Chương
5
Các
Cấp Ðộ Thiền Ðịnh
Thiền
định là nếp sống năng động thông qua một nhãn quan sáng
tạo, một đường hướng hiểu biết sâu sắc về cuộc sống,
về những gì vẫn thường trực xảy ra quanh ta. Tu tập pháp
môn thiền định có nghĩa là chúng ta đi tìm một hành trình
sống với những chặng đường hay cũng có thể gọi là những
trình độ, những bước đi: Khám phá, phơi mở và hóa thân...
Dấn
thân
Chặn
đường thứ nhất, là chúng ta trực diện với chính mình
trong những bước đầu sơ cơ. Học hỏi giáo lý và thọ trì
một vài nguyên tắc cơ bản ban đầu, cũng như tập sự làm
quen với những trở lực dĩ nhiên phải có đối với một
người mới bước vào ngưỡng cửa thiền định, sau đó,
chúng ta dốc sức điều hành thân tâm chính mình. Bước đầu
bao giờ cũng lắm cái gian nan. Chúng ta đã có dịp biết qua
ít nhiều về những trở lực của thiền định, như ham muốn,
xung khắc, khuếch tán tư tưởng, buồn ngủ và hoài nghi. Chúng
là những trở lực có thể đến với chúng ta trong bất cứ
lúc nào.
Giai
đoạn dấn thân là dạy cho ta biết cách học hỏi để tự
làm thăng hoa bản thân, sử dụng ngay chính các trở lực đó
như những đòn bẩy cho cuộc tu của mình. Và ở đây, ngay
trong từng phút đối diện với thực tại, chúng ta mới có
cơ hội vượt qua những khó khăn ban đầu ấy để tiếp tục
thực hiện công phu tiếp theo là phơi mở nội tâm.
Giai
đoạn dấn thân này có thể được minh họa bằng tinh thần
can đảm và khả năng buông bỏ của chúng ta. Ta tự biết
những gì là thực sự không cần thiết để nội tâm được
trong sáng và nhẹ nhàng, những điều kiện hết sức cần
thiết cho một sự lắng nghe vừa sâu sắc vừa mới mẻ. Chỉ
riêng ước muốn xả kỷ và thiết tha tìm về bản chất thật
của mình đã là một biểu tượng cho một tâm hồn vĩ đại
và can đảm.
Chúng
ta rồi sẽ phải có mặt trong biết bao cuộc đối đầu nữa,
chúng ta còn biết bao việc phải làm, có biết bao điều chúng
ta cần phải hoàn tất..., tất cả chỉ điều có thể thành
tựu từ một nội tâm tha thiết hướng về chân lý. Ta có
thể gọi tên nó là một thứ tình yêu và chỉ có thứ tình
yêu này mới đem lại cho chúng ta tất cả nghị lực và can
đảm.
Yêu
cầu thứ hai của cuộc dấn thân mà nảy giờ vẫn nói đến,
đó là tinh thần xả kỷ. Ðể có mặt trên một con đường
mới, chúng ta không thể tiếp tục giữ lại và tuân theo những
thói quen không cần thiết, chẳng hạn sự quên mình trong những
ham muốn và sợ hãi. Thay vào đó, chúng ta phải thật sự
ngồi lại và đối mặt với mọi sự một cách khách quan
nhất. Phải nhận rằng, kiểu phơi mở này quả là không dễ
dàng tí nào. Chúng ta sẽ cảm thấy bối rối với ngay cả
chính mình khi phải gần như lãng quên hết những gì là hiểu
biết để trở nên hồn nhiên và vô tư hơn. Nhưng người
hành giả nên hiểu rằng trong chính thái độ tư tưởng "anh
nhi" đó, mọi cảm nghiệm của chúng ta về vạn sự mọi trở
nên chính xác và sâu sắc.
Một
trong những vấn đề quan trọng nhất của giai đoạn dấn
thân là trong một chừng mực nào đó, người hành giả tự
biết xem nhẹ hình hài vật lý của mình. Ngay những giờ thiền
tọa đầu tiên, ta phải chịu đựng biết bao là khổ sở.
Ðối diện với nỗi khó khăn này cũng là một công phu: Ta
tự giàn xếp những vùng đau để cố gắng biến chúng thành
thực tại tri nhận. Có làm quen được với các tư thế thiền
định, học được cách xử lý chúng bằng Thiền định với
ý nghĩ tận dụng, ta sẽ từng bước vượt qua chính mình
để các nổ lực ngày một hữu hiệu hơn, chẳng hạn một
khả năng tập trung nhìn ngắm. Ở chính trình độ này, chúng
ta mới may ra cảm nghiệm được một nỗi đau đớn khác sâu
sắc hơn, đó là nỗi đau đến từ những vật lộn sinh lý:
vai, lưng, eo, bụng,... Khi phải chịu đựng một sự gò bó
căng thẳng đến mức độ nào đó có thể gây nên những
nhức nhối tưởng có thể làm chết người. Nhưng rồi cùng
với sự tỉnh thức liên tục, những bức xúc ghê gớm này
mỗi lúc cũng được giải phóng. Sau cùng, ở một trình độ
cao hơn, những đau đớn sinh lý lại chuyển sang hình thức
khác: có thể đó sẽ là những cảm giác ảo tưởng không
ai giống ai, vi tế hơn nhưng cơ hồ còn mãnh liệt hơn trước.
Nhưng chẳng sao hết, sự chuyển đổi cảm giác sinh lý này
thường đi đôi với sự nâng cấp của trình độ Thiền định.
Thời gian để vượt qua giai đoạn này luôn là bất định,
kẻ mau người chậm. Nhưng vấn đề tựu chung vẫn là làm
thế nào đó, chúng ta học được cách vượt khỏi những
giới hạn thông thường của thể xác bằng cách tri nhận
tất cả để thoải mái mở rộng nhãn trường nhìn vào thực
tại.
Giàn
xếp được những hoạt động thô tháo của nội thân xong
rồi, người hành giả đến lúc này coi như đã có thể đủ
sức đặt vấn đề với một hoạt động vi tế mà cũng hết
sức quan trọng của tấm thân sinh lý, đó chính là hơi thở.
Ðừng cố gắng điều hành hơi thở. Ðó là một yêu cầu
hết sức quan trọng. Chúng ta hãy đơn giản nhìn ngắm nó
ra vào một cách tự nhiên. Nói một cách khác, chúng ta chỉ
nên học hỏi chứ không chỉ đạo hơi thở. Nó nhanh hoặc
chậm, nhẹ hoặc sâu cứ mặc chúng. Ta chỉ việc theo dõi
và nhìn ngắm từng đổi thay của nó. Ðiều này đòi hỏi
một sự xuyên xuốt và liên tục: theo thời gian, hơi thở
của chúng ta có thể ngày một vi tế hơn, thậm chí gần như
mất hẳn. Nhưng không sao cả, sự tỉnh thức của chúng ta
sẽ theo chiều tỷ lệ thuận, cũng ngày một vi tế và tinh
xác hơn.
Một
khi đã làm chủ được những vận động lớn nhỏ của tấm
thân sinh lý, yếu cầu tiếp theo là hành giả chỉ còn mỗi
việc thu nhiếp nội tâm chính mình. Nhìn vào từng giòng trôi
chảy của ý thức, chúng ta thấy được gì? Ðó chính là
sự thay đổi liên tục. Kinh điển truyền thống đã từng
ví dụ một nội tâm loạn động bằng hình ảnh con khỉ.
Có nhìn vào nội tâm của chính mình, chúng ta mới thấy được
nó chẳng khác gì một gánh xiếc hay một vườn thú: ở đó
có đủ loài két, mèo, cọp, gấu... Trong tâm hồn của chúng
ta nào có thiếu gì đâu: những biểu tượng, khái niệm, những
chuyện vui, chuyện buồn, toan tính, lý tưởng, hồi ức,...
tất cả là một sự hỗn độn và chuyển dịch bất tận.
Bổn phận của người hành giả sơ cơ là lặng lẽ ngắm
nhìn dòng chảy nội tại này. Chúng ta buổi đầu dĩ nhiên
phải học qua đôi điều về bản chất của nội tâm mà phần
này chúng tôi đã có viết ở phần trước. Bản chất vô
thường của nội tâm cũng giống như sự đổi thay của thời
tiết: hôm qua có tuyết, hôm nay trời mưa, rồi có thể ngày
mai là nắng đẹp. Và bên cạnh cái vô thường đó luôn là
những bất trắc, bất toàn không hò hẹn: Mùa xuân có thể
nhiều sương mù, mùa hạ có thể nhiều gió lạnh, mùa thu
cây cỏ trơ trụi để rồi sang đông, mọi thứ có thể bị
đóng băng.
Nội
tâm của chúng ta cũng giống như thế. Chúng ta cũng là một
thứ tạo vật trong đời sống. Thiền định chỉ đề nghị
ở chúng ta một thái độ không phân biệt để có thể giao
cảm và tri nhận trọn vẹn tất cả chính mình, chúng ta cũng
đều có thể thực hiện nếp sống nội quán tỉnh tại.
Chúng
ta, những người hành giả có thể xem nội tâm chính mình
như một thác nước: nó ào ạt tuôn chảy mà tâm hồn của
chúng ta cũng luôn luôn chảy ào ạt. Một khi đã đưa được
nội tâm của mình vào từng phút giây hiện tại để chiêm
ngắm thì nội tâm của chúng ta cũng sẽ theo đó mà ngày một
kiên cố hơn. Ðó chính là thiền định.
Pháp
môn Thiền định mà chúng ta đang nói đến ở đây có nội
dung là sự chú mục vào những gì đang xảy ra. Cách đây mấy
năm, một người bạn của tôi lại không may lại chuyển dạ
ở một vùng quê xa không có bác sỹ, y tá mụ đỡ nào cả.
Phải nói đó là một ca sanh nở khốn đốn và mất thời
gian. Ðứa bé mới lọt lòng mẹ bỗng nhiên xám ngắt và gần
như không thở nổi. Hai vợ chồng người bạn tôi đã thay
nhau làm hô hấp cho đứa bé bằng cách hà hơi vào miệng nó
rồi chốc chốc dừng lại theo dõi. Họ làm tất cả những
việc đó bằng một sự chuyên tâm, yêu thương và cẩn trọng
cao độ. Hai người gần như nín lặng để theo dõi từng thay
đổi của đứa bé và sau cùng, nó đã bắt đầu thở được.
Có thể nói, chúng ta cũng phải biết học hỏi để theo dõi
hơi thở của mình bằng hình ảnh của hai vợ chồng đó,
bởi cuộc sống của chúng ta luôn gắn liền với hơi thở.
Sự chuyên tâm này là toàn bộ công phu mà chúng ta bắt buộc
phải biết đầu tư. Thiền định cũng có nghĩa là sự kiện
định nội tâm: Nội tâm có thiền định cũng giống như một
ánh nến được đặt chỗ khuất gió. Ðó là một nội tâm
thủy chung với thực tại thông qua mọi cảm thức tâm sinh
lý với từng phút tập trung, mọi vận động lớn nhỏ của
chúng ta lúc này đều trở nên kỳ diệu.
Một
khi tâm hồn đã trở nên định tĩnh thì cũng có nghĩa là
chúng ta đã học được cách giữ mình một cách trọn vẹn
nhất. Trong bước đầu để thực hiện công phu đó, việc
điều hành nội tâm cũng giống như huấn luyện một con chó
nhỏ. Ta bảo nó nằm hay ngồi lại một chỗ thì nó cứ chạy
nhảy loanh quanh. Nhưng bạn cứ kiên nhẫn đi, trong một thời
gian ngắn sau đó, nó sẽ dần dần thuần tính. Chuyện tu tập
thiền định về nội tâm cũng thế, chúng ta phải từng bước
thu vén các hoạt động của mình, để rồi từ đó, qua từng
ngày, ta mới sống hết mình với thực tại. Nhưng hãy nhớ
rằng, việc tu tâm luôn rất cần đến yếu tố thời gian.
Có thể nói rằng, sau nhiều giờ tọa thiền của buổi đầu,
nội tâm của chúng ta gần như chỉ có được khoảng 10% thời
gian tu tập thật sự. Ðiều đó có nghĩa là, nói theo từ
Phật học thường dùng, ta đã lãng quên chính mình trong suốt
thời gian còn lại. Phải nói rằng, điều hành nội tâm là
cả một cuộc vật lộn, vật lộn với chính mình. Nếu chúng
ta chịu để ý thì ngay trong những giờ Thiền định, chúng
ta vẫn thường bị đánh lừa trong từng phút giây đối diện
với thực tại bằng đủ thứ ảo giác và khái niệm. Nói
chung, đó là cả một vấn đề hết sức phức tạp:
Ðể
kết thúc phần này, chúng ta có thể hiểu rằng Thiền định
thật sự chỉ có thể đến từ một sự an bình nội tại.
Bằng vào một trình độ Thiền định điêu luyện, chúng ta
sẽ hiểu được rằng một nội tâm định tỉnh không hề
thành tựu từ một sự đấu tranh hay giằng co nào cả. Nó
đến từ sự giải thể tất cả những ám ảnh của hồi
ức và ước vọng, một sự thư giản ngay trong hiện tại.
Và đây chỉ là một tiến trình hết sức tự nhiên. Thông
qua sự chú niệm của chúng ta về thực tại, với sự trau
luyện liên tục, một trình độ Thiền lạc (tức sự kỳ
thú do Thiền định, trong thiền định) sẽ từng bước phát
triển và nội tâm hành giả lúc này coi như đã được đặt
vào một vùng sáng ngay trong từng giây phút.
Khám
phá
Chúng
ta đã đi qua giai đoạn Dấn thân hay cũng có thể gọi là
chặng đường nhập cuộc với những đối đầu trong từng
cơn đau sinh lý, từng vận động nhỏ nhặt nhất của nó,
những trở lực tu tập cùng với những bước đầu làm quen
với công phu tập trung ý thức. Nhưng chừng đó vẫn chưa
là đủ. Bước đi tiếp theo của người hành giả là khả
năng khám phá: cẩn thận nhìn ngắm, trong từng khoảnh khắc,
tất cả những gì xảy ra một cách vô tư, vô cảm, không
thông qua một thành kiến tốt xấu nào cả. Ở đây người
hành giả chỉ được nhìn ngắm bằng tất cả sự tỉnh thức
và tự tại.
Ta
có thể hiểu hai tiếng "khám phá" ở đây là một công phu
tu tâm được thực hiện ngay trong chính nội tâm mình. Ðó
là một sự tiếp nhận và cảm nghiệm thật trọn vẹn trong
mỗi mỗi phút giây về thực tại một cách sinh động. Thực
tại luôn vô thường, không lúc nào giống lúc nào. Hãy nhớ
rằng, sự khám phá ở đây không hề mang tính máy móc: nó
phải luôn sống động và linh hoạt như thật. Trong thiền
học của Phật giáo Bắc truyền gọi đó là Sơ tâm, một
trạng thái ý thức hồn nhiên để quay về nguồn cội. Ta
có thể nói rằng toàn bộ nghệ thuật sống thiền là chỉ
để gìn giữ tinh thần đó: thấu suốt cái gì đang xảy ra,
đắm mình trong đó để không nghĩ đến tất cả những cái
thuộc hôm qua hay ngày mai. Ðây là một Ðạo sống hết sức
kỳ thú.
Ðiều
nãy giờ vẫn nói, ta có thể hiểu qua hình ảnh một nhà thực
vật học đang nghiên cứu về một giống cây nào đó. Dưới
mắt họ, từng chi tiết của bất cứ loại cây nào cũng đều
quan trọng, không như bao người khác vẫn có một đánh giá
hết sức bình thường về những thứ cây cỏ mà mình vẫn
thường nhìn thấy: "Ồ, có gì lạ cái thứ cây đó, tôi đã
từng trông thấy chúng mọc cả rừng!" - Bản chất thực tại
cũng giống như bao loài cây cỏ: nó sẽ là thế này hay thế
khác dưới nhiều cách nhìn khác nhau của mỗi con người,
mỗi góc độ, mỗi trình độ.
Khi
chúng ta học được cách khám phá từng cảm nghiệm của mình
trong thực tại thì cũng có nghĩa là chúng ta đồng thời tìm
thấy phương cách thu xếp tấm thân sinh lý của mình với
tất cả thực trạng vốn luôn chuyển biến của nó sao cho
thích ứng một cách nhuần nhuyễn với từng phút giây tri
nhận. Chẳng hạn, chấm dứt hay một cảm giác đi kèm nào
đó. Chúng ta sẽ nhận ra khoảng cách của từng hơi thở với
nhau, những giai tần kể cả những đột biến bất chừng.
Bao rắc rối ban đầu rồi sẽ qua đi, để sau cùng trong cảnh
giới tri nhận của chúng ta chỉ đơn giản còn lại từng
hơi thở.
Tu
tập Thiền định là một quá trình phát triển liên tục,
khả năng chú niệm mọi thứ ngay từ lúc nó mới vừa xuất
hiện, một cách giản đơn, chẳng hạn từng hơi thở hay từng
bước đi và cứ thế, đối với các thực tại khác cũng
vậy. Cuộc tu của chúng ta, dĩ nhiên, bắt đầu từ những
khám phá về thế giới vật chất thô thiển, những gì mình
có thể thấy và nghe đuợc. Có thể nói, những khái niệm
của chúng ta về thế giới xung quanh khi chưa có được chút
ít nào trí tuệ Thiền định thì thường là nông nổi, nếu
không muốn là thiển cận, hời hợt: cái gì đối với chúng
ta, kể cả tấm thân sinh lý này, đều cứ như một cuốn
phim. Chúng ta xem phim. Rồi lại gởi mình vào trong từng tình
tiết của nó.
Ở
một trình độ khá hơn, theo thời gian, những khái niệm ban
đầu của chúng ta dần dần được nâng cấp, để từ đó,
ta lại học thêm cái thói hoài nghi và cái tật xây dựng những
quan niệm này nọ. Nhưng rồi, một khi đã biết tới trí tuệ
Thiền định, từng phút giây tỉnh thức sẽ đưa ta ra khỏi
khu rừng ảo mộng đó, để rồi dần dần tất cả những
mớ bòng bong đó được hệ thống lại để chúng ta ngày
một điềm tỉnh hơn.
Chúng
ta tiếp tục ra sức kéo lui nội tâm mình trở lại, chúng
ta sẽ bắt đầu khám phá được rằng Cái gì cũng là một
chi tiết cho một tổng hợp nào đó mà đồng thời cũng là
một tổng hợp do nhiều chi tiết khác tạo nên. Chúng ta sẽ
bắt đầu thấy rằng toàn bộ chính mình, từ sinh lý đến
tâm lý, đều là sự góp mặt của các yếu tố tâm vật lý
qua từng giây phút đổi thay. Có thấy được từng khoảnh
khắc hiện hữu và vận động của tấm thân sinh lý như vậy,
chúng ta mới không bị mắc lừa để đánh mất chính mình
trong mọi chuyện đời. Ngay cả khi đối tượng tri nhận được
thay đổi theo trình độ Thiền định đã nâng cấp về các
đối tượng thực tại tế vi hơn, thuộc cảnh giới của
ý thức (như tư tưởng, cảm giác, hồi ức) thì công phu tu
tập cũng vẫn thế, vẫn là sự ngắm nhìn để khám phá.
Một thói quen nguy hiểm của chúng ta là khi nhận diện và
phân tích được những thực tại nhỏ nhiệm đó, ta lại
bị cuốn hút. Nói chung càng cố công đối diện với những
thực tại vi tế, đặc biệt về tư tưởng, chúng ta thường
mắc phải lỗi lầm này. Phải nói đây là một vấn đề
cho hầu hết các hành giả. Bởi quanh ta, trong nội tâm của
chúng ta thì đúng hơn, luôn có quá nhiều những ám ảnh của
vọng tưởng: những quan hệ giao lưu, những tình cảm vẫn
được xem là thiết yếu, rồi là chuyện ăn, chuyện mặc,...
kể cả một thói quen làm việc mang tính văn nghệ. Tất cả
những cái đó đối với chúng ta luôn có vẻ là quan trọng,
trong khi thực ra chúng chỉ là những điệp khúc buồn tẻ,
thậm chí có những điều chỉ là bộ phận của một món
đồ đã cũ. Trôi dạt trên dòng chảy của những ảo tưởng
đó, chúng ta ôm ấp những gì mình thích và ghét bỏ những
gì mình không vừa ý. Trên những thói quen đó, chúng ta hãy
thử thực tập Thiền định để giữ cương nội tâm vốn
bôn ba của mình xem sao. Khi một cái gì đó nghịch ý xảy
đến, mà thái độ khám phá của chúng ta bị ảnh hưởng
thì xem như ta vẫn chưa thực hiện trọn vẹn được yếu
cầu của công phu khám phá ở đây.
Với
sự tiếp sức của Chánh niệm, ta hãy học cách khám phá thực
tại bằng một con đường khác, vững chải và độc lập
hơn. Chúng ta có thể cảm nhận và quan sát những chuyễn biến
của thân tâm theo cách của một nhà khí tượng học quan sát
thời tiết bằng nhiệt kế: hôm nay nắng, hoặc mưa, hoặc
có sương mù..., nói gọn lại, ta chỉ việc ghi nhận một
cách đơn giản những gì đang xảy ra.
Người
hành giả phải hiểu rằng nội dung của sự khám phá trong
Thiền định là thái độ đón nhận thực tại. Khi dùng trí
tuệ Thiền định để nhìn ngắm, ta sẽ thấy rằng thật
ra nội tâm của chính mình có thể giao hòa với vạn sự mà
không hề cần đến một sự đấu tranh, đụng độ nào cả,
đặc biệt ngau trong chính bản thân mình. Mọi cảm giác tâm
sinh lý, dù tốt hay xấu, khi xảy đến, ta không cần phải
phân biệt để phản kháng hay giữ lại. Ta chỉ việc nhìn
ngắm và đối diện bằng tất cả cảm giác thân thuộc vô
tư: Không sợ hãi, không ghét cũng không thương.
Trong
quá trình tu tập tiền định, chúng ta dĩ nhiên có lắm lúc
cảm thấy bối rối, mù mịt, nói chung là cảm giác của một
người chưa quen đi biển lại đang có mặt giữa một đại
dương sóng gió bão bùng. Trong những giây phút như vậy, chính
tinh thần Biết Chấp Nhận và tình thương sẽ là những động
lực đem lại cho ta nguồn sức mạnh. Tại Calcutta, có một
bà giáo già tên Dipama, một người vẫn dạy cho tôi học nhiều
điều hay. Bà là một hành giả Du già nổi tiếng và cũng
là một người giàu lòng nhân ái. Những ai đến học phép
Yoga với bà, bà thường đặt tay lên đầu họ và từ miệng
bà chỉ thốt ra một âm: "xì" thật nhẹ như để ban phước.
Phải nói bà có một nguồn tâm lực rất lớn, ở cạnh bà,
người ta như luôn cảm nhận được một từ trường của
tình thương thật mãnh liệt, dễ nắm bắt, dễ nhận thấy.
Khi ta ở bên cạnh bà, dường như mọi khó khăn trên đời
này đều dễ dàng cả. Như để tiếp sức cho ta, bà luôn
thầm thì một câu nói có vẻ như lúc nào cũng ở sẳn trên
môi: "Cái gì rồi cũng ổn cả thôi". Ðừng cố sức đấu
tranh hay ghép bỏ cái gì cả, bà thường nhắc thế. Có thể
nói, mọi sự đối với bà đều luôn là đơn giản cả.
Bà
Dipama dặn dò chúng ta đừng bao giờ vật lộn nhọc nhằn
với bất cứ một cảm nghiệm nào. Cảm nghiệm hay kinh nghiệm
vốn là một từ nhiều nghĩa, vậy thì tiếng cảm nghiệm
mà bà Dipama nhắc đến ở đây chỉ cho ý nghĩa nào? Chẳng
có gì là rắc rối cả, ở đây bà chỉ đơn giản nhấn mạnh
đến từng khoảnh khắc mà ta có thể nghe nhìn được về
thực tại, dù đó là thuộc tâm lý hay vật lý. Chúng ta thường
có thói quen phân biệt các đối tượng tri nhận ra ít nhất
thành hai thứ chấp nhận được và khó chấp nhận, để từ
đó mới tự nảy sinh ra thái độ tâm lý cách ly và trốn
chạy. Trong khi đó, tinh thần cốt lõi của Thiền định luôn
nhắc nhở chúng ta hãy biết quan sát và đón nhận mọi thứ
một cách vô tư. Chúng ta phải học cách tiếp cận và giao
hòa để lắng nghe tất cả những gì xảy đến với mình
mà không hề có một ý thức phân biệt. Chúng tôi, trong tập
sách này, đã từng nhấn mạnh rằng Thiền định đúng nghĩa
không hề là một quá trình thay đổi hình thức như kiểu
sống mang tính thời thượng, miễn sao hình thức sống luôn
mang ý nghĩa nâng cấp nội dung tâm linh. Chẳng hạn ở oai
nghi Thiền định nào cũng đều tốt cả. Nếu ở oai nghi ngồi,
ta cảm thấy là thích hợp thì chính từ tư thế này, ta mới
dễ dàng cảm nhận được từng ba động lớn nhỏ của thân
tâm, rồi từ đó, ta mới đủ sức đi nốt đoạn đường
còn lại là tiếp nhận và quan sát. Cũng như đối với bất
cứ một công việc nào trên đời, công phu này cũng đòi hỏi
ở chúng ta một sự kiên nhẫn đúng mức cùng với một sự
ra sức nghiêm túc. Với từng bước tiến bộ nhịp nhàng này,
dần dần rồi chúng ta cũng sẽ tự làm chủ lấy được chính
mình, nói khác đi, làm tìm lại được sự cân bằng tâm sinh
lý mà mình vẫn đánh mất từ lâu. Ðây mới chính là vốn
sống, là nguồn sinh lực thật sự của chúng ta.
Có
một dạo, ở một vài nơi trên xứ Ấn Ðộ, người ta vẫn
thường bắt gặp những tấm bích chương có hình vẽ đại
sư Satchidananda Swàmi khoác một manh áo cánh đang đứng trong
một tư thế Yoga "Cổ thụ" với một chân xếp tréo lên và
hai tay đặt lên đầu. Hình ảnh trên tấm bích chương cho
thấy Ngài rất vững vàng trong tư thế đó, dù chỉ đang đứng
bằng một chân. Ðiều này chẳng có gì là lạ lùng cả nếu
ta hiểu được rằng để thực hiện được tư thế này,
vị đại sư chỉ phải bận tâm mỗi một việc là xua khỏi
lòng mình mọi xung động không cần thiết. Bởi có lẽ bất
cứ Thiền sinh nào cũng đều nhớ được quy luật "Tâm tịnh,
Thân cố". Bên dưới tấm bích chương có một dòng chữ lớn
"Bạn không thể ngăn sóng vỗ nhưng có thể ngăn nó tràn bờ".
Ðó chính là Thiền định.
Ðúng
vậy, chúng ta chẳng tài nào làm đình chỉ hay tránh được
những đợt sóng vô thường, bởi chúng chính là từng viên
gạch xây nên sự hiện hữu của chúng ta: chúng ta tồn tại
bằng từng chuỗi vận động của tâm sinh lý và chúng là
gì nếu không phải là những chuyển biến vô thường. Như
vậy thì chúng ta có lắm điều phải học: học cách đối
diện với những đổi thay ác nghiệt của đời sống, học
phép tỉnh thức rồi cả phép quân bình nội tâm. Một khi
đời sống không còn bị ám ảnh bởi những sợ hãi vô cớ
và được thiết lập trên một căn bản cố định, nó sẽ
đẹp và thoải mái nhiều lắm.
Phơi
mở
Sau
những chặng đường dấn thân, chuẩn hóa cái nhìn của mình
về cuộc đời rồi là sự quân bình nội tâm, chúng ta dĩ
nhiên vẫn chưa đi hết được con đường Thiền định. Chúng
ta không thể đơn giản dừng lại nơi đây bằng một sự
tự hài lòng nào cả, mà phải biết sử dụng những năng
lực hiện có của mình để tiến thêm bước nữa. Trình độ
tiếp theo của Thiền định chính là khả năng phơi mở. Trước
hết ta phải thấu đáo trọn vẹn tấm thân sinh lý của mình,
rồi là một hiểu biết sâu sắc về từng vận động của
nội tâm, đặc biệt những hình thái ý thức mà mình đã
một lần kinh qua để rồi phơi mở toàn bộ bản chất vận
hành của chính đời sống mình một cách sinh động.
Khả
năng phơi mở này đòi hỏi một trình độ chú niệm và ghi
nhận thật nghiêm cẩn. Trong những giây phút Thiền định
đạt đúng yêu cầu như vậy, chính hơi thở sẽ là một vị
thầy tận tình cho ta, bởi tự nó luôn làm mê hoặc, nêu bật
cái quy luật vô thường của vạn pháp bằng các ảnh tượng
sinh diệt, diệt sinh. Thái độ quan sát cẩn thận sẽ chỉ
rõ cho ta những cấu tố vật lý làm nên tất cả những cảm
giác, bức xúc và chấn động. Chúng ta sẽ trở nên tỉnh
thức hơn nhiều nếu trả lời được câu hỏi mà Ngài Thiền
Sư Mahasi Sayadaw vẫn thường đặt ra cho các Thiền sinh, rằng
có bao giờ họ nhớ được là mình đã đi vào giấc ngủ
hoặc thức giấc trong hơi thở vào hoặc thở ra hay không.
Có cảm thấy hứng thú trong việc quan sát và khám phá từng
vận động của nội thân, chúng ta mới may ra tự tìm thấy
cho mình một thái độ nội tâm vô cầu vô chấp.
Cùng
lúc với sự phát triển khả năng chú niệm, chúng ta có thể
phơi mở và nhìn thấy được rằng, dầu ở bất cứ nơi
đâu, cũng không hề có một sự tồn tại nào mang tính bản
ngã nặng nề cả, mọi thứ đều là những hình thức của
cảm giác và khái niệm của chúng ta mà thôi. Ở một bình
diện sâu sắc hơn của sự tỉnh lặng và tỉnh thức, chúng
ta còn có thể cảm nhận được từng khía cạnh và mức độ
của cái gọi là sự vận động. Thường thì chúng ta luôn
bị mắc bẩy từ cái nhọc nhằn và mơ hồ của các biến
động sinh lý: từ thực trạng này đến thực trạng khác
có vẻ như không có đường ranh rõ ràng, nên từ đó, chúng
ta bị lầm lẫn và thái độ chấp thủ cũng từ đây mà được
khai sinh. Nhưng chúng ta đã làm thế nào để có thể xác định
một cách rạch ròi cái cơ cấu làm nên sự hiện hữu của
chính mình, môt cơ cấu có vẻ như không hề có một dấu
hiệu phân định? Nếu chỉ sống trong trình độ của những
khái niệm thông thường thì coi như chúng ta suốt đời chỉ
phải vật lộn với từng từng phút giây tồn tại của chính
mình, một sự hiện hữu buồn nhiều hơn vui, đau đớn nhiều
hơn hạnh phúc. Thực ra trí tuệ Thiền định cũng không thể
sửa đổi được cho ta cái tính bất toàn của đời sống,
nhưng chính trí tuệ này sẽ giúp ta một cái nhìn khách quan
và bình tỉnh về từng niềm vui, nỗi buồn vẫn thường trực
sanh diệt. Chính trí tuệ đó giúp ta thấu đáo được một
vấn đề hết sức quan trọng mà Ðức Phật vẫn thường
đặc biệt nhấn mạnh, đó chính là bản chất bất toại
và vô ngã của xác thân.
Một
khi khả năng khám phá giúp ta có được một cái nhìn phơi
mở về tấm thân sinh lý thì điều đó cũng có nghĩa là chúng
ta đã có thể dễ dàng phơi mở và bước vào cảnh giới
của ý thức. Công phu phơi mở của ý thức cũng giống như
công phu theo dõi hơi thở, dĩ nhiên có phần tế nhị hơn nhiều:
trực diện với từng chuỗi vận động của ý thức, ta cũng
sẽ cảm nhận được những giai điệu và hình ảnh vô cùng
sinh động, buồn vui, thương ghét, bay bỗng hay tù đọng đều
có cả. Nhưng hãy nhớ rằng ý thức luôn giống như một nụ
hoa: ta không thể nào dùng một áp lực buộc nó phải mở.
Những giọt mưa của tấm lòng hào sảng, những tia nắng của
sự chú niệm sẽ là những nguồn dưỡng tố giúp nó phơi
mở. Ðã nói là phơi mở thì chúng ta phải có được cái
can đảm khám phá tất cả những gì thuộc về thực tại,
từ cái dễ thương nhất đến cái đáng ghét nhất, ta phải
luôn biết đón nhận với một tư tưởng công bằng và hứng
thú. Bởi đối tượng của công phu phơi mở này phải là
cái gì đó rất người, và như vậy công cuộc khám phá của
chúng ta mới có thể được thực hiện bằng tất cả bao
dung. Tất cả những gì vừa được nhắc đến trên đây chỉ
là một góc nhỏ trong cảnh giới ý thức mà ta cần phơi mở.
Phải
nói rằng phơi mở là một công phu hết sức khó khăn. Chẳng
hạn như, có những nỗi đau tâm sinh lý mà trước giờ ta
vẫn cật lực để trốn chạy, hoặc giải trừ chúng thì
hôm nay ta lại bới tung chúng lên, dựng chúng dậy để cảm
nghiệm. Việc đó chẳng khác gì hình ảnh một người phải
cố tình lặn sâu xuống một hồ nước đã bị đóng băng
trong khi mình rất sợ cái giá lạnh của nó, để nghiên cứu
và nhìn nó trong từng cơn nhức buốt thấu xương.
Ðể
phơi mở nội tâm, ta rất cần đến một thái độ quan sát
đầy hứng thú và can đảm. Ðiều này hoàn toàn không có
nghĩa là chúng ta quay lui để bới tìm trong đống tro tàn của
hồi ức những mảnh vụn của đau đớn buồn khổ mà nhấp
nháp, truy niệm, cải táng. Phơi mở ở đây là sự đối đầu
với từng phút giây thực tại để lắng nghe chúng. Trong một
trình độ khám phá và phơi mở ý thức cao rộng hơn nữa,
chúng ta có thể phải theo dõi từng chuỗi tư tưởng từ đầu
đến cuối, xem chúng đến và đi ra sao.
Khi
nhìn ngắm vào từng trạng thái ý thức, điều trước tiên
ta chỉ đơn giản theo dõi chúng đến và đi ra sao. Thỉnh thoảng,
ta có thể bắt gặp một vài hình thái tư tưởng cá biệt
hoặc những hình thức trùng lập được tái diễn tới lui
như một điệp khúc. Chúng có thể là những dự tính hay hồi
ức tốt xấu nhưng sự tồn tại của chúng lại chính là
sự tồn tại của ý thức chúng ta. Chúng có mặt một cách
hết sức là bình thường, thậm chí gần như không có gì
đáng để lưu ý nhưng thỉnh thoảng chúng lại hiện hữu
một cách nổi bật dưới hình thức những cảm xúc có vẻ
bất thường như âu lo, thương ghét, buồn chán. Bước đầu
ta chỉ việc nhìn xem chúng xuất hiện và biến mất để rồi
dần dần ta sẽ nhận ra ảnh hưởng của chúng đối với
chúng ta: từng biến chuyển của tư tưởng gần như đóng
vai trò quyết định thái độ sống của ta và cứ thế, chúng
ta sẽ có những câu hỏi quan trọng để chính mình tự trả
lời: Cái gì đã duy trì sự tồn tại của ý thức? Cái gì
đã nằm đằng sau hoặc bên dưới các hình thái ý thức sai
biệt của chúng ta như là những nhân tố quyết định?
Ở
đây chúng ta có thể phải vận dụng đến một trình độ
tỉnh thức cao hơn để thực hiện một công phu chú niệm
chặt chẽ hơn sự tái hiện của dòng tư tưởng khi chúng
ta không tri nhận trọn vẹn các cảm giác ý thức mà lại
điều khiển chúng. Vấn đề chỉ được giải quyết khi ta
biết rõ từng chương trình vận động của tư tưởng. Càng
phát huy khả năng chú niệm, ta càng có cơ hội tỉnh thức
trước cảm giác tế nhị nhất đang diễn ra và khi thấy rõ
được từng cấu tố của ý thức, chẳng hạn như biết rõ
nó xảy đến từ sự kết hợp với lòng sợ hãi hay ham muốn
thì thường những sự tái hiện đó được đình chỉ ngay.
Còn đối với lòng sợ hãi hay ham muốn kia thì ta cứ tự
nhiên đón nhận và tìm cách hiểu biết nó. Có thể nói đây
là một phương cách hữu hiệu nhất để xử lý từng khoảnh
khắc thực tại: tư tưởng dĩ nhiên phải tuôn chảy nhưng
điều quan trọng là ta nhận diện được nó qua từng biến
tướng và phát hiện chính xác cũng như kịp thời căn cội
đã tác động nên dòng vận động này bằng tất cả sự
cảm nhận sâu sắc. Sự tỉnh thức này là cả một hành trang
quan trọng trên suốt con đường Thiền định để chúng ta
luôn có thể tỉnh thức trước mọi thực tại vốn luôn chuyển
hóa của thân tâm.
Nhìn
ngắm, đón nhận từng thực trạng của ý thức sẽ đem lại
cho chúng ta khả năng xử lý, hiểu biết và an bình cho nội
tâm trong từng giây phút. Ở trình độ Thiền định này, dĩ
nhiên cũng đòi hỏi ở chúng ta cái nhìn ngày một sâu sắc
hơn, một trạng thái tỉnh thức mỗi lúc càng thâm hậu hơn
về các chuyễn biến của tư tưởng, nhưng đã đến lúc chúng
ta phải đối diện với những câu hỏi hóc búa nhất của
Trí tuệ Thiền định: Cái gì đã tác động cho tư tưởng
chúng ta liên tục biến động? Chúng ta thực ra vẫn cố tình
trốn chạy cái gì, một cuộc trốn chạy bằng tất cả hy
vọng với dự tính cùng ảo giác cũng như hồi ức? Chúng
ta thực ra e sợ cái gì? Nỗi đau đớn, niềm cô đơn hay sự
tầm thường? Trong từng phút giây vận động, chúng ta cố
nhắm đến cái gì? Thế nào là bản chất của cái gọi là
ước muốn? Trên cả sự khám phá, chúng ta ngay bây giờ phải
biết phơi mở và cảm nhận, thậm chí bứt phá tất cả những
ràng rịt, mắc míu của thực tại cho đến khi nào thẩm thấu
tâm điểm của các hình thái ý thức, cái đã làm động cơ
cho mình...
Ðể
minh họa vấn đề đang nói, ta có thể hiểu qua trường hợp
một dòng tư tưởng hướng tới mối tương giao nào đó trong
thế giới tình cảm. Ta có thể dễ dàng nhận ra nó ngay khi
nó vừa phát khởi, bởi trên thực tế, chúng ta đang có cảm
giác ước muốn: muốn yêu, muốn thương. Ta cảm nhận nó
bằng tất cả ý thức và ngay trong khoảnh khắc đón nhận,
những ba động khác coi như đều lắng xuống. Chúng ta phát
hiện nó qua từng chuyễn biến tâm sinh lý. Rõ ràng, chúng
ta đang muốn yêu thương, nhưng công phu khám phá thực tại
không chỉ dừng lại ở đây.
Chúng
ta còn những bước đi khác nữa: Cái gì đã tạo nên ước
muốn đó? Ở mỗi người, có một câu trả lời khác nhau.
Ðối với một số người trong chúng ta thì ước muốn đó
có thể đến từ cảm giác rằng mình đang thiếu thốn một
cái gì đó, hoặc cảm giác e ngại sự lẻ loi hay có những
khía cạnh nào đó thuộc thế giới sống bản thân mà ta không
thể tự kham nổi nên phải cần đến sự tiếp sức nào đó
để tìm chút an lòng... Chính những cảm giác này thôi thúc
chúng ta trốn chạy và dấn thân, đồng thời cũng rời ra
dần cái thực tại mà lẽ ra mình phải cẩn trọng nhìn ngắm.
Và đằng sau những cảm giác đó không gì khác hơn là một
thứ mặc cảm rằng mình đang bị giới hạn, đang là một
cá nhân đơn độc. Bằng mọi giá, chúng ta phải phá vỡ cho
bằng được cái nhà tù này, cái nhà tù được xây dựng
bằng thứ vật liệu mặc cảm. Nếu chúng ta tự ghìm cương
mình lại được và lặng lẽ đối diện với tất cả những
sợ hãi, trống vắng, lẻ loi -- cái khoảng không gian lạnh
lùng và thừa thải của nội tâm -- thì xem như một trình
độ tỉnh thức cao cấp hơn trước sẽ được hình thành.
Ảo giác trong sự mặc cảm đó chỉ có thể được thay thế
chỗ bằng một cái gì cốt lõi hơn thôi. Chỉ với một ý
hướng phơi mở toàn triệt, chúng ta mới có thể hiểu được
tận cùng mọi vận động của ý thức, đưa mình trở về
với thực tại bằng một con đường trọn vẹn nhất.
Cách
nhìn ngắm thực tại này không hề là một cuộc nghiên cứu
lý tính mà phải nói đây là một kinh nghiệm tâm linh vô cùng
quan trọng về sự hiện hữu của chúng ta. Ðó là một thứ
kinh nghiệm tự chứng trong những điều kiện tất yếu là
tỉnh lặng, trong sáng và trọn vẹn -tùy theo mức độ nông
sâu của khả năng Thiền định. Cái cốt lõi của giai đoạn
công phu này là giúp ta thấu suốt được căn cội của tất
cả những gì đang thật sự xảy ra và đưa chúng ta đến
một cảnh giới tự do. Dĩ nhiên, hành trình này phải vượt
qua tất cả cảm giác trống vắng và sợ hãi vô cớ để
đạt tới cái nhìn thật trọn vẹn về chính chúng ta và toàn
bộ cuộc đời.
Khi
trong cuộc tu, chúng ta thực hiện đúng được cái công đoạn
khám phá, phơi mở, giải trừ (khai phóng) và ăn nằm với
thực tại một cách hết mình thì cái giá trị chánh niệm,
định tỉnh nhất tâm cũng tự nhiên theo đó mà lớn mạnh.
Thế rồi, vẫn bằng thái độ khám phá, ta phát hiện ra cái
dòng luân lưu của các hình thái tư tưởng, khai phóng một
cách cẩn thận từng cảm giác tâm sinh lý, chúng ta sẽ bắt
đầu nhìn thấy rõ cái bản chất chuyễn hóa liên tục trong
từng đợt cảm nghiệm về thực tại của mình. Chẳng hạn,
ngay khi tấm thân sinh lý này được chia chẻ, phân tích dưới
thấu kính chú niệm thì tư tưởng của chúng ta cũng tự lột
trần bản chất phù du của mình. Rồi đến khi chúng ta đem
từng cảm xúc của mình ra làm đối tượng kiểm nghiệm thì
vấn đề cũng vẫn thế: chúng luôn biến tướng liên tục
từ tình trạng này sang tình trạng khác, có thể là mâu thuẩn
và đối lập lẫn nhau. Nếu chúng ta chịu khó để ý thì
bất cứ một cảm xúc nào khi nhận diện một cách đúng mức
thì chúng chỉ sẽ tồn tại trong một ít lâu, dưới sự kiểm
soát của chúng ta, rồi lại nhường chỗ cho cảm xúc khác.
Sự
tồn tại của các dòng tư tưởng cứ mong manh như những bọt
nước. Buổi đầu, sự tỉnh thức của chúng ta chỉ là từng
giai đoạn ngắn ngủi nhưng dần dần, nó sẽ là một thứ
sức mạnh căn bản và thường trực, thậm chí gần như thói
quen trong mỗi mỗi cảm nhận trước thực tại. Song hành với
sự tiến bộ đó, chúng ta sẽ đạt tới trình độ không
những chỉ nhìn ngắm mà còn dường như có thể dự đoán
được sự có mặt của các dòng tư tưởng. Trình độ này
lại dẫn ta đến một khả năng khác cao hơn là chúng ta, đến
một lúc nào đó, có thể tự có được một khả năng tỉnh
thức tế nhị để có thể nhìn rõ từng dấu hiệu xuất
phát cũng như chỗ ẩn náu, dung chứa của ý thức, mà ở
đây là các luồng tư tưởng.
Ở
đây chúng ta có thể làm một bài thực tập để nhìn ngắm
thế giới tư tưởng của mình bằng cách liệt kê từng loạt
tư tưởng như là một phương thức củng cố Chánh niệm.
Chẳng hạn như chúng ta thử bỏ ra một khoảng thời gian chừng
năm phút để liệt kê từng ý nghĩ của mình. Như một con
mèo rình chuột, chúng ta có thể tự đếm thầm từng tên
gọi và hình ảnh của mọi suy nghĩ: "giận! thích! nhớ! thèm!...".
Thời gian của công phu này dĩ nhiên là bất định nhưng dần
dần rồi cũng sẽ tới đích. Ta cũng sẽ có được thời
gian tu tập như ý muốn và không bị câu thúc bởi bất cứ
một tư tưởng nào, mà ngược lại, còn học được cách
nhìn ngắm hành trình biến tướng, vận động của tư tưởng.
Một
trong những tâm điểm quan trọng của trí tuệ Thiền định
lúc này là nhận ra được điểm đầu và điểm cuối của
một dòng tư tưởng. Ðó là nói về ý thức. Còn nói về
các biến động sinh lý, buổi đầu ta chỉ đơn giản ghi nhận
"đầu gối đau" hay "tiếng còi xe hơi"... một kiểu ghi nhận
hết sức thông thường bằng lối định danh, đánh giá thực
tại không thông qua trí tuệ Thiền định. Nhưng sau đó, ta
lại bắt đầu đi vào một bước ngoặc mới là ghi nhận
tất cả một cách trực tiếp, không nhờ tới một tên gọi
hay một khái niệm cứng nhắc nào cả. Ðối với thế giới
của ý thức cũng vậy, các cảm xúc cùng các dòng tư tưởng
tự chứng cũng chỉ là những ba động mà ta chỉ cần ghi
nhận một cách kịp thời mà không cần tới bất cứ một
lăng kính trung gian nào cả; bởi từ đó rất dễ đưa đến
cảm giác bám víu.
Một
khi sự tồn tại và vận động của tấm thân sinh lý đã
được phân định rạch ròi thì như đã nói, bản chất của
nội tâm cũng sẽ lập tức lộ diện với đầy đủ những
khía cạnh bất toàn, vô thường. Càng nhìn vào chúng, ta sẽ
thấy chúng đổi thay nhanh hơn bất cứ cái gì trên đời.
Thận chí đến lúc này, chúng ta có thể không còn ghi nhận
kịp từng cảm nghiệm nữa và Thiền định ở đây cứ giống
như từng giọt mưa và các khoảnh khắc tư tưởng thì chẳng
khác gì những bọt nước. Tất cả ảo tượng về một cái
tôi thực hữu lần lượt theo nhau vỡ vụn.
Thời
gian công phu sẽ là không phụ lòng chúng ta. Thành quả sẽ
được nhân lên theo mức độ nổ lực. Buổi đầu, các thực
tại ý thức sẽ như một gánh nặng đọa đày trên đôi vai
hành giả. Sự ghi nhận chúng là cả một khổ công: Lúc này
nó đang toan tính, lúc khác nó những buồn giận... Nhưng rồi
cùng với sự lớn mạnh của Chánh niệm (tỉnh thức) và định
tĩnh, chúng ta sẽ tự học được cách tháo cởi và xử lý
mớ bòng bong đó như một sự giải thoát và điều tuyệt
vời là kẻ tù nhân và người cướp ngục ở đây cũng chính
là nội tâm của chúng ta mà thôi. Nhưng ta cũng phải cẩn
trọng đấy, ý thức luôn lắm trò ma mị. Nó có thể náu
mình trong những thành lũy tinh vi, tế nhị mà căn bản vẫn
là những cấp thủ rất khó phát hiện, để từ đó một
cái tôi khác được tái tạo tinh xảo hơn.
Do
đó con đường của chúng ta vẫn phải liên tục là một hành
trình của sự tĩnh lặng và phơi mở. Nhờ đó chúng ta mới
may ra thấu triệt được tất cả chiều sâu của thực tại
mà ở đây là bản chất hiện hữu của chính mình để rồi
sau cùng là môt nụ cười thức ngộ: Chẳng có gì để ôm
ấp, bám víu...
Hóa
thân
Chúng
ta đã bàn tới vấn đề thứ tư của bài viết này. Ðó là
giai đoạn hóa thân hay nhập cuộc.
Chỉ
cần nhìn thẳng vào các quy luật điều hành sự vận động
của tâm sinh lý, chúng ta có thể ghi nhận được từng giai
đoạn tĩnh động của chúng, tốt hay xấu, thô thiển hoặc
nhỏ nhiệm, những mầm mống thoái địa hay dấu hiệu thăng
hoa của tâm hồn. Với nhãn quan tinh tường này về thân tâm,
ta sẽ nhận ra được mối tương quan giữa mình với chúng
và thấy được cái gì khả dĩ đem lại cho mình nguồn hạnh
phúc thực sự. Chúng ta hãy thử một lần chiêm ngắm chuyện
đời và lòng mình xem sao: ôm ấp một thứ gì đó không là
miên viễn và luôn sẳn sàng đổi thay, khi nó đột nhiên không
tiếp tục tồn tại như ý muốn ta nữa thì niềm ôm ấp kia
có phải đã đem lại cho ta những giọt nước mắt? Hoặc
thể nào chúng ta có thể nào ổn định một cách tuyệt đối
những hình thái, tình trạng nhất định nào đó cho thân tâm
mình hay không? Ðã có ai trên đời này lại có thể đặt
được cái tâm sinh lý của mình vào hai tiếng vĩnh cửu?
Chúng
ta phải dốc sức sống cho mỗi một thái độ sống duy nhất
là nhìn ngắm để đến một ngày nào đó thấy được mọi
khát vọng của mình đều lắng yên, thấy được nhu cầu
tối hậu của bản thân chính là sự tự do, thấy được
bề trái phản trắc của lòng ham muốn cũng như những âu
lo, bận lòng trong đời sống thường nhật vẫn từng ngày
vây hãm và cấm cố chúng ta vào những mâu thuẩn, xung đột
triền miên. Nhưng vấn đề tối trọng, tối hậu ở đây
không chỉ đơn giản là sự thành tựu, sỡ hữu được một
trình độ cao thấp nào đó mà cái cốt lõi ở đây phải
là sự quay về với tâm điểm của sự hiện hữu, sự tồn
tại của bản thân với ý chí là Tại đây và Bây giờ.
Chúng
ta phải biết nhìn vào từng giây khắc lộ diện của lòng
ham muốn của mình bằng tất cả sinh lực nội tại trọn
vẹn nhất. Ta phải thấy được tính chất vô hộ vô chủ
của mọi vật, hành trình lai vãng của từng giòng ý thức
với các hành trạng sai biệt, những cảm giác sinh lý đến
và đi theo những điều kiện hữu cơ. Chúng ta không hề là
người điều hành dòng thực tại luôn sinh diễn đó. Chúng
ta không thể điều động được những gì luôn thay đổi.
Ðã đến lúc chúng ta phải tự biết chấm dứt cái ý hướng
đi ngược lại những quy luật này như một điều tất nhiên.
Hãy điềm tỉnh ngồi xem nước chảy dưới chân cầu mà không
hề ưu tư hay toan tính. Chúng ta sống như thế không thể chỉ
là một sự mô phỏng hay tự mãn cố chấp, mà phải là một
bước tiến bộ tự thành, tự chứng có được từ trí tuệ
hiểu biết như thật về bản thân và vạn sự. Thiền sư
Suzuki đã từng nói: "Ngoài sắc tướng biểu hiện, có chi
là thực hữu? Cái này xô dạt vào cái kia, nên chẳng thứ
gì đáng chấp thủ. Trong cơn mưa ta còn nghe được tiếng
chim kêu, cũng như dưới một bầu trời tuyết giá, ta vẫn
có thể nhìn thấy những bông tuyết rơi cùng bao loài sinh
vật khác vừa mới sanh sôi".
Bản
chất sinh tồn của chúng ta chỉ đơn giản là một dòng chảy
luôn luân lưu bất tuyệt. Mọi hiện hữu đều là vô thường.
Cuộc đời không có gì đáng để ôm giữ vì chẳng có chi
là miên viễn hằng tại. Tất cả đều rỗng tuếch, vô ngã
như mây trời trên không gian huyễn hoặc. Chỉ cần hiểu được
mọi sự luôn bất toàn, trần gian chỉ là bến đợi tao phùng
của bèo nước phù du thì ta có thể bình tâm dấn bước giữa
đường đời muôn lối, an nhiên sống thiệt thà không mưu
toan, chọn lựa và tìm thấy cho chính mình một ngõ về bình
yên.
Chúng
ta hãy tự biết khám phá cho đến kỳ cùng ý nghĩa sâu thẳm
khôn cùng của tinh thần chối bỏ trong thiền lý. Chúng ta
đã nắm giữ nhiều thứ quá: tấm thân sinh lý cùng những
cảm giác ảo tưởng về nó, những hồi ức, những lý tưởng,
quan niệm, kiến giải... để từ đó, gom hết mọi thứ, chúng
ta chế tác nên một cái tôi cho riêng mình và cứ vậy, đời
sống mỗi người chỉ toàn là những cơn thống lụy tự nguyện,
ai cũng biết xót đau nhưng gần như cố tình bất lực!
Lần
đó, tại Tích Lan, chúng tôi đến viếng thăm một vị Thiền
sư bản xứ thật lừng danh, đó là Ngài Hina Tyana Dhammaloka.
Ngài quả là một vị Thiền sư khả kính. Ở cạnh Ngài, ai
cũng như cảm nhận được một nguồn sinh lực dồi dào và
mát mẻ. Chúng tôi thi lễ chào Ngài và sau ít phút trao đổi,
Ngài đột nhiên hỏi chúng tôi:
- Có
phải ông đã từng dạy thiền cho nhiều người rồi phải
không?
- Thưa,
chỉ là cố gắng thôi, ạ!
Vẫn
nhìn chúng tôi, Ngài tiếp tục câu hỏi khác:
- Hãy
nói cho tôi nghe thế nào là tâm điểm của thiền định Phật
Giáo?
- Thưa,
tất cả đều là vô ngã. Vạn vật chỉ là những cuộc chơi
huyễn hóa, hiện tượng, và sự hiện hữu của chúng chỉ
là một quá trình vận động rỗng không, ạ.