Chương
1
Lý
Do Và Phương Pháp Tu Thiền
Chắc chắn rằng chúng ta, những ai muốn tu thiền đều mong
tìm đến một điều gì đó khác hơn những cái ta biết trong
cuộc đời nầy. Chúng ta đã có đủ khôn ngoan để thấy
rằng cuộc đời không thỏa mãn tất cả những mong ước
của chúng ta, và có thể sẽ chẳng bao giờ. Nhận thức
đó chính là một bước ngoặt lớn.
Khi tọa thiền là chúng ta đang cố gắng để chuyển hoá tâm
thường ngày của mình. Cái tâm thức vẫn dùng giải quyết
công việc hằng ngày, mua bán nơi phố chợ, nuôi dưỡng con
cái, làm việc, lau chùi nhà cửa, kiểm tra hoá đơn và tất
cả mọi việc như thế trong cuộc sống đời thường.
Không ai xa lạ với tâm thức đó, không có nó, chúng ta không
thể sinh hoạt trong đời sống. Chúng ta cần đến nó để
tồn tại nhưng tâm tầm thuờng đó không thể nắm bắt được
ý nghĩa sâu xa của Phật pháp, vì giáo lý của Đức Phật
rất thâm sâu, vi diệu; tâm thường ngày của chúng ta thì
chẳng thâm sâu hay vi diệu, chỉ hữu dụng.
Để có được tâm thức có khả năng thấu hiểu được ý
nghĩa sâu xa của Phật giáo, hầu biến chúng thành ra một
phần của ta, do đó có thể thay đổi được cái nhìn nội
tại, ta cần một tâm thức có khả năng tự tách biệt ra
khỏi những quá trình tư duy tầm thường. Chỉ có thực tập
thiền định mới giúp ta có được một tâm thức như thế.
Không có cách gì khác hơn. Do đó Thiền chính là một phương
tiện, không phải là cứu cánh. Nó là phương tiện giúp ta
chuyển đổi khả năng của tâm để tâm có thể cảm nhận
những thực tại hoàn toàn khác với những thực tại ta thường
biết trước đây. Nhận thức được Thiền chỉ là một công
cụ là điều rất quan trọng, vì nó thường được hiểu
một cách sai lầm là cứu cánh. Trong Pali ngữ, thiền được
gọi là bhavana, “luyện tâm”, được dùng để bào gọt
tâm cho đến khi nó trở thành một dụng cụ sắc bén có thể
cắt xuyên qua những thực tại thường ngày.
Nhiều người tọa thiền để tìm cho tâm sự thanh tịnh.
Nhưng tâm thanh tịnh, định tĩnh (samatha) chỉ là một trong
hai khía cạnh trọng yếu của thiền. Tuệ giác (vipassana)
là khía cạnh thứ hai. Mục đích của tu thiền là để được
tuệ giác, còn định chỉ là phương tiện giúp ta đạt đến
cứu cánh trên. Theo kinh tạng Pali, Đức Phật đã dạy đến
bốn mươi hai phương pháp thiền. Có phương pháp chỉ
dùng để được tâm bình an, phương pháp khác lại để đạt
được trí tuệ. Tuy nhiên chúng ta không cần phải thực
hành nhiều phương pháp đến vậy.
Mọi người đều muốn tìm sự tĩnh lặng, bình an, khả năng
bắt tâm dừng lại những lăng xăng thường ngày. Tuy
nhiên, dầu chúng ta muốn đạt được sự thanh tịnh qua việc
hành thiền, phần đông thiền sinh đều cảm thấy khó có
thể vừa ngồi xuống chiếu thiền là tâm đã được yên
tĩnh ngay. Oái oăm thay, tâm ta lại có thói quen làm ngược
lại. Nó luôn nghĩ suy, đánh giá, cân nhắc từ sáng đến
tối, rồi mộng mơ từ tối đến sáng, do đó tâm khó có
được giây phút nào bình yên. Nếu chúng ta cũng đối
xửûû với thân như thế, thì chẳng bao lâu ta sẽ hết hơi.
Nếu phải làm việc liên tục, không có giây phút nào được
nghỉ ngơi, thì thân không thể chịu đựng nổi sau vài ngày.
Khi ta đòi hỏi tâm phải hoạt động như thế, thì ta lại
ngạc nhiên khi mọi việc không xảy ra như ý ta muốn, thế
giới không đi theo trình tự mà ta nghĩ là nó sẽ phải theo.
Đáng lý ra nếu mọi thứ đều xảy ra như ý ta muốn, mới
là điều đáng ngạc nhiên, vì những gì đang diễn ra trong
tâm ta cũng chính là những gì đang diễn ra trong tâm tất cả
mọi người khác. Đó cũng là một khía cạnh quan trọng của
tâm hành thiền – biết rằng chúng ta không phải là người
duy nhất mang nặng những khổ đau. Đó là đặc tính
chung của cuộc sống, nằm trong đế thứ nhất (của Tứ Diệu
Đế) của Phật giáo.
Khổ (dukkha) bao trùm vũ trụ. Nó không dành riêng cho một
ai, mà tất cả chúng sanh đều phải gánh chịu. Vì tâm ta
chưa được điều phục, thế giới thì vẫn như cũ, nên hành
thiền là một cuộc chiến đấu. Hành giả cần phải
tập ngưng lại mọi thói quen đã thành nếp của tâm.
Tâm ta đã quen suy nghĩ, nhưng khi ta cần bình yên, tĩnh lặng,
thì đó chính là điều ta phải ngưng làm. Nói thì dễ
hơn thực hành, vì tâm vẫn sẽ tiếp tục hành động theo
thói quen. Thêm một lý do nữa vì sao tâm khó kiềm chế
thói quen: vì khi ta tọa thiền, suy nghĩ là cách duy nhất để
khẳng định cái tôi của mình, nhất là khi ta còn giữ im
lặng. “Tôi suy nghĩ, do đó tôi hiện hữu,” -vài triết
học Tây phương đã coi đó là sự thật tuyệt đối. Thực
ra, đó chỉ là một sự thật tương đối như tất cả chúng
ta đã biết.
Khi suy nghĩ, chúng ta biết mình có mặt; khi tâm vắng bặt
mọi nghĩ suy, ta lại tin rằng mình đã không còn làm chủ.
Nhưng thực ra, sự thật là ngược lại. Khi chúng ta không
thể ngưng suy nghĩ lăng xăng, ta mới đánh mất sự tự chủ.
Chúng ta chỉ làm chủ tâm khi ta có thể bắt nó ngưng lại
khi ta muốn. Khó khăn mà phần lớn, nếu không nói là
tất cả thiền sinh phải đối mặt là buông xả. Phải
buông bỏ bảõn ngã khi hành thiền, hay đúng hơn, sự nghĩ
suy của mình, là một thái độ thật quyết liệt. Khi
chúng ta chú tâm làm các công việc hàng ngày, chúng ta chủ
động hướng tâm đến những gì ta cần làm. Khi muốn
làm việc trong nhà bếp, ta chủ động đến đó, chú tâm đến
những việc phải làm. Khi phải đến văn phòng làm việc,
ta chủ động hướng tâm vào giấy tờ, thư tín và các công
việc văn phòng khác. Đối với hành thiền cũng thế.
Trở ngại thứ nhất là dầu chúng ta muốn được định,
muốn trở nên bình an, tĩnh lặng, không có suy tưởng, tâm
vẫn không nghe theo chúng ta. Nó không tuân lệnh vì làm như
thế có vẻ như ta không có gì để chứng minh sự hiện hữu
của mình, và vì làm như thế là ngược lại với những thói
quen của chúng ta. Vì thế, thay vì cố hoài, cố mãi để được
định, để giữ tâm vắng lặng, ta cần xử dụng bất cứ
vọng tưởng nào khởi lên lúc đó để có thể soi rọi tâm
mình. Từng chút tri kiến, mang lại từng chút tĩnh lặng,
và từng chút tĩnh lặng lại mang đến từng chút tri kiến.
Tâm tĩnh lặng cốt yếu chỉ để chuyển hoá tâm bình thường
hằng ngày thành tâm siêu việt để có thể hiểu và ứng
dụng được giáo lý của Đức Phật để từ một chúng sanh
bình thường ta có thể trở thành một cá thể siêu việt.
Khi tọa thiền, nếu như chúng ta không đạt được tâm thanh
tịnh, cũng không phải là một vấn đề, vì bất cứ vọng
tưởng nào cũng có thể giúp cho ta hiểu thêm về tự ngã.
Đó là mục tiêu chính của các khóa tu thiền. Đó là cuộc
hành trình về nội tâm để giúp chúng ta hiểu về mình hơn.
Chắc chắn không có gì thú vị hơn thế, dầu rằng cũng có
những khía cạnh về ngã mà chúng ta chỉ muốn trốn chạy,
chẳng muốn nhận chúng là mình. Nhưng làm sao trốn chạy được
khi ta đang ngồi thiền, do đó ta bắt đầu vọng tưởng, nghĩ
đến chuyện nầy chuyện kia. Ai cũng có thể làm như thế
cả, nhưng khi điều đó xảy ra, hãy nhớ là đó chỉ là trốn
chạy sự thật.
Để tiến bước sâu hơn vào cuộc hành trình tâm linh nầy,
chúng ta cần thực hành tịnh khẩu (sự im lặng cao quý). Tịnh
khẩu có nghĩa là không nói chuyện với nhau, điều đó có
lẽ khó làm khi quanh ta có bao bạn bè. Nhưng hãy coi trở
ngại đó là một thử thách. Hãy nhớ rằng sự thách
thức nầy là những viên đá lót đường cho ta tiến bước.
Tịnh khẩu là một trong những phương thức hữu hiệu nhất
trên bước đường tâm linh. Thường chúng ta chỉ có
cơ hội thực hành tịnh khẩu ở các khóa tu chuyên sâu.
Thông thường, ta sẽ chuyện trò với những người chung quanh,
đó cũng là một cách chạy trốn khổ. Ai cũng đã từng
nếm qua khổ đau dầu ta gọi nó bằng tên gì, như sân hận,
sợ hãi, âu lo, bất mãn, thụy miên, vân vân.
Điều quan trọng cần nhớ là diệu đế đầu tiên Đức Phật
đã khám phá ra sau khi đạt được giác ngộ là “khổ hiện
hữu”. Khổ (Dukkha) là một đặc tính của cuộc sống,
của sự hiện hữu. Nếu chúng ta cảm nhận được điều
nầy nơi bản thân, là ta đã chứng minh được điều dạy
của Đức Phật là đúng. Chỉ có thế. Chúng ta
không cần phải trải qua lại những khổ đau, mà chỉ cần
quán sát và nói: “Có chứng cứ”. Có biết bao điều
có thể gây khổ đau cho ta, nhưng chỉ cần nhớ đến diệu
đế thứ nhất nầy: “Khổ là hiện hữu”, và nói: “Đúng
rồi, đó đúng là lời Đức Phật dạy”.
Đức Phật cũng nói về diệu đế thứ hai, đó là nguồn
gốc của khổ đau là do ái dục. Chúng ta có thể quay
vào, tự hỏi mình: “Những gì tôi muốn mà không được?
Những gì tôi được dầu không mong muốn?” Đó là hai
lý do, mà thực ra chỉ là một, là cùng một thứ, khiến ta
đau khổ. Chỉ có một cách duy nhất để đối phó với
khổ đau khi nó dấy khởi, đó là dứt bỏ lòng ham muốn;
đau khổ sẽ không còn nữa. Tri kiến đó chỉ có thể
có được khi chúng ta không còn hướng ra ngoài, bằng cách
chuyện trò, hay những hình thức hoạt động khác. Muốn
thực sự có thể soi rọi lại mình, ta cần có những thời
gian tĩnh lặng.
Có thể các bạn đã biết hành thiền. Tuy nhiên, ở đây
tôi sẽ giải thích về một số phương pháp hành thiền và
các kết quả mà chúng có thể mang đến. Chỉ có phương
pháp mang lại kết quả, là phương pháp hữu hiệu nhất.
Nếu phương pháp nào không mang lại kết quả, ta cần sửa
đổi lại. Không cần phải bám víu vào riêng một phương
pháp nào cả. Mỗi người chúng ta đều có những cá
tính, những khuynh hướng khác nhau, dầu rằng tâm ta đều
có những khả năng, những tiềm năng giống nhau, do đó ta
cần có những phương pháp khác nhau. Có người thích
hình ảnh; kẻ thích lời nói, truyện tích; người nữa lại
thích con số, thích mọi thứ đâu vào đấy. Có người
lại thích tiểu tiết. Có lẽ ta cũng đã biết tâm mình
thuộc loại nào, hoặc ta có thể thử nghiệm bằng thiền
để xem phương pháp thiền nào dễ giúp tâm ta trở nên tĩnh
lặng.
Quán hơi thở là cách thực hành cơ bản đầu tiên của chánh
niệm, chánh niệm về thân (kayanupassana). Tâm chánh niệm
cũng cần có mặt trong tất cả mọi hoạt động khác
ở bên ngoài thiền đường, đó là điều chúng ta thường
dễ quên, nhưng ít nhất ta cần hướng đến mục tiêu đó.
Thật dễ chịu khi được ngồi xuống chiếu thiền, quán hơi
thở để đạt tâm bình lặng, nhưng nếu chúng ta không gia
tăng thêm sự thực tập chánh niệm ngoài những lúc hành thiền
thì ta cũng khó có được kết quả tu thiền như mong muốn.
Chúng ta chỉ có một tâm, nên ta cần rèn luyện tâm thành
nhất điểm, cho tất cả mọi lúc, mọi nơi: đi, đứng, mở,
đóng cửa, tất cả mọi hành động, lúc nào cũng chú ý đến
các hoạt động của thân. Quán thân bao gồm cả lúc
tắm rửa, vệ sinh, ra khỏi giường mỗi sáng, mặc đồ, cởi
áo vân vân. Một trong những hoạt động của thân dễ
được dùng để quán sát là sự ăn uống, vì ăn uống là
một tiến trình bao gồm nhiều động tác.
Không ai có thể truyền dạy cho ta chánh niệm. Chúng ta
phải tự rèn luyện mình bằng nhiều cách. Trong truyền
thống của chúng ta (người Tây phương –ND), không có những
bậc toàn năng (guru). Chúng ta chỉ có những người lập
lại lời Phật dạy từ các kinh Pali, những người có thể
giúp ta đôi lời khuyên nhủ. Chánh niệm cần phải được
thực hành, phải tự mình rèn mình mà thôi. Không ai có
thể giúp chánh niệm cho ta được; chỉ có ta biết được
khi nào ta có chánh niệm.
Chánh niệm có nghĩa là thân và tâm ở cùng một nơi.
“Rửa chén thì biết đang rửa chén”, là một câu nói rất
nổi tiếng của thầy Thích Nhất Hạnh, một thiền sư Việt
Nam. Chứ không phải suy nghĩ, “Giá mà tôi đã rửa xong
rồi”, hay “Sao người ta dùng nhiều chén dĩa đến thế”,
hay “May là nay mai tôi không phải rửa chén nữa”, hay “Tại
sao lúc nào tôi cũng phải rửa chén?” –không có gì giống
như thế cả. Chỉ cần biết mình đang rửa chén, thế
thôi. Aên uống cũng thế, không phải là: “Tôi thích
món nầy. Không biết họ làm món nầy thế nào?”
Mà chỉ biết là mình đang ăn. Ứng dụng như thế cho
tất cả mọi hành động của chúng ta. Đức Phật đã
nói: “Cách duy nhất để thanh tịnh hóa, để diệt trừ phiền
não, tiếc nuối, oán than, để chấm dứt mọi khổ đau, để
bước vào con đường cao thượng, để đạt được niết
bàn (nibbana) là tâm chánh niệm.” Chúng ta còn chờ gì
nữa. Tất cả chúng ta đều có đôi chút chánh niệm;
ta chỉ cần phát triển nó thêm.
Hành thiền là một cách để ta thực hành chánh niệm cho đến
khi nội tâm ta trở nên vững mạnh đến độ ta có thể nhận
chân được sự thật tuyệt đối ở đằng sau sự thật tương
đối. Tâm chánh niệm đã được rèn luyện trên chiếu
thiền giờ có thể mang áp dụng vào tất cả mọi hoạt động
của ta. Ở đây chúng ta chỉ nói về chánh niệm nơi
thân, vì các hoạt động của thân liên tục xảy ra. Vì thân
có thể được xúc chạm, có thể được mục kích, chúng
ta dễ hướng thân và tâm lại một nơi, hơn là để tâm phóng
ra muôn hướng trong khi thân đang làm một chuyện khác.
Nếu ta có thể trụ tâm và thân vào một chỗ, thì ta dễ
quán hơi thở, vì lúc đó chỉ có hơi thở là hoạt động
–chúng ta đang thở ra, thở vào. Không có gì khác.
Mọi thứ khác chỉ là phụ thuộc.
Khi chúng ta theo dõi hơi thở, tâm ta cũng gắn vào hơi thở,
đó thực sự là chánh niệm. Được gọi trong tiếng
Pali là anapanasati, hay “quán hơi thở ra, hơi thở vào”.
Ta sẽ nhận thấy là tâm ta không phải lúc nào cũng muốn
ở yên một chỗ, nó luôn muốn phóng đến nơi khác.
Ta sẽ dùng sự phóng tâm nầy để hiểu chính nội tâm mình.
Không phải để chỉ nói: ‘vọng tưởng, vọng tưởng’,
vì chúng ta sẽ chẳng học hỏi được gì từ đó; nên ta
sẽ học cách đặt tên. Chúng ta sẽ nói: ‘Quá khứ’
‘tương lai’ hay ‘nhảm nhí’ (từ cuối có lẽ thích hợp
cho nhiều thứ nhất). Chúng ta cũng có thể nói: ‘ước
muốn’, ‘mơ mộng’, ‘tính toán”. Từ cuối ở đây
cũng rất phổ thông. Vì chúng ta thường nghĩ là mình
chẳng đạt được gì khi ngồi thiền, nên tranh thủ tính
toán những việc cần làm trong tương lai. Tên gọi nào
chợt đến trong đầu, thì dùng tên ấy, không cần phải tìm
tên gọi cho thật chính xác, vì hành động đó lại dẫn đến
những suy nghĩ khác.
Nếu vọng tưởng chỉ thoáng qua trong đầu như những đám
mây, không cố định mà chóng tan, thì không cần phải chạy
đuổi theo chúng để đặt tên. Nhưng nếu suy nghĩ của
ta cố định, tốt hơn nên đặt cho chúng một tên gọi.
Việc làm nầy mang đến hai kết quả. Thứ nhất là nó
sẽ làm cho vọng tưởng đó tan biến đi, vì tâm không thể
làm hai việc cùng một lúc. Đặt cho nó một cái tên,
có nghĩa là ta có thể theo dõi vọng tưởng một cách khách
quan, không để chúng dẫn dắt ta theo. Vì thế, chúng
sẽ tan đi như bọt nước. Kết quả thứ hai của việc
đặt tên rất hữu ích vì nó giúp ta có thể nhận ra được
quá trình tư duy và các thói quen suy nghĩ của ta.
Nhận thức nầy rất quan trọng, vì nó giúp cho thiền sinh
không mắc phải sai lầm là lúc nào cũng tin vào những suy
nghĩ của mình. Chỉ có những người không bao giờ biết
quán tưởng mới tin vào những suy nghĩ của mình. Khi
đã quen đặt tên cho những suy nghĩ của mình khi tọa thiền,
ta sẽ nhận thấy quá trình tư duy của ta rất tùy tiện, thường
không có ý nghĩa gì đích thực chỉ vô nghĩa, đôi khi còn
là điều ta chẳng muốn nghĩ tới.
Có được tri kiến về những suy nghĩ của mình như thế trong
lúc tọa thiền giúp ta có thể buông bỏ những suy nghĩ vô
bổ, làm cho cuộc sống của chúng ta bớt căng thẳng.
Nếu chúng ta có thể buông bỏ vọng tưởng bằng cách đặt
cho nó một cái tên lúc đang hành thiền thì ta cũng có thể
làm như thế trong đời sống hằng ngày. Nếu không sự
hành thiền của chúng ta thật vô nghĩa –chúng ta chỉ ngồi
để đầu gối sưng thêm, chứ chẳng đem lại kết quả gì.
Chúng ta cần phải áp dụng những gì ta thực hiện được
trong khi ngồi thiền vào trong cuộc sống đời thường của
mình.
Khi ngồi thiền, chúng ta buông bỏ mọi vọng tưởng.
Khi chúng xuất hiện lại, ta lại buông bỏ. Thay vì nghĩ
suy, ta chú tâm vào hơi thở. Trong cuộc sống đời thường,
ta cũng tập buông bỏ những tư tưởng bất thiện, thay bằng
các tư tưởng thiện. Quá trình chuyển đổi cũng giống
nhau, khi chúng ta đã rèn được như thế lúc hành thiền, nó
sẽ trở thành một thói quen tốt trong cuộc sống. Không
phải lúc nào ta cũng thành công (không có việc gì là luôn
luôn cả), nhưng ít nhất ta biết là điều đó có thể xảy
ra.
Khi chúng ta nghe lời Phật dạy, ta biết rằng Đức Phật đưa
ra những lý tưởng để ta noi theo, vì thế nếu như ta chưa
đạt được đến cái lý tưởng ấy, thì cũng chẳng cần
tự trách mình. “Nhận biết, không trách cứ, rồi chuyển
hóa” là một phương châm quan trọng cần nhớ: có nghĩa là
chúng ta nhận biết những gì đang diễn tiến ra trong nội
tâm nhưng không phải để tự trách hay trách người.
Sự việc là như thế, nhưng chúng ta, là những sinh vật biết
nghĩ suy, có khả năng thay đổi, và đó là điều chúng ta
cố gắng thực hiện khi hành thiền. Chúng ta có thể buông
bỏ vọng tưởng, trở về theo dõi hơi thở. Chúng ta cần
thường xuyên thực hành như thế, thì hành động này ngày
càng trở nên dễ dàng, tự nhiên hơn đối với ta. Dần dần
tâm ta sẽ nhượng bộ. Nóù sẽ nói: “Thôi được.
Tôi sẽ ngưng mọi suy tưởng trong chốc lát”. Hành động
này trở nên dễ dàng hơn, không chỉ vì nó đã trở thành
thói quen mà vì ta cũng có nhiều quyết tâm hơn để buông
bỏ sự suy nghĩ viễn vông, vì ta biết những suy nghĩ đó
thật vô ích. Chúng không đem lại kết quả gì, chỉ
quẩn quanh, chỉ quấy rối ta. Nhờ đó tâm nhận ra được
giá trị của việc an trụ vào đề mục thiền quán.
Nếu ta có thể giữ chánh niệm trong hơi thở khi hành thiền
thì ta cũng dễ giữ chánh niệm trong cuộc sống hằng ngày.
Cái nầy hổ trợ cái kia. Vì không thể có hai con người
trong mỗi chúng ta. Chúng ta rèn luyện chỉ một tâm mà
thôi. Rõ ràng là chúng ta bỏ nhiều thời gian cho các
sinh hoạt hằng ngày hơn là thời gian ngồi thiền. Do
đó chúng ta không thể bỏ hết công phu rèn luyện khi bước
ra khỏi thiền đường.
Có năm cách theo dõi hơi thở. Cách cổ điển nhất, mà
cũng khó nhất và cũng dễ đem lại thanh tịnh nhất.
Đó là chú ý đến hơi thở vào ra ở ngay mũi. Theo truyền
thống, ta theo dõi hơi thở lúc vào lẫn lúc ra, vì ta không
muốn để tâm có dịp lan man trở vào con đường quen thuộc,
ta muốn buộc nó luôn ở nơi hơi thở. Hơi gió ở mũi
khi ta hít vào tạo cho ta một cảm giác, giúp ta chú tâm vào
đó. Đây là cách chú tâm vào hơi thở ở “một điểm”
rõ ràng nhất, và thường được các thiền sinh kinh nghiệm
xử dụng nhiều nhất. “Một điểm” có nghĩa là chỉ
ở một chỗ duy nhất, là đặc trưng của thiền.
Vì sự chú tâm được đặt ở một điểm duy nhất, nó giúp
tâm trở nên nhạy bén, không buông lung.
Chúng ta có thể xử dụng thêm các phương pháp hỗ trợ để
giữ tâm chánh niệm trên hơi thở. Đếm hơi thở cũng
là một cách. Chúng ta đếm ‘một’ khi hít vào, ‘một’
khi thở ra. Rồi ‘hai’ khi hít vào, ‘hai’ khi thở
ra, cho đến mười. Khi tâm lan man, ta bắt đầu đếm
trở lại ‘một’, không kể ta đang ở năm, sáu hay tám.
Phương pháp nầy thích hợp cho những ai thích con số, có đầu
óc tổ chức rạch ròi.
Người không thích đếm số, có thể nghĩ ‘tĩnh lặng’
khi hít vào, ‘tĩnh lặng’ khi thở ra. Dĩ nhiên, bất
cứ từ nào khác cũng được. Có thể dùng ‘tĩnh lặng’
khi hít vào, thở ra bằng ‘từ bi’, đem vào sự tĩnh lặng,
và ban phát tình thương yêu ra ngoài. Tuy nhiên, nếu có
thể dùng một từ thì tốt hơn, vì càng nạp vào đầu nhiều
thứ, càng khiến tâm khó tĩnh lặng. Nếu ta có thể
giữ chú tâm vào ‘tĩnh lặng’ khi hít vào, để tĩnh lặng
tràn đầy trong ta, rồi thở ra ‘tĩnh lặng’. Phương
pháp nầy rất thích hợp với người thích xử dụng từ ngữ.
Nếu ta không thích số, cũng chẳng ưa dùng từ, thì có thể
dùng hình ảnh –thí dụ, có thể hít vào và tưởng tượng
ra một đám mây đang bay vào trong ta. Thở ra là đám mây
lại trở ra bao trùm ta. Có người lại hình dung ra đám
mây nhỏ khi hít vào, và thở ra đám mây to hơn. Tóm lại,
bất cứ sự hổ trợ nào giúp ta chú tâm đều tốt hơn là
những suy nghĩ lan man; dùng hình ảnh thì không tập trung vào
được một điểm như theo dõi hơi thở, nhưng vẫn tốt hơn
là để tâm suy nghĩ về những gì đã xảy ra tuần trước
hay những gì sắp xảy ra vào tuần sau.
Đối với người mới tập tu thiền, còn có một phương pháp
hữu dụng khác. Đó là theo dõi hơi thở vào, cảm giác
được nó đi đến đâu. Qua lỗ mũi, lên mũi, xuống
cổ, vào phổi, vào đến bụng; rồi ta lại theo nó khi nó
đi từ thân ra. Chúng ta không phải đi tìm các cảm xúc
do hơi thở tạo ra, nhưng chỉ đặt chú tâm vào mọi điểm
nó đến mà ta cảm nhận được khi hít vào hay thở ra.
Phương pháp nầy đặc biệt hữu ích cho những ai hay quan tâm
về các cảm giác. Các cảm giác nội tâm được gắn
với hơi thở vào, hơi thở ra lại khiến tâm cảnh giác, dễ
chú tâm vào con người nội tại. Phương pháp nầy giúp
tâm không chạy theo khuynh hướng bám vào những gì đang xảy
ra trong tâm và phản ứng theo đó.
Phương pháp cuối cùng để theo dõi những gì xảy ra với
hơi thở vào ra, là biết khi hơi thở vào đầy trong ta, và
khi thở ra là đẩy hết hơi thở ra. Đó cũng là một
phương pháp chú tâm hữu ích.
Chúng ta đã xét qua năm phương pháp xử dụng hơi thở vào
ra khi tọa thiền. Tuy nhiên mỗi lúc chỉ dùng một phương
pháp. Hãy chọn phương pháp nào bạn cảm thấy thoải
mái để thực hành lúc toạ thiền. Nếu phương pháp đó không
giúp bạn chú tâm được chút nào, thì lần tọa thiền sau
hãy xử dụng một phương pháp khác. Đừng thay đổi
khi bạn đang ngồi thiền.
Nếu tâm ta cứ chạy lăng xăng, hãy nghĩ đến tính cách vô
thường của mỗi hơi thở ra vào. Tâm bình thường vẫn
luôn thích nghĩ ngợi nầy nọ, thì ít ra cũng hướng nó đến
những suy nghĩ lợi ích hơn. Không phải là bất cứ đề
tài nào tâm thích hướng tới, nhưng là xem mỗi hơi thở vào,
hơi thở ra đoạn diệt như thế nào –luôn thay đổi, và
cuộc đời ta tùy thuộc vào hơi thở như thế nào.
Không có hơi thở ra, hơi thở vô liên tục, ta sẽ không còn
mạng sống. Nếu ta bám vào chỉ hơi thở vô hay hơi thở
ra trong vài phút, ta cũng chết. Đó là cái biết nội
tâm thiết yếu giúp ta liên kết tâm với tính cách vô thường
của mỗi con người, đặc biệt là đối với bản thân ta.
Nếu tâm đã được rèn luyện để theo dõi hơi thở, thì
hãy giữ tâm ở đó, nhưng nếu tâm không ngừng vọng tưởng
thì hãy hướng tâm đến tính cách vô thường của hơi thở.
Sự chú tâm đó giúp ta khởi nghĩ: nếu cuộc sống ta phải
dựa vào hơi thở vào ra, thì trong ta còn gì không đến rồi
đi? Tâm ta từ đó sẽ hướng vào bên trong, và có thể
trụ vào hơi thở dễ dàng hơn.
Tất cả chúng ta ai không muốn có được những phút giây
bình an, tĩnh lặng, và chúng ta đáng được hưởng như thế,
nếu không việc tọa thiền sẽ trở nên là một công việc
nhàm chán, chứ không đem lại thích thú gì. Nhưng chúng
ta cần có sự hướng dẫn tâm linh, nhất là đối với người
Tây phương chúng ta. Vì từ lớp mẫu giáo chúng ta đã
được rèn luyện để nghiên cứu, tìm tòi, suy nghĩ.
Được huân tập như thế, nên ta vẫn tiếp tục hành động
như thế, rất khó bắt tâm ta phải ngưng lại như ta muốn.
Vì thế ta cần phải thử mọi phương pháp nào có thể giúp
ta hành thiền.
Quán tưởng về tánh cách vô thường của hơi thở đem lại
nhiều lợi ích cho nội tâm ta, và tốt hơn nhiều so với những
nghĩ suy về quá khứ hay tương lai. Có thể trụ vào hơi
thở, có nghĩa là ta chánh niệm ‘ngay giây phút nầy’.
Nghe có vẻ lạ, nhưng nếu không có sự rèn luyện, ta khó
thể làm được điều đó. Chúng ta chỉ có thể sống
trong từng giây phút, nhưng lúc nào ta cũng nghĩ suy về quá
khứ, đã qua không trở lại, lo lắng cho tương lai, mà thực
ra không chỉ là gì hơn là những điều ta ước mơ, mong cầu.
Khi tương lai đến, nó trở thành là hiện tại. Chúng
ta không bao giờ sống trong tương lai, nó chỉ là những khái
niệm. Nếu chúng ta muốn đạt được trí tuệ,
ta cần phải kinh nghiệm cuộc sống, mà muốn thế, ta cần
phải có mặt trong giây phút hiện tại. Càng luyện tâm
sống trong giây phút hiện tại, ta càng thật sự hiểu cuộc
sống của nhân loại là như thế nào. Nếu không ta chỉ
sống trong hòai niệm hay hoài vọng. Có mặt trong giây
phút hiện tại là có mặt với từng hơi thở. Chúng
ta không thể nắm bắt một hơi thở đã qua hay chưa tới.
Chúng ta chỉ có thể theo dõi hơi thở đang xảy ra. Điều
nầy rất quan trọng trong việc giúp ta hiểu tâm hoạt động
như thế nào. Đức Phật không muốn chúng ta tin vào những
lời Phật dạy mà không có suy nghĩ, tự vấn. Những
lời dạy của Đức Phật không khác gì hơn những lời hướng
dẫn, chỉ đường, những cột mốc để ta tự mình đi tới.
Một cách ngồi đúng là lưng thẳng, nhưng thả lỏng, không
gò ép. Vai thả lỏng bằng cách co lên, rồi từ từ hạ
xuống. Thả lỏng bụng, cũng là điểm căng, và thả
lỏng cổ. Chân ở thế ngồi nào mà ta có thể chịu
đựng trong một khoảng thời gian. Tay có thể để ở
gối, ngữa ra hoặc úp xuống hay để ở giữa, chồng lên
nhau. Mắt hơi nhắm. Nhưng nếu cảm thấy bù ngủ,
thì mở mắt ra ngay, nhìn vào chỗ sáng, hay chuyển nhẹ thân
để giúp máu lưu thông, rồi khép mắt lại.
Các cảm giác đau, khó chịu dấy khởi có thể được coi
như một cách để đạt được trí tuệ. Cảm giác đau
đớn, khó chịu nhắn gửi cho ta hai bài học quan trọng.
Khi cảm giác đau đớn ở thân dấy khởi, phản ứng đầu
tiên của ta sẽ là: “Tôi không muốn chịu đựng cảm giác
khó chịu nầy”. Đó là cách chúng ta phản ứng trong
cuộc sống, và đó là lý do tại sao ta cứ ở mãi trong vòng
luân hồi sinh tử (samsàra). Ta muốn chạy trốn cảm giác
đau đớn, khó chịu, nhưng lại muốn níu kéo mãi những cảm
giác dễ chịu, sung sướng. Đó là điều khó thể thực
hiện. Trong cuộc chiến đó, không có người thắng, vì thế
nếu như ta càng sớm biết đó không phải là cách đối mặt
với khổ đau một cách khôn ngoan, thì ta càng dễ đối phó
với các cảm giác khó chịu nầy trong cuộc sống hằng ngày.
Chúng ta cần nhận ra rằng sự đau đớn dấy khởi nơi thân
khi toạ thiền ở một chừng mực nào đó, cũng giống như
thế. Khi đầu gối tiếp xúc với gối tọa thiền hay
của chân trái trên đùi –nơi nào có bị đau, là có sự
va chạm, tiếp xúc. Tất cả các xúc chạm của giác quan
đều mang đến cảm giác. Các đấng giác ngộ cũng có
một trong ba cảm giác, đó là: khổ, vui và trung tính
(không khổ, không vui). Tuy nhiên thường ta coi cảm giác
trung tính cũng thuộc về cảm giác dễ chịu vì chúng không
mang đến cho ta sự khó chịu, đau đớn. Vì thế thật
ra là ta chỉ phải đương đầu với hai loại cảm giác dễ
chịu hay khó chịu. Gần như tất cả những giờ phút
tỉnh thức, ta đều phải quan tâm về chúng. Do có xúc
chạm, dấy khởi các cảm giác, từ đó sinh ra các khái niệm,
nhận thức rằng “cái nầy làm đau”, hay “cái nầy không
tốt”. Giả dụ như ta vừa nhận thức ‘cái đau’,
lập tức tâm phản ứng tức thì, một cách bản năng (cũng
được gọi là tạo nghiệp): ‘Tôi không thích như thế’,
‘Tôi muốn chấm dứt đau đớn’, ‘Tôi phải cử động’,
‘Làm vậy khá nguy hiểm đấy, máu tôi không lưu thông được’,
hay những suy nghĩ đại loại như thế.
Tâm hành (sankhàra) cũng là nghiệp hành. Nghiệp phát
khởi trước hết là do tác ý, rồi đến lời nói và cuối
cùng là hành động. Khi tác ý, chúng ta đã phần nào
tạo nghiệp xấu, qua các ý niệm ác khởi trong tâm. Tuy
nhiên vấn đề không nghiêm trọng, vì các tác ý phát khởi
do khuynh hướng bản năng, không kiềm chế của chúng sanh.
Nhưng nếu ta muốn chuyến đổi chúng, cũng như tâm bình thường,
ta phải chuyển đổi các phản ứng theo bản năng. Chúng
ta có thể nghĩ: “Đây là cảm giác khó chịu, đau đớn,
nhưng ta không mong đợi nó, tại sao ta phải coi nó là mình?
Nó chỉ là một hiện tượng phát sinh, phải không?”
Ở đây ta rèn luyện tâm không dính mắc, buông bỏ các cảm
giác khó chịu để trở về với đề mục thiền quán.
Ai cũng có thể làm thế trong một khoảng thời gian hạn chế.
Hạn chế đến mức nào là tùy mỗi cá nhân. Khi một
cảm giác khó chịu khác lại đến, ta lập lại quá trình
tư duy như trên. Chúng ta cũng cần nhận thức rằng thân
luôn có khổ, nếu không chấp nhận được sự thật nầy,
chúng ta càng thêm khổ. Không phản kháng lại cái khổ,
không mong cầu thay đổi, chúng ta sẽ tránh tạo thêm căng
thẳng, não trí. Tuy nhiên tới một mức nào đó, khi tâm
lên tiếng: “Thôi đủ rồi, tôi không thể chịu đựng thêm
nữa sự đau đớn”. Lúc ấy ta sẽ chuyển đổi vị
thế một cách nhẹ nhàng, chậm rãi, để không làm phiền
đến người tọa thiền bên cạnh, hay làm tâm ta bứt rứt
với ý nghĩ rằng mình đã phải chịu thua các cảm giác đau
đớn của mình.
Điều đó cũng ổn thôi. Chúng ta vẫn thường phải khuất
phục trước các cảm thọ của mình, tuy nhiên ở đây ít
nhất ta còn nhận diện được chúng. Ta biết rằng mình
chịu thua vì các cảm giác đau đớn khiến ta khó chịu. Trái
lại nếu chúng ta có thể để cảm giác đau đớn chỉ là
cảm giác, mà không phản ứng theo thì ta đã tự thắng được
mình. Đó là một tiến triển nội tâm đáng kể.
Không ích lợi gì khi ta ngồi đó cắn răng chịu đựng với
ý nghĩ: “Tôi sẽ tiếp tục ngồi, dầu có phải chết”,
hay “Tôi sẽ cho mọi người thấy là tôi có thể chịu đựng
được mà”. Đó là một thái độ đầy sân si chứ
không phải của trí tuệ. Trong cuộc sống, tất cả chúng
ta đều đã kinh nghiệm về khổ đau (dukkha), nhưng giờ khi
nhận biết được các phản ứng của ta đối với chúng,
sẽ giúp nội tâm ta tiến bộ hơn. Đây là một cách
hữu ích để ứng dụng với các đau đớn nơi thân.
Một phương pháp khác nữa để đối trị các khổ thọ là
dùng chúng để làm đề mục quán tưởng, giữ chúng nơi tâm.
Cách nầy chỉ có thể xử dụng được nếu như ta không oán
ghét các cảm thọ đó, nếu không tâm sẽ phản ứng ngay.
Kiên trì chú tâm nơi các cảm thọ sẽ giúp ta nhận được
tính cách luôn thay đổi của chúng. Có thể lúc đó các
cảm giác đau đớn đã hoàn toàn biến mất.
Tóm lại, ta có thể một là trở về chánh niệm trên hơi
thở bằng cách buông xả các cảm thọ hay dùng chính các cảm
thọ làm đề tài quán tưởng. Có lúc ta cũng có thể
bị chúng khuất phục.
Nếu thời tiết cho phép, ta có thể thiền hành ngoài trời.
Thiền hành cũng đem lại nhiều lợi ích. Đầu tiên là
nó giúp thân hoạt động sau thời gian tọa thiền. Nó
cũng giúp tâm ta giữ được chánh niệm trong một hành động
ta vẫn làm hằng ngày. Trong cuộc đời ta đi bộ biết
bao nhiêu lần, vì thế nếu như ta có thể chú tâm, chánh niệm
trong thiền hành, ta dễ ứng dụng vào trong sinh hoạt hằng
ngày của mình.
Cơ bản thiền hành cũng giống như tọa thiền giữ tâm nơi
hơi thở vào ra. Nó giúp tâm trụ nơi các chuyển động
vật lý (thân). Khi ngồi thiền, ta chú tâm vào chuyển
động của hơi thở, trong thiền hành, ta chú tâm vào chuyển
động của bàn chân. Phương pháp nào cũng giúp ta tìm
được sự bình an, sáng suốt trong tâm.
Hãy chọn khoảng đường, có thể khoảng hai mươi lăm bước.
Đánh dầu bằng một phiến đá, hay bụi rậm hay bất cứ
gì. Tránh đụng chạm đến người khác, sẽ phiền đến
cả hai. Có thể cùng đi song song hay tìm chỗ nào không
có ai. Nên nhìn xuống, vì nếu nhìn quanh quất ta dễ
bị quang cảnh chi phối, để ý đến cây cỏ, chim hoa hơn
là những bước chân. Ta có thể chú tâm vào ba động
tác hay sáu động tác của sự chuyển động của chân.
Ba động tác gồm nhắc chân lên, đưa chân tới, rồi đặt
chân xuống. Chỉ khi nào một chân đã đặt hẳn xuống
thì chân kia mới bắt đầu nhắc lên, khiến cho bước chân
ta trở nên chậm rãi hơn bình thường, khiến cho ta không thực
hiện hai động tác cùng một lúc. Thông thường khi bàn
chân kia vừa chạm đất là chân nọ đã nhắc lên. Bước
chân dài ngắn tùy mỗi cá nhân –sao cho thích hợp là được.
Trong chuyển động ba động tác, chúng ta có thể chú ý đến
từng động tác, hoặc chúng ta có thể đếm thầm ‘một,
hai, ba’ khi theo dõi từng động tác. Hay chúng ta
có thể nói: “Nhắc, đưa, đặt xuống”, để giúp ta dễ
chú tâm.
Nếu tâm bắt đầu khởi vọng tưởng, ta nên dừng lại, đứng
yên trong chốc lát. Lần nữa, ở đây, việc đặt tên
cho các vọng tưởng cũng rất hữu ích. Nếu sự suy nghĩ
quá lan mang, đứng yên một chỗ cũng là cách giúp tâm ta có
thể buông bỏ những vọng tưởng đó. Không quan trọng
là ta phải đứng yên đến bao nhiêu lần; không có việc
đánh giá, phán xét ở đây. Không có gì ngoài sự nhận
biết. Không đánh giá bản thân hay tha nhân. Đơn
giản là nhận biết những gì đang xảy ra bên trong nội tâm
ta. Chánh niệm chỉ là cái biết, sự nhận thức, vì
thế nếu chúng ta biết những gì đang xảy ra, ta có thể đặt
tên cho các suy tưởng, giống như ta đã làm khi ngồi thiền
hay đứng yên một chỗ để giúp chú tâm trở lại.
Ta cũng có thể dùng sự chuyển động của sáu động tác.
Trước hết nhắc gót chân lên, rồi cả bàn chân, nhắc chân
lên, đưa tới, rồi đặt gót chân, bàn chân xuống. Vì
theo dõi nhiều động tác, ta cần nhiều chú tâm hơn.
Ta cũng có thể đếm từ một tới sáu. Hay nói: ‘Gót,
bàn, nhắc, đưa, gót, bàn’ để giúp sự chú tâm. Hoặc
nếu như bạn thích hình ảnh thì có thể tưởng tượng rằng
khi nhắc chân lên, một đóa hoa được hé nụ. Khi đưa
bàn chân tới, đóa hoa nở ra, và khi bàn chân được đặt
xuống, đoá hoa khép nụ lại.
Ai cũng biết rằng mặt đất không bao giờ phản ứng, khi
ta dẫm đạp, làm ô uế lên đó, mặt đất luôn nhẫn nại
chịu đựng, là một đặc tính ta cần phát triển cho nội
tâm. Bất cứ ta làm gì –đặt mạnh hay nhẹ chân xuống-
mặt đất đều không phản kháng. Khi ta đi trên mặt
cỏ, ta thấy đám cỏ như cúi mình dưới bước chân ta, khi
ta nhắc chân lên, cỏ lại trở lại bình thường. Đặc
tính nầy được Đức Phật ví như cây tre- uốn mình trước
những bão táp của khổ đau (dukkha), nhưng không bao giờ
gãy.
Đây là ‘những trụ tâm’ để giúp ta trụ vào các đề
mục thiền quán hơn là suy nghĩ linh tinh. Quán cảm thọ
cũng là một phương tiện hổ trợ khác để trụ vào các
chuyển động. Khi chân chạm xuống, ta cảm giác xúc chạm
vật cứng. Khi nhắc chân lên, cảm giác trở thành nhẹ
như không. Khi đưa chân tới, cảm giác chuyển động
xuyên qua lực cản của chân không, và khi đặt chân xuống
lại cảm giác sự chắc nịch. Các cảm thọ nầy rất
hữu ích trong việc giúp ta chú tâm vào các cử động, nếu
không chỉ có hành động lơ là của quán tính. Đó không
phải là chánh niệm. Ta cũng có thể xử dụng ba động
tác chuyển động như những trụ tâm.
Giống như khi ta có thể nhận thức rằng hơi thở luôn chuyển
đổi, và nhờ thế mà sự sống của ta được tiếp nối,
cũng thế đối với những chuyển động của chân, luôn biến
chuyển, liên tục. Ta chỉ có thể xử dụng thân của
mình khi đặc tính của sự luôn biến đổi có mặt, minh họa
rõ ràng một trong ba đặc tính của mọi hiện hũu: tính vô
thường. Nhận thức nầy đưa ta đến tri giác, trong khi
việc trụ vào đề tài thiền quán liên tục lại giúp ổn
định tâm. Cả hai cần được thực tập song song nhau.
THAM
VẤN
Thiền
Sinh (TS): Thưa Ni Sư, khi tuân thủ luật im lặng tuyệt
đối, ta có cần tránh nhìn vào mắt người khác không, vì
đó cũng là một cách để trao đổi?
Ayya
Khema (AK):
Rất cần tránh giao tiếp bằng mắt. Không nên nghĩ rằng người
khác là không thân thiện hay không thích mình, mà phải nhận
thấy rằng người kia đang cố gắng bảo vệ con đường tâm
linh của mình.
TS:
Thưa Ni Sư, có phải năm phương pháp xử dụng hơi thở được
áp dụng thêm bên cạnh phương pháp theo dõi hơi thở căn bản,
hay là ta thay phương pháp nầy bằng phương pháp kia?
AK:
Phương
pháp thứ nhất là cách theo dõi hơi thở một cách truyền
thống. Bốn phương pháp còn lại là những phương tiện
hỗ trợ thêm cho tâm bên cạnh việc theo dõi hơi thở.
Ta có thể chọn một trong năm phương pháp đó tùy theo sở
thích của mỗi người.
TS:
Khi áp dụng bốn phương pháp kia, ta vẫn theo dõi hơi thở
chứ, thưa Ni Sư?
AK:
Đúng vậy. Vẫn theo dõi hơi thở, bằng cách đếm số
hoặc đặt tên, hoặc dùng hình ảnh, hoặc nhận biết
các cảm thọ. Hơi thở vẫn luôn là đối tượng chính,
các thứ khác chỉ là phương tiện hổ trợ.
TS:
Thưa Ni Sư, trong năm phương pháp, ngoại trừ đếm số, có
phải quá trình đặt tên các vọng tưởng cũng khiến tâm
lang man, không ổn định?
AK:
Không. Việc đặt tên giúp ta hiểu được tiến trình
tư tưởng phát khởi do thói quen, không kể phương pháp theo
dõi hơi thở nào, kể cả đếm số.
TS:
Thưa Ni Sư, trong bài giảng, Ni Sư khuyên trở lại đếm ‘một’
nếu ta lo ra đếm sai số.
AK:
Nếu chúng ta biết vọng tưởng phát khởi, thì cách tốt nhất
là đặt tên cho nó, rồi trở lại đếm ‘một’, nếu ta
đang áp dụng phương pháp đếm số.
TS:
Thưa Ni Sư, có phải việc đặt tên thì ta dùng bất cứ từ
nào hiện ra trước tiên trong đầu?
AK:
Từ nào xuất hiện đầu tiên có lẽ là đúng nhất.
Nếu ta còn phải tìm kiếm từ để đặt tên thì tâm ta lại
phải lăng xăng rồi.
TS:
Thưa, vậy có thể nói: “À, là . . .”?
AK:
Không được. Đó không phải là đặt tên, đó chỉ là
buột miệng. Đặt tên phải có tính xác định, giống
như các nhãn hiệu trên hàng hóa trong các siêu thị. Nếu
ta vào siêu thị, mua các đồ hộp mà không nhìn nhãn hiệu,
nhiều khi ta mua nhầm thực phẩm cho chó mèo cũng nên.
Nhãn hiệu trên hộp cho ta biết bên trong nó là gì. Nếu
nhãn hiệu chỉ là “À, Ồ”, thì cũng chẳng giúp được
gì. Đối với chúng ta, việc đặt tên có thể là ‘Tương
lai’, ‘Quá khứ’, ‘Hy vọng’, ‘Dự tính’, ‘Hoài niệm’,
‘Ước muốn’, hay bất cứ từ nào hiện ra trong đầu.