|
.
KHI
NÀO CHIM SẮT BAY
Hành
Trình Phật Giáo Về Phương Tây
Tác Giả:
Ni Sư AYYA KHEMA - Việt Dịch: Diệu Liên Lý Thu Linh
Dịch
từ bản tiếng Anh: When the Iron Eagle Flies - Buddhism For the West
Wisdom
Publications 1991, 2000
|
|
Chương
8
Hỷ
Bước Thứ 3
Bước thứ ba trong tiến trình của duyên khởi siêu việt là
hỷ. Duyên khởi có nghĩa là nhận ra được nhân và quả.
Bước đầu tiên trong việc nhận biết khổ đau không có nghĩa
là ta phải đối đầu với khổ đau, mà là ta thực sự hiểu
ý nghĩa của khổ đau: nó là một phần của cuộc sống, có
mặt trong vạn pháp, và thế giới không thể thay đổi để
thoát khỏi khổ đau. Từ nhận thức đó, ta
phát sinh lòng tự tin, tín tâm vào cuộc sống tâm linh, và
kết quả là hỷ lạc phát sinh. Ba yếu tố nầy là những
điều kiện tiên quyết cho việc hành thiền của ta.
Tâm hỷ mà chúng ta bàn đến ở đây phát sinh do lòng tin vào
con đường đạo, do chúng ta đã tìm được con đường giúp
ta thoát ra khỏi những vấn đề của thế gian, con đường
hứa hẹn sự giải thoát rốt ráo. Niềm hỷ lạc đó
phải đủ mạnh để không dao động, dời đổi dầu cho những
yếu tố bên ngoài có thuận lợi hay không, vì ta đã biết
rằng các yếu tố bên ngoài chỉ ảnh hưởng đến sự xúc
chạm của các giác quan. Nếu chúng ta không thấu đáo
rõ ràng điểm nầy, thì ta cứ mãi dao động –không biết
ta có nên tiếp tục con đường tâm linh nầy, hay lập gia đình,
đi học, đi du lịch Trung quốc, hay lập vườn trồng rau?
Nếu không có niềm vui nội tại, thì ta sẽ không thể chắc
chắn rằng tu hành là con đường duy nhất giúp ta thóat khỏi
khổ (dukkha). Chúng ta cần phải nhận thức rõ ràng, không
mảy may nghi hoặc, rằng tất cả mọi lạc thọ khác đều
do sự xúc chạm của các giác quan mang đến, do đó chỉ có
thể mang đến những niềm vui ngắn ngủi, tạm bợ, không
có giá trị lâu dài. Chúng đến, rồi đi. Tuy nhiên
điều đó không có nghĩa là tất cả các cảm xúc do giác
quan mang đến đều xấu hay là ta có thể tránh được chúng.
Đức Phật đã bảo chúng thuộc trạng thái thô lậu.
Một khi đã nhận thức được rằng các cảm thọ do giác
quan mang đến không thể thỏa mãn được ta, ta cần quán
sát xem có thể tìm được điều gì khác nữa trên cõi đời
nầy không. Khi đã thấu hiểu được tính chất bất
toàn của các giác quan, thì còn thắc mắc, nghi ngờ gì về
tâm hỉ lạc khi ta đã tìm được con đường đạo. Niềm
vui nội tâm nầy là một điều kiện tiên quyết cho sự thành
công của công phu tu thiền của ta. Chúng ta có thể dễ
dàng chứng nghiệm được điều nầy bằng những kinh nghiệm
bản thân. Việc tu thiền chỉ có kết quả khi trong lòng
ta không còn phiền muộn, lo lắng, mong cầu, thắc mắc gì
nữa.
Những lời dạy của Đức Phật về thiền thường có từ
‘xả ly’, nhưng từ đó thường bị hiểu sai lệch nghĩa,
tưởng rằng ta phải tách biệt khỏi thế giới nầy, từ
bỏ mọi liên hệ với đồng loại. Hoàn toàn không phải
nghĩa đó. Nó chỉ có nghĩa là ‘tách biệt khỏi các
căn trần”. Sau khi đã có thể tách rời khỏi sự xúc
chạm của các căn, ta mới có thể bắt đầu hành thiền.
Nhưng muốn thỏa mãn được điều kiện đó, thì nội tâm
ta phải được an vui, thỏai mái, tự tại; và ta phải hiểu
rằng đó là một việc tốt nhất mà ta có thể làm, nếu
không, vọng tưởng sẽ mãi làm gián đoạn việc tu hành của
ta. Nếu có được niềm vui nội tại, không chỉ là ta
sẽ tiếp tục đi trên con đường đạo, và việc hành thiền
của ta sẽ có kết quả, mà ta còn có thể duy trì niềm vui
đó mãi trong tâm hồn. Chứ không phải chỉ lúc ta tọa
thiền, hay lúc ta nhớ tưởng đến những công phu tu tập của
mình. Mà nó là một phần của sự hiện hữu của ta,
như là một minh chứng rằng ta đã tìm được con đường
thóat ra khỏi những vấn đề của nhân loại. Dầu ta
chưa đi hết con đường đạo cũng không quan trọng.
Hạnh phúc là cứu cánh của tất cả mọi chúng sanh.
Trong khóa tu nầy, chúng ta sẽ được chỉ cho một con đường,
như một bản đồ đưa ta đến đích. Một điểm hẹn
mà tất cả chúng ta đều hướng đến, dầu rằng ta không
biết rõ nó ra sao, như thế nào, không biết mong mỏi gì ở
đó. Được có một tấm bản đồ đầy đủ chi tiết,
với lời hứa hẹn sẽ giúp ta đạt được đến những ước
muốn sâu xa nhất, không phải là lý do chính đáng để ta
vui, ta hàm ân, ta dốc cả tầm lòng vào đó sao? Chắc
chắn nó sẽ khiến ta cảm thấy được gia hộ. Nếu
ta không cảm thấy được như thế, thì việc hành thiền của
ta sẽ còn khi trồi khi sụt. Nhưng không cần phải như
thế. Một khi sự hành thiền đã vào nền nếp, nó có
thể phát triển đều đặn. Khi việc hành thiền của
ta đã trở nên thuần thục, nó trở thành viên ngọc quý mà
ta có thể luôn mang theo mình.
Chỉ cần một yếu tố duy nhất, hỷ lạc cũng có thể phát
sinh – đó là sự nhận biết rằng có một con đường đã
được vạch ra cho ta. Con đường mà ta có thể theo, có
thể tin tưởng, vì nó đã là một ân sủng đối với những
ai đã đạt được cứu cánh bằng cách đi theo nó. Tuy
nhiên còn có nhiều phương tiện khác để tâm được hỷ
lạc. Hỷ lạc không phải là dục lạc. Dục lạc
phát sinh từ các căn trần và chóng qua. Cũng không có
nghĩa là ta chẳng bao giờ được hưởng dục lạc; chúng sẽ
phát sinh khi có sự xúc chạm của các giác quan, trừ khi tâm
buông xả đã được thiết lập vững chắc trong ta. Nhưng
dục lạc và hỷ lạc là hai cảm thọ hoàn toàn khác nhau.
Chúng ta có thể tự giúp mình trên con đường đạo bằng
cách tạo nên hỷ lạc bằng những việc thiện – như
là, sẵn sàng phục vụ người khác. Khi ta có ý muốn
giúp đỡû, hỗ trợ người khác, ta dồn tất cả chú tâm
vào việc đó, thì các vấn đề của riêng ta không thể phát
khởi vào lúc đó, vì tâm ta đang ở nơi khác. Có thể
làm gì cho ai đó, dầu có được đền ơn hay không, khiến
tâm ta sinh hoan hỷ. Sự an nhiên, tự tại đến từ việc
nhận biết rằng mình đã cố gắng hết sức mình.
Đức Phật đã nhắc đến mười điều thiện ta cần vun trồng.
Trên tất cả là tâm bố thí. Bố thí bao gồm bố thí
thời gian, sự quan tâm, tình thương, lòng bi mẫn, mong đem
lại hạnh phúc cho người khác. Khi ta có thể thực sự
thấy những điều nầy xảy ra, thì tâm phát sinh hỷ lạc
là chuyện đương nhiên rồi. Ngay nếu như hạnh phúc
đã không thực sự đến với người đó, ta cũng biết mình
đã cố hết sức lực, do đó không thể nào trong lòng ta lại
không có niềm vui. Tâm hỷ lạc cũng phát sinh khi
ta tự biết mình đã giữ được kỷ luật, những kỷ luật
mình đã tự đặt ra cho mình. Kỷ luật do áp đặt khiến
ta cảm thấy khó chịu, như đeo gông, do đó tự động ta sẽ
phản kháng, chống cự, cảm thấy bị quấy nhiễu. Bất
cứ kỷ luật gì chúng ta đang giữ, đều là do ta tự đặt
ra cho mình, và ta có thể cảm thấy vui trong lòng vì ta đang
tự chiến thắng chính mình.
Đức Phật đã nói: “Kẻ thắng một vạn quân hằng vạn
lần, cũng không bằng người tự chiến thắng mình”.
Thật vậy, bản năng của chúng ta là đi ngược lại với
sự tự thắng mình, lúc nào ta cũng tìm mọi cách để được
hưởng những lạc thú do các căn mang đến.
Làm bất cứ điều gì, trước tiên ta cũng nghĩ đến việc
thỏa mãn các căn của mình. Có thể chiến thắng một
số các phản ứng bản năng nầy cũng đủ khiến ta vui mừng
được làm một chiến sĩ trên con đường đi đến giải thoát.
Nói thế không có nghĩa là chúng ta phải thật sự tham dự
một cuộc chiến, là điều đau khổ, đáng sợ, nhưng chỉ
để chứng tỏ rằng ta cần can đảm, tự dựa vào bản thân,
trung thực với chính mình. Sự can đảm và lòng trung
thực giúp ta sức mạnh để có thể tự đặt ra những kỷ
luật cho chính mình. Tất cả những việc làm nầy mang
đến cho tâm ta hỷ lạc. Niềm vui biết được rằng
ta đang thực sự thoát ra khỏi những vấn đề tầm thường
của cuộc sống thế nhân, là những thứ ta đã từng nếm
trải, nhưng chưa bao giờ tìm được sự thỏa mãn. Biết
được rằng mình đã tìm ra được một hướng đi khác tràn
niềm vui, giúp chúng ta tiến bước không ngại ngùng.
Có câu chuyện kể về Đức Phật trước khi Ngài thành đạo,
khi Ngài vẫn còn là Bồ tát. Ngái đã không ăn, và đã
nhận ra rằng sự khổ hạnh thái quá không giúp cho tâm được
thanh tịnh. Vì lẽ đó con đường đạo của Đức Phật
thường được gọi là ‘trung đạo”. Câu chuyển kể
rằng Ngài đã ngồi dưới gốc cây bồ đề ở một nơi giờ
được gọi là Bodhgaya, phía bắc Ần độ.
Trong vùng, thuở đó, người ta tin có một vị thần sống
trong cây bồ đềù, có khả năng giúp những người muốn
cầu tự. Một phụ nữ tên là Sujata đã cầu nguyện
vị thần cây giúp nàng có con, và lời nguyện cầu đó đã
thành sự thật. Bà liền sai cô hầu sữa soạn các
lễ vật để dâng cúng thần cây như bà đã khấn nguyện.
Khi cô hầu tới bên cây, thì thấy vị Bồ tát ngồi dưới
cây, nhưng cô lại tưởng là vị thần cây. Cô chạy
về nhà để báo với nữ chủ của mình rằng vị thần cây
đang ngồi dưới gốc cây. Sujata quyết định mang lễ
vật ra tạ thần để được gặp vị thần bằng xương thịt.
Câu chuyện kể rằng trước hết bà vắt sữa một trăm con
bò và mang sữa đó cho năm mươi con uống. Sau đó bà
lại vắt sữa năm mươi con bò nầy rồi cho hai mươi con uống.
Kế tiếp bà vắt sữa hai mươi con và cho mười con uống,
rồi bà lại vắt sữa từ mười con nầy để cho một con
uống. Khi bà vắt sữa từ con bò cuối cùng nầy, sữa
thanh khiết, đậm đặc như kem. Bà dùng sữa nầy nầu
cơm, xong đựng cơm trong một chén bằng vàng. Bà mang
cơm đựng trong chén vàng ra cho người mà bà nghĩ là vị thần
cây. Bà dâng cúng cho người cơm và chén vàng. Vị
Bồ tát đã dùng cơm (trong tiếng Sinhalese gọi là kiribat, có
nghĩa là ‘cơm sữa’, trong các ngày lễ ở Sri Lanka vẫn
còn được người ta nấu).
Khi vị Bồ tát đã dùng xong bữa, Ngài mang chiếc chén vàng
đến vứt ở dòng sông phía sau lưng. Ngài nói nếu chén
nổi và chảy ngược dòng nước thì Ngài sẽ giác ngộ, trở
thành Phật. Nhưng nếu chén chảy theo dòng nước, thì
Ngài sẽ không chứng được giác ngộ. Hẳn là chén đã
chảy ngược dòng, dầu rằng đó là điều người ta khó thể
tưởng tượng.
Dầu gì, đó cũng chỉ là câu chuyện ẩn dụ, nhưng là một
câu chuyện khá quan trọng đối với chúng ta. Nó ám chỉ
rằng tu theo Phật pháp cũng giống như lội ngược dòng nước.
Lội xuôi theo dòng nước thì dễ dàng hơn nhiều; mọi người
đều đã đi theo hướng đó. Khi lội ngược dòng nước,
ít nhiều gì ta cũng đơn độc, cũng vất vả hơn, nhưng ta
sẽ đến được thượng nguồn sạch sẽ, không uế nhiễm.
Sông luôn bắt đầu ở thượng nguồn. Thật là duyên
lành cho chúng ta được biết phương hưóng, biết con đường
đạo để đi. Nhưng chúng ta cần nhớ rằng đi ngược
với dòng chảy lúc nào cũng vất vả hơn nhiều, so với thuận
theo, làm theo như mọi chúng sanh khác, vì điều đó cũng có
nghĩa là chúng ta phải đi ngược lại với những bản năng
của chính mình.
Bất cứ khi nào các ham muốn, vọng tưởng khởi lên, và niềm
vui đi trên con đường đạo tạm thời biến mất, chúng ta
cần nhớ rằng đó chỉ là những phản ứng bản năng, tự
nhiên của con người, mà chúng ta đang cố gắng thoát ra.
Mỗi khi ta thành công, dù là rất nhỏ, ta lại tìm được
niềm vui mới trong việc tu tập của mình. Chúng ta biết
được con đường Đạo, biết những kết quả tốt đẹp
của con đường đạo đó, cũng như biết rằng nhiều người
đi trước ta đã đến được đích bằng cách lội ngược
dòng. Chúng ta càng cảm thấy như có thêm sức mạnh,
vì chúng ta đã không chịu thua cuộc. Mỗi người chúng
ta đều có những khả năng đặc biệt có thể xử dụng trong
việc tu tập. Có người dễ trở nên trầm lặng, kẻ
thì giỏi về phân tích, người khác có trí nhớ tốt, người
khác nữa có tài viết. Chúng ta cần phải xử dụng tất
cả những khả năng mình có, và phát triển chúng tới tột
cùng.
Đức Phật đã đã dạy ta cần giữ ýù, lời nói, hành động
đơn giản vì tâm ta đã đầy uẩn khúc, các quá trình suy
tư phức tạp chỉ làm cho việc tu tập của ta khó hơn.
Những lời dạy đơn giản của Đức Phật càng khiến cho
cuộc sống hằng ngày của ta thêm vui, vui vì được ở đúng
nơi, đúng lúc, và hành động đúng cách với tất cả tâm
hồn.
Có năm khả năng tâm linh, mà nếu được phát triển toàn
diện, sẽ giúp ta thêm sức mạnh; do đó, chúng cũng là những
yếu tố đưa đến giác ngộ. Năm khả năng nầy –chánh
niệm, tinh tấn, trí tuệ, tín tâm và thiền định- được
so sánh với một đàn ngựa, gồm một con đầu đàn và hai
cặp. Con đầu đàn có thể tùy ý đi mau hay chậm, nhưng
hai cặp còn lại phải giữ thăng bằng nếu không xe sẽ bị
ngã.
Con ngựa đầu đàn là chánh niệm, một khả năng ai cũng có
(nếu không, chúng ta đã bị xe ủi khi đặt bước chân đầu
tiên xuống đường!) Tuy nhiên, chúng ta cần phát triển
chánh niệm hơn nữa để nó trở thành một sức mạnh.
Đó là nhớ thực hành chánh niệm khi đi, đứng, nằm
ngồi, khi mở cửa đóng cửa, hay bất cứ hành động nào
của thân tâm. Dĩ nhiên là có lúc ta cũng quên, nhưng
khi tâm nói, ‘Tôi quên hành chánh niệm’, thì ngay lúc đó
ta lại nhớ. Không có chánh niệm, ta sẽ không nhận biết
được niềm vui nội tâm, vì ta quen tìm lạc thú qua sự xúc
chạm của các giác quan. Ta biết một cách chánh niệm
rằng ta đã có nhiều lạc thú do các giác quan mang đến trong
cuộc đời, nhưng không có gì mang đến cho ta sự thỏa mãn,
vì thế không cần phải tìm kiếm chúng nữa. Thay vào
đó, ta có thể quan sát những hành động, cửõ chỉ, cảm
giác, tư tưởng của mình. Chánh niệm là khả năng tối
ưu của ta, là sự quán sát nội tâm một cách khách quan, không
có giọng phê phán. Nếu không được như thế, ta sẽ
dễ dàng bị các tình cảm lôi kéo, hay hoang mang bởi những
phản ứng thiếu khôn ngoan.
Cặp ngựa đầu tiên là lòng tin và trí tuệ. Lòng tin
khiến ta dốc lòng, dốc sức theo đuổi, và trí tuệ giúp
ta biết rằng cái ta dốc lòng theo đuổi có phải là chân
lý không. Nếu không có sự đảm bảo đó, niềm tin của
ta có thể đặt không đúng chỗ.
Cặp ngựa thứ hai là tinh tấn và thiền định. Khi có
quá nhiều năng lượng, sẽ dễ khiến thân tâm lăng xăng,
là điều tất cả chúng ta đều từng trải qua. Nếu
có quá nhiều năng lượng vật lý, ta cần hướng chúng đến
những hành động ở thân. Nếu quá nhiều năng lựơng
tâm linh, khiến tâm bất an, bức bối, ta có thể xửû dụng
nó hữu hiệu hơn bằng cách hướng dẫn các suy nghĩ của
ta. Ngược lại, nếu thiền định quá nhiều, sẽ không
còn năng lựơng, dẫn đến thiếu chánh niệm. Thiền
định thái quá cũng khiến ta hôn trầm, vì thế ta luôn phải
cân bằng chúng. Đó là một nét đặc trưng của con đường
đạo của Đức Phật. Đó là giữ cân bằng giữa việc
lo cho mình mà cũng không quên giúp người, của việc
xử dụng năng lựơng sao cho thiền định có thể phát triển,
là sự thăng bằng giữa lòng tin và trí tuệ để tâm và thân
hòa hợp, đem những gì ta biết và những gì ta cảm đến
gần nhau. Nếu ta không xử dụng đúng Pháp, thì nó giống
như con rắn. Khi nắm đằng đuôi, nó có thể cắn ta;
nằm ở phía sau đầu, nó không còn nguy hiểm nữa. “Chủ
nghĩa vật chất tâm linh” là một điển hình rõ nhất của
mối nguy hiểm nầy.
Khi tâm và trí cân bằng, trí biết được ta đang làm gì,
và tâm có thể cảm xúc. Con đường tâm linh chỉ có
thể được thực hành qua các cảm xúc. Nếu chúng ta
có thể hiểu được giáo lý, nhưng không cảm thấy chúng
mang lại lợi ích gì, thì đó chỉ là sự thực tập của
trí tuệ, chỉ thích hợp ở các đại học. Những gì
chúng ta hướng đến, ngược lại, là sự dấy khởi của
một tri giác sâu xa, có thể biến chúng ta từ một chúng sanh
tầm thường thành một đấng giác ngộ –người đã đạt
được Niết bàn (nibbana). Hỷ là một cảm xúc nội tâm
thiết yếu nếu như ta muốn đi theo con đường nầy.
Nếu ta không thấy vui trong khi tu tập, thì tại sao ta phải
theo đuổi chúng? Rầt ít người theo đuổi một điều
gì, nếu họ không thấy hứng thú, không coi điều đó là
giá trị, đẹp đẽ. Niềm vui nội tâm không thể bị
xâm phạm bởi những yếu tố bên ngoài. Khi nào ta còn
tùy thuộc vào ngoại cảnh, ta còn là những nạn nhân không
có sự tự do lựa chọn. Con đường nầy sẽ dẫn ta
đến tự do hoàn toàn. Chúng ta cần phát triển sức mạnh
nội tâm để không còn phải tùy thuộc vào bầt cứ điều
gì trừ những gì chúng ta tự phát triển.
THAM VẤN
Thiền
Sinh (TS): Thưa Ni Sư, có phải việc ta bám vào các
căn trần mới là vấn đề, chứ không phải là các căn?
Ayya
Khema (AK): Dĩ nhiên là các căn của chúng ta
không phải là vấn đề, vì chúng ta không thể sống nếu
không có chúng. Nhưng chính là những diễn giải nơi tâm
mới tạo nên vấn đề. Câu chuyện sau đây sẽ là một
thí dụ.
Có đôi vợ chống kia, một ngày nọ, sinh chuyện cãi vã lớn.
Người vợ nghĩ rằng mình sẽ ra đi vì đã quá chán ngán.
Bà mặc vào những chiếc sari đẹp đẽ nhất, cái nọ chồng
lên cái kia, đeo những đồ trang sức bằng vàng quý giá nhầt,
rồi bỏ nhà ra đi. Người chồng sau đó cảm thấy hối
hận, nên quyết định chạy tìm người vợ để mang bà trở
về. Ông chạy đuổi theo, nhưng không tìm thầy bà đâu
cả. Lúc đang vội vã trên đường làng, ông nhìn thấy
một vị sư đi ngang qua. Ông chận vị sư lại hỏi, ‘Thưa
Ngài, Ngài có thấy một phụ nữ đẹp, tóc dài, mặc sari
đỏ, mang nhiều nữ trang đi ngang qua trên đường nầy không?’
Vị sư trả lời, ‘Tôi thấy một hàm răng đi qua’.
Dầu vị sư đã nhìn thấy người phụ nữ, ông không muốn
bắt đầu tự nhủ rằng đây là một phụ nữ đẹp với
mái tóc đen dài, áo sari đỏ, nữ trang vàng chói. Ông
đã biết làm sao để thanh tịnh các căn đến nỗi ông chỉ
thấy một hàm răng đi ngang qua. Không phải các căn của
ta là vấn đề, chúng ta rầt cần chúng, không thể sống thỏai
mái mà không có các căn. Thật vậy, cuộc sống của
ta sẽ rầt khó khăn nếu ta bị mù hay điếc. Vấn đề
là ở các suy nghĩ của ta.
TS:
Con nghĩ là nếu chúng ta dựa theo quan điểm đó quá sát sẽ
khiến ta thiếu sự tri ân, ngưỡng mộ. Thí dụ, niềm
vui của con là con cảm thấy mình tri ân mọi thứ hơn lên.
Chim chóc, biển cả, ánh sáng hình như đẹp hơn. Đó
không phải là chấp, mà là một cảm giác an lạc, hưng phấn
trước cái đẹp của muôn vật, muôn loại. . . Con không biết
phải diễn tả thế nào.
AK:
Sư hiểu điều em muốn nói. Tuy nhiên, ở đây, điều
chúng ta muốn nhấn mạnh, đó là ta có thể có được niềm
vui ở nội tâm mà không cần có sự xúc chạm của các căn.
Sự xúc chạm của các căn là điều không thể tránh khỏi,
qua đó có thể khiến ta tăng thêm lòng ngưỡng mộ cái đẹp,
nhưng hãy cố gắng đừng để phải tùy thuộc vào các vẻ
đẹp bên ngoài để tạo niềm vui cho nội tâm; đừng đợi
một ‘động lực’ nào đó mới phát sinh hỷ lạc.
Vẻ đẹp có hiện hữu, nhưng ta cần phải biết các cảm
giác xúc chạm sẽ chóng qua, cũng như nhận thức được rằng
cuộc sống của chú chim kia cũng đầy đau khổ.
Hỷ lạc phát sinh từ sự hiểu biết trong nội tâm rằng,
vì vạn pháp đều vô thường, không có gì để ta phải chấp,
không có gì để ta lo lắng, không cần phải đi đâu, không
cần phải đạt được điều gì.
Đức Phật đã ví sự xúc chạm của các căn như là một
con bò bị lột da sống, với đàn ruồi luôn bu trên da thịt.
Con bò phải khốn khổ luôn vì chúng. Cũng thế, sự xúc
chạm của các căn cũng quầy rầy ta luôn, vì tâm ta lúc nào
cũng phải cố gắng giải mã chúng. Tiếng chim hót không
có gì hơn là âm thanh, nhưng tâm lại vẽ vời ra những câu
chuyện khi nghe các âm thanh đó. Nhận thức được sự
giới hạn của các căn, chúng ta sẽ quay trở vào tìm niềm
vui ở bên trong, chứ không phải ở bên ngoài.
TS:
Thưa Ni Sư, thế có gì được coi là ‘sự cảm nhận thuần
khiết’ không?
AK:
Có một người tên là Bahia ở vào thời Đức Phật còn tại
thế. Bahia là một nhà truyền giáo đã hơn ba mươi năm
và ông tin rằng mình đã giác ngộ. Một đêm kia, một
vị phạm thiên đã hiện đến với ông và nói, ‘Bahia, ông
không phải là người giác ngộ. Ông còn không biết phải
làm thế nào để được giác ngộ’. (Vị phạm thiên
đây có thể là tiềm thức). Bahia cảm thấy rất bối
rối, ông nói, ‘Tôi không giác ngộ, tôi không biết phương
pháp? Làm sao tôi học được điều đó?’ Vị phạm
thiên trả lời, ‘Ông phải đi tìm Đức Phật. Ngài
sẽ chỉ cho ông làm sao để được giác ngộ’.
Bahia lập tức bỏ nhà ra đi tìm Đức Phật. Buối sáng
hôm sau ông đến được ngôi làng nơi Đức Phật đang có
mặt, và tìm đến nơi Đức Phật đang trú ngụ. Đức
Phật đã đi khất thực. Người quanh đó bảo Bahia, ‘Đừng
thưa hỏi với Đức Phật bây giờ, Ngài đang đi khất thực
và sẽ không trả lời ngươi đâu’. Nhưng Bahia quá nóng
lòng muốn biết làm sao để được giác ngộ nên ông không
nghe theo những lời khuyên nầy.
Ông chạy tìm Đức Phật và gặp Ngài trong làng. Ông
đảnh lể Đức Phật rầt trang nghiêm, rồi nói, ‘Thưa Ngài,
con có điều muốn được tham vấn’. Đức Phật trả
lời, ‘Ông đã đến không đúng lúc, ta đang đi khất thực’.
Nhưng Bahia không thối chí, lại hỏi Đức Phật và lại bị
từ chối. Bahia hỏi đến lần thứ ba (theo truyền thống
Ấn độ, một vị thầy không thể từ chối lời thưa hỏi
về tâm linh ba lần), Đức Phật trả lời, ‘Thôi được.
Ông muốn biết điều gì?’
Bahia thưa, ‘Con muốn biết làm sao để được giác ngộ’.
Đức Phật trả lời, ‘Đối với ngươi, Bahia, chỉ thấy
cái thấy, chỉ nghe cái nghe, chỉ biết cái biết’. Bahia
lễ tạ Đức Phật, rồi lui đi.
Buổi chiều khi Đức Phật đi cùng với các vị đệ tử,
thì thấy thi thể của Bahia ở ven đường. Ông đã bị
một con bò húc phải, thấy thế Đức Phật nói, ‘Bahia đã
giác ngộ trước khi chết’.
Chỉ một câu nói của Đức Phật cũng đủ cho Bahia, người
đã tu tập trong ba mươi năm, nhận thức được giác ngộ
là gì. Nhận thức được rằng, ‘chỉ thấy cái thấy,
chỉ nghe cái nghe, chỉ biết cái biết’, có nghĩa là không
coi sự xúc chạm của các căn là quan trọng, không coi
chúng thuộc về ta, không cần phải phản ứng theo chúng, mà
chỉ nên coi chúng như một vở tuồng đang diễn ra.
|