|
.
KHI
NÀO CHIM SẮT BAY
Hành
Trình Phật Giáo Về Phương Tây
Tác Giả:
Ni Sư AYYA KHEMA - Việt Dịch: Diệu Liên Lý Thu Linh
Dịch
từ bản tiếng Anh: When the Iron Eagle Flies - Buddhism For the West
Wisdom
Publications 1991, 2000
|
|
Chương
6
Tự
Tin & Tín Tâm
Bước
2
Bước kế tiếp của duyên khởi siêu việt là niềm tin và
lòng tự tin. Khi thực sự nhận ra rằng dukkha (khổ) luôn
có mặt trong cuộc sống thế gian, sẽ có lúc chúng ta
muốn tìm đến một cái gì xuất thế gian hầu giúp ta giải
thoát khỏi khổ đau. Nếu ta có thể tìm ra được một
giáo lý tâm linh nào đó, thì lòng tin hay tín tâm vào giáo
lý đó sẽ phát khởi. Lòng tin đó phát khởi từ trong
nội tâm, không phải do lý trí, vì ở những bước khởi đầu
trên con đường tu, ta khó thể có những kinh nghiệm thực
chứng của giáo lý ấy. Do đó, ta không thể xác định
giáo lý đó là chân thực, dựa trên lý luận, tri thức.
Nhưng từ trong thâm tâm ta có thể cảm nhận được đấy
là một chân lý tuyệt vời, thậm sâu hơn tất cả những
gì ta đã được nghe, được nghiên cứu trước đây.
Tự trong niềm tin đã có tình thương, vì chúng ta chỉ có
thể tin vào những gì mình thương quý. Không có tiếng
nói của con tim, chúng ta không thể tự động tin tưởng vào
bất cứ điều gì.
Những kẻ đầy lòng hoài nghi, khó thể hoàn toàn tin tưởng
vào bất cứ điều gì hay bất cứ ai. Lúc nào họ cũng
níu giữ một điều gì đó lại, muốn được làm chủ phần
nào. Do đó, không bao giờ họ có thể toàn tâm, toàn
ý tin theo điều gì. Nếu ta còn níu giữ điều gì đó,
thì sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển tâm linh của mình.
Không có liên hệ nào mật thiết hơn sự liên hệ với con
đường tâm linh của chính mình. Đó là sự liên hệ
thấm thiết nhất mà ta có thể có được. Nếu ta có
liên hệ với ai đó, như trong hôn nhân, mà ta không hoàn toàn
tin tưởng người đó, luôn hoài nghi không biết người phối
ngẫu có phải là đối tượng mình kiếm tìm, không biết
việc kết hôn có đúng không, thì cuộc hôn nhân đó khó tốt
đẹp. Mặc dầu trước lúc kết hôn, người ta cũng không
biết điều gì sẽ xảy ra. Cũng thế với con đường
tâm linh. Khi chúng ta vừa bắt đầu đặt chân lên đó,
ta chưa biết sẽ được kết quả gì. Chúng ta cũng chưa
hiểu biết nhiều giáo lý. Không có nhiều điểm tựa,
vì cho đến lúc ấy chúng ta chưa quán xét về bản thân đủ.
Tuy nhiên, nếu chúng ta không hoàn toàn tin tưởng vào con đường
đạo, thì sự tu tập của ta khó mà thành công.
Rất ít người có khả năng tin tưởng hoàn toàn, đó là lý
do tại sao rất ít người thực sự được chuyển hoá qua
việc thực tập tâm linh. Sự chuyển hóa đó là buông
bỏ quan điểm, buông bỏ ý kiến nọ kia, các định kiến
của mình, để thay vào đó tuân theo những lời dạy của
Đức Thế Tôn. Mặc dầu những điều nầy nói có vẻ
đơn giản, nhưng trên thực tế, phần đông chúng ta thấy
khó vô cùng. Những quan điểm đã thành hình, dựa trên
quan điểm của xã hội, văn hoá nơi người đó sống, luôn
trở ngại họ.
Chúng ta cũng cần nhớ rằng tâm trí luôn phải đi đôi với
nhau. Nếu ta có thể hiểu một vấn đề nào đó bằng
lý trí, nhưng không thể chấp nhận, tin yêu, thì ta không bao
giờ thấy thỏa mãn, vẹn toàn. Ngược lại, nếu chúng
ta tin yêu điều gì mà không thể hiểu, không thể lý giải,
thì kết quả cũng thế. Thí dụ nếu như ta có liên hệ
với ai đó, ta yêu thương người đó, nhưng không hiểu họ,
thì mối liên hệ cũng khó vẹn toàn; ngược lại nếu ta hiểu,
thông cảm với ai đó nhưng không yêu được họ, thì kết
quả cũng thế. Điều nầy càng rõ ràng hơn trên con đường
đạo. Chúng ta phải hiểu nghĩa lý của Phật pháp, cũng
như tin yêu giáo lý đó. Lúc đầu khi sự hiểu biết
của chúng ta còn hạn chế thì niềm tin yêu càng phải sâu
rộng hơn.
Lòng tin, tín tâm dựa vào sự cởi mở của tâm, biết buông
bỏ những định kiến vế giáo lý cũng như quan niệm về
một vị thầy phải như thế nào. Cần phải buông bỏ
những định kiến đó vì chúng chỉ dựa trên các giả định,
chứ không phải dữ kiện. Chúng ta cần phải như đứa trẻ
nắm tay mẹ băng qua con đường đầy xe cộ, phải tự tin
rằng mẹ ta biết hơn ai hết. Nếu chúng ta có thể dốc
lòng như thế, thì cảm giác an lành sẽ phát sinh.
Đức Phật đã ví lòng tin như một gã khổng lồ mù, người
đã gặp một kẻ què quặt với đôi mắt sáng, có tên gọi
là Trí Tuệ. Người khổng lồ mù, có tên là, Lòng Tin,
đã nói với người tàn tật có đôi mắt sáng rằng, "Tôi
rất mạnh, nhưng tôi không thấy, bạn rất yếu, nhưng có
đôi mắt sáng. Hãy đến ngồi lên vai tôi. Hai chúng
ta hợp lại sẽ có thể đi được rất xa". Thật vậy,
Đức Phật không bao giờ tán thán một lòng tin mù quáng, Ngài
muốn chúng ta phải xử dụng cả tâm và trí, cân bằng giữa
trí tuệ và lòng tin. Với cả hai đức tánh nầy, chúng
ta sẽ có thể đi rất xa.
Có câu nói rằng lòng tin mù quáng có thể dời cả núi non,
tiếc rằng nó đã bỏ qua một chi tiết là, nếu mù, lòng
tin làm sao thấy được ngọn núi nào cần được dời đi.
Vì thế cũng rất cần có trí tuệ, nghĩa là sự thấu hiểu
rốt ráo giáo lý cũng rất cần thiết. Ngay cả ở giai
đoạn đầu khi kinh pháp còn xa lạ, khó hiểu đối với chúng
ta, ta cũng phải quyết dốc lòng tìm hiểu. Khi làm việc
gì, dầu trồng tỉa ngoài vườn hay xây cất căn nhà, ta cũng
phải làm với tất cả tấm lòng. Nhờ sự tinh tấn đó
ta sẽ thành công. Nếu không thì cũng giống như là mày
mò với một trò chơi mới.
Chỉ khi ta nhận ra rằng không có cách gì khác hơn để thoát
ra khỏi khổ, thì ta mới có thể hết lòng, hết sức mà theo.
Nếu ta còn tìm kiếm một kẻ hở nào đó, còn chạy theo hạnh
phúc thế gian, thì ta vẫn chưa dốc lòng đi trên con đường
đạo. Sự tu tập mài dũa những góc cạnh lồi lõm trong
tâm hồn ta, đào sâu nội tâm, đến độ có thể cuối cùng
ta không còn nhận ra bản thân nữa. Có thể coi như ta
hoàn toàn bộc lộ mình ra; phơi bày hết những gì ta muốn
tự giấu mình, giấu người. Có vậy thì mới mong sửa
đổi, chữa lành mọi thứ được. Vì hành động nầy
thường rất khó khăn, đau đớn, nên ta phải dốc lòng, dốc
sức để hiểu được rốt ráo ý nghĩa của khổ đau.
Nếu chúng ta nghĩ rằng còn có thể tìm được hạnh phúc
ở thế gian nầy, nhưng ta chưa tìm ra được, thì ta khó lòng
nhận lãnh trách nhiệm khó khăn đó. Trái lại ta vẫn
tiếp tục tìm kiếm câu trả lời trong thế gian nầy.
Thế giới đầy rẫy bao cám dỗ, bao niềm vui, sắc đẹp,
cũng như cơ hội, cả một cuộc đời cũng chưa đủ để
khám phá tất cả.
Chúng ta cần một sự thuyết phục hoàn toàn, không chỉ đối
với khổ đau, mà cả đối với chân lý với tất cả tấm
lòng rộng mở. Đức Phật đã nói rằng: "Người có
ít bụi trong mắt” khi nghe được chân lý, sẽ biết đó
là chân lý và dốc lòng tin theo. Điều đó không có nghĩa
là ta không có thể hoàn thành những bổn phận hằng ngày
của mình. Trái lại ta có thể thực hiện chúng tốt
hơn, vì giờ những bổn phận đó chỉ là chuyện thứ yếu,
không còn là những vấn đề quan trọng nữa. Ưu tiên
được dành cho sự phát triển tâm linh của ta.
Các công việc hằng ngày, dầu vẫn còn chiếm thời gian, sức
lực, trách nhiệm của ta, nhưng không còn gây nhiều áp lực
cho ta như khi chúng còn là tất cả những gì ta phải quan tâm
đến. Trước đây ta đòi hỏi chúng phải hoàn hảo,
nếu không ta cảm thấy như mình thiếu khả năng. Giờ
ta có thể nhận ra tính cách vô thường và tái diễn
của chúng, nhưng cần thiết phải duy trì, giống như những
vòng quay của trò chơi cỡi ngựa. Chúng không còn là
một phần quan trọng trong cuộc đời ta. Do đó ta có
thể sống ung dung hơn. Chúng ta không còn lo lắng phải
luôn đúng, luôn hoàn hảo, vì ta biết rằng còn những vấn
đề quan trọng hơn, sâu xa hơn đối với ta.
Từ đó chúng ta theo dõi sự phát triển tâm linh như ta phải
làm đối với một loại cây mỏng manh nào đó trong vườn.
Chúng ta che chở, chăm bón, bảo vệ nó khỏi mọi giông bão.
Kiếp sống của chúng ta cũng mỏnh manh dường ấy, khi ta chưa
thành người giác ngộ. Chỉ khi đã đạt được giác
ngộ, ta mới thấy an ổn. Còn chưa đến lúc đó, vẫn
còn nỗi đe dọa ta sẽ tạo ra các ác nghiệp, tham sân si,
khiến trở ngại sự phát triển tâm linh của ta.
Chúng ta có thể trở nên tự mãn khi tọa thiền, khi tinh tấn
thực hành trên con đường tâm linh. Sự tự mãn đó không
giống với tự tại. An nhiên tự tại là điều cần
thiết, tự mãn là điều cần tránh. Tự tại là biết
rằng mình đang ở đúng chỗ, đúng thời để giúp cho sự
phát triển của mình. Nhưng tự mãn hàm ý rằng ta thấy
không cần thiết phải tấn tới nữa. Tất cả những
điều nầy rất quan trọng trong sự chọn lựa của ta, giúp
ta trở nên một người toàn vẹn, với một mục tiêu rõ ràng.
Tín tâm là một đặc tính không thể thiếu trên con đường
tâm linh. Với Tam Bảo -Phật, Pháp và Tăng- Pháp là quan
trọng nhất đối với chúng ta.
Vào thời Đức Phật còn tại thế, có một vị tỳ kheo quá
ngưỡng mộ Đức Phật, ông luôn theo sát chân Ngài như một
chú chó con. Đức Phật đến nơi nào, vị tỳ kheo đến
nơi đó. Một ngày kia vị tỳ kheo bị bịnh, ông phải
nằm trong giường. Lúc đó, ông bắt đầu khóc than.
Khi các bạn đồng tu đến thăm, họ hỏi ông: "Tại sao ông
khóc? Bịnh ông đâu đến nỗi nào. Có việc gì
thế?"
Ông đáp, "Tôi khóc vì do phải nằm bịnh, tôi không thể gặp
được Đức Phật".
Các vị tỳ kheo khác trả lời, "Ông chớ lo âu, chúng tôi
sẽ báo lại với Đức Phật. Ngài sẽ đến thăm Ông".
Khi hay tin, Đức Phật lập tức đến thăm vị tỳ kheo bị
bịnh, làm vị nầy vui hẳn lên, xem hạnh phúc lắm. Lúc
đó Đức Phật thuyết rằng, "Ai thấy Như Lai là thấy Pháp;
ai thấy Pháp là thấy Như Lai".
Ai được thấy Đức Phật thì không thấy gì hơn là sự giác
ngộ giải thoát, là điều căn bản của Pháp. Ai có thể
thấy được Pháp trong nội tâm mình, là thấy Đức Phật,
đồng nghĩa với giác ngộ. Báu vật quý giá nhất là
nhận ra được Pháp nơi chính bản thân mình, không phải bám
víu vào ai, dù người đó là Đức Phật, vị Thầy dẫn lối
cho ta đi. Khi ta có lòng tin chân thật nơi Pháp, ta sẽ
có thêm động lực để thực hành. Báu vật đó quý
giá hơn tất cả mọi thứ quý giá trên đời, vì nó có thể
giúp ta vượt qua, chuyển hóa tất cả mọi vấn đề, mọi
trở ngại trên thế gian nầy. Chướng ngại, khó khăn
không biến mất đi, nhưng chúng ta không còn coi chúng là chướng
duyên vì chúng ta đã tìm được chân lý tuyệt đối.
Lòng tự tin và tín tâm là những phần không thể thiếu trong
việc thực hành tâm linh, ngoài lòng ngưỡng vọng và biết
ơn. Đây là những đức tính ta có thể ươm trồng trong
ta vì chúng ít được thể hiện ra ngoài. Chúng ta cần có
lý tưởng để ngưỡng vọng, và ta có thể tràn đầy lòng
biết ơn khi hiện tại ta đã tìm ra được một lý tưởng
để tôn thờ; một lý tưởng được coi như vật quý báu
nhất trên đời, đó là Pháp, là những định luật tự
nhiên, giúp cho ta thấy được chân lý tuyệt đối. Lòng
ngưỡng vọng đó được thể hiện qua thái độ của ta đối
với cuộc sống quanh mình, vì không có gì hiện hữu trên
cõi đời nầy không chứa đựng Pháp, không mang tính vô thường
(anicca), khổ (dukkha) và vô ngã (anatta). Dầu ta nhìn ở
nơi đâu, bên trong hay bên ngoài ta, tất cả đều là Pháp.
Lòng ngưỡng vọng đối với Pháp giúp ta có lòng thương cảm
đối với cuộc đời, đối với tất cả mọi chúng sanh vì
không có gì khác hơn ba đặc tính trên, do đó tất cả đều
chất chứa khổ đau. Lòng tin yêu, kính trọng ta dành
cho Pháp được thể hiện qua thái độ của ta đối với tha
nhân, đối với việc tu tập của ta. Trong truyền thống
Thiền Nhật bản có một thói quen rất đẹp là thiền sinh
vái chào các thiền sinh khác, cũng như tọa cụ của mình trước
khi ngồi xuống tọa thiền. để tỏ lòng kính trọng đối
với tọa cụ họ sắp dùng, và huynh đệ đồng tu với mình.
Chúng ta càng tập cho mình có được thái độ đó, ta càng
cảm thấy nhẹ nhàng, cởi mở. Lòng ngưỡng mộ chứng
tỏ rằng có điều gì đó còn to tát hơn bản thân ta, hơn
tất cả các định kiến, các khả năng. Một điều gì
đó mà chúng ta có thể coi như là mục đích cuối cùng của
mình. Lòng ngường mộ khiến ta gắn bó với tín tâm.
Lòng biết ơn là biểu hiện của tình thương, của sự tương
quan và có thể nới rộng ra đến với giáo lý, với sự tu
tập, thực hành, nơi chốn, với các bạn đồng tu, với tất
cả mọi chúng sanh, mọi hữu tình trong vũ trụ. Chúng
ta có thể tri ân duyên lành đã đưa chúng ta đến với Con
Đường Thánh Đạo. Tất cả các đặc tính nầy -tín
tâm, sự tự tin và lòng biết ơn- giúp ta dứt bỏ được
các ngã mạn, các định kiến cá nhân vì chúng ta đã tìm
được một thực tại vi diệu hơn, vượt lên tất cả mọi
sự lo lắng ích kỷ cho riêng bản thân.
Niềm tin, phát khởi do ta đã nghe được chân lý, cần một
nền tảng vững vàng dựa trên sự tìm tòi khám phá và tình
thương yêu, nhưng không bao giờ một cách mù quáng. Đức
Phật đã dạy, "Nầy hỡi các Tỷ kheo, tất cả vũ trụ nầy
đều nằm trong sải thân và tâm nầy.” (Sải là một
đơn vị đo lường của thời xưa, khoảng một thước tám).
Nếu tất cả vũ trụ đều ở trong thân tâm nầy, thì đó
là nơi ta cần quay về khám phá. Mọi lời giải đều
ở trong ta, chỉ vì ta chưa khám phá ra chúng thôi. Khả
năng tìm được chân lý trong nội tâm ta, đòi hỏi ta phải
có sự tự tin nơi bản thân. Nếu không, ta dễ thối
chí, không thể theo đuổi cho đến cùng. Niềm tin hoàn
toàn rốt ráo giúp ta chắc chắn về con đường đã chọn,
dù rằng ta chưa tìm ra chân lý. Đó là một sự thỏa
hiệp, chấp nhận từ nội tâm, một sự thay đổi, chuyển
hóa hoàn toàn để có thể thoát khỏi khổ đau, tiến đến
tự do, giải thoát.
Nếu cả vũ trụ nầy đều ở trong ta, ta cần phải biết
thương yêu bản thân. Không có lòng thương, không thể
có tín tâm. Chúng ta cần có một tình thương bao gồm
sự dấn thân, một cảm giác trọn vẹn trong tâm hồn cũng
như trong việc thực hành, chứ không phải phân hai, lúc thì
nhớ thực hành, lúc lại quên. Khi đã có niềm tin và
sự tự tin, thì một con người vẹn toàn và một hướng đi
chắc chắn sẽ là kết quả tất yếu.
THAM
VẤN
Thiền
Sinh (TS): Thưa Ni Sư, nếu không có ngã, thì chúng
ta thương yêu ai? Nói thế có phải là nghịch lý không?
AYYA
KHEMA (AK): Nghe có vẻ như nghịch lý vì có
hai cách hiểu. Nếu dựa trên chân lý tuyệt đối thì
không có gì cả. Không sanh, không diệt, vô ngã.
Nhưng dựa trên chân lý tương đối, ta còn phải đối mặt
với các cảm thọ, các vấn đề của mình. Chúng ta đối
thoại ở đây dựa trên chân lý tương đối, vì trên chân
lý tuyệt đối, chúng ta sẽ không có gì để nói với nhau.
Vì không có ai để bàn cãi vấn đề gì. Đối với chúng
ta, ái dục là một cảm thọ quan trọng. Nói có vẻ nghịch
lý, nhưng chúng ta chỉ có thể tu tập ở giai đoạn tương
đối. Một khi đã đạt đến giai đoạn tuyệt đối,
chúng ta không còn gì để nói.
TS:
Con có nhiều thắc mắc. Giờ có hai câu hỏi. Thiền
quán có giúp tất cả chúng ta đạt được trí tuệ?
Và, vừa rồi, Ni Sư có bảo là chúng ta không thể hành thiền
khi đang khổ đau. Ni Sư có thể giải thích thêm?
AK:
Thiền quán có thể giúp ta đạt được trí tuệ, nhưng nói
thế thì cũng giống như nói rằng, thiền quán sẽ đưa ta
đến Niết bàn. Không phải ai cũng có đủ kiên định,
tinh tấn để đạt được tuệ giác. Nếu chúng ta quán
tưởng về một chân lý trong vũ trụ như vô thường, khi hiểu
thấu đáo vấn đề hơn, cũng có thể khiến tâm ta dao động,
không muốn tiến xa hơn nữa. Tâm ta có thể nói, "Tất
cả đều vô thường", rồi đầu hàng, buông tay. Tuệ
giác chỉ có thể phát khởi khi vô thường có thể được
xem như một khía cạnh đã thấm nhuần trong ta đến nỗi ta
không thể thấy gì bền vững cả. Vì thế người ta
có thể thiền quán nhưng sẽ không đạt được tuệ giác.
TS:
Lý do là vì sao, chúng ta giái quyết vấn đề đó như thế
nào, thưa Ni Sư?
AK:
Đó là do lòng sợ hãi, là một bản tính của con người .
. . nỗi sợ bị đoạn diệt của con người giả hợp nầy,
hoặc bằng cái chết hoặc do các cảm thọ về ngã không được
chấp nhận. Sự sợ hãi có thể phát sinh nhất là khi
ta tiến gần hơn đến cảm nhận mạnh mẽ về sự vô thường
nơi thân. Lúc đó một nỗi sợ hãi ghê gớm hay hoảng
loạn có thể phát sinh, vì ta đã khám phá ra một sự thật
mà ta không muốn chấp nhận, đó là con người với các cá
tính nầy không thật có. Lòng sợ hãi là chướng ngại
đầu tiên và sâu xa nhất khiến ta không thể tiến sâu hơn.
Khi việc hành thiền của ta đã tiến bộ hơn, thì tất cả
những nỗi sợ hãi nầy sẽ tan biến đi, vì thiền định
đã thay chỗ cho các định kiến của ta. Lúc khởi đầu,
lòng sợ hãi là trở ngại lớn nhất. Nhưng kiên trì
tu tập sẽ giúp ta vượt qua tất cả.
TS:
Tại sao Ni Sư cho rằng chúng ta không thể hành thiền khi không
có an lạc, khi khổ đau?
AK:
Dĩ nhiên nếu cố gắng ta cũng thực hành được, nhưng
kết quả sẽ không tốt đẹp. Tâm phiền não, lo âu vì
vấn đề gì đó, sẽ luẩn quẩn nghĩ về vấn đề đó mãi
-giống như khi ta bị ngứa, ta cứ gãi ở chỗ ngứa mãi.
Tâm phải tự tại, bình an, trước khi có thể trở nên hoàn
toàn thanh tịnh. Cho đến giờ phút nầy, chúng ta đang
thực hành một phương pháp thiền tương đương với giai đoạn
tập sự. Sau nầy ta mới bàn đến những phương pháp
hành thiền thực sự. Tâm phải yên tĩnh, tự tại trước
khi có thể vào định.
TS:
Nều vì có vấn đề nầy nọ khiền tâm bứt rứt, thì chúng
ta không thể hành thiền, đúng không, thưa Ni Sư? Trong
trường hợp đó, ta có nên tiếp tục không?
AK:
Dĩ nhiên là nên.
TS:
Ni Sư có nói trên con đường tâm linh, khi thực hành, đôi
khi ta phải lộn ngược từ trong ra ngoài. Có nhiều vấn
đề ta không muốn phơi bày ra, cũng phải phơi bày. Vậy
mà vẫn phải tự tại, bình an. Nghịch lý nầy giải
quyết làm sao thưa Ni Sư? Ai đã có kinh nghiệm hành thiền
đều biết có rất nhiều điều khiến ta khó thể an định.
AK:
Khá chính xác. Chúng ta hổ thẹn, tự trách, vì những
uế nhiễm, phiền não của ta, không muốn chúng xảy ra.
Hành động đó khiến tâm ta bấn loạn, gây trở ngại cho
việc hành thiền. Tuy nhiên nếu ta chấp nhận tất cả
những gì dấy khởi trong tâm ta, rồi buông bỏ chúng, thay
thế chúng bằng những tư tưởng thiện, thì sẽ không có
sân hận theo sau. Nếu ta chấp nhận mọi việc như chúng
xảy ra, không cố gắng sữa đổi chúng, và nếu ta luôn ghi
tâm về sự vô thường, khổ, vô ngã, ta sẽ đạt được
những kinh nghiệm tu tập cần thiết mà không phải có những
cảm xúc rối loạn. Dầu ta chưa chứng thực được vô
ngã tướng, nhưng nếu có lòng tin vào giáo lý của Đức Phật,
ta biết rằng đó là chân lý rốt ráo. Như thế, không
có gì phải lo ngại khi cần phơi bày, lộn ngược con người
thật của ta ra ngoài. Khi ta luôn giữ trong tâm những
giáo lý tuyệt vời, những giáo lý giúp ta được giải thoát,
thì dần dần ta tập chấp nhận, mang ơn cả các uế
nhiễm đó. Hơn nữa nếu ta có thể đối mặt với chúng
một cách khôn ngoan, ta có thể buông bỏ, tránh lập lại các
lỗi lầm nầy. Dĩ nhiên, sẽ có những lúc ta không thể
bỏ được những thói quen đã huân tập từ bao đời, và
các uế nhiễm vẫn xảy ra. Nếu chúng không xảy ra thì
thật tốt đẹp, nhưng chúng đã xảy ra, ta phải hiểu thế,
để chấp nhận chúng, thì không có vấn đề gì. Trái
lại, đó sẽ là một bài học mới của ta trên con đường
đạo.
TS:
Con thấy khó hoà hợp cuộc sống đời thường ở thành phố
Nữu Ước, nơi con đang sinh sống, với việc thực tập tâm
linh. Thưa Ni Sư có lời khuyên nào không?
AK:
Đúng là có những khó khăn. Nhưng dần dà, ta phải biết
chọn lựa điều gì là ưu tiên của mình. Nếu ta thấy
đời sống tâm linh quan trọng hơn cuộc sống đời thường,
thì ta có thể thay vì ở Manhattan, ta đến Pleasant Bay vậy.
Có những người có thể làm như thế vì họ có cái nhìn
khác về cuộc đời. Nhưng nếu chúng ta vẫn còn bị
vướng mắc trong những cảm dổ, lôi kéo của cuộc sống
đời thường, ta sẽ không có cái nhìn sáng suốt để biết
mình muốn gì. Có thể về sau nầy. . .
TS:
Có lẽ đây là một câu hỏi khá mơ hồ. Con thật sự
cảm thấy rất hoang mang. Hình như Ni Sư cho rằng bất
cứ điều gì phát khởi, đều không tốt. Thưa, có phải
Ni Sư nói thế không?
AK:
Không. Hãy hỏi tiếp đi.
|