Chương
3
Thiền
Lý
Trước
hết chuyên tâm vào từng cảm nhận của giác quan rồi từng
cảm xúc tốt xấu trong mỗi hơi thở. Hãy dốc hết khả năng
tập trung vào những nơi mà hơi thở ra vào được biểu hiện,
chẳng hạn ở mũi hay vùng bụng, để có thể thấy rõ mọi
cơ cấu vận động cùng những gì có mối tương quan hữu
cơ với chúng, một cách trong sáng và tỉnh thức.
Hãy
thư thả theo dõi hơi thở ra vào và nếu lúc nào đó chợt
thấy chúng bất ngờ vắng mặt (không vào ra rõ rệt nữa)
thì cứ bình tâm chú ý vàonhững điểm vừa nói trên: mũi,
vùng bụng, hoặc phần đầu gối chạm đất hay ở đôi môi
đang khép rồi tiếp tục ghi nhận những gì xảy ra từ đó.
Trong trường hợp hơi thở vắng mặt lâu hơn thì ta cũng cứ
thế mà chờ đợi cho tới khi nó có trở lại (tức lúc ghi
nhận được). Bắt gặp nó rồi, ta bình thản nhìn ngắm như
không có gì xảy ra.
Ðiều
cần nhất là trong lúc thiền định về hơi thở, ta phải
biết vô can trong sự mất còn của nó. Ðiều này có nghĩa
là cứ để mặc nó tự đến và đi theo nhịp sinh diễn tự
nhiên, rồi khách quan nhìn ngắm mà không hề can dự vào bất
cứ một nỗ lực nào mang tính điều hành. Hơi thở luôn bất
thường, lúc mau lúc chậm, khi nặng nề, khi nhẹ nhàng... Những
sai biệt đó không có ý nghĩa gì hết, ta chỉ việc nhìn ngắm
mà vô phân biệt.
Bạn
đang trong giờ thiền định và một âm thanh nào đó thình
lình vọng tới ư? Hãy đơn giản ghi nhận rằng "đang nghe".
Tỉnh thức trong cảm nghiệm về thực tại âm thanh đó thôi,
đừng kéo theo một giây mơ rể má nào về điểm xuất phát
của âm thanh đó. Bởi nếu không như vậy, nội tâm bạn sẽ
là một mớ bòng bong rất khó dàn xếp. Hãy cảnh giác và
ghi nhận âm thanh đó chỉ là một tiếng động. Ở đây ta
phải đặc biệt đề phòng những khái niệm tập quán "Còi
xe, tiếng người, tiếng gió... ". Ở đây chúng ta chỉ cần
tới một cảm nghiệm trực quan: nghe là nghe, tiếng động
là tiếng động.
Tự
dùng trí tuệ khu biệt được hai thái độ cảm nhận thực
tại này rồi, ta tiếp tục tỉnh thức nhìn ngắm chúng cho
đến khi chúng không còn sức ảnh hưởng nữa, ta quay lại
với hơi thở của mình.
Thường
thì các tạp âm chỉ có thể nhiễu động một trình độ
tỉnh thức non kém. Chỉ cần một khả năng nội tỉnh nhất
định nào đó, chúng sẽ không đủ chi phối cảm nghiệm của
ta về thực tại hơi thở. Nhờ vậy ta bớt nhọc công và
đỡ mất thời gian. Chánh niệm ở đây vô cùng cần thiết:
nó trưởng dưỡng sự tĩnh thức và định tâm. Ðể khắc
chế một phút giây quên mình vì một phóng tâm nào đó, ta
chỉ việc nhận diện nó "phóng tán ư?", mọi sự sẽ ổn
ngay. Và hơi thở tiếp tục là một thực tại cảm nghiệm.
Những quấy rầy phiền phức cho công phu thiền định của
ta không chỉ đi đến từ bên ngoài, mà còn là những réo
gọi đáng ngại từ trong nội thân và biện pháp xử lý chúng
cũng giống như ở trường hợp giải quyết các nhiễu động
ngoại lai. Nghĩa là hành giả vẫn cứ tỉnh thức, khách quan
nhìn ngắm chúng một cách đơn giản: trực cảm tất cả thực
tại hiện hữu theo từng đơn tử riêng lẻ. Nó ra sao thì
chỉ ghi nhận như vậy, không tô lục chuốt hồng hay bôi tro
trét trấu nó bằng một thành kiến tốt xấu nào hết.
Thật
khó mà tìm được một chữ khả dĩ lý tưởng để định
nghĩa danh từ "cảm nghiệm". Nhưng chẳng sao hết, ta cứ tạm
thời định danh, gọi tên cho nó là cái biết của cảm giác,
nhưng ở đây là một cảm giác hoàn toàn khách quan.
Thái
độ tỉnh thức hay tỉnh giác cực kỳ quan trọng. Nó giúp
ta trực cảm chính xác thực tại, ở đây chỉ cho các đối
tượng sở tri tâm vật lý, để có thể tri nhận trọn vẹn
những xúc cảm đối với những gì xảy đến mà mình nhận
diện được. Chẳng hạn trong cơn đau lưng hay nhức gối,
ta có thể thấy như ở bộ phận thân thể đó như bị đốt
nóng. Hãy chỉ ghi nhận các cảm giác nóng đó thôi, mà vứt
hết đi những "lưng, gối của tôi". Bạn nhìn nhắm nó một
cách tinh tường và đôi khi cảm giác đó cũng được chấm
dứt.
Khi
mọi nhiễu động qua rồi, ta lập tức trở lại với đề
mục hơi thở. Hãy giữ quân bình, thăng bằng nội tâm với
một sự thư thái, nhẹ nhàng, một thái độ giao hòa hết
mình trong từng phút giây hiện tại thực hữu, tỉnh thức
và tinh xác.
Nãy
giờ là những cảnh báo về các nhiễu động thiền định
từ ngoại giới sang nội thân sinh lý. Ðến đây chúng ta lại
còn phải chú ý những nhiễu động ma chướng ngay trong chính
nội tâm.
Người
hành giả thiền định nên luôn quan tâm đến những phản
ứng nội tại vốn không cần thiết, thậm chí rất nguy hiểm
trong lòng mình, đó là những ghét thương, bận bịu, sợ hãi...
và như đã nói hàng trăm lần ở các chương khác, ta cứ nhìn
ngắm chúng một cách tỉnh thức, trung thực. Kể cả đối
với những niềm vui mà mình muốn giữ lại mãi cũng thế.
Hãy
nhớ rằng đừng bao giờ để tâm đi tìm một đối tượng
sở tri nào ngoài ra hơi thở nếu ta đang lấy hơi thở làm
thực tại để tri nhận. Chỉ khi nào chúng tự đến thì ta
mới nhìn ngắm, dĩ nhiên vẫn bằng sự cảm nghiệm giống
như đối với hơi thở. Ðại khái, ta dành hết thời gian
và công phu cho hai tiếng hiện tại. Bất cứ một suy nghĩ
nào vừa có mặt cũng phải được ghi nhận khách quan hết.
Ðối mục với một bức tranh, hoặc tình cờ nghe được một
tiếng động, hãy đơn giản cảm nghiệm bằng thực tại "thấy"
hay "nghe" mà thôi. Cứ thế mà thiền định, đừng đợi chờ
nghe ngóng bất cứ một đối tượng ngoại tại nào cả. Nhiều
khi có nhiều nhiễu động ngoại giới gần như đến cùng
một lúc, thì khi đó ta hãy cố gắng nhìn thẳng vào hơi thở,
xem nó như một chiếc mỏ neo cho chiếc thuyền nội tâm của
mình giữa những ba đào ngoại cảnh. Sở dĩ hơi thở thường
được chọn làm đề mục tiên khởi cho thiền định vì nó
thường trực có mặt trong mọi không gian, thời gian và tất
cả tình huống. Nhắm vào nó cũng có nghĩa là ta luôn có dịp
cảm nghiệm thực tại, bởi nó có lúc nào lại không gắn
bó với các vận động tâm sinh lý khác, nếu ta chịu để
ý nhìn ngắm. Chỉ cần ghi nhận được hơi thở là ta đã
có đủ cơ hội để cảm nghiệm mọi thực tại xảy đến
cho mình trong từng hơi thở.
Có
thể nói rằng bất cứ một đối tượng tâm vật lý nào
xảy đến một cách nổi bật trong phạm vi không gian mà ta
có thể cảm nghiệm được, đều khả dĩ trở thành điểm
nhìn ngắm cho ta. Nếu ta thiếu tỉnh thức thì chúng ta rất
có thể sẽ thành ra một màng lọc trung gian và vô thức cho
những cảm nghiệm của ta về thực tại xuyên qua màng lọc
xúc cảm đặc biệt này. Rơi vào tình huống này, coi như noi
tâm chúng ta tự bị tấn công, khuynh đảo, phân hóa qua khái
niệm buồn vui tiêu cực, những nóng giận và sợ hãi, đầu
tư và thất vọng... Trong khi chỉ với một sự tỉnh thức
và tri nhận đúng mức thì chúng ta có thể thấu thị tất
cả thực tại một cách an nhiên, độc lập tự tại. Bởi
tất cả những chuỗi tư tưởng và cảm giác luôn vô thường
trong từng chớp mắt. Ở chúng không hề có một cái tôi,
của tôi. Chúng tự đến rồi tự đi. Ta thẩm thấu chúng
rồi quay về với hơi thở hoặc các xúc cảm đương tại.
Ngoài
ra, hành giả nên luôn cảnh trọng đối với năm triền cái,
tức những trở lực tinh thần có phương hại cho thiền định:
tham dục, sân hận, hôn thụy (dã dượi, buồn ngủ), phóng
dật và nghi hoặc. Chúng luôn tiềm tàng, sinh sôi và sẳn sàng
chi phối nội tâm chúng ta. Hãy nổ lực nhận diện những
trở lực này, càng tích cực và mau chóng thì càng tốt, để
kìm hãm sức tác động và sự tồn tại của chúng.
Trong
công phu chú niệm để tri nhận các thực tại tâm vật lý,
thái độ tỉnh thức và cách nhìn tinh tế chiếm một vị
trí rất quan trọng với ý nghĩa giúp ta tự tại và cẩn trọng
nhìn ngắm mọi sự. Thái độ tỉnh thức có vai trò của một
cái cửa để mở vào thế giới nội quán về từng vận động
của nội tâm. Tỉnh thức ở đây còn một tên gọi khác nữa,
đó là sự chuyên tâm thực hiện mọi vận hành của thực
tại một cách khít khao gắn bó.
Xác
thân của chúng ta thực ra không thể vận động nếu không
có được những trợ lực nhất định nào đó. Cho nên trước
khi bắt đầu có một vận động lớn nhỏ nào của cơ thể,
người hành giả phải nhanh chóng kịp thời tri nhận những
cơ năng nào thúc đẩy chúng. Bởi trước những vận động
sinh lý đó đều luôn có một sự chuẩn bị của tư tưởng,
mà sự chuẩn bị này rất vi tế không dễ gì nắm bắt được
để ta có thể nhìn ngắm chúng một cách rõ ràng và trọn
vẹn. Trước hết sự chuyên tâm ở đây có thể tạm thời
ngưng đọng, trong một phút giây thôi, một thời gian vừa
đủ để ta biết mình muốn làm gì. Sự chuyên tâm đó còn
có ý nghĩa là một kiểu thư giản nghỉ ngơi để giúp cho
công phu nhìn ngắm thực tại trở nên hữu hiệu hơn.
Cái
vấn đề quan trọng ở đây chính là việc khởi sự tỉnh
thức đối với mỗi giây phút khởi sự tỉnh thức đối
với mỗi giây phút chuyên tâm, tức là sự tỉnh thức đối
với chính sự tỉnh thức. Ðiều này có nhiều lý do. Thứ
nhất sự tỉnh thức luôn có nhiệm vụ phơi mở mối tương
quan nhân quả giữa nội tâm với tâm thân sinh lý của chúng
ta, mà qui luật nhân quả luôn là một qui luật căn bản để
người hành giả theo đó mà tiến đạt lên một trình độ
trí tuệ sâu sắc. Những vận động của tâm lý xem ra có
vẻ rối rắm, hỗn độn, nhưng thật ra chúng luôn sinh diễn
một cách rất hệ thống, mà một trong những qui luật điều
hành sự vận động đó chính là qui luật nhân quả, tức
mối liên quan bất biến giữa lực tác động và hệ quả
phản ứng. Sở hữu được khả năng nội quán này, coi như
ta đã có thể nhìn ngắm tận tường các hình thái hoạt động
của thực tại. Bởi vì có sự trợ lực của một chuẩn
bị tâm lý, tấm thân này mới có thể vận động, mà sự
chuẩn bị đó chính là nhân tác động, còn những vận động
kia lại là hệ quả phản ứng. Càng đối diện thực tại
bằng thái độ cảm nghiệm đó của tự thân thì mọi sự
sẽ càng hiển hiện rõ ràng hơn nhiều. Công phu ghi nhận khuynh
hướng vận động của nội tâm còn giúp ta cái nhìn thấu
trị bản chất vô ngã trong toàn bộ qui trình sinh diễn của
thân tâm. Ðiều này rất quan trọng: bởi nhiều khi đáng chuyên
tâm ngắm nhìn các thực tại, bất luận thuộc tâm vật lý
nội tại hay ngoại giới, chúng ta vừa xem chúng là những
bọt nước phù du mà cũng vừa âm thầm nuôi dưỡng một ảo
tượng về cái tôi, một chủ thể điều hành cái thực tại
.
Cho
nên một yêu cầu tối trọng ở đây là chúng ta phải luôn
thấy được cái bất khả của ý niệm Tôi, Của Tôi ngay
trên chính những thực tại mà chúng vẫn luôn luôn sanh diệt
như chúng ta cũng đã nhìn thấy, để vất bỏ đi những ý
hướng đồng hóa hợp nhất bản thân mình với chúng. Ðại
khái người hành giả phải có bổn phận từng bước nâng
cao trình độ cảm nghiệm của mình đối với toàn bộ những
qui trình vận động, hiện hữu hết sức phức tạp của các
thực tại bằng một trí tuệ sâu sắc về tính vô nghĩa của
chúng.
Trong
công phu thiền định, đặc biệt ở đây là đang nói về
vấn đề hơi thở, người hành giả phải luôn biết vô tư
trong từng phút giây: khách quan nhìn ngắm từng hơi thở vốn
tự đến, tự đi. Ðối với hơi thở nói riêng và tất cả
những vận động tâm sinh lý nói chung, ta tuyệt đối không
nên can dự vào chúng bằng bất cứ một nổ lực lớn nhỏ
nào. Cứ sống hết mình với từng phút giây hiện tại bằng
một sự trực diện cẩn trọng và tinh xác đối với từng
hơi thở cùng những gì thực sự có mối tương quan mang tính
thực tại với nó. Ðừng bao giờ đặt thành vấn đề cái
hình thù thể cách, tư thức, qui mô... của tất cả thực
tại một cách vô ích. Bởi trong thiền định hoàn toàn không
cần đến một cái danh mục nào cả về các thực tại. Chúng
ta chỉ việc phơi mở nội tâm rồi thận trọng nhìn ngắm
hiện tại là thực tại, nó là nó. Cứ thế, xem ra những
gì phải làm của một hành giả tu thiền hơi thở, kể cả
một thiền sinh chân ướt chân ráo, cũng đâu có chi là nhiều
quá khó khăn.
Ở
đây tôi muốn nhắc lại một điều là nếu như trong khi đang
theo dõi hơi thở mà đột nhiên có vẻ biến mất thì người
hành giả vẫn cứ tiếp tục giữ yên chánh niệm và vào lúc
này, thì hướng tâm chú ý đến một điểm xúc giác khác
trên thân mình rồi cũng ghi nhận nó như là một thực tại:
"Ðụng! Ðụng!". Hoặc những khi có một đối tượng tâm
vật lý nào đó xảy đến với một sức ảnh hưởng và réo
gọi chánh niệm của ta mạnh hơn thực tại hơi thở lúc đó
thì ta cứ tự nhiên đón nhận chúng, vẫn bằng một trí tuệ
tỉnh thức như đối với hơi thở. Nghĩa là vẫn nhìn ngắm
chúng một cách tinh tường chi tiết.
Phần
thưởng quí giá cho người hành giả là khi nào trình độ
tỉnh thức của ta càng vững mạnh bao nhiêu thì thực tại
nó cũng lộ diện rõ ràng bấy nhiêu. Hãy ghi nhận thực tại
bằng thái độ đón chào nghiêm túc: nhìn ngắm chúng thật
kỹ lưỡng, khách quan và đơn giản. Nãy giờ là những thực
tại ngoại lai, giàn xếp chúng xong, ta nhớ đừng bỏ quên
hơi thở, một nội tại căn bản mà mình đã chọn .
Nói
chung, người hành giả phải luôn biết tỉnh thức, cảnh phòng
đối với tất cả thực tại đến từ mọi giác quan rồi
thu gọn tất cả chúng lại vào một phút giây hiện tại:
chúng ra sao thì thấy như vậy và trước sau gì ta cũng phải
nhớ quay về với đề mục hơi thở vào bất cứ phút giây
nào mình có thể quay về.
Còn
có một vấn đề mà tôi muốn nhắc đi nhắc lại hàng ngàn
lần nữa, là đừng bao giờ cố tình tìm kiếm những đề
tài (đối tượng) nằm ngoài đề mục chính của mình. Bởi
mọi thứ luôn tự đến rồi tự đi, và dù chúng ta không
có những nổ lực đó, luôn có hằng hà sa số những vấn
đề tâm vật lý vẫn sẳng sàng chực chờ nhiễu động sự
tỉnh thức của ta trong thực tại hiện hữu. Do đó ta không
cần thiết phải đi tìm kiếm chọn lựa, phân biệt đối
tượng nào ngoài hơi thở, mà chỉ việc chuyên tâm đứng
ngay lối vào của sự kiểm nghiệm rồi nhìn ngắm từng thứ
ra vào trong mỗi phút giây hiện tại.
Hành
giả cần đặc biệt lưu tâm với những đối tượng tâm
lý. Chúng là những hình thái ý thức cực kỳ tế vi không
dễ gì nhận diện một cách rõ ràng. Cho nên, nếu không thể
nhìn ngắm chúng một cách trọn vẹn như đối với đối tượng
sinh vật lý thì trong trường hợp này, ta chỉ việc chuyên
tâm trực diện vào một vấn đề chính yếu thôi, đó là
sự đến và đi của chúng.
Những
tâm thái mang tính cách nhiễu động đó, rồi cũng sẽ qua
đi, để ta có thể trở lại với đề chính là hơi thở.
Bất cứ khi nào tự nhận ra là nội tâm mình đang bị phóng
tán, loạn động thì ta cứ việc dồn hết tâm lực để chú
niệm vào hơi thở với một sự cảnh giác thường trực đối
với những ngoại cảnh vốn luôn sẳn sàng quấy rầy chánh
niệm của chúng ta. Chúng xuất hiện thì ta ghi nhận đã đành,
mà ngay khi cả chúng biến mất ta cũng phải biết tới. Nói
chung, điều nhắn gởi sau cùng của tôi cho các hành giả là
phải từng phút tỉnh thức, cảnh phòng đối với từng thực
tại trong mỗi phút giây.
J.G