|
.
THIỀN
HỌC NAM TRUYỀN
Giác
Nguyên dịch Việt, 1996
|
|
Chương
13
Cuộc
đi về Nguồn
Tiếng
Dharma hay Dhamma trong cả Sankrit và Pàli đều có nhiều nghĩa:
Chân lý, thiên nhiên, giáo điều, qui phạm... Nói chung, nếu
cần nó cũng hàm nghĩa ám chỉ cho vạn vật, vạn sự -- bất
luận tâm lý hay sinh vật lý trong thế giới hiện tượng này.
Nhưng bên cạnh đó, từ Dhamma còn có một nghĩa khác là Giáo
lý mà mà nếu đọc thấy trong kinh Phật đôi khi ta cũng nên
hiểu rằng đó chính là Phật Pháp. Vậy, gom hết tất cả
các định nghĩa lại, ta sẽ hiểu được thuật ngữ "thực
hành Giáo Pháp"một cách sâu rộng hơn, rằng đó là con đường
thấu đáo từng phút giây vận động, tồn tại của tất
cả cảm nghiệm và chính mình sống trọn vẹn với thực tại
một cách hài hòa, bao dung hiểu theo mọi nghĩa.
Mỗi
người chúng ta là một ảnh trường với muôn nghìn hình sắc
sai biệt luôn đổi thay bất tuyệt không có gì khả dĩ bám
víu, ôm ấp. Ðể nhận diện được bản chất của chính
mình vốn chỉ là từng công đoạn trong chuổi dài tồn tại
đó, chúng ta phải tự có một thái độ tự tại và hiểu
biết về từng khoảnh khắc thực tại đang trôi qua. Ðiều
đó đòi hỏi ở chúng ta một khả năng trí tuệ và thực
nghiệm hết sức tế nhị qua những chặng đường, cấp độ
khác nhau. Ðồng ta cũng phải học được cách phơi mở và
buông thả tư tưởng mình trước mọi cảm nghiệm về thực
tại một cách thông suốt.
Một
trong những tiêu điểm của vấn đề thực hành Giáo Pháp
là hiểu được căn cội của cái gọi là tinh thần phân biệt:
Nó đã được hình thành ra sao? Và tại sao con người ta cứ
có khuynh hướng đi tìm những ranh giới trong vạn sự để
tự nhốt tù mình trong đó một cách dại khờ. Trong một tác
phẩm của mình, quyển "Phóng ảnh của ý thức" (The Spectrum
of Consciousness), Ken Wilber đã tổng hợp tất cả những cái
gọi là Trí tuệ để mô tả một cách rõ ràng về tinh thần
phân biệt, hành trình dẫn tới chính nó. Ken Wilber đã phác
họa bốn giai đoạn ý thức của con người từ trình độ
tỉnh thức vô phân biệt đến đến một cảnh giới nội
tâm tù túng tự cách ngăn.
Tinh
thần phân biệt của chúng ta trước hết nhắm vào vấn đề
xác định tự ngã: kỷ tha, năng sở, trong ngoài. Ngay trong
chính ý thức ngộ nhận đầu tiên này, coi như chúng ta tự
tách rời chính mình ra khỏi môi trường hiện hữu, xẻ đôi
thực tại với cảm nghiệm. Gọi theo Beroit thì tinh thần đó
là một "lổ hổng trên mặt phẳng tuyệt đối của vũ trụ".
Từ các thực ngã ngộ nhận này, tinh thần phân biệt tiếp
theo được nảy sinh. Ðó là trình tự ngã chấp về một linh
hồn trong trong hình hài cát bụi này. Bước đi của nó dẫn
tới thái độ khu biệt cái cảm nhận với cái được cảm
nhận trong mọi hình thái ý thức. Nó buộc người ta nghĩ
tới một cái Tôi độc lập mà mình sẵn sàng chấp nhận
là có thật.
Tinh
thần phân biệt thứ ba được kế thừa từ tinh thần thứ
hai vừa nêu. Nó là sự chấp và ý thức để có được một
thực thể cùng phóng ảnh của nó. Cái thực thể đó chính
là tất cả những hiện tượng ý thức đan xen vào nhau để
tạo ra cái Tôi ảo ảnh của mỗi người, những hình thái
ý thức mà chúng ta cứ muốn gom lại thành một. Và bất cứ
những gì tăm tối, bất toại của ý thức mà chúng ta vẫn
cố tình trốn chạy, chối bỏ sẽ tự nhiên trở thành một
phóng ảnh đe dọa, một ám ảnh thì đúng hơn, cho chính chúng
ta. Càng cố gắng trấn áp, chúng ta chỉ hoài công thêm thôi.
Bởi lúc này chúng ta đã là một cái bóng theo sát mỗi người.
Chúng ta bất lực vì không nhận ra được nó, không chịu
nhìn ngắn nó để rồi trở nên bối rối và rơi vào thế
bị động.
Dưới
áp lực của một ý thức mù mịt, vô minh như vậy, chúng
ta coi như đã tự giam cầm và giới hạn khả năng cảm nghiệm
trung thực của mình về bản thân bằng một sự tỉnh thức
khách quan đối với thực tại mà hàng loạt ngộ nhận đã
nối nhau bóp méo qua tinh thần phân biệt.
Trước
hết, chúng ta đã chia cắt thân tâm mình ra khỏi môi trường
hiện hữu và tự qui định cho mình một thế giới chật hẹp
bằng sự cố tình đồng nhất với mọi cảm quan. Tình trạng
càng tệ hại hơn nữa khi ta đồng hóa bản thân với một
linh hồn thực thể nào đó để tri nhận thực tại, tất
cả những gì đang xảy đến trước mắt mình. Cuối cùng
rồi, chính ý thức chỉ còn là những mãnh vụn của những
gì chúng ta tự nghĩ ra để đồng hóa chính mình bởi chúng
thực ra chỉ là từng ảo ảnh về một cái Tôi đồng thời
cũng là cái mà chúng ta muốn chối bỏ, bởi chúng hoàn toàn
không đáp ứng được điều chúng ta muốn: Chúng không hề
là một cái Tôi nào để ta toại nguyện cả. Và cứ thế,
ở từng hình thái ngộ nhận, chúng ta ngày càng tự giới
hạn không gian tâm tưởng của chính mình, làm nó đổ nát
thê thảm hơn.
Lý
tưởng của cuộc tu thiền định chính là nhắm tới sự giàn
xếp những ý thức phân biệt đó để ta hiểu rõ được
chính mình một cách như thật. Ðiều đó không có nghĩa là
chúng ta lao mình vào đập phá một cái Tôi nào hết mà vấn
đề còn đi xa hơn, chín chắn hơn, tức là tìm tới một sự
nhận thức trọn vẹn và tự do về mỗi mỗi tình trạng ý
thức. Bởi ngay cả khi chúng ta có biết tới sự tồn tại
của các nguyên tử, ta cũng vẫn cứ thích chấp nhận khái
niệm về một cái ghế, cái bàn hơn. Nhưng dẩu sao thì sự
nhận biết đó, cái kiến thức khoa học đó, vẫn giúp ta
có được những trợ lực căn bản và hùng hậu. Cũng tương
tự như vậy, những ngộ nhận rất có thể sẽ là cái đòn
bẩy giúp ta có thứ để mà nhìn ngắm, tỷ lượng và kịp
thời dừng bước trước khi chúng ta đi xa hơn nửa.
Chúng
ta trước hết hãy bắt đầu thực hiện lại đường đi thứ
lớp của mọi hình thái Ngã Chấp bằng cách phơi mở, vạch
trần trọn vẹn những vận động ý thức từ tư tưởng tới
cảm xúc mà không phải thông qua một thành kiến định trị
nào. Chúng ta thử quan sát từng bước hình thành của các
Ngã Tượng, cái hình danh của khái niệm Tôi, qui trình đồng
nhất tự thân với bản ngã cùng các mô thức tác tạo nên
no. Bên cạnh đó, chúng ta cũng đồng thời có một thái độ
vô tư trước mọi ảo ảnh của ngã chấp, thâm nhập và thấu
đáo chúng một cách tỉnh táo. Sự đồng hóa thân tâm với
một cái Tôi, để từ đó cho ra thái độ ý thức phân biệt
sẽ tạo nên ở chúng ta những mâu thuẩn và căng thẳng. Chính
việc bình tĩnh đón nhận tất cả thực tại xảy đến sẽ
giúp ta bắt đầu có một đời sống can đảm và bình đạm
vô tư.
Tiến
trình tiếp theo của ý niệm hợp nhất sẽ là sự bắt đầu
của ý niệm khu biệt thân tâm và đây cũng là một cấp độ
khác của ngã chấp. Ở đây, một sự hiểu biết cẩn trọng
là điều hết sức cần thiết bởi thân tâm chúng ta rõ ràng
là hai cảnh giới sinh hóa hoàn toàn khác nhau cho nên một cái
nhìn thấu đáo về chúng quả là nhu cầu căn bản cho công
phu đào sâu thực tại của chúng ta. Vấn đề xử lý ngã
chấp không chỉ là sự khu biệt như vừa nói mà hơn thế
nữa, còn là khả năng tách bạch tất cả thực tại xãy đến
ngay khi ta vừa xây dựng một ý niệm về cái Tôi, cái Tôi
có, Tôi là, bởi vì chính ý niệm đó dẫn tới một nhu cầu
khác của ý thức là bản năng toan tính và bào vệ cái gọi
là Tôi. Và cũng chính từ căn bản ngã chấp này, từ tinh
thần phân biệt có dụng ý này, mọi thứ ngộ nhận và thành
kiến được nãy sinh. Rồi từ khuynh hướng đó, nếu cứ
tiếp tục, cứ mỗi ý thức lệch lạc là một sức mạnh
củng cố cho ý niệm về cái Tôi. Ðó là những thành kiến
ghét bỏ, sợ hãi, so đo, luôn có sẵn trong lòng mỗi người.
Chỉ
cho đến khi nào chúng ta đủ sức nhìn thấy và quán triệt
được toàn bộ qui trình vận động này của ý thức thì
may ra ta mới có thể chấm dứt được cái vòng lẩn quẩn
bất tận đó thôi.
Ngoài
ra còn có một động cơ khác để người ta nghĩ tới vấn
đề nhất thể giữa thân tâm, đó là khuynh hướng thích đưa
ra những hướng đi giả lập tạm thời cho cái Tôi ảo vọng
nhằm hướng tới một cái gì đó khả dĩ là chân lý. Mà
vì chúng ta thực ra vẫn chưa đủ kinh nghiệm để tự hiểu
biết, cảm nhận chính mình một cách trọn vẹn nên cái chúng
ta đạt được, đáng buồn thay, chỉ là một cảnh giới ảo
ảnh của ý thức. Một đôi phút thiền hành thôi có lẽ sẽ
giúp ta hiểu được điều đó. Từng kinh nghiệm đơn giản
trong sự tiếp xúc giữa đôi chân với mặt đất có thể
sẽ là bài học vô cùng cụ thể và rõ ràng cho ta về hoạt
động và sự tồn tại của mình. Xuyên qua từng chập tư
tưởng và hình ảnh trôi qua, ta sẽ thấy được cái gọi
là thế giới quan hay nhân sinh quan vọng tưởng của mình thật
ra chẳng hề có chỗ đứng trong bất cứ một khoảnh khắc
thực tại nào. Bởi trong chừng hai bước đi thôi, ta đã có
thể tạo ra một Los Angeles hay Las Vegas hoặc Disneyland cùng
vô số những cảnh quan khác trên khắp toàn cầu. Nói chung
vọng niệm nào thì sinh ra ảo tưởng nấy thôi, một cách
tương ứng và đơn giản. Ðại khái, đối diện với ý thức
là ngồi xem một cuốn phim. Ta có thể bị cuốn hút trong những
gì mình nhìn thấy và cứ thế mà biểu lộ ra tất cả phản
ứng với các tình tiết của nó.
Trong
tác phẩm Thiền Vô Tâm (Zen Doctrine of No Mind), ông D.T. Suzukicó
viết: "Nhất thiết do tâm tạo. Ðiều này giống như việc
người ta vẽ một con hổ rồi lại nhìn ngắm và hoảng sợ
trước nó. Thực ra ngay trong chính bức tranh đó chẳng có
gì đáng sợ hãi cả, bởi vì từ hình thù đến móng vuốt
của con hổ đều chỉ là những nét cọ thông qua sự hình
dung của người họa sĩ".
Các
hình thái vọng tưởng của ý thức tự hiển hiện rồi sau
cùng cũng tự mất đi. Khi chúng ta ngồi lại quan sát từng
dòng tư tưởng, chúng ta sẽ bắt đầu thấm thía con người
thật của mình qua những nét vẽ của ý thức bản thân. Có
nhìn rõ được bộ mặt cùng từng bước đi của ý thức,
ta cũng đồng thời hiểu được là thật ra cuộc đời đã
được mỗi người nắn bóp, tô vẽ ra sao thông qua nhãn quan
ngã chấp của mình.
Cuộc
tu thiền định là hành trình tìm đến khả năng tỉnh thức
một cách trọn vẹn về tất cả mọi cảm nghiệm thực tại
trong từng giây phút. Cho đến khi nào không còn cái ý thức
"hợp nhất" nhập nhằng đối với từng thành tố tư tưởng,
kể cả một ý thức hiểu biết thanh tĩnh nhất, thì xem như
ta đã bắt đầu có thể tự đối trị ý thức phân biệt
của chính mình rồi. Lúc đó, từng thực tại đi qua trước
mắt ta chỉ đơn giản được xem là những cái đang trôi đi,
những khoảnh khắc kinh nghiệm hết sức phù du ngắn ngủi
và thật đơn giản: chúng là cái như vậy! Cái Tôi lúc này
coi như đã không còn chổ đứng trong bất cứ một kinh nghiệm
nào cả. Nó đã bị loại trừ, đã thành ra một người khách
lạ...
Trong
một đoạn kinh nguyên thủy nhất, đức Phật đã dạy: "Thấy
chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe... Và cứ thế, một suy nghĩ
chỉ là một suy nghĩ". Ðó chính là thứ kinh nghiệm trực
tiếp và giản đơn về bản chất của thực tại, chúng ra
sao thì thấy chúng như vậy - không thông qua một lăng kính
ngã chấp nào hết. Khi ta nghe thấy hay cảm nhận một âm thanh,
hình ảnh hoặc một sự việc nào đó thì thật sự là đã
có một khung trời riêng tư nào cho cái biết ấy hay không?
Có một giới hạn nào để ta ý thức về cái gọi là trong
ngoài chính bản thân hay không? Sasaki-roshi đã trả lời những
câu hỏi đó trong một bài thơ nhỏ:
Như
một cánh bướm lẩn khuất trong cành hoa
Như
một chú chim náu mình trên cội cây
Như
đứa bé vục mặt vào ngực mẹ
Sáu
mươi năm qua, giữa thế giới này
Tôi
đánh bạn với cao xanh!
Như
bướm, như chim, như đứa bé: chủ và khách ở đây chỉ là
một.
Giáo
lý A Tỳ Ðàm (Vi Diệu Pháp) của Phật Giáo Nguyên thủy đã
từng giải thích vấn đề này bằng cách nêu rõ hình thức
hiện khởi mang tính liên thuộc của các thành tố danh sắc
trong mỗi mỗi sát na, khoảnh khắc hiện hữu của các pháp
giới hữu vi tức tất cả cái gì hiện tượng. Chẳng hạn
để có được nhãn thức, sự "nhìn thấy hình sắc" của
con mắt thì đòi hỏi phải có đến ba yếu tố cơ bản mà
gọi theo từ ngữ chuyên môn là Căn - Cảnh - Thức tức thần
kinh thị giác, hình ảnh và một cái tâm thức. Trong quá trình
nhìn thấy đó, hình sắc, ánh sáng cùng một sự chú ý nhất
thiết phải cùng lúc có đủ. Chỉ thiếu một trong các yếu
tố vừa kể, người ta không thể nhìn thấy cái gì hết.
Khi các yếu tố được hội đủ, khoảnh khắc đó được
gọi là sát-na nhãn-thức. Vậy rõ ràng là chẳng có ai thấy,
không một chủ thể nào đứng bên ngoài chờ đợi "thời
cơ nhìn thấy" cả. Ở đây chỉ có một sự hội tụ của
các điều kiện độc lập nhưng liên kết nhau cho một tâm
nhãn thức được khai sinh.
Cho
đến khi nào chúng ta hãy còn có ý niệm chia cắt manh mún
hay đồng hóa một cách phi lý từng thành phần thực tại
thì cho tới lúc ấy chúng ta vẫn tiếp tục tự nhốt tù bản
thân trong những hạn chế mà chính mình đã tạo ra. Con đường
thiền định hay cũng có thể gọi là hành trình dẫn tới
tự do chính là sự thấu đáo và thống kê được các cấp
độ ngã chấp và định kiến, mà chìa khóa để mở ra con
đường này chính là chánh niệm cùng tỉnh giác tức trí tuệ.
Tiếp
theo sau tinh thần phân biệt và trình độ liễu tri lý vô ngã,
hành giả coi như đã bước vào một cảnh giới tâm linh khác,
đó chính là sự hình thành cái gọi là thế giới tình thương
trong chính nội tâm mình. Tình thương được nói tới ở đây
không có nghĩa là một kiểu cách hành động hay ý tưởng
tìm tới một đối tượng nào đó để mà thương, mà cảm.
Tình thương ở đây càng không phải là một nỗ lực nhắm
tới sự thỏa mãn cái Tôi của bản thân, mà trên hết, đó
là một sự phơi mở và đón nhận của nội tâm để có thể
cảm thông sâu sắc với tất cả đối tượng. Tình thương
ở đây là cả một trái tim dàn trải, bao dung đặt nền tảng
trên tinh thần vô phân biệt.
Sư
tổ Shunryu Suzuki của thiền viện San Francisco trong những giây
phút cuối cùng trước khi qua đời vì chứng ung thư vẫn luôn
tỏ ra bình tỉnh và can đảm lạ thường. Khi được hỏi
có đau đớn hay không, ông đã hóm hỉnh trả lời rằng mỗi
cơn đau là một Ðức Phật nên cơn đau nào cũng là tốt cả.
Sơ Teresa ở Calcutta cũng thường nhắc tới tinh thần tỉnh
táo đó ngay cả trong những trường hợp khó chịu đựng nhất.
Bà đã gọi những cơn đau đớn trên đời này đều là hình
ảnh của Ðức Chúa Ky Tô. Tất cả những tình trạng bi thảm
đó còn mang một ý nghĩa khác sâu sắc hơn một thái độ
chịu đựng đơn thuần. Ðó chính là tình thương, là sự
đón nhận một cách thân thiết và ân cần trước mọi sợ
hải, thành kiến, ác cảm... Trong không gian tâm lý đó, mọi
ý niệm phân biệt đều được giải quyết, tất cả chỉ
được đánh giá thành một đối tượng tri nhận duy nhất.
Ðại
sư Ấn Ðộ giáo Neem Kazoli Baba thường dạy các đệ tử rằng
đừng xua đuổi bất cứ ai ra khỏi trái tim mình. Lời giáo
hóa đó đề nghị chúng ta đừng bao giờ tự cách ly mình
với bất cứ ai và sự vật gì. Khả năng mở rộng tâm hồn
ngay tự nó đã bao hàm tất cả mọi thái độ và tình trạng
tâm sinh lý cùng tất cả môi trường sống mà mình đang có
mặt.
Giá
trị căn bản của tình thương ở đây là cho phép chúng ta
hội nhập hết mình vào với tất cả cảm nghiệm trong đời
sống bằng cách đưa ta tiếp cận thật lòng với những nắng,
gió, cây cỏ, chim muông, con người và với cả từng góc tối
sâu kín của tâm hồn mình. Nói gọn lại, thiền định là
thực tập giao lưu với đời sống. Từ thái độ sống này,
tự con người chúng ta sẽ phóng xuất một nguồn sinh lực
thích ứng để hấp thụ tất cả góc cạnh cảm nghiệm về
thực tại thay vì có phản ứng đối kháng.
Chính
thái độ mở ngõ đón nhận thực tại như vậy là con đường
dẫn tới trí tuệ về lý vô ngã. Ðồng thời đang cũng là
một sức mạnh để chúng ta hoàn tất tính trung thực và khả
năng xuất ly bản ngã một cách sâu sắc: Không chối bỏ mà
cũng chẳng lệ thuộc vào bất cứ cái gì, mọi thứ ra sao
thì nhìn thấy đúng như vậy thôi. Ðiều này có nghĩa là
ta chẳng đối diện với thực tại thông qua một lăng kính
sàng lọc nào của ham muốn, ước vọng theo một con đường
nào đó. Ly tham là con đường dẫn tới trí tuệ bởi từ
đấy chúng ta mới có thể thấu đáo chín chắn tất cả sự
thật mà khỏi phải mắc bẩy một cái nhìn méo mó nào. Như
vậy hai tiếng tình thương trong trường hợp này hoàn toàn
mang ý nghĩa vô tư, không thiên lệch.
Ta
có thể gọi con đường nội tâm trên đây là hành trình từ
"có" đến "không", con đường quán chiếu thực tại đúng
như bản chất của nó mà không tự tạo một sự chia cắt
khu biệt nào hết. Một khi thấy được một sự hiện hữu
của mình thật ra vẫn tồn tại giữa quá nhiều giới hạn
để rồi tự tại trước tất cả ngoại giới thì coi như
ta đã tự giải thoát bản thân ra khỏi ngục tù kiến chấp
mà bấy lâu nay đã giam hảm mình. Nhận ra tính chất zéro
trong sự hiện hữu của mình, chẳng chấp thủ bất cứ một
kinh nghiệm nào như là một cái Tôi thì cũng có nghĩa là ta
đã tìm thấy được mối giao thoa của toàn bộ mọi cảm
nghiệm trong từng giây phút. Ở đây không hề có một biên
cảnh nào giới hạn được ta và tất cả mọi thực tại
đều trở nên sinh động, thú vị trong từng khoảnh khắc
đến đi.
Bằng
chính kinh nghiệm tự thân, thấy được rằng mình không hề
là những dòng tư tưởng, vận động, xúc cảm thân xác, tình
cảm, tri thức, trí tuệ nào cả thì có nghĩa là ta đã thấy
được thực tại như là chính nó. Không đồng nhất bản
thân với bất cứ cảm nghiệm nào ta mới thấy được cuộc
sinh hóa thật sự của mình giống như một giấc mộng, tất
cả chỉ là biểu tượng- hiện tượng, từ ý thức nhận
biết đến đối tượng được nhận biết. Nói vậy cũng
có nghĩa là vạn vật trong mắt ta lúc này đều là những
thực tại rổng tuếch, phù du, gá gửi. Và có buông được
tất cả ý niệm về một cái Tôi như vậy chúng ta có thể
sống tự do, không sợ hãi bởi thật ra có còn gì để ta
phải sợ hãi trong khi chúng ta chỉ là những con số zero. Chính
cái zero lồng lộng đó sẽ cho phép ta nội tâm bình yên.
Trong
Nam Hoa Kinh của Trang tử, có một bài viết về cuộc đối
thoại giữa Quang Diệu (ánh sáng) với Vô Hữu (cái không có
gì) mà nội dung cơ hồ như muốn minh họa cái tinh thần đó:
Quang
Diệu hỏi Vô Hữu:
Ngài
là gì hay chẳng là gì cả?
Chẳng
nhận được lời đáp nào,
Quang
Diệu tự mình chiêm ngắm Vô Hữu
Quang
Diệu cứ trông chờ thấy được Vô Hữu
Ðể
có thể xem Vô Hữu là một Hiện Hữu
Cố
đắm nhìn bằng một sự im lặng sâu thẳm Quang Diệu hy vọng
muốn nắm bắt được một chớp mắt của Vô Hữu.
Nhưng
nhìn hoài vẫn chẳng thấy
lắng
tai mãi vẫn không nghe được cái gì
Quang
Diệu đi tìm cái để nắm bắt
Ðể
rồi chỉ nắm bắt được có mỗi cái hư vô cuối cùng rồi
Quang Diệu cũng đành phải cuối đầu nhìn nhận rằng Vô
Hữu vẫn là một cái thật xa xôi.
Ai
có thể đạt tới cảnh giới của nó?
|