã có thể trải qua kinh nghiệm quý báu
của ‘vô ngã’, dầu chỉ trong giây phút ngắn ngủi, chúng
ta sẽ nhận ra các ngã tưởng dễ dàng hơn.
Ba tầng thiền định đầu tiên dễ đạt được. Đó
chỉ là vấn đề buông xả, thư giãn, không mong muốn phải
là gì, phải là ai đó, hay phải được trí tuệ gì.
Chúng ta để cho tâm được lắng đọng, tự giải ra khỏi
những suy nghĩ đã thành nếp, khỏi những lo âu, suy tưởng,
để thay vào đó sự chú tâm vào các đề mục thiền quán.
Người ta thường thấy khó thiết lập ý nghĩ của niềm vui
nội tâm, nói chi đến việc chứng nghiệm. Ta cần phải
chấp nhận sự thật rằng niềm vui nội tâm hiện hữu trong
ta, rằng ta có thể khám phá được nó.
Các tầng thiền định tùy thuộc vào nội tâm thanh tịnh,
dầu rằng sự thanh tịnh đó chỉ tạm bợ, thoáng qua.
Bởi thế bất cứ sự thanh tịnh nào chúng ta có thể phát
khởi trong cuộc sống hằng ngày sẽ giúp ta trong thiền định.
Để đạt được thanh tịnh trong cuộc sống đời thường
có nghĩa là ta cần phải chánh niệm trong tư tưởng, hành
động, để có thể buông bỏ những tư tưởng, hành động
bất thiện. Như thế sẽ giúp cho con đường tu thiền
của ta được dễ dàng hơn. Khi hành thiền mà có được
định khiến ta muốn tọa thiền lâu hơn, do đó giúp ta dễ
dàng thích nghi trong cuộc sống đời thường. Cuộc sống
không còn trĩu nặng những âu lo, những chướng ngại, mà
chỉ là những cái khổ thông thường có thể chấp nhận được
trên thế gian nầy, chứ không đè nặng trên lương tâm ta
khiến ta cảm thấy xuống tinh thần hay đau khổ vì nó.
Dầu không thể mang những kinh nghiệm thiền định vào trong
cuộc sống hằng ngày, nhưng chắc chắn rằng ta có thể mang
những dư quả để duy trì cuộc sống, và tâm biết rằng
nó có một mái nhà để nương náu.
THAM
VẤN
Thiền
Sinh (TS): Có thể thực hành chỉ và quán cùng lúc
không thưa Ni Sư?
AYYA
KHEMA (AK): Khi tâm có thể vào định, thì tuệ giác
đồng thời có thể phát sinh. Cả hai đều có thể thực
hành.
TS:
Tâm lăng xăng có thể hoàn toàn biến mất hay chỉ giảm mật
độ thôi thưa Ni Sư?
AK:
Lúc ban đầu, nó giảm mật độ; điều đó được gọi là
‘chủ tâm lân cận’ (neighborhood concentration) –khi ta
không còn cần phải đặt tên cho các suy nghĩ của ta.
Những nghĩ suy lúc đó giống như những đám mây ở phía sau.
Bước kế tiếp là buông bỏ ngay cả các suy nghĩ loáng thoáng
đó, mà chỉ chú tâm vào hơi thở. Tâm do đó dần lắng
đọng, hoà nhập với hơi thở, để tâm và hơi thở trở
thành một.
TS:
Có lần Ni Sư đã bảo thật kinh hoàng khi phát hiện ra ta không
giống như ta đã nghĩ tưởng. Đó có phải là kinh nghiệm
thực sự đầu tiên của ‘vô ngã’?
AK:
Đó là kết quả của sự chứng nghiệm vô thường quá mạnh
mẽ đến nỗi ta không còn có thể bám víu vào thứ gì.
Sau đó đến ‘vô ngã’, nhưng vì sự kiện đó khiến ta
sợ hãi, nên nó không thể phát triển thành một khoảng khắc
đắc đạo của cái nhìn nội tâm toàn vẹn.
TS:
Thưa Ni Sư, tâm bình an, hạnh phúc có tự động phát khởi
khi ta tiến qua các giai đoạn thiền định, hay ta phải có
một nỗ lực đặc biệt nào đó, như là hành thêm quán từ
bi.
AK:
Đối với một số người, quán từ bi có thể là cửa vào
thiền định. Khi chúng ta có thể mở ngỏ trái tim, thì
tâm ta cũng có thể làm như thế.
TS:
Thưa Ni Sư, các tầng thiền định nầy có thể xảy ra trong
một buổi tọa thiền hay sẽ xảy ra trong nhiều năm?
Khi đạt được một tầng thiền định, ta có ngưng lại một
khoảng thời gian trước khi tiếp tục tầng thiền khác?
AK:
Nếu được hướng dẫn, các tầng thiền nầy xảy ra liên
tiếp khá nhanh. Tầng thiền thứ nhất và thứ hai thực
ra thường phát khởi cùng lúc –chúng ta chỉ phải phân biệt
chúng- còn tầng thiền thứ ba là một tiến trình tự nhiên.
Tầng thứ tư thì hơi khó; cần phải trải qua nhiều thời
gian ngồi thiền, thí dụ như thường diễn ra ở các khóa
thiền chuyên sâu.
TS:
Có thể thực hiện điều nầy mà không cần có thầy hướng
dẫn không thưa Ni Sư?
AK:
Cũng có thể, nhưng nó sẽ kéo dài hơn, sẽ chậm hơn, và
có thể không hoàn toàn tốt đẹp, vì thiền sinh sẽ không
bao giờ chắc chắn rằng mình đang thực hành đúng. Cuối
cùng, họ cũng phải tìm đến ai đó để chứng minh cho sự
kinh nghiệm của mình.
|