|
.
KHI
NÀO CHIM SẮT BAY
Hành
Trình Phật Giáo Về Phương Tây
Tác Giả:
Ni Sư AYYA KHEMA - Việt Dịch: Diệu Liên Lý Thu Linh
Dịch
từ bản tiếng Anh: When the Iron Eagle Flies - Buddhism For the West
Wisdom
Publications 1991, 2000
|
|
Chương
16
Ngày
Qua Ngày
Có lời tiên đoán rằng sau khi Đức Phật nhập diệt (parinibbana),
Pháp của Ngài sẽ tồn tại trong năm ngàn năm, sau đó những
danh từ như anicca (vô thường), dukkha (khổ) và anatta (vô ngã)
sẽ không được nhắc tới cho đến khi vị Phật tương lai
ra đời, có thể là hằng ức kiếp sau. Đức Phật
tương lai có tên là Maitreya Buddha (Đức Phật Di Lặc), từ
chữ Sanskrit maitri, có nghiã là từ bi. Tuy nhiên, khoảng
giữa của năm ngàn năm đó sẽ có thời gian khoảng một trăm
năm khi Phật pháp được cực thịnh. Chúng ta đang ở
khoảng ba mươi ba năm của một trăm năm nầy, Phật pháp đã
vươn đến phương Tây như chưa từng có bao giờ. Đây
là lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, các vị thầy
Tây Tạng rời khỏi Tibet, mang Phật giáo theo họ đến các
nước –như Aán độ, là nơi xuất phát của Phật giáo, nhưng
Phật giáo gần như đã bị huỷ diệt ở đấy. Do đó
đây là thời gian mà ta có cơ hội tốt nhất để đạt được
giác ngộ, không nên lãng phí cuộc đời vào những việc không
cần thiết. Hiện tại thì Phật pháp còn đây, nhưng
có thể không còn nữa trong tương lai.
Do đó, hãy thử xét lại xem ta có thể ứng dụng được những
gì ta đã nghe hay chứng nghiệm được từ giáo lý của Đức
Phật. Chúng ta không thể tách thiền ra khỏi cuộc sống.
Nếu ta không thể kết hợp cả hai lại với nhau, thì ta khó
tiến trên con đường tâm linh; ta sẽ cảm thấy bị giằng
xé giữa những sự chọn lựa, không biết ta thuộc về chỗ
nào. Ta phải kết hợp các sinh hoạt của mình thành một
mối. Ta có thể tập ứng dụng sự tu tập của mình
vào tất cả mọi hoàn cảnh trong cuộc sống.
Ta cần có một hướng đi rõ ràng, biết mình muốn gì trong
cuộc sống. Nếu có thể hãy viết xuống tất cả những
gì ta có thể nghĩ ra, rồi sau đó, xóa đi những gì không
thích hợp. Lập thành một bảng liệt kê theo thứ tự
ưu tiên, vài ngày sau kiểm lại, xem ta có cần thay đổi gì
không. Bảng liệt kê nầy có thể thay đổi luôn, và
có thể một ngày nào đó trên bảng liệt kê không còn gì
ngoài chữ niết bàn. Lúc đó, ta sẽ nhận ra được tính
cấp bách (samvega), khẩn trương trong cuộc sống. Tuy nhiên
cho đến lúc đó, cái gì là ưu tiên nhất vẫn thay đổi luôn,
nhiều thứ được liệt kê ra rồi lại bị xóa mất.
Lúc đầu có thể là: “Tôi muốn được bình an, hạnh phúc”
hay “Tôi muốn có nhiều bạn”, “Tôi muốn có nhiều thì
giờ rảnh rỗi”. Nhưng nếu ta xem xét kỹ lại bảng
liệt kê, thì tựu trung cũng chỉ là một điều duy nhất:
“Tôi muốn thoát khổ”. Nếu bạn tin vào lời dạy
của Đức Phật, thì chỉ có một điều đáng để hướng
tới, đó là niết bàn. Nếu là thế, hãy thử xem bảy
yếu tố giác ngộ (thất giác chi) có thể giúp gì cho ta.
Bảy yếu tố giác ngộ trong tiếng Pali được gọi là bojjhanga.
Bo là nguyên âm của giác ngộ, và jjhanga ám chỉ các chi như
tay chân. Vì thế chúng là bảy chi của giác ngộ.
Chi đầu tiên, trên hết mọi thứ là chánh niệm. Điều
đó không có nghĩa là các chi khác không quan trọng, nhưng không
có chi nầy thì không có cửa vào pháp hành. Sự quan trọng
của cánh cửa chánh niệm không thể bị coi thường.
Nó bao gồm tất cả những đức tính tâm linh mà ta cần có
trong cuộc sống hằng ngày.
Chánh niệm là gì, nó có thể giúp gì cho ta? Có bốn
căn bản, trong đó trước hết phải kể đến thân (kayanupassana).
Điều đó có vẻ đơn giản, rõ ràng, vậy mà Đức Phật
lại nói, “Người không có chánh niệm nơi thân không thể
chứng vào cõi bất tử”. Tất cả chúng ta đều biết
rằng ta không thể chỉ là thân nầy, ta phải là gì hơn thế
nữa, vậy mà ta vẫn luôn tự coi thân là mình. Ta nhìn
vô gương, nói: “Tôi không được khỏe. Tôi phải làm
gì đó cho bản thân.”
Chánh niệm có thể áp dụng cho những việc bình thường lẫn
tâm linh. Những ứng dụng bình thường của chánh niệm
giúp ta kiểm soát hành động của mình, do đó ta có thể tránh
xử dụng thân vào những việc xấu hay nguy hại, như là phạm
một trong các giới, hay làm hại đến thân thể của ai.
Chánh niệm nơi thân giúp ta hành động nhịp nhàng, dễ dàng,
hữu hiệu trong mọi sinh hoạt của đời sống hằng ngày.
Khi biết kiềm chế các hành động của mình, ta có thể dành
năng lượng cho những việc thiết yếu hơn. Nếu không,
vì bản tính trạo cữ, ta thường hành thân một cách không
cần thiết.
Sự ứng dụng của chánh niệm (mindfullness) vào tâm linh có
thể tìm thấy sẵn ngay trong thế giới nầy. ‘Tâm’(Mind)
thì ‘chứa đầy’ (full) những gì đang xảy ra.
Khi ta chú tâm nơi thân, ta có thể ý thức được bản
tánh thực sự của nó là chuyển động không dừng. Ngay
cả trong giấc ngủ say thân ta cũng lăn trở để làm giảm
bớt sự khó chịu. Một cách vô thức, tâm biết đến
cái đau ở thân, nên sáng hôm sau thức dậy, ta không còn nhớ
đã trở mình bao nhiêu lần. Sự chuyển đổi do khó chịu
gây ra, cũng là sự biến chuyển của vô thường. Mọi
thứ trong thân đều phải chuyển động –hơi thở, tim, máu,
các tế bào- nếu không ta sẽ chết. Biết đến những
chuyển động không ngừng nầy cũng là một tri kiến quan trọng.
Khía cạnh tâm linh của chánh niệm chuyển hoá những pháp
hành tầm thường, thực dụng, và giúp ta nhận thức được
rằng thân không phải là bền vững, mà chịu sự chi phối
của những chuyển đổi không dừng. Chúng ta có thể
biết được điều đó bằng lý trí, nhưng ta cần hấp thụ
nó bằng chứng nghiệm. Tâm biết và nhận thức được
sự việc, nhưng thân lại là một anh đầy tớ khó bảo.
Nếu có thân mà không có tâm, thì thân đó dù có bị cắt,
bị đánh, cũng không hề chống đối. Vì nó chỉ là
tổng hợp của xương, da, thịt, máu mủ và nhiều thứ khác
nữa. Nhưng khi thân đã có tâm ngự trị, thì mọi việc
đều khác hẳn. Điều đó giúp ta hiểu cuộc sống có
chánh niệm và tri kiến trong thực tại quan trọng thế nào.
Căn bản thứ hai về chánh niệm là thọ, đó là các cảm
xúc tình cảm. Nếu ta có tâm hay phác họa, thì các xúc
cảm có thể hiện ra như những hình ảnh. Nếu tâm hay
nghĩ ngợi, chúng có thể hiện ra như một câu chuyện.
Điều tối quan trọng là phải thật sự biết các cảm xúc
của mình. Chúng ta không thể lẫn lộn giữa tình cảm
và lý trí. Không cần biết lối sống của bạn ra sao,
điều quan trọng, đối với tất cả mọi người, là
phải biết các cảm xúc của mình, vì tất cả hành động
đều từ đó phát sinh. Xúc cảm của ta là điểm xuất
phát của ta. Trong lý thuyết duyên khởi tục đế, cánh
cửa ra khỏi luân hồi sinh tử được giải thích là nằm
giữa thọ và ái, muốn và không muốn, là những phản ứng
đối với các cảm thọ.
Trong quá trình hành thiền, hành giả phải quán sát các cảm
thọ của mình, nếu không việc hành thiền chỉ là một sáng
tạo của tri thức, không thể trở thành một chứng nghiệm.
Cuộc sống phải được chứng nghiệm, chứ không chỉ nghĩ
suy về nó. Khi chúng ta bắt đầu nghĩ ngợi về cuộc
đời, ta lại mổ xẻ chuyện quá khứ, tương lai. Hiện
tại, ngay giây phút nầy đây, phải được sống, phải chứng
nghiệm, và như thế lúc nào cũng có liên quan đến các cảm
thọ. Chúng ta luôn phản ứng theo chúng, dầu ta có ý
thức được điều đó hay không. Cảm thọ phát khởi
do tâm tiếp xúc với sáu căn, không ngừng nghỉ trong suốt
thời gian ta thức. Nếu ta không giữ tâm chánh niệm,
thì hành động, phản ứng của ta thường bất thiện, làm
tổn hại đến người, đến bản thân. Nếu không biết
điều đó, ta chẳng làm gì để thay đổi. Ta có một
công thức: “Nhận biết, không đổ lỗi, thay đổi”.
Công thức nầy rất hữu ích mỗi khi đời sống tình cảm
của ta dường như đen tối, nặng nề, khiến ta cảm thấy
chán nản, phản kháng, đau khổ. Chúng ta không thể để
cho những tình cảm như thế kéo dài, tiếp diễn, vì như thế
ta khác nào là nạn nhân của chính tình cảm của mình.
Chỉ khi ta đã chế ngự được tình cảm, thì ta mới có cơ
hội để sống hoà hợp, hạnh phúc. Từ vai trò nạn
nhân trở thành người chủ, có những bước ta phải trải
qua để tiến gần hơn đến đích. Bước đầu tiên là
sự nhận thức, hiểu rằng không nên gán lỗi cho các phản
ứng của ta, và rằng chuyển đổi là điều có thể thực
hiện. Nếu ta không tự biết mình nhờ chánh niệm, thì
hành động của ta, dầu nhiều hay ít, cũng vẫn như đã được
lập trình trước. Khi có một tác động gì xảy ra, ta vẫn
luôn phản ứng theo cùng một cách, lần nầy tới lần khác.
Đôi khi ta cũng nhận ra được ‘cái tác động’, thí dụ
như, ai đó nói điều gì hoàn toàn vô tình, vậy mà ta cũng
phản ứng dữ dội. Để rồi năm phút sau đó ta có thể
nhận ra rằng vì người đó giống một người ta không ưa,
do đó ta nhận ra rằng một vở kịch vừa được tái diễn:
ta phản ứng theo một khổ thọ phát sinh do sự tiếp xúc của
mắt. Lúc khác thì ta có thể phản ứng vì cảm giác
khó chịu do sự tiếp xúc của tai. Ai đó có thể nói
điều gì dường như không thể chấp nhận được đối với
chúng ta. Sau đó, ta có thể nhận ra giọng nói đó giống
của một vị thầy cũ có nhiều ác cảm với ta. Điều
người ta nói có thể hoàn toàn có lý, nhưng lập trình của
ta phản ứng ngược lại.
Vì thế hãy trở về với các cảm xúc của mình, quán sát
chúng kỹ hơn. Có cảm xúc dễ chịu, có cái khó chịu,
cái lại trung tính, nhưng phản ứng của ta không cần phải
rập khuôn, theo bản năng. Chúng ta có thể quán sát chúng
với tâm chánh niệm, và kiềm hãm chúng lại. Chuyển
đổi những gì đang xảy ra trong tâm dễ hơn là xả bỏ chúng.
Dầu rằng xả bỏ là cách tốt nhất để đoạn diệt mọi
bám víu, nhưng điều đó khó thực hiện hơn vì trong đó có
yếu tố buông xả. Ở giai đoạn đầu, chuyển đổi
là việc phải làm.
Điều ta phải nhận biết trước tiên là các tác động thì
ở bên ngoài ta, nhưng phản ứng lại ở bên trong. Ta
có thể quyết định xem mình phải giải quyết như thế nào.
“Tôi phải quan tâm đến các tác động bên ngoài hay cuộc
sống nội tâm của tôi?” Nếu có chút suy nghĩ, ta sẽ
quan tâm đến các hành động, phản ứng của mình. Trên
thế gian nầy có biết bao điều có thể tác động đến ta,
dĩ nhiên là ta không thể nào huỷ diệt tất cả. Trái
lại nếu chú tâm vào những gì xảy ra ở nội tâm mình thì
ta có nhiều cơ hội để thành công hơn.
Khi xung đột, ghét bỏ, sân giận, ghen tương, kiêu mạn, tham
lam hay ái dục phát khởi, ta có thể dừng lại trong giây lát
để quán sát chúng với chánh niệm. Khi đã nhận ra sự
tác hại sâu xa của chúng đối với bản thân, ta biết rằng
không thể để chúng tiếp tục xảy ra. Ta có thể thay
thế chúng bằng tâm từ bi hay bằng ý nghĩ rằng chúng chẳng
quan trọng gì, hoặc bằng ý thức về vô thường, vô ngã.
Nhất là đối với sân hận, là loại cảm thọ làm cho cuộc
sống của ta và mọi người quanh ta thật khổ sở. Khi
khởi lòng giận dữ với ai đó, trước hết ta có thể tự
hỏi mình: “Mình giận cái gì đây? Giận cái tóc, cái
mũi, con mắt hay cái gì? Mình giận vì những lời nói
của người đó?” Nếu họ nói lời khắc nghiệt, có
nghĩa là họ cũng đang khổ đau. “Tại sao ta lại giận
hờn họ? Tại sao ta không có lòng thương xót họ?”
Nếu ta có thể chuyển đổi lòng sân hận thành từ bi, ta
sẽ cảm thấy an lạc, người kia cũng an lạc, và ta cũng đã
tiến một bước trên con đường tâm linh của mình.
Nếu chúng ta quay ra tự trách mình về các hành động, phản
ứng tiêu cực, thì ta cũng dễ đổ lỗi cho người. Nhận
biết cảm thọ của mình, chấp nhận thực tế là ơa3m xúc
nầy đã không kiềm giữ được’, rồi quyết định sẽ
tiếp tục cố gắng là những điều ta có thể làm được
và cũng ích lợi hơn. Sẽ có rất nhiều cảm thọ ‘không
kiềm giữ được’ trước khi ta có thể chế ngự được
chúng –không chỉ sân, mà cả tham. Trong nhiều kiếp,
chúng ta đã tiếp tục phản ứng theo các tình cảm của mình,
đây có lẽ là lần đầu tiên, ta cố gắng ngăn chặn dòng
nước lũ. Đó mới là điều đáng kể nhất.
Ta có thể nói rằng tình cảm là những khía cạnh quan trọng
nhất trong đời sống nội tâm của mình, đời sống nội
tâm của ta tùy thuộc chúng. Nếu nội tâm không sóng
gío thì cuộc sống bên ngoài cũng sẽ y theo như thế.
Khi sân giận phát sinh, mà ta có thể chuyển đổi thành lòng
từ bi, ta sẽ có đủ tự tin rằng lần sau ta cũng có thể
làm được như thế. Điều đó cho ta thêm động lực
tu tập.
Ý căn hay quá trình tư duy làm nền thứ ba cho chánh niệm.
Chúng ta cần có khả năng phân biệt giữa suy tưởng, chứng
nghiệm và cảm xúc. Nếu ta ý thức về ý căn của mình,
ta có thể chọn giữa những giấc mộng ban ngày và những
suy nghĩ có chủ định như trong khi quán tưởng. Con đường
thoát khổ thường là ý, nếu ta không biết điều đó, ta
cũng có thể nghĩ đến những tác động của nó. Nhưng
thật ra, tâm ý chính là khổ. Suy nghĩ lung tung, không
ngừng nghỉ dẫn đến xung đột, chứ chẳng có kết quả
gì. Suy tưởng chỉ có thể trở nên hữu ích khi nó đưa
đến chứng nghiệm.
Căn bản thứ tư để chánh niệm là nội dung của các tưởng.
Không phải là ta không cho phép vọng tưởng được dấy lên,
nhưng quán sát những gì đang xảy ra trong tâm khi chúng phát
khởi. Tư tưởng bất thiện thường được dẫn trước
bằng những tình cảm khó chịu, e ngại, đôi khi lại là sự
mơ hồ, bứt rứt. Tư tưởng bất thiện thường đổ
bóng mình xuống trước, như để nói: “Coi chừng, tôi đang
đi tới”. Chúng làm tiêu hao năng lực của ta, mà không
có cách gì để tái tạo.
Đức Phật đã chỉ cho ta năm phương cách để chiến đấu
với các tư tưởng uế nhiễm. Phương pháp thứ nhất
là thay thế, chuyển đổi giống như ta vẫn làm trong các thời
thiền. Ngài so sánh phương cách nầy giống như miếng
chèn mà người thợ mộc thường dùng để trám, đóng kín
một lổ hở; khi thấy không vừa, thì người ấy cẩn thận
rút ra, rồi thay bằng một cái vừa hơn.
Phương pháp thứ hai là qua sự hổ thẹn, nhờm gớm.
Đức Phật so sánh phương pháp nầy với một cặp vợ chồng
trẻ, ăn mặc đẹp đẻ, ra ngoài đường phố, bỗng họ chợt
nhận ra mỗi người đang đeo một chuỗi xác thú chết quanh
cổ. Họ vội vã trở về nhà, tắm gội sạch sẽ, thay
đổi áo quần trước khi trở ra ngoài đường. Đó cũng
như là sự nhận biết của ta rằng các tư tưởng xấu ác
khiến cho vẻ bề ngoài của ta trông xấu xí, khó nhìn, vì
thế ta phải thay đổi chúng nhanh chóng.
Phương pháp thứ ba là chuyển điểm chú tâm của ta.
Đức Phật so sánh nó với việc gặp gỡ một người quen
biết mà ta không muốn liên hệ; ta sẽ không chào hỏi, không
bắt chuyện với người đó, mà tiếp tục công việc của
ta như thể ta không thấy người đó. Có nghĩa là ta không
muốn liên quan đến các tư tưởng xấu ác của mình, mà giữ
tâm trụ vào những gì có ích lợi hơn.
Phương pháp thứ tư là nhận ra được sự khó chịu.
Đức Phật so sánh phương pháp đó với một người đang chạy,
bỗng nhận ra mình đang rất khó chịu, nên người đó thay
bằng đi bộ. Nhưng cũng vẫn thấy còn khó chịu, nên
người đó dừng hẳn lại. Sau một lúc, anh ta cũng không
khỏe hơn, nên ngồi xuống. Rồi cũng không được, anh
ta nằm xuống, chỉ khi ấy anh mới cảm thấy hoàn toàn dễ
chịu. Điều nầy tương tự với việc ta nhận ra được
rằng những tư tưởng xấu ác khiến ta cảm thấy khó chịu,
muốn bịnh, nên ta dần dần chuyển đổi từ tiêu cực qua
trung tính, rồi tới những suy nghĩ tích cực.
Phương pháp thứ năm là đè nén. Bất cứ gì cũng tốt
hơn là những tư tưởng xấu ác. Đức Phật so sánh phương
pháp nầy như là một người to lớn, mạnh khỏe, nắm cổ
áo một người nhỏ bé, ốm yếu, đè xuống. Tốt hơn
là nên đè các tư tưởng bất thiện của ta xuống, bằng
cách đè nén hay chuyển đổi, còn hơn là mang chúng theo ta
đến một kết thúc chắc chắn rằng không tốt đẹp gì.
Sự nhận biết các tư tưởng, hành động bất thiện giống
như một bản thăm dò ý kiến. “Tại sao điều đó khiến
tôi giận dữ?” Mỗi câu trả lời lại tiếp một câu
hỏi mới cho đến khi chúng ta đi đến chỗ tận cùng, rốt
lại cũng luôn là ‘cái ngã’. Tuy nhiên không ích
lợi chi nếu chỉ biết nói, “Chỉ là cái ngã của tôi”,
rồi thôi. Ta phải đi đến kết luận đó qua sự quán
xét nội tâm mình.
Các tác động, ngòi châm trên thế gian nầy hiện hữu chỉ
vì một lý do duy nhất: để chỉ cho ta biết ta cần phải
tu sửa những gì. Chúng ta nên mang ơn các trở ngại vì
chúng là các vị thầy của ta. Nếu chúng ta có thể chấp
nhận rằng cuộc đời ta không gì hơn là một lớp học bổ
túc, thì ta sẽ có thái độ ứng xử thích hợp hơn.
Nếu ta đi tìm lạc thú, sự dễ dãi, thì ta sẽ chỉ đi từ
thất vọng nầy đến thất vọng khác.
Chánh niệm cần đi đôi với trí tuệ. Chánh niệm biết,
nhưng trí tuệ hiểu, dựa vào bốn yếu tố. Yếu tố
thứ nhất là mục đích của thân, khẩu và ý. Sau khi
đã chắc chắn rằng mục đích hữu ích, ta phải xét đến
yếu tố thứ hai, đó là xem tâm ta có những phương tiện
thiện xảo không. Xong ta xét xem mục đích và phương
tiện có đúng Pháp không, có nghĩa là tốt, là thiện; không
có kết quả nào có thể biện minh cho phương tiện bất thiện.
Sau khi ý, lời nói và hành động đã hoàn tất, ta phải xét
xem ta có đạt được mục đích không, nếu không thì tại
sao không. Nếu mục đích không đạt được có thể vì
phương tiện không được thiện xảo. Từ những lần
đầu tiên thực tập, chúng ta khó thể luôn thành công, nhưng
ta có thể học hỏi thêm sau mỗi kinh nghiệm.
Câu đầu tiên và câu thứ hai trong Kinh Pháp Cú (Dhammapada)
có nói:
Tâm là chủ,
Nếu ai suy nghĩ với tâm xấu ác,
Bất hạnh liền theo sau,
Giống như bánh xe theo sau con ngựa kéo.
Nếu ai nghĩ với tâm thanh tịnh,
Hạnh phúc sẽ theo sau như bóng theo hình.
Chi thứ hai của thất giác chi (bảy yếu tố giác ngộ) là
trạch pháp. Yếu tố nầy có thể được xét dưới hai
khía cạnh. Trạch pháp, trước hết, có nghĩa là hiểu
được giáo lý –không chỉ là lời, là chữ, nhưng cả nghĩa
lý. Một câu thơ trong kinh Pháp Cú (Dhammapada) diễn tả
điều đó như sau:
Chỉ hiểu một câu pháp
Mà có thể thực sự ứng dụng
Còn tốt hơn biết ngàn câu vô ích.
Chỉ biết ít, nhưng có thể sống theo đó còn hữu ích hơn
biết rất nhiều, nhưng không thể ứng dụng điều gì.
Chúng ta có thể nghiên cứu Pháp sao để có thể hiểu và
biến nó thành của riêng mình bằng cách ứng dụng, đó chính
là nguồn của trí tuệ.
Còn có một nghĩa thứ hai của chữ Dhamma trong tiếng Pali,
đó là ‘hiện tượng’. Ở đây ta quán sát tất cả
những gì ta thấy, nghe, xúc, nếm, ngửi, suy nghĩ và cảm giác
như là vô thường (anicca), khổ ((dukkha) và vô ngã (anatta).
Ta thường khám phá ra rằng ta thích chọn một trong ba điều
nầy để làm đề mục quán tưởng. Việc quán sát, suy
gẫm nầy không chỉ giới hạn trong các khóa tu thiền, mà
cần trở thành một thói quen thiền trong đời sống hằng
ngày. Mỗi một trong ba đặc tính đó, khi suy gẫm, hiểu
thấu đáo cũng sẽ đưa ta đến cùng một tri kiến-trí tuệ.
Chi thứ ba là tinh tấn, về thân cũng như tâm. Tâm tinh
tấn bao gồm sự tự nguyện và ý chí, thân tinh tấn tùy thuộc
vào ảnh hưởng của tâm. Nếu sự tinh tấn ở tâm linh
được nhiếp tâm, ta sẽ biết rõ ta cần làm gì, ta đang ở
đâu, ta sẽ thấy là sự tinh tấn nơi thân được phát triển
tốt hơn. Tất cả mọi người đều có những hạn chế
nơi thân, nhưng tâm tinh tấn là yếu tố quyết định.
Nếu ta chỉ có một hướng đi duy nhất, và biết rằng những
trở ngại trên đường đi là do ta tự tạo ra, thì ta sẽ
không để cho nó làm nhụt chí mình. Trở ngại chính
là những thử thách để ta phát sinh thêm tinh tấn. Tinh
tấn tạo ra và duy trì nỗ lực, là những thứ ta cần để
giữ được thăng bằng, giống như khi ta đi trên một sợi
dây căng. Nếu ta căng chặt quá, ta sẽ ngã xuống bên
nầy. Trái lại dây dùng quá, ta sẽ ngã bên kia.
Nếu ta nhận thấy rằng nội lực của mình đã bị tiêu hao
đến độ không còn có thể chú tâm, ta biết rằng mình đã
cố gắng quá sức. Trái lại nếu ta nhận thức được
rằng ta chỉ đi tìm lạc thú, sự dễ chịu, ta biết rằng
mình chưa cố gắng đủ, ta phải tìm lại trung đạo. |