|
.
THIỀN
HỌC NAM TRUYỀN
Giác
Nguyên dịch Việt, 1996
|
|
Chương
14
Con
đường Lợi tha
Một
trong những vấn đề quan trọng nhất trên con đường tu tập
của chúng ta đó chính là làm thế nào để có được những
hành động đóng góp hữu hiệu và thích đáng đối với thế
giới chung quanh bằng một lý tưởng sống đặt cơ sở trên
trí tuệ thiền định: vô cầu, vô chấp cùng với một trí
tuệ thấu suốt bản chất rỗng tuếch của vạn hữu. Ở
đây chúng ta cần phải có một câu hỏi rằng có sự khác
biệt nào giữa những tâm hồn vẫn dấn thân cô độc trên
con đường giải thoát.
Ðể
trả lời câu hỏi này, trước hết, chúng ta cần phải biết
qua bài học về Bốn Pháp Phạm Trú (tức bốn pháp Tứ vô
lượng tâm): Từ, Bi, Hỷ, Xả, cùng những hình thái đối
lập chúng, mà gọi theo từ chuyên môn trong Kinh điển thì
là "Những kẻ thù gián tiếp". Những hình thái ý thức mang
tính đối lập này xem ra có vẽ gần gũi với các pháp Phạm
trú tương ứng và có thể nói rằng giữa cả hai có một
giới tuyến rất khó khu biệt. Ngay bây giờ chúng ta hãy bắt
đầu đi thẳng vào từng vấn đề một.
Kẻ
thù gián tiếp lòng Từ là sự ái luyến. Về hình thức, sự
ái luyến rất dễ khiến ta nhầm lẫn nó với Từ tâm. Khi
ta nói: "Tôi sẽ yêu em nếu em yêu lại tôi", thì đó chính
là lòng ái luyến, hoặc nếu là lòng Từ thì đó cũng chỉ
là thứ lòng Từ mang tính đổi chác, bán buôn. Hay đại loại
những suy nghĩ: "Tôi sẽ thương hắn cho đến khi nào hắn
vẫn như bây giờ; tôi sẽ thương cô ta nếu như cô ta có
được những cái tôi thích;... " Tất cả những suy nghĩ như
vậy hoàn toàn không hề là Từ tâm, mà chỉ là lòng ái luyến.
Thực ra giữa Từ tâm với lòng ái luyến có một sự khác
biệt rất lớn: một bên là bao gồm tính vị tha, tôn trọng
và hiểu biết, còn một bên là sự chấp thủ, đòi hỏi và
vụ lợi, hay ít nhất cũng là một ý đồ toan tính nào đó.
Một khi chúng ta bị nhầm lẩn Từ tâm với sự ái luyến
thì mối quan hệ giữa chúng ta với mọi người chung quanh
tự nhiên sẽ có một khoảng cách, bởi vì cái gọi là tình
thương của chúng ta đối với tha nhân lúc này rất có thể
bất đồng mang ý nghĩa vụ lợi. Và cái gọi là lòng Từ
đó bây giờ tuyệt đối còn không đáng được gọi là Từ
Vô Lượng tâm nữa rồi bởi đối tượng của nó chỉ dành
riêng cho một số người mà thôi.
Một
lòng Từ thật sự phải là thứ tình thương bao la, không phân
biệt với một khả năng giao hòa ở khắp mọi đối tượng,
không bị lệ thuộc và giới hạn bất cứ một điều kiện
gì. Trong tinh thần Từ tâm đó chúng ta có thể bao dung cho
tất cả những người mà trước đây mình chưa hề có thiện
cảm. Chúng ta có thể không song hành, cộng tác hay chung sống
với họ nhưng hãy tự học hỏi cách tha thứ cho họ. Một
lòng Từ thực sự và đúng mức có thể trở thành một điều
kiện tối ưu để ta hoán chuyển mọi tình huống. Từ tâm
không hề mang ý nghĩa một sự đồng tình mang tính thụ động.
Nó phải là một sức mạnh năng động và trong cuộc tu của
mỗi người nó là một sự cãm nghiệm hướng đạo. Trong
Thánh kinh Tân ước và cả Meher Baba cũng đều nói rằng một
tình thương thật sự không bao giờ bị chiến bại và khuất
phục. Ðại ý của câu nói đó có ý nghĩa rằng một tình
thương có đủ những chi tiết như vừa nói trên thì không
một trở lực có thể làm rào cản ảnh hưởng đến nó đuợc.
Thậm chí một tình thương thật sự luôn đủ là câu trả
lời cho mọi vấn đề. Ðó là một quy luật quan trọng và
cũng là một bài học tâm linh mà mỗi người chúng ta phải
thuộc nằm lòng. Chính Ðức Phật cũng đã dạy: "Thù hận
không thể được chấm dứt bằng thù hận mà chỉ có thể
bằng tình thương thôi".
Kẻ
thù gián tiếp của Bi Tâm chính là lòng thương hại tiêu cực,
một kiểu bi lụy hay xúc động nữ tính. Thay vì là một thái
độ trắc ẩn, xót thương của một tấm lòng phơi mở, người
có thói quen mềm lòng bi lụy lại còn có thêm những phản
ứng yếu đuối dưới một hình thức biểu hiện nào đó.
Mà thái độ bi lụy kiểu này thì quả thật không cần thiết
trước những đau khổ của tha nhân. Nó chỉ làm khoảng cách
giữa ta với người mỗi lúc một lớn rộng thêm thôi. Có
nghĩa rằng chúng ta vẫn chỉ là một khán giả xa lạ trước
nỗi đau của người khác. Ở đây, với một định nghĩa
chín chắn hơn, Bi tâm là sự cảm thông trọn vẹn và đầy
hiểu biết trước một hình ảnh thương tâm. Chúng ta bình
tĩnh san sẻ nỗi đau khổ của người với một sớt chia nhiều
ý nghĩa: Ta rất hiểu nỗi đau đó bởi nó cũng là cái giá
phải trả cho một kiếp người và chính ta, trong cuộc đời
mình, dĩ nhiên cũng luôn sẵn sàng nếm trải nó!
Như
vậy Bi tâm là một lòng bất nhẫn hết sức đặc biệt bởi
đối tượng và tác động của nó không chỉ dành riêng cho
ai hết. Mà nét đặc biệt hơn nữa là Bi tâm hoàn toàn sẵn
sàng phơi mở trước mọi đối tượng cùng tình huống đã
đành, Bi tâm ở đây còn là một thái độ sẵn sàng dung chứa,
độ lượng, thậm chí chào đón tất cả khổ lụy trần gian
vào trái tim mình để nuôi lớn trí tuệ cảm thông!
Pháp
Phạm Trú thứ ba còn được gọi là Hỷ tâm, nhưng để rõ
nghĩa hơn, ta có thể gọi là Tùy Hỷ. Ðó là một tâm trạng
luôn sẵn sàng chung vui một cách chân thành trước những hạnh
phúc của người khác. Tâm thái có nguy cơ phương hại cho
Pháp Phạm trú này là tâm lý đố kỵ, so đo. Nó buộc ta có
những tự ti hay tự tôn khi nhìn về người khác. Và dĩ nhiên
trong môt tâm lý sống như vậy, coi như mối tương quan giữa
chúng ta với tha nhân đã có vấn đề, và điều có nghĩa
là ta cũng đã tự cô lập mình với cuộc đời chung quanh
rồi. Bởi chính bản chất của tâm trạng so mình với người
về những thành đạt hạnh phúc, một tâm nặng tính bản
năng, đã là cội nguồn cho biết bao nổi khổ tâm, cực lòng
của chúng ta. Thay vì một tấm lòng Tùy Hỷ thiệt thà, chúng
ta có thể tìm được vô vàn niềm vui có được từ sự san
sẻ và giao hòa với hạnh phúc của tất cả chúng sanh vì
ta đã học được cách lấy niềm vui của người làm niềm
vui cho mình, giao cảm với muôn loài và niềm hạnh phúc của
bất cứ ai cũng có thể mang lại cho ta nụ cười thật sự.
Cuối
cùng chúng ta lại nói về Pháp Phạm trú thứ tư, tức Xả
Phạm trú, một tâm thái an nhiên và điềm tĩnh không bị tác
động với một thứ tình cảm sôi động nào. Kẻ thù dấu
mặt, tức tâm trạng đối lập tinh vi đối với Pháp Phạm
trú này chính là thái độ vô tâm, thiếu trách nhiệm. Chúng
ta thường thấy ở nhiều người hoặc thậm chí ngay ở bản
thân mình vẫn luôn có thái độ tâm lý này, từ chính đời
sống cá nhân cho đến các mối quan hệ khác: gia đình, công
việc và xã hội. Thái độ thiếu trách nhiệm đó cứ liên
tục gây tạo ở chúng ta những nếp sống, nếp nghĩ, thì
ở với mọi sự, coi như tất cả chẳng dính dáng gì đến
mình. Suy cho cùng, đó là một thái độ sống trốn chạy,
tiêu cực và lười nhác. Trong khi một đời sống nội tâm
có ý nghĩa đích thực luôn đòi hỏi chúng ta một xung phong
năng động, tích cực và bản lĩnh dấn thân. Chúng ta thường
mắc phải một sai lầm khi cứ nghĩ rằng lối sống vô tâm
và thiếu trách nhiệm đó có thể mang lại cho mình một cảm
giác thanh thản, an bình cụ thể. Nhưng chúng ta có biết đâu
rằng một nếp sống bỏ ngỏ như vậy luôn có phương hại
và làm cách ly cảm nghiệm của chúng ta về thực tại, đồng
thời nó cũng làm vô hiệu hóa sức sống bản thân.
Một
tâm Xả phạm trú chín chắn không hề là môt thái độ trốn
chạy, mà ngược lại, là một khả năng phơi mở toàn bộ
nhân sinh quan của chúng ta. Xả phạm trú luôn có tác dụng
giàn xếp cuộc sống của chúng ta bằng một nguồn tâm lực
luôn được quân bình, cộng thêm một cái nhìn sáng suốt
về bản chất của tất cả vạn hữu. Dầu cho vạn vật trên
đời chỉ là những hình sương bóng khói nhưng ít ra, chúng
ta cũng phải cần đến một sinh phong hợp lý với tất cả
sự trân trọng. Ðạo Nguyên, là một thiền sư trứ danh của
Nhật Bản đã từng có câu nói hết sức thâm thúy: "Các đóa
hoa dù có rụng xuống thì đời vẫn thương chúng, còn cỏ
dại dù có xanh tốt đến mấy cũng chẳng có ai thương". Ðó
là thói đời, khi biết đem áp dụng Xả phạm trú vào chính
đời sống của mình, thì chúng ta có thể nhận hiểu được
một vấn đề sâu sắc rằng cái gọi là Thế Giới chẳng
qua chỉ là một tập hợp của những hiện tượng rỗng tuếch
và vẫn với trình độ trí tuệ đó, chúng ta sẽ sống hết
mình với thực tại bằng chính sự giao cảm trọn vẹn với
nó. Xả phạm trú là vòng tay bao dung có thể ôm trọn vạn
hữu một cách bình đẳng: thương và ghét chỉ là một, ở
đây không có gì là để ta đồng tình hay chống đối một
cách nông nỗi, trẻ con - hạnh phúc và đau khổ,... tất cả
đều được xem là đồng trị.
Trở
lực của các Pháp Phạm trú cùng là con đường đưa ta đến
những âu lo, sợ hãi. Một đời sống tinh thần thực sự
có ý nghĩa thì không hề là một thái độ lánh mặt hay dấu
mình để được một mình đứng ngoài tất cả những biến
động của đời sống. Ðó phải là một nếp sống phơi mở
một cái nhìn thấu thị về thế giới xuyên qua bản chất
vô ngã của nó, một cái nhìn không phải vay mượn một lăng
kính cực đoan nào về bản chất sinh diệt tương tục của
cuộc đời. Giải thoát, theo dịnh nghĩa ở đây, là một cuộc
khám phá để tìm ra một bến bờ tự do ngay trong chính thế
giới tâm sinh lý của mỗi người. Một vị thiền sư, mới
đây thôi, trong một bài giảng về tinh thần hòa ái, giao cảm
của thiền định Phật Giáo, đã giải thích vấn đề bằng
một hình ảnh hết sức đơn giản nhưng thú vị: ông đưa
hai bàn tay mình lên và tạm thời nói với các thính giả rằng
trước mặt mọi người bây giờ đã có thêm hai người nữa.
Ông gọi bàn tay phải của mình là chàng Gertrude còn bàn tay
trái là chàng Harry. Rồi ông tự thực hiện một cuộc đối
thoại giữa hai "diễn viên" tưởng tượng đó về những sở
thích khác biệt nhau của hai người. Toàn thể thính giả cười
ầm lên. Vị thiền sư vẫn điềm nhiên: Chúng ta là như vậy
đó. Ai cũng chỉ là những diễn viên trên sân khấu cuộc
đời này thôi, và quên hết những người khác!
Thái
độ sống tách mình, ích kỷ, luôn là cội nguồn cho tất
cả buồn đau trên thế giới này. Ðể có thể thực hiện
một đời sống tâm linh lý tưởng ta phải học được cách
chấp nhận cho tất cả bề trái của đời sống và mang hết
những biến động của cuộc đời vào cả trái tim mình bằng
một tâm hồn bao dung vời vợi. Có được một sinh phong trọn
vẹn như vậy, chúng ta đương nhiên trở thành một vị Bồ
Tát, một con người thiết tha với lý tưởng giải thoát cho
mình và cho đời. Suzuki-roshi cũng đã từng nói: "cho dù mặt
trời có mọc lên từ hướng tây, thì lý tưởng của một
vị Bồ Tát cũng không vì vậy mà thay đổi". Quả đúng như
thế, dầu có phải đối đầu với những tình huống tệ
hại nhất, dầu cho trời đất vũ trụ có cùng lúc đổi thay
đến mức nào đi nữa thì một vị Bồ Tát thật sự vẫn
không hề thay đổi con đường của mình: con đường của
từ bi và trí tuệ.
Lần
đó, ở Ấn Ðộ, tôi đã trao đổi với một vị thiền sư
bản xứ, Vimala-thakar, về vấn đề Thiền Ðịnh cùng các
biến động trên thế giới. Vimala trong nhiều năm trời liên
tục đã từng làm việc chung với các đồ đệ của thánh
Gandhi trong các tổ chức tái thiết Ấn Ðộ và đồng thời
bà cũng có một thời gian dài học hỏi Thiền Ðịnh với
Krishnamurti. Thế rồi sau những năm tháng làm thiền sư, bà
lại quay sang các công tác từ thiện xã hội, dành nhiều thời
gian cho công việc này hơn cả công việc của một thiền sư.
Tôi hỏi bà tại sao bà lại thay đổi nếp sống như vậy,
một nếp sống mà bà đã bỏ ra quá nhiều thời giờ để
đầu tư, có phải bà đã thấy rằng thiền định chỉ là
một lý tưởng sống chật hẹp, mơ hồ, khiến bà tìm đến
một hướng sống khác cụ thể hơn. Trong câu trả lời cho
tôi, bà Vimala một mực khẳng định rằng: Ðối với bà,
trước sau chỉ có một nếp sống mà thôi. Bà nói:
--
Tôi luôn yêu thương cuộc đời và nếu cần cũng có thể
nói tôi là một tình nhân của đời sống. Tôi không thể
tách mình ra khỏi bất cứ hoạt động lợi sinh nào. Tôi muốn
mình luôn đáp ứng những gì cuộc đời cần đến: Ai đói
thì tôi cho họ ăn, còn ai khao khát chân lý thì tôi sẽ giúp
họ khám phá ra nó. Như vậy lý tưởng sống của tôi trước
sau vẫn chỉ là một phải không, thưa ông?
Sufis
cũng đã nói rằng: "Hãy tán tụng đấng Allah rồi mới bắt
đầu làm việc". Cuộc tu của chúng ta gồm có hai phần: Những
công phu mang tính hình thức hoặc những công phu mang tính tự
lợi và bên cạnh đó phải là những phụng sự cho tha nhân
dù ở bất cứ hình thức nào. Hãy có một nếp sống Thiền
Ðịnh, một cảm nghiệm tâm linh chính chắn nhưng đồng thời
ta cũng phải tự biết tranh thủ thể hiện lý tưởng sống
đó qua những hoạt động điển hình. Một nhận thức đúng
đắn luôn có tác dụng làm quân bình trí tuệ về quy luật
với khả năng yêu thương tất cả Hiện Tượng Sống. Trí
tuệ về Vô Ngã là khả năng đánh giá bản chất của đời
sống như những bọt nước trên một dòng chảy, sự tồn
tại tương đối và đắp đổi của ánh sáng với bóng tối,
một giấc mơ hão huyền không thực. Trí tuệ đó dạy ta thấy
được tia sáng bé nhỏ của một vì sao trong một không gian
bao la vời vợi với vô vàn thiên thể và ngân hà, nó dạy
cho ta hiểu rằng kiếp người chỉ là một phút giây ngắn
ngủi so với tuổi thọ của địa cầu. Với nhãn quan này,
chúng ta có thể vất đi những gánh nặng tâm lý của bản
thân, mà nó theo Don Juan thì đó là một khám phá kỳ thú giúp
ta tự có được một bản lãnh dấn thân vào cuộc đời với
tất cả sự nhẹ nhàng và thanh thản nhất.
Nói
một cách khác, tiêu điểm lý tưởng của Thiền Ðịnh về
lý Vô Ngã là buộc ta biết nhận chân giá trị thật sự của
đời sống, cho dù nó có ngắn ngủi đến mấy đi nữa; và
bằng vào trí tuệ của bản thân, ta phải hiểu được một
cách sâu sắc sức tác động của từng sinh hoạt và ngôn
ngữ của mình đối với vạn loài. Trong vũ trụ này, thực
ra, không có một thứ gì là vô nghĩa hay vô nghiệm cả, cho
nên trong mọi hướng hành động, chúng ta phải luôn nghiêm
cẩn đồng thời trân trọng nhân cách hóa tất cả những
gì mà xưa nay hầu như ai cũng xem thường hoặc lãng quên...
Ðiều đó đi ra từ một nguyên do rất dễ hiểu là không
mấy người biết quan tâm đến một sự thật hết sức hiển
nhiên: Bất cứ cái gì tồn tại đều luôn có một sức sống,
mà mọi sức sống đều cần phải được trân quý.
Chúng
ta có thể hình dung ra vấn đề này rõ ràng hơn qua hình ảnh
một hành giả ẩn cư trong một sơn động xa khuất nào đó.
Dầu đã cách ngăn với cuộc đời tục lụy nhưng giữa vị
hành giả với sơn động kia vẫn có một mối giao hòa nhất
định. Ðại khái con người nói riêng và vạn vật nói chung
tuyệt đối không thể hoàn toàn cách ly và phủ nhận nhau
được.
Một
vấn đề hết sức quan trọng ở đây là làm thế nào đó
để chúng ta cùng lúc kết hợp nhuần nhuyễn một tâm hồn
biết yêu thương với trí tuệ Thiền Ðịnh về bản chất
phù du, vô ngã của đời sống. Nếu chỉ có được một trong
hai thì xem như ta đã rơi vào một cực đoan. Mà điều ác
nghiệt là một chọn lựa vào trong hai lý tưởng này cũng
đều có vẻ hợp lý và đầy tính thuyết phục cả. Ðể
giải quyết vấn đề nan giải đó, ta hãy tìm đến một nhãn
trường khách quan và từ một góc độ thích hợp để có
thể rõ toàn bộ cục diện của vấn đề: Có phải thế giới
hôm nay có thể được giàn xếp ổn thỏa một cách đơn giản
bằng những thuốc men, máy móc, nhà ở và thực phẩm hay không?
Dĩ nhiên là không. Bởi vì mọi vấn đề chỉ có thể giải
quyết bằng một biện pháp tối ưu nào đó mà thôi: Thực
phẩm chỉ giải quyết được nạn đói, thuốc men chỉ giải
quyết được vấn đề bệnh tật... mà cội nguồn thật sự
cho tất cả khổ lụy trên thế giới, vốn không chỉ bị
khai sinh từ các tác động vật chất. Bất cứ khi nào nhân
loại còn bị ám ảnh bởi những tâm lý xuẩn động, thành
kiến và sợ hãi vớ vẫn thì tất cả các khổ lụy vẫn
tiếp tục có mặt.
Từ
những tình cảm thiên lệch và mê muội, chúng ta chỉ sống
với mỗi một lý tưởng thấp kém là đầu tư tất cả phương
tiện vật chất. Bằng vào ảo tượng về khái niệm biên
giới quốc gia, con người đã liên tục gây nên những cuộc
chiến tranh đẫm máu, để rồi xem nhau như những kẻ thù
xa lạ ngay trên chính một địa cầu mà tất cả đang sinh
sống với nhau. Mặc dầu việc cải thiện những cơ chế chính
trị và kinh tế là một vấn đề quan trọng nhưng nếu chỉ
riêng chừng đó thì những nỗ lực, kể cả bằng thiện chí,
vẫn chưa đủ là những biện pháp tối ưu bởi vì cội nguồn
thật sự của tất cả những vấn đề rắc rối trên thế
giới như chiến tranh hay đói kém còn có một phần căn cội
cơ bản nằm ngay trong chính tâm hồn của mỗi người. Ta có
thể nói rằng trên thế giới hôm nay nhu cầu về dầu hỏa
xem ra vẫn không nghiêm trọng, mà ngược lại nhân loại đang
cần đến rất nhiều giá trị tâm linh mang tính sinh tồn.
Ðó là một trái tim biết yêu thương, một tâm hồn hào sảng
một khả năng hy sinh và trên hết, chính là những hiểu biết
đúng đắn. Từ đó, công việc tối trọng của chúng ta là
những nỗ lực tự tu và tiếp dẫn người khác vượt thoát
được tầm tác động của những ham muốn và sợ hãi. Việc
này ngoài ý nghĩa tự độ, còn nhắm vào ý nghĩa dàn xếp,
cứu chuộc nhân loại một cách hữu hiệu. Nhưng nếu chúng
ta không thực hiện được điều đó thì ta có thể mong đợi
được người khác hay không? Sự tu dưỡng và hoán chuyển
nội tâm mình là bổn phận quan trọng nhất trong đời sống
chúng ta. Từ cách nhìn này, rõ ràng là đời sống hướng
đến sự thăng hoa tâm linh không hề dành riêng cho bất cứ
ai hết. Nó chính là phản ứng tất yếu và cần thiết cho
đời sống của mỗi người.
Như
đã nói, tình thương lợi tha và trí tuệ Vô Ngã nếu không
được kết hợp một cách đúng mức thì ta sẽ dễ dàng đưa
đến một cực đoan. Chúng ta phải có một lần nào đó tận
mắt chứng kiến những thảm cảnh ở Campuchia, những cuộc
bạo động ở Trung Mỹ, những cuộc đói kém ở Trung Phi,
mới có dịp thấy rằng hầu hết những đau khổ đó đều
nảy sinh ra từ những đầu óc mù quáng, mê muội. Chỉ riêng
tại Ấn Ðộ, đã có đến 360 triệu người thường xuyên
thiếu ăn, mỗi ngày chỉ làm việc vừa đủ để để kiếm
được một bữa ăn. Tại Calcutta, tôi đã từng gặp một
ông lão 64 tuổi chyên sống bằng nghề kéo xe và đó là nghề
nghiệp duy nhất của ông trong suốt 40 năm trời để nuôi
mười miệng ăn trong nhà. Có lần ông bị ngã bịnh phải
nằm nhà mười hôm và chỉ trong một tuần lễ sau, cả gia
đình không còn lấy một đồng và phải nhịn đói. Chúng
ta có thể làm được gì trước những bi kịch này của xã
hội, trong khi mỗi ngày ta ta vẫn không ngừng đổ tiền vào
những đầu đạn hạt nhân? Thật là phi lý khi mỗi ngày trên
thế giới cứ mỗi phút có đến 40 em bé tắt thở vì thiếu
ăn, thì cùng lúc đó, cứ mỗi phút, người ta lại bỏ ra
khoảng 15 triệu đô la để chế tạo vũ khí. Khi các bạn
đang đọc những dòng này thì tình trạng đau xót trên đây
vẫn đang tiếp diễn!
Tính
cho đến hôm nay, trên thế giới đã có hàng trăm triệu người
đang bị chết đói và suy dinh dưỡng. Ðó là những gì vẫn
xảy ra hằng bữa cho một số đông đồng loại của chúng
ta. Họ có khác gì chúng ta đâu: Vẫn là những hình hài với
mắt, tai, mũi, họng và lục phủ ngũ tạng. Bên cạnh đó
cũng có hàng trăm triệu người khác nghèo khổ đến mức
áo quần tả tơi, thiếu thốn cùng cực, suốt đời chẳng
hề biết đến những thứ có thể che mưa đỡ nắng. Rồi
cũng có đến hàng trăm triệu người ngày đêm lăn lộn quằn
quại vì bịnh hoạn mà chẳng biết tìm đâu ra một viên thuốc
khả dĩ giúp họ tạm thời qua cơn. Hôm nay, và tại đây,
ngay trên chính hành tinh bé nhỏ này, những nỗi đau xé lòng
đó đã tìm được chỗ để đọa đày nhân loại chúng ta.
Rõ ràng là chúng ta phải có một phản ứng cần thiết nào
đó thôi. Chúng ta không có quyền xoay lưng ngoảnh mặt làm
ngơ trước mọi sự. Vì chúng ta là một con người.
Có
thể nói, việc chọn lựa một lý tưởng sống quả là một
điều nan giải. Chúng ta có chắc gì đời sống Thiền định
thuần chuyên lại là một con đường tối ưu cho chính mình?
Phương thức chọn lựa hướng đi cho mình ở đây tốt nhất
là đòi hỏi ở chúng ta một lần tự vấn để lắng nghe
câu trả lời chín chắn nhất của bản thân mình. Quá trình
tự vấn đó nhắm đến hai câu hỏi: Trước hết là thái
độ tâm lý của chúng ta đối với lý tưởng chọn lựa và
vấn đề thứ hai chính là khả năng bản thân của chúng ta.
Chúng ta có được khả năng gì và khả năng đó có thể giúp
được gì cho chính mình hoặc tha nhân?
Ta
hãy tự biết nhìn thẳng vào thực tế, không thông qua một
lề thói hay lập trường tín ngưỡng nào cả. Vấn đề ở
đây là đòi hỏi chúng ta một cái nhìn sâu sắc về tất
cả đau khổ vẫn đang tồn tại trên thế giới, về mối
quan hệ của cá nhân mình đối với cuộc đời chung quanh
để hiểu biết và cảm thông tất cả thay vì trốn chạy
một cách thiếu trách nhiệm. Nhưng đó chỉ mới là lý thuyết.
Những cuộc chiến tranh hạt nhân, những xáo trộn về môi
trường sinh thái, những thảm cảnh cửa nát nhà tan cũng như
có biết bao em bé vẫn đang sống bất hạnh, lạc loài trên
trái đất này... Tất cả đều xảy ra trước mắt ta hàng
ngày, ít nhất cũng là qua các phương tiện thông tin đại
chúng, nhưng chúng ta vẫn cứ cố làm như mắt mù tai điếc.
Hầu hết chúng ta đều khép chặt lại trái tim mình để khỏi
phải biết gì về những điều đó!
Hãy
tự biết phơi mở tất cả cảm nghiệm về thực tại, vì
đó là một yêu cầu hết sức quan trọng nếu chúng ta còn
muốn làm thăng hoa nội tâm mình, và tự chuyển hóa bản thân
ra một con người khác, không phải thứ người mù lòa và
thiếu trách nhiệm mà xưa nay mình vẫn thế. Ðiều này có
nghĩa là chúng ta phải biết nhìn vào thế giới này một cách
trực tiếp, cẩn trọng rồi nhìn lại chính mình để hiểu
thêm rằng tất cả khổ lụy không chỉ dành riêng cho những
đối tượng mà chúng ta vẫn đang vô tâm nhìn ngắm, mà chúng
còn luôn sẵn sàng có mặt ở ngay trong chính chúng ta nữa.
Như đã nói ở trước và như chúng ta đã biết, cội nguồn
của các đau khổ, nếu xét đến kỳ cùng thì chính là những
âu lo, toan tính, thành kiến, thương và ghét... mà trong tâm
hồn của chúng ta, tất cả những cái đó đều có đủ, cũng
chính là tất cả khổ lụy mà ta phải gánh chịu. Chúng ta
phải luôn biết bình tĩnh đối diện và đừng bao giờ lo
sợ để phải trốn chạy. Có phơi mở được bộ mặt thật
của tất cả khổ lụy, chúng ta mới may ra khám phá được
khả năng giao hòa và lắng nghe chính mình tự đáy lòng sâu
thẳm nhất.
Những
điều vừa nói nãy giờ đã chỉ ra cho ta cội nguồn khai sinh
ra tình thương, đồng thời cũng giúp ta chọn lựa một hướng
sống, một lý tưởng hoạt động khả dĩ chấp nhận được.
Việc xác định được hướng đời cho mình chính là chặng
đường thứ hai của cuộc tu, mặc dù xem ra nó đòi hỏi ở
chúng ta không ít thời gian. Chúng ta phải tự biết tận dụng
thời gian của mình một cách hữu hiệu để mỗi thời điểm
trở thành một quá trình sống: Từng phút giây đối đầu
với những khổ lụy và từng phút giây lắng nghe chính tự
lòng mình, một sự lắng nghe với sự can dự của tình thương
và trí tuệ. Một trong những khó khăn cho lý tưởng sống
này của chúng ta là với nhịp sống văn minh hiện đại, chúng
ta có quá ít thời gian để làm những việc đó. Chúng ta cứ
triền miên bị quấy nhiễu với biết bao vấn đề mà cuộc
sống thực tế buộc mình phải động não, phải lo toan. Nội
tâm của chúng ta thường xuyên bị lấp đầy bởi những phức
loạn, chúng ta tự đánh mất mình ngay từ trong tâm tưởng
và điều đó cũng có nghĩa là chúng ta đã không giữ lại
được mối giao hòa đối với nội tâm và bản chất thật
sự của mình.
Biết
dành ra thời gian để lắng nghe chính mình từ một chiều
sâu trung thực nhất, chúng ta sẽ cảm nhận được những
hướng dẫn cho cuộc hành trình mà mình sẽ phải di qua. Chẳng
hạn chỉ riêng con đường lợi tha cũng là một hướng sống
có nhiều lối thể hiện. Có một số người đã tự chọn
cho mình một nếp sống lợi sinh qua hình thức kín đáo và
cô độc như trường hợp các vị tu sĩ sống khép mình trong
tự viện hoặc các nhà ẩn sĩ ở núi cao rừng thẳm. Về
hình thức, rõ ràng là họ chỉ sống cho riêng mình nhưng thật
ra tinh thần trách nhiệm của họ đối với mọi người vẫn
luôn bao la và mãnh liệt. Mãi cho đến hôm nay, ở những những
vùng núi non thuộc dãy Hy mã lạp sơn (miền bắc Ấn Ðộ)
chúng ta vẫn có thể bắt gặp những con người như vậy.
Họ là những ẩn sĩ suốt đời sống dấu mình trong các sơn
động, âm thầm và cô đơn, nhưng đạo lực của họ vẫn
luôn có những tác động rất lớn đối với toàn thế giới
quanh mình. Hoặc một lý tưởng sống lợi tha khác là dành
trọn đời mình để sống cho tha nhân. Ðó là những mẫu
đời của Ðức Phật, Chúa Ky Tô,... một nếp sống hiến
mình, hy sinh cho tất cả mà không hề có một đòi hỏi hay
ước muốn riêng tư nào hết. Hoặc ta còn có biết bao hướng
sống lý tưởngkhác mà cũng vẫn thể hiện được lòng vị
tha, đó là những hoạt động xã hội một cách cụ thể như
cứu trợ thực phẩm, thuốc men, xây dựng bệnh xá. Thậm
chí lý tưởng sống vị tha còn có thể được thực hiện
bằng những hoạt động văn hóa, nhằm mục đích nâng cao
đời sống tinh thần của người khác. Ðại khái, có thể
nói mỗi người có một con đường riêng cho mình mà ta không
thể nào kể ra hết được. Có điều hãy nhớ rằng con đường
phát triển nội tâm hay nói ngắn gọn hơn là cuộc tu của
mỗi người đừng bao giờ là một bản mô phỏng bị động
và máy móc. Bởi cuộc tu hành của mỗi cá nhân hoàn toàn
không phải là những hình thức học đời thiếu tính tự
lập và tự lực. Chúng ta đâu có thể nào trong một sớm
một chiều lại có thể trở thành một Thánh Gandhi hay Ðức
Phật. Chúng ta phải là chính mình. Chúng ta phải tự khám
phá và tìm đến với chân lý. Ðể làm được điều đó,
chúng ta phải biết lắng nghe, học hỏi bằng tất cả khả
năng bản thân nhằm hướng đến tất cả sự thật và dĩ
nhiên những nỗ lực này của chúng ta luôn đòi hỏi một
niềm tự tin mãnh liệt.
Thực
ra ở mỗi người luôn có một niềm lực rất lớn nhưng nó
chỉ được hiển hiện và phát huy trong tâm hồn của những
người luôn biết hướng tới sự thấu suốt chân lý, sự
cảm nghiệm trọn vẹn về thực tại và đặc biệt phải
là một tâm hồn không bị ám ảnh nghiêm trọng bởi một
cái Tôi ảo tưởng. Chúng ta có thể khám phá ra khuôn mặt
trọn vẹn của mọi hiện hữu thông qua công phu Thiền Ðịnh
về chính sự tồn tại của chúng ngay trong bản thân và người
khác. Bằng một sự lắng nghe thật sự, các thực tại sẽ
trở nên rõ ràng trung thực hơn. Bất luận đó là một đối
tượng sở tri nội tại hay ngoại tại, tất cả đều là
một vấn đề quan trọng khả dĩ tác động đến toàn thế
giới, nếu chúng được nhận thức một cách chín chắn, nói
rõ hơn, nếu chúng được nhìn ngắm bằng một trí tuệ giác
ngộ thật sự.
Ðối
với hầu hết chúng ta, theo thời gian, công phu Thiền Ðịnh
thường được thực hiện qua hai trình độ. Trước hết,
chúng ta thường có khuynh hướng giàn xếp và đặt nặng công
phu thiền định của mình trong hình thức sống Thiền Ðịnh
hướng nội:Tìm đến với các Thiền Khóa và tư thế được
ưa thích nhất vẫn là cách ngồi tĩnh tọa, gát ngoài tai mọi
chuyện đời. Nhưng mọi sự đến đây vẫn chưa phải là
đã đủ. Sau nhiều năm tháng thiền định hướng nội như
vậy, tự nhiên chúng ta sẽ có thêm một trình độ trí tuệ
khác nữa, đó chính là những hiểu biết về thế giới ngoại
tại. Hay nói rõ hơn là hình thức Thiền Ðịnh của chúng
ta lúc này không còn bị hạn chế trong một điều kiện, tình
huống nào nữa: Ngồi yên lại một mình trong phòng vắng hay
đang có mặt trên một đường phố đông người, trí tuệ
tu tập của chúng ta vẫn luôn luôn được kiên định. Nhưng
cho đến lúc nào mới là thời điểm chúng ta vừa có thể
tự tu và cũng vừa có thể sống lợi tha? Chính kinh nghiệm
tâm linh của bản thân sẽ trả lời cho chúng ta câu hỏi đó.
Hoạt
động lợi tha trước tiên phải là một tấm lòng. Ở đây
muốn nói rằng nội dung quan trọng hơn hình thức. Thậm chí
có những người đã từng bỏ ra một thời gian dài để làm
cái công việc của một Thiền sư là hướng dẫn Thiền Ðịnh
cho người khác, nhưng có một số người trong đó họ chỉ
mới làm được một nửa công việc là hoạt động lợi tha
bằng cái miệng. Một số khác lại dành ra thời gian phục
vụ tha nhân bằng những con đường có ve cụ thể hơn như
y tá, hoặc người liệm xác,...
Cách
đây mấy năm, khi hàng ngàn người Campuchia bỏ xứ chạy sang
các trại tị nạn Thái Lan, chúng tôi lúc đó chẳng hiểu
sao, khi nghe tin, chỉ đến tận nơi nhìn họ rồi ra đi sau
một vài ngày lưu trú gần đó. Chúng tôi quen biết một vài
người và cũng biết vỏ vẻ được đôi ba câu đàm thoại
bằng tiếng bản ngữ với những người trong trại. Và chỉ
có chừng đó thôi bọn tôi chẳng hề giúp đỡ cho họ được
một tí gì cả, thậm chí còn nghĩ rằng đến trại thăm họ
là mình đã làm một việc nhân đạo!
Ðối
với người Tây phương pháp môn Thiền Quán thường được
bắt đầu với lý tưởng hướng nội và nhắm vào mục đích
chuyển hóa bản thân. Nếu xét ra nếp sống thiền định đó
dĩ nhiên có phần chật hẹp bởi vì giáo lý của Ðức Phật
vẫn luôn mở ra một con đường rộng lớn hơn nhiều, một
con đường tự tu và giao hòa với tất cả. Pháp môn Thiền
Quán luôn đòi hỏi những hướng dẫn mang tính tiêu chuẩn
để bắt đầu cho cuộc tu, đó chính là sự nghiêm trì Ngũ
giới và nuôi lớn một tâm hồn hào sảng vị tha. Bởi những
nguồn Ðạo lực đó là yếu tố cơ bản cho tất cả mọi
đời sống tâm linh. Mà đối với người phương Tây thì những
tiêu chuẩn tiên khởi này xem ra không mấy dễ dàng. Trong khi
đó bên này, từ Phật giáo cho đến các truyền thống Ðạo
học cổ truyền của Á Châu đều luôn được xây dựng trên
tinh thần lợi tha và đạo đức bản thân. Ðối với một
số người, việc phụng sự tha nhân chỉ đơn giản có ý
nghĩa như một trợ lực cho một đời sống thiền định hướng
nội. Nhưng thật ra ý nghĩa của lý tưởng sống lợi tha còn
xa rộng hơn nhiều: Ðó là một biểu hiện sinh động và hùng
hồn cho trình độ trí tuệ trong đời sống nội tâm. Khả
năng và trình độ của lý tưởng lợi tha hoàn toàn tùy thuộc
vào mức độ sâu cạn của trí tuệ.
Ðối
với nhiều người, nếp sống vị tha và trái tim hào sảng
là một động lực quan trọng cho sự phơi mở tâm hồn, đồng
thời còn là một pháp môn tu tập. Một người giàu lòng cảm
thông luôn dễ dàng hiểu rằng từng hoạt động lớn nhỏ
của mình đều có thể là những phụng sự cho tha nhân. Thậm
chí nếu nói một cách không quá đáng, thì tinh thần lợi
tha có thể giúp ta có cơ hội đối diện với bộ mặt Vô
ngã của đời sống. Ðồng thời cũng đem lại cho ta sự gần
gũi đối với thế giới chung quanh như là một công phu Thiền
Ðịnh hướng nội. Tinh thần lợi tha ở trình độ cao nhất,
thực ra cũng chỉ nằm ở lý tưởng đó thôi: Một nghệ thuật
sống tuyệt vời, biết cho ra mà không cần nhận lại bất
cứ cái gì. Ðó là một thái dộ hoàn toàn mang tính vô ngã,
chẳng màng gì đến những tôn xưng, vinh dự hoặc kể cả
một thiện báo tương lai. Một tâm hồn vị tha đạt đến
trình độ như vậy sẽ cùng lúc mang lại cho chúng ta một
tâm hồn biết yêu thương và một trí tuệ vừa đủ để
buông bỏ tất cả. Ðời sống lợi tha là một đời sống
đưa ta đến một trạng thái hiện hữu hoàn hảo và đầy
hiểu biết.
Tinh
thần lợi tha thật sự không hề được khai sinh từ khái
niệm về một cái Tôi nào cả. Nó cũng không là một con đường
mà theo một số người vẫn luôn cố nuôi ảo tưởng lấy
nó để xây dựng nên một thế giới hoàn hảo. Nó càng không
phải là một hình thức ngụy trang của bất cứ tham vọng,
ham muốn nào hết. Ðại khái trong tinh thần lợi tha hoàn toàn
vắng mặt tất cả mọi hình thái ý thức bất thiện mà chúng
ta thường không mấy người có được, sự khu biệt rõ ràng
trong sự xuất hiện của lòng vị tha thật sự với những
hình thái ý thức xem ra có vẻ tương tự, mặc dù giữa đôi
bên thật ra có cả một giới tuyến, thậm chí tính cách đối
lập nhau nữa. Có dấn thân vào con đường lợi tha bằng tất
cả sự lắng nghe của trí tuệ, chúng ta may ra có thể thấy
rõ được khả năng ngộ nhận về sự pha trộn này. Lý tưởng
lợi tha còn đòi hỏi ở chúng ta một thế giới nội tâm
sâu sắc, một tâm thái vô cầu trước những đối tượng
mà thật ra chẳng hề có một giao lưu nào với tình thương
của chúng ta. Ðó là một tấm lòng thật sự độc lập chẳng
màng gì đến khái niệm thù tạc.
Lòng
vị tha và trí tuệ vô ngã đều cùng có thể được tu tập
song hành như là những yếu tố tương quan cho nhau trên hành
trình giải thoát. Chỉ riêng lòng vị tha cũng đã đòi hỏi
chúng ta việc phát triển những giá trị đồng vị như Chánh
Niệm Tỉnh Giác, như là một nguồn động lực nội tại để
chúng ta có thể hướng về thế giới bên ngoài một cách
vô hạn và an toàn. Bởi nhờ có Chánh niệm, lòng vị tha mới
thật sự là tình thương, một thứ tình thương trong sạch.
Chánh niệm luôn có mặt bên cạnh tình thương để làm tròn
chức năng của mình. Dầu chúng ta có biết đến hay không
thì trong mỗi giây khắc hiện hữu của tình thương vị tha,
Chánh niệm vẫn luôn có mặt. Và dù chúng ta có biết đến
hay không, thế giới này vẫn luôn tồn tại nhờ vào rất
nhiều điều kiện, trong đó có cả tình thương của loài
người. Ðiều này cũng giống như những mối quan hệ và tác
động của các nhân tố thiên nhiên đối với thế giới:
Trong từng giây phút một, những đại dương bát ngát,... đều
luôn có một ảnh hưởng quan trọng đối với môi trường
sinh thái toàn cầu. Thế giới, nhất là các sinh vật, chỉ
là những vật thể luôn sống còn bằng vào sự nhờ cậy
lẫn nhau. Chúng ta có mấy người ngờ được rằng chỉ cần
trên hành tinh này trong một phút giây nào đó đột nhiên biến
mất hoàn toàn một số loài côn trùng thì môi trường của
địa cầu lập tức sẽ bị ít nhiều ảnh hưởng. Việc phát
triển tình thương vị tha đối với chúng ta, tức toàn thể
nhân loại, chỉ đơn giản là một thao tác ý thức hóa tất
cả mối quan hệ đó mà thôi, thay vì cỏ cây và các loài
động vật khác tương trợ nhau tồn tại theo một quy luật
mang tính vô thức. Ðồng thời, một điều tưởng khỏi phải
nói thêm ở đây rằng chính sự có mặt của Chánh niệm còn
giúp ta điều động từng sinh hoạt lớn nhỏ của mình nữa.
Mà đó lại là ý nghĩa cốt lõi của Chánh Niệm.
Chúng
ta có thể nói rằng một trong những sức mạnh duy trì sự
tồn tại của Phật Giáo trong suốt hai mươi lăm thế kỷ
qua chính là những hiểu biết đúng đắn của các Phật Giáo
đồ về lòng vị tha. Chính từ tinh thần đó, biết bao tự
viện, học viện Phật Giáo, thiền viện và những hoạt động
của Phật Giáo cộng với sự có mặt của vô số Tăng tín
đồ đã được thực hiện. Tất cả chỉ nhờ vào tấm lòng
của những Phật giáo đồ biết nghĩ đến tha nhân. Và con
đường phát triển tâm hồn vị tha không chỉ dừng lại ở
đó, ở một vài công trình hay đôi ba hoạt động. Từ những
giây phút lái xe cho đến lúc chúng ta bỏ tiền ra để xài
vào một việc gì hoặc bất cứ một động tác, cử chỉ
lớn nhỏ nào đó trong đời sống thường nhật đều phải
luôn được thực hiện, giải quyết, dàn trải trong một tâm
hồn lợi tha. Vào bất cứ giây phút nào còn có mặt trên
cuộc đời này, dầu có là một y sỹ, một người nuôi ong,
môt người giữ thư viện,... chúng ta đều luôn có cơ hội
để tiếp thu bài học tỉnh thức và lợi tha. Nói chung, chúng
ta có thể đưa hết mọi sinh hoạt của mình vào một nếp
sống nghiêm cẩn và hữu ích. Suốt đời mình, chúng ta hãy
luôn luôn là người biết nghĩ tới tha nhân: phụng sự và
hoàn tất bổn phận. Chỉ chừng đó thôi đã là tất cả
tinh thần căn bản của lý tưởng lợi tha.
Một
trong những con đường Thiền Ðịnh nội tại khả dĩ làm
thăng hoa lý tưởng sống lợi sinh chính là sự phát triển
và trưởng dưỡng hai giá trị Thiền Ðịnh: Chánh Niệm, Tỉnh
giác. Cái giá trị quan trọng của chúng ta là giúp ta một
khả năng nội quán khách quan và trực tiếp về vấn đề
sinh tử trong vòng quay bất tận của đời sống. Từ kiến
giải này, chúng ta có thể tìm ra ngay trong chính bản thân
mình một điểm tựa náu nương, vượt khỏi mọi sợ hãi
bằng một tinh thần vô úy an nhiên. |