|
.
THIỀN
HỌC NAM TRUYỀN
Giác
Nguyên dịch Việt, 1996
|
|
Chương
11
Hiểu
biết về Nghiệp Lý:
Con
đường đến Tự do
Còn
có một trình độ hiểu biết khác về nghiệp lý mà không
hề liên quan đến vấn đề tái sinh. Chẳng hạn một thứ
kiến thức về nhân quả báo ứng để ta từ đó đầu tư
những thiện sự mang ý nghĩa dẫn sanh vào các sinh thú cao
cấp như thiên giới hoặc nhân giới với những điều kiện
sống tuyệt với. Kiến thức về nghiệp lý ở đây cần được
hiểu là một con đường đưa đến một khả năng tâm linh
thật sự tự tại giữa đôi bờ tương đối của sự sống
và cái chết, sanh và diệt.
Tinh
hoa của đạo Phật chỉ nằm trong trí tuệ nội quán về qui
luật Vô Ngã. Trong giáo lý tuyệt vời mà đồng thời cũng
là cốt lõi này của Phật giáo có nội dung là phủ nhận
một cái tôi ảo vọng. Tất cả những cấu tố tâm sinh lý
vẫn làm nên sự có mặt của chúng ta, chúng luôn thay đổi
và biến tướng một cách nhất định. Cái mà chúng ta vẫn
gọi là thực thể, cái tôi,... đều chỉ là một khối tổng
hợp của từng thành phần tâm vật lý nương nhau mà hiện
hữu thông qua một khối quan hệ hữu cơ. Phật giáo vẫn gọi
chung các cấu tố đó là Ngũ Uẩn (Khandha).
Uẩn
hay cấu tố đầu tiên trong năm uẩn chính là những nguyên
tố vật chất (Sắc uẩn) mà chúng ta có thể cảm nhận qua
các quan sinh lý, dưới nhiều hình thái cảm nghiệm: Thô ráp,
mềm mại, nóng lạnh, rung động, nặng nề, nhẹ nhàng... Uẩn
thứ hai vẫn được gọi là Thọ uẩn, bao gồm tất cả những
cảm giác và xúc động tốt xấu như buồn, vui hay sự hờ
hững thản nhiên mà từ ngữ thông thường vẫn gọi là tình
trạng tâm lý vô cảm. Uẩn thứ ba tức Tưởng uẩn, cũng
thuộc lãnh vực tâm lý như hai uẩn vừa kể trên và với
một định nghĩa nôm na thì đó là những quan niệm, những
liên tưởng tập quán mang tính phân biệt và kinh nghiệm về
các đối tượng sở tri. Chẳng hạn, chính nhờ có nó, khi
nghe một tiếng động, ta lập tức nhận ra ngay rằng đó là
tiếng còi xe hay tiếng chó sủa. Hồi ức là một trong những
chức năng đặc trưng của tưởng uẩn. Uẩn thứ tư chính
là những hình thái tư tưởng tích lũy tất cả những cấu
tố tâm lý ngoài thọ uẩn và tưởng uẩn, những uẩn mà
theo đặc tính có thể được xem là độc lập. Uẩn thứ
tư này bao gồm tất cả những hình thái ý thức sai biệt
và có di hậu những phản ứng nhất định nào đó trong tương
lai bất luận là tốt hay xấu. Chúng là những cấu tố tâm
lý có hiệu quả xây dựng và qui định nhân cách cũng như
hướng đi của mỗi chúng sanh. Gọi theo thuật ngữ phật học
thì Uẩn thứ tư chính là Hành uẩn, nội dung có thể là tam
độc (tham, sân, si) hoặc tam học (giới, định, tuệ). Uẩn
thứ năm tức Thức uẩn là cái biết đơn thuần, vô tư, vô
cảm đối với tất cả đối tượng sở tri bất luận thuộc
tâm lý hay vật lý, một cái biết đơn giản chưa thông qua
cũng như chưa bị định trị (đánh giá) bởi bất cứ lăng
kính ý thức nào hết. Chúng ta thật ra chỉ là một thành
phẩm được cấu hợp từ sự tương tác của năm uẩn. Những
khái niệm tôi, anh, nam, nữ, người, thú... chỉ là những
ngôn ngữ mang ý nghĩa phương tiện để diễn dịch những
hình thái vận động nhất định của các uẩn mà thôi.
Chẳng
hạn khi ta nghe tiếng động thì sự ghi nhận ban đầu về
âm thanh đó chính là Thức uẩn (ở đây là nhỉ thức). Thần
kinh thính giác và âm thanh kia là Sắc uẩn. Những cảm xúc
tiêu cực hay tích cực trước âm thanh đó, chính là Thọ uẩn.
Sự nhận ra (bằng kinh nghiệm quá khứ) rằng đó là âm thanh,
tiếng động gì thì đây là Tưởng uẩn; và tất cả những
phản ứng tâm lý mang tính đầu tư, định trị bằng các
tình trạng tâm lý thương hoặc ghét hay hiểu biết (bằng
trí tuệ) thì chính là sự hiện hữu, tồn tại của Hành
uẩn.
Trong
một bộ kinh quan trọng của Phật giáo là Milindapanha (Milinda
Vấn Ðạo) có nhắc đến một đoạn đối thoại giữa nhà
vua Hy lạp tại Ấn Ðộ tên Milinda (hậu duệ của A-lịch-sơn
Ðại Ðế) với Ngài Nàgasena (Na-tiên), một vị thánh tăng
bác học thời danh, về giáo lý vô ngã. Nhà vua yêu cầu Ngài
Nàgasena hãy giải thích rõ hơn cho mình về vấn đề giáo
lý thâm sâu mà cũng vô cùng tế nhị này. Nhà vua đặt vấn
đề với tư cách một người đứng trên lập trường chủ
trương một cái Tôi. Ngài Nàgasena trỏ vào chiếc long xa của
nhà vua rồi hỏi:
- Thưa
đại vương, ở đây cái gì được gọi là cổ long xa? Có
phải chăng từng món phụ tùng được lắp ghép vào đây đều
có thể được gọi là chiếc long xa hay không, chẳng hạn
như các món đùm xe, trục xe, căm xe, thùng xe, mui xe, rèm xe,...?
- Tất
nhiên, nếu kể ra từng món một thì không có món nào có thể
được gọi là cổ long xa cả! Vua Milinda trả lời.
Ðến
đây, nhà vua Milinda coi như đã thấu suốt được giáo lý
vô ngã một cách sâu sắc và sinh động qua chính hình ảnh
về cổ long xa mà Ngài Nàgasena đã tạm mượn làm một thí
dụ để trình bày về một giáo lý vô ngã xuyên qua phép diễn
dịch về đặc tính nương đỡ và tương quan hữu cơ như
một qui luật sinh tồn của vạn pháp: Không có sự góp mặt
của các món phụ tùng cần thiết thì chẳng có một chiếc
xe nào cả. Vẫn bằng phương thức suy luận tương tự, cái
mà chúng ta vẫn gọi là "tôi, của tôi" thật ra chỉ là một
khái niệm giả lập để chỉ cho môi trường gặp gỡ, tương
ngộ của các uẩn luôn sanh diệt triền miên trong từng chớp
mắt. Bản chất và đặc tính cố nhiên của chúng là luôn
luôn thay đổi, phân hóa, biến tướng và bất thường.
Chúng
ta hãy quan sát mọi sự trong từng ngày như người ta vẫn
tự nhìn ngắm mình trong tấm gương soi. Tình trạng hiện hữu
của các uẩn hôm nay qua đến ngày mai sẽ đổi khác nhiều
lắm. Mọi thứ luôn trôi qua đi và tự đnh mất khuôn mặt
cũ của mình, cái còn gọi có chăng chỉ là tên gọi. Bằng
vào những khái niệm tập quán ngộ nhận, trong đó có cả
thói quen định danh (gọi tên), chúng ta vẫn luôn tự ám ảnh
mình bằng một niềm tin vào những sự vật nào đó miên viễn
và hằng tại, trường cữu, thậm chí dù có tận mắt nhìn
thấy những hiện tượng vô thường, đổi thay, ta vẫn cứ
xem chúng hiện hữu, vận động, biến tướng vì một quyền
sở hữu hay dưới sự điều hành của ai đó, cái gì đó.
Nhưng nếu bằng một cái nhìn nghiêm túc, trung thực, khách
quan và tỉnh thức, thông qua trí tuệ thiền định vốn đã
được trao luyện thuần thục, thì ta sẽ thấy rằng ngay bản
thân của ý thức (ở đây là tứ danh uẩn, các uẩn thuộc
tâm lý) tự bản thân chúng chỉ là một qui trình vận động
luôn mang tính vô thường và bất cứ cái gì vẫn được gọi
là bản ngã hay cái tôi cũng chỉ là một chuỗi dài đổi
thay liên tục của ngũ uẩn mà không hề có một thực thể
bất biến, vĩnh hằng nào nấp kín đàng sau hay tàng ẩn bên
trong chúng cả.
Dòng
sinh diễn cố nhiên của ngũ uẩn tuyệt đối không xảy ra
một cách ngẫu nhiên, tình cờ, đột biến, đột xuất hay
hỗn độn, thiếu trật tự. Nó sinh hóa trên một hệ thống
hẳn hoi, mang tính thừa tiếp hữu cơ, tuân theo qui luật vận
động tất yếu của các pháp tự muôn đời. Những qui luật
có điều động tất cả những mối quan hệ tương thuộc
của các cấu tố tâm vật lý làm nên sự tồn tại, vận
động của các pháp và ta cóthể học hỏi thấu suốt vấn
đề này trong tạng Vi Diệu Pháp (Abhidhamma-pitaka), một hệ
thống giáo lý có nội dung chủ yếu là về tâm lý học (từ
ngữ này ở đây nên hiểu theo định nghĩa chiết tự chứ
không mang ý nghĩa thông thường ở các bộ tự điển). Theo
tạng Vi Diệu Pháp thì ý thức của chúng ta là một chuỗi
dài của những đơn vị cảm nghiệm tâm lý mà gọi theo từ
chuyên môn của Phật học là các Tâm lộ. Trong hình thái vận
động này các đơn vị ý thức tuyệt nhiên không diễn ra
trong một tình trạng hỗn mang hay xơ cứng, dính dấp đến
từ ngữ văn tự, mà thay vào đó mỗi tâm lộ bao gồm một
loạt tối đa mười bảy đơn vị ý thức, gọi theo thuật
ngữ của tạng Vi Diệu Pháp là mười bảy Sát-na Tâm. Giả
dụ như khi ta nghe một tiếng động, các đơn vị ý thức
tương ứng lập tức nối đuôi nhau hình thành ra một tâm
lộ với số lượng tối đa là mười bảy Sát-na để tập
trung vào một đối tượng sở tri, mà ở đây là âm thanh
mà mình vừa nghe qua.
Ðối
với trường hợp cảm nghiệm (ghi nhận, đón bắt) các đối
tượng ý thức khác như hình ảnh, hương vị hay đối tượng
xúc giác, tư tưởng nào đó, tất cả cũng đều diễn ra theo
qui trình này: Tính ở mức tối đa, mỗi lộ tâm gồm có mười
bảy sát na và thời gian tồn tại của mỗi một sát na là
cực ngắn (tạm hiểu là một phần tỷ của mỗi giây đồng
hồ) và trong suốt đời sống chúng ta, các Tâm lộ luôn liên
tục thế chỗ cho nhau. Trong mỗi Tâm Lộ như vậy, có một
số Sát-na chỉ đơn giản có ý nghĩa là hậu quả thừa tiếp
từ các tiền nghiệp quá khứ. Thuật ngữ của tạng Vi Diệu
Pháp gọi chúng là những Sát-na Tâm Quả. Chúng hiển hiện
trong lộ tâm dưới hình thức của những cảm giác tốt xấu
(Thọ uẩn). Chẳng hạn như khi chúng ta bị nghe phải những
câu nói, những âm thanh khó chịu thì đó chính là lúc lộ
diện của Sát-na tâm quả bất thiện vốn đã được đầu
tư từ một hành động ác xấu tương ứng nào đó trong quá
khứ. Còn đối với các Sát-na tâm còn lại trong một tâm
lộ thông thường thì chúng có chức năng gây tạo ra những
tác động mà nãy giờ ta vẫn gọi là quả và nhân tố tác
nghiệp hay sức mạnh tác động của chúng hoàn toàn tùy thuộc
vào thái độ phản ứng tâm lý của chúng ta trước các đối
tượng sở tri. Như khi nghe một câu nói, một âm thanh dễ
gây bất mãn thì thay vì chúng ta chỉ đơn giản ghi nhận nó
là quả xấu của một tiền nghiệp bất chánh để rồi bình
thản nhìn ngắm và bỏ mặc cho nó trôi qua, nhưng nếu ta lại
đón nhận nó bằng một sự bất mãn thì vô tình ta đã lại
đầu tư thêm một ác nghiệp mới nữa trong tương lai. Tất
cả chỉ vì thái độ đối kháng tệ hại của chúng ta mà
thôi.
Nói
một cách khác đi, ta đã đối diện và xử lý một cách thiếu
thông minh trước đối tượng sở tri. Và ở đây có một
qui luật mà có lẽ ai cũng biết, đó là "Nhân nào quả nấy":
Cơn nóng giận hôm nay sẽ cho ra những nổi buồn khổ ở ngày
mai. Ngược lại, với một thái độ phản ứng và xử lý
ngoại cảnh bằng tất cả những giá trị tinh thần như tỉnh
thức, bao dung và một trình độ thấu đáo về nghiệp lý
thì dầu bất cứ ở tình huống nào, đối với bất cứ một
đối tượng sở tri nào tốt xấu bất luận, ta đều có cơ
hội để vun bồi và gieo hạt cho những hạnh phúc mai sau.
Tất
cả những cảm xúc tâm sinh lý dù tốt xấu đều là hậu
quả của tiền nghiệp. Những phản ứng của chúng ta hôm
nay đều luôn có thể tạo nên những hậu quả trong tương
lai mà mình sẽ phải chấp nhận, thưởng thức hoặc chịu
đựng. Qui luật về nghiệp lý là cả một vòng tuần hoàn
luân lưu: Từ một hạnh nghiệp quá khứ sẽ tạo ra những
hậu quả trong hiện tại và chính những thái độ phản ứng,
xử lý tốt hoặc xấu đối với chúng, lại tiếp tục tạo
ra những hậu quả mới... Cứ thế và cứ thế. Vòng tuần
hoàn nghiệp lý báo ứng này đã qui định nên cuộc luân hồi
của tất cả chúng sanh và tất cả chỉ nằm vỏn vẹn trong
từng sát na tâm.
Giáo
lý thiền quán đặc biệt nhấn mạnh hai vấn đề lớn là
sự thức tỉnh trong mỗi thái độ xử lý của ta đối với
nó. Bởi chính điều này là cội nguồn cho tất cả hạnh
nghiệp của chúng ta. Mỗi phút giây cảm nghiệm thực tại
đều có thể trở thành một tác nhân cho một báo ứng nào
đó trong ngày sau. Tất cả đều tùy thuộc ở chúng ta, mỗi
người đều có quyền chọn lựa cho mình một thái độ sống:
Ðể mặc cho từng phút giây đối diện và xử lý thực tại
bị cuốn hút vào trong vòng tuần hoàn của nghiệp lý vay trả
triền miên, hay chỉ ngắm nhìn từng thực tại một cách tự
do, vô hệ lụy, không đầu tư một hạt giống nhân quả xuẩn
động nào.
Con
đường tối ưu để chúng ta vực mình ra khỏi vòng tuần
hoàn mù mịt vô cực của nghiệp lý chính là chánh niệm hay
thái độ tỉnh thức. Ðó là một trình độ nội tâm nằm
ngoài tất cả phân biệt hẹp hòi, luôn phơi mở và khách
quan đón nhận tất cả những gì xảy đến, không thương
ghét mà cũng chẳng vô tâm lãnh đạm, hờ hững và thiếu
trách nhiệm. Một khi có được cái bản lãnh chào đón mọi
cảm giác vốn là hậu quả của tiền nghiệp, bằng tất cả
bình tâm thì coi như chúng ta đã tự tạo được cho mình những
điều kiện giác ngộ, những nhân tố giải thoát thật sự
rồi đó!
Hãy
nhớ rằng ngay cả đối với một người đã hoàn mãn túc
duyên giác ngộ (thậm chí đến cả chư Phật) cũng phải chấp
nhận những ác quả từ các tiền nghiệp mà mình đã tạo.
Dĩ nhiên các Ngài cũng vẫn có thể thọ lãnh tất cả những
thiện quả đã được gieo trồng từ quá khứ. Ở đây chúng
ta có lẽ ai cũng biết đến câu chuyện về một tay sát thủ
khét tiếng trong thời Ðức Phật, tên là Angulimàla. Số nạn
nhân của chàng ta lên đến chín trăm chín mươi chín người.
Sở dĩ tay sát thủ này được gọi tên như vậy vì bởi vì
chàng ta chỉ giết người để lấy trên bàn tay của mỗi
nạn nhân một ngón tay rồi xâu lại thành chuỗi đeo trên
cổ. Nạn nhân cuối cùng mà Angulimàla nhắm tới, chính là
bà mẹ ruột của mình. Bằng Phật trí, Ðức Thế Tôn biết
được mọi sự và Ngài đã kịp thời xuất hiện để can
thiệp. Nhìn thấy Ðức Phật, Angulimàla liền thay đổi đối
tượng truy sát và bằng tất cả sức chạy vốn chưa có đối
thủ, Angulimàla đã dốc sức rượt đuổi Ðức Phật trong
khi Ngài vẫn từng bước thong thả như không có gì xảy ra.
Như ta đã biết, tay sát thủ khát máu này không cách nào theo
kịp Ðức Phật, cuối cùng khi đã kiệt sức, Angulimàla lớn
tiếng bắt buộc Ðức Phật dừng bước.
Trước
thái độ hung hăn của Angulimàla, Ðức Thế Tôn từ tốn trả
lời: "Thực ra Như Lai đã đứng lại từ lâu lắm rồi, chỉ
có ngươi mới là người chưa chịu dừng bước đó thôi,
Angulimàla ạ!"
Và
Angulimàla đã dừng bước, dừng bước thật sự và bị tác
động mãnh liệt bởi chính phong thái đại hùng, đại bi của
Ðức Phật. Sau đó, Angulimàla xuất gia và trở thành một
vị A La Hán. Theo như kinh sách ghi lại, trong những đoạn đời
còn lại của mình, ngài Thánh Tăng Angulimàla đã phải trả
giá cho những ngày tháng khát máu của mình bằng những nếm
trải cay đắng trên suốt những nẽo đường du hóa vị tha:
Hầu như ở bất cứ nơi nào Ngài cũng đều bị nguyền rủa,
hành hung một cách tàn nhẫn. Nhưng dĩ nhiên đối với trí
tuệ của một bậc A La Hán, ngài đã mĩm cười đón nhận
tất cả với một tấm lòng bao dung vô hạn. Bởi đó chính
là một trong những nét đặc trưng cho trí tuệ của một bậc
thánh: Trí tuệ về nghiệp lý, chấp nhận nghiệp quả mà
không đầu tư thêm nghiệp nhân. Các bậc thánh bình thản
cảm nhận tất cả những báo ứng của mình như một người
đang có mặt tại kịch trường để quan sát những vỡ kịch,
mà ở đây là những vở bi hài kịch của tuồng nghiệp lý!
Vạn
hữu, từ các tầng địa ngục sâu nhất cho đến những cảnh
giới phạm thiên cao nhất cũng chỉ đều là những hình thái
hiển thị của ý thức, nội tâm chúng sanh. Có hiểu được
nghiệp lý, tức những qui luật điều hành và qui định sự
tồn tại của mọi loài thì coi như ta đã có thể tự chọn
cho mình một hướng đi, một sinh thú. Chúng ta không cần phải
lo âu trước con đường tử sinh dường như có vẻ đáng sợ
này. Chúng ta có thể tự có cho mình một con đường tràn
đầy trí tuệ và an lành; bằng vào sự thấu suốt vấn đề
nghiệp lý một cách chi li, sâu sắc qua sự vận động của
tâm lý ở cấp độ tế vi của khái niệm về mỗi sát-na
tâm, xâu chuỗi luân hồi hữu cơ của chúng ta xem như có cơ
may được cắt đứt. Và với sức mạnh của chánh niệm,
của thái độ vô cầu, vô chấp và độc lập đối với tất
cả thực tại sở tri, chúng ta có thể phá vỡ vòng luân lưu
của cuộc sinh tử tuần hoàn, đồng thời có thể phơi mở
được cho mình một cảm giác tự do thật sự.
J.
K.
---o0o---
Hướng
dẫn thực tập
Chiêm
ngắm ý hướng hành động
Ðể
hiểu được nghiệp lý, điều căn bản và cốt lõi là việc
nhìn thấy phương thức vận động hoặc những khuynh hướng
ý thức mang tính quy định một chủng tử tạo quả trong tương
lai trong chính hành động mà mỗi người thực hiện. Từ đó
suy ra, một sở hành (trong tam nghiệp) được điều động
bằng thiện tâm thì kết quả tất yếu của nó sẽ là các
quả lành. Bằng ngược lại một sở hành được điều động
bởi các phiền não thì hậu quả dĩ nhiên của nó sẽ là
tất cả những gì cay đắng chua chát trong tương lai. Có điều
là các quả nghiệp không phải luôn luôn là nhãn tiền nên
ta phải nói rằng thật không dễ dàng gì nhìn thấy được
quá trình quan hệ tương thuộc giữa nhân và quả.
Tuy
nhiên trong đời sống thường nhật ta vẫn có lắm dịp để
thấm thía một cách dễ dàng và trực tiếp vấn đề nghiệp
lý xuyên qua trường hợp khẫu nghiệp, những ngôn ngữ đối
giao với mọi người xung quanh. Chúng ta hãy làm một thử nghiệm
bằng cách bỏ ra đôi ba ngày ghi nhận cẩn thận và trung thực
từng động lực tâm sinh lý của mỗi lời nói mà mình phát
biểu. Hãy cố gắng nhìn thẳng vào từng phút giây tâm não
trạng gắn liền với ý muốn phát ngôn, nhìn thẳng vào những
động lực, phản ứng tâm lý vào cả sự chọn lựa ngữ
ngôn của mình. Hãy cố gắng tỉnh thức để nhận diện tất
cả những gì thúc đẩy ta nói, bất luận đó là một thứ
tâm trạng thô tế, tốt xấu ra sao. Ðại khái, càng tỉnh
thức càng tốt, đối với tất cả hình thái ý thức và những
gì thật sự có tác động đến khẩu nghiệp của mình.
Ta
chỉ nhìn ngắm thôi, một cách khách quan về đáy sâu thật
sự của nội tâm mình, không thông qua một toan tính khuôn
sáo nào cả. Hãy đơn giản ghi nhận các vận động sai biệt
của ý thức cùng những ngôn ngữ mà chúng điều động.
Sau
chừng đó nỗ lực, ta hãy tiếp tục ghi nhận ảnh hưởng
của mỗi lời nói mà mình phát biểu: Ta sẽ phải nhận lấy
những gì từ thế giới chung quanh khi ngôn ngữ của mình được
phát biểu bằng một nội tâm nhỏ nhen, vị kỷ, cao ngạo,...?
Người khác sẽ có phản ứng ra sao trước những câu nói
đầy tình thương?
Qui
luật nghiệp báo luôn buộc ta phải tự chịu trách nhiệm
về tất cả những tác động của mình (mà mỗi người có
thể chọn lựa) đối với thế giới chung quanh trong từng
giây phút. Với sự khám phá tinh vi và kỳ thú về những năng
lực nội tại này ở mỗi người cũng giúp ta tự qui định
lấy điều kiện sinh tồn ngoại tại: Ta có thể chọn lấy
cho mình một hướng đi an lành, giải thoát.
|