Chương
1
Tâm
điểm của Thiền định
Tương
truyền rằng ngay sau khi rời gốc bồ đề, ra đi lúc mới
vừa thành Phật, Ðức thế tôn đã gặp trên đường một
du sĩ ngoại giáo. Bị cuốn hút bởi phong thái siêu phàm cùng
vẻ đẹp của các hảo tướng nơi Ngài, người du sĩ dừng
lại nhìn ngắm Ngài, buột miệng hỏi :
- Thưa,
có phải Ngài là một siêu nhân hay một thiên thần không ạ?
- Không
phải thế đâu du sĩ ạ. Ðức Phật trả lời.
- Hay
Ngài là một phương sĩ? Ông ta tiếp tục hỏi.
- Càng
không phải vậy đâu, ông du sĩ! Ðức Phật vẫn từ tốn
trả lời.
- Vậy
Ngài cũng chỉ là một thường nhân như mọi người chứ ạ?
- Cũng
không hẳn là vậy!
-Thế
Ngài là ai mới được chứ? Không là hạng nào hết, thật
không hiểu nổi!
- Ta
là một vị Phật, một con người tình thức.
Phần
còn lại của giai thoại về cuộc gặp gỡ này của Ðức
Phật với người du sĩ tạm thời dừng lại ở đây. Bây
giờ chúng ta hãy cùng đi vào một vấn đề mà nội dung thật
ra đã được nói tới trong đoạn văn vừa rồi.
Phật,
hồng danh này của Thế Tôn vốn xuất phát từ chữ Buddha
mà ngữ nghĩa từ nguyên chỉ đơn giản là "người tỉnh thức".
Và tinh thần tỉnh thức chính là một kinh nghiệm tâm linh
cốt lõi, tối trọng của giáo lý thiền quán (Vipassanà), đạo
lộ duy nhất đưa đến giải thoát. Thiền quán là pháp môn
mở ra cho ta một cái nhìn tinh tường thấu suốt về toàn
bộ thực tại hiện hữu của thân tâm và thế giới quanh
mình, đồng thời trưởng dưỡng, làm bừng dậy một khả
năng trí tuệ cùng một sự đồng cảm sâu sắc để đối
diện mọi sự. Giáo lý tuyệt với này thực ra đã được
chính Ðức Phật tuyên thuyết từ hơn 25 thế kỷ trước và
đã được truyền thừa trung thực liên tục qua dòng Phật
giáo truyền thống Theravàda (hay Nam phương, Nam truyền, Nam
tông Phật giáo) mà địa bàn tồn tại từ bấy lâu nay là
khu vực Nam Á Châu. Tuy nhiên thiền quán tuyệt đối không
hề chỉ là giáo lý tu hành cho riêng đất trời Châu Á mà
ngược lại, là một Ðạo Sống cho tất cả những tâm hồn
có khả năng tự tỉnh, có được ước vọng hướng tới
chân lý và tự do.
Chánh
Tri Kiến
Con
đường tỉnh thức tức Thiền Quán luôn được khởi hành
với một bước chân đầu tiên mà Ðức Phật vẫn gọi là
Chánh Tri Kiến. Ở đây chúng ta có đôi điều cần lưu ý
về bước khởi sự này. Trước hết chúng ta phải biết có
những tự vấn về chính mình, chẳng hạn: Ta đã thực sự
làm điều gì hữu ích cho đời mình trong khi cuộc đời của
mỗi người quả thật là ngắn ngủi? Từng đoạn đời trôi
qua mau quá: Tuổi thơ, thời trai trẻ rồi tuổi già và cuối
cùng là lần nằm xuống trên giường chết... Tất cả chỉ
là những trường đoạn trong một cuốn phim mà nội dung thường
xuyên mang tính bi kịch. Chúng ta có thể chọn lựa thái độ
sống cho riêng mình: Sống mộng mị lãng quên hoặc thật sự
tỉnh thức để nhìn ngắm.
Trong
buổi đầu thực tập thiền quán, ta phải biết chọn lựa
cái gì đó thật sự là quan trọng và cần thiết cho mình.
Hãy sống bằng tâm trạng và cách phản ứng tâm lý của những
người hấp hối: Họ chỉ dành hết thời gian cho những tự
vấn thật sự quan trọng, chẳng hạn về những gì mà thuở
bình sinh họ vẫn đặc biệt quan tâm. Ngay bây giờ coi như
chúng ta đang khởi sự bắt tay vào công phu đó.
Bước
đầu của chánh tri kiến là chúng ta nhìn thẳng vào cuộc
sống của chính mình để thấy nó là vô thường, phù du đồng
thời nhận diện chân xác tấc cả những gì đang xảy đến
cho mình. Bằng vào sự thấu thị khách quan đó, chúng ta có
thể chiêm ngắm trọn vẹn thế giới này với những khổ
lụy trầm thống của nó: Những nỗi máu lệ đi ra từ chiến
tranh, bệnh tật... trước mắt chúng ta mỗi ngày đã không
hiện hữu hằng trăm triệu con người khốn khổ đáng thương
đó sao? Họ có mặt ở mọi nơi mà chúng ta có thể biết
tới: Phi Châu, Trung Mỹ, Ấn Ðộ, Ðông Nam Á Châu... Phần
nhân loại còn lại phải có trách nhiệm thế nào để xoa
dịu, cứu chuộc những đồng loại đó của mình? Tất cả
những nỗi đau thế giới này dĩ nhiên không thể chỉ đơn
giản được giải quyết thỏa đáng bởi một tổ chức chính
quyền hay một cơ chế chính trị nào cả, mặc dù những giải
pháp đó đôi lúc cũng có được ít nhiều giá trị thực
tế. Bởi nếu phân tích một cách sâu sắc thì tất cả những
biến động như chiến tranh hay đói kém, thật ra không chỉ
sản sinh ra từ mỗi một tác động kinh tế hay chính trị.
Cội nguồn căn bản cho những tai biến đó chính là những
bất trắc của nội tâm nhân loại và con đường tối ưu
để giàn xếp chúng cũng vẫn nằm trong những hoán chuyễn
nội tại của con người. Và cái nhân tố cấp thiết để
xây dựng thế giới chính là thái độ tinh thần bao dung, không
thành kiến của từng cá nhân. Cái giá trị tinh thần đó
lại tiếp tục cần đến hai tiếng tình thương, nó đòi hỏi
chúng ta một trái tim phơi mở thật thà, không tự khép kín.
Căn cội của tất cả phức loạn xã hội thực ra không phải
vì chúng ta không có nổi những giải pháp hóa giải mà thay
vào đó chính là những ngộ nhận, hèn nhát và vị kỷ mà
hầu như ở bất cứ ai cũng có.
Chánh
tri kiến được khởi sự bằng nhận thức về tất cả những
khổ đau, khốn khó trong thế giới quanh ta và trong chính bản
thân mình. Bên cạnh đó, vấn đề còn cần ở chúng ta những
tự vấn về những nhu cầu tâm lý của chính mình, ta phải
trực diện với những gì mình vẫn thường quan tâm rồi vận
dụng trí tuệ này như một động lực cơ bản để thực
hiện công phu nội quán. Chỉ cần nhìn thấy được bản chất
giả tướng của thế giới cùng nội thân, chúng ta cũng sẽ
tự đánh thức được ở mình một khả năng khác, một tiềm
lực nội tâm cho phép ta mở rộng trái tim vị tha và một
trí tuệ nhận thức sâu sắc để từ đó chúng ta được
bắt đầu khơi hứng cho một hành trình nội tâm vô cùng thú
vị. Nhưng không phải đối với ai mọi sự cũng đơn giản
như thế: Với một số người, con đường này sẽ là một
điều kiện tích cực cho sinh phong tỉnh thức và tự tại,
nhưng đối với những người còn lại thì điều này chỉ
đem lại những phản ứng tâm lý cực lòng: bối rối, hoang
mang thậm chí sợ hãi. Có người đến với thiền định để
tìm thấy một trí tuệ thực chứng thể nghiệm, trong khi đó
một số khác lại đánh giá thiền định như một đạo lộ
thuần cảm tính để tìm chút thoải mái nội tâm. Nhưng dù
ở lý tưởng nào trong hai lối định trị thiền định đó,
công phu phát triển nội tâm luôn có ý nghĩa thắp sáng của
một ánh lửa để hướng dẫn, đảm bảo cho chúng ta một
cái nhìn như thật.
Chánh
tri kiến còn đòi hỏi ở chúng ta một nhận thức chính chắn
về Nghiệp lý hay quy luật Nghiệp báo. Nghiệp lý hay quy luật
Nhân Quả ở đây, trong giáo lý truyền thống, tuyệt nhiên
không phải là một giáo lý huyền mật mơ hồ như theo một
vài cách hiểu về vấn đề tái sinh của người Tây tạng.
Mà ngược lại trong tinh thần Phật giáo Nguyên thủy thì Nghiệp
lý hay luật nhân quả chỉ đơn giản là quy luật tồn tại
và vận động sinh hóa của vạn pháp thông qua hình thái thừa
tiếp của lực tác động với hệ quả phản ứng tương quan
mà thôi. Nói vậy có nghĩa là mỗi mỗi hoạt động và thái
độ sinh hoạt của chúng ta trong lúc này chắc chắn sẽ tạo
ra một hậu quả nhất định mà ở đây ta có thể gọi là
những kinh nghiệm hiện hữu trong một tương lai nào đó. Chẳng
hạn khi chúng ta đặt vấn đề xung đột với ai đó thì xem
như trước mắt, ta đã phải sống trong cảnh giới nội tâm
đầy ác cảm và cũng thật dễ hiểu khi đối phương có những
phản ứng tương xứng để đáp trả chúng ta. Ngược lại,
đối với một người có thái độ sống từ hòa thì tình
thương từ tha nhân cũng sẽ thù tạc trở lại họ. Quy luật
Nghiệp lý đại khái chỉ đơn giản thế.
Lần
đó, có người tìm đến yêu cầu bà Ruth Dennison, một thiền
sư Minh sát, hãy giải thích thật ngắn gọn cho mình hiểu
nhanh chóng về vấn đề Nghiệp lý. Bà thiền sư đã mĩm cười
trả lời:
- Ðược
thôi, anh hãy hiểu rằng không một cử động nào của anh
là vô nghiệp cả!
Bất
cứ điều gì bất luận mà chúng ta đã trót thực hiện, sẽ
luôn có giá trị tác động vào ngay bản thân chúng ta cũng
như toàn thể thế giới quanh mình. Hiểu được Nghiệp lý
coi như chúng ta đã có một sở tri hết sức thú vị vì bản
thân nó là một quy luật hết sức sinh động có cơ năng chuyển
đổi và chỉ đạo cuộc sống của mỗi người. Chúng ta có
thể sống tự điều chế chính mình và làm đổi thay một
cách tích cực bầu sinh thái mà mình đang có mặt. Với sở
tri về Nghiệp lý, chúng ta càng có nhiều điều kiện để
nuôi lớn trong tâm hồn mình một trái tim giàu tình thương,
một nội tâm tỉnh thức, một lý trí tỉnh táo, đại khái
những giá trị tinh thần nào mình muốn. Cái tuyệt với của
pháp môn Thiền quán chính là sự giản dị: chúng ta có thể
tu tập ngay trong giờ lái xe hoặc cả những giây phút ở phố
xá chợ búa. Nếu chúng ta còn tự hàm dưỡng thêm cho mình
pháp môn từ bi thì trong những lúc đó chúng ta cũng có thể
đồng thời cảm nhận được những kinh nghiệm sâu sắc cái
giá trị tình thương trong chính bản thân mình và từ cuộc
đời chung quanh.
Sau
đây là một câu chuyện về một nhân vật văn học Hồi giáo
là Mullah Nasruddin. Ông ta là một người hết sức kỳ dị:
thường xuyên bị xem là một kẻ ngớ ngẩn nhưng thỉnh thoảng
lại có những thông minh bất ngờ. Một hôm ông đi ra khu vườn
sau nhà của mình rồi tẩn mẩn rắc từng nắm bột vụn bánh
mì chung quanh các bồn hoa. Một người hàng xóm thấy lạ mới
hỏi, ông Nasruddin tỉnh bơ :
- Ồ
mình làm thế là để đề phòng mấy con hổ đó mà!
Người
hàng xóm ngạc nhiên:
- Nhưng
mà trong vùng này có con hổ nào đâu chứ?
- Nhưng
ông xem tôi làm vậy là thừa sao à? Nasruddin bình thản trả
lời.
Công
phu đào luyện nội tâm hoàn toàn không phải là sự lập đi
lặp lại một cách vô thức những hình thức nghi lễ hay một
lời cầu nguyện. Pháp môn thiền quán chính là một con đường
đào luyện nội tâm, nó đem lại cho ta một ý thức như thật
về quy luật nhân quả tác động và phản ứng vẫn từng
ngày hiển hiện ngay trong chính cuộc sống mọi người dưới
mọi hình thức. Chúng ta có thể tự nhận diện được khả
năng trí tuệ tỉnh thức của mình, nhưng bên cạnh đó ta
còn phải hiểu thêm rằng nó không phải là cái gì tự có,
chúng ta đâu có thiếu gì những cơ sở để nhận chân, thấy
rõ vấn đề này, vấn đề tiềm lực cho trí tuệ Thiền quán.
Chúng ta sinh hoạt, hành xử ra sao, về tâm sinh lý ở bản
thân hoặc đối với xã hội - tất cả những sinh phong đó
ra một thế giới sống tương ứng cho ta, mà ở đó có thể
là một thiên đàng hay địa ngục ngay trong hiện tại .
Qua
suốt chiều dài đăng đẳng của lịch sử Phật giáo, nhiều
dòng thiền đã được ra đời với những đường lối khác
nhau, nhưng nhìn chung lại thì lý tưởng tối hậu của các
dòng thiền đều chỉ là nằm gọn trong hai chữ Tỉnh Thức:
một cái nhìn thấu suốt và trực diện về mỗi mỗi kinh
nghiệm tâm linh trong từng giây phút, một cách tỉnh táo và
đầy ý thức. Con đường phát triển, phơi mở sự tỉnh thức
này đã được Ðức Phật đưa vào một hệ thống giáo lý
vẫn được gọi là Tứ Niệm Xứ: Thân quán niệm xứ, Thọ
quán niệm xứ, Tâm quán niệm xứ và Pháp quán niệm xứ,
bốn niệm xứ này được đặt cơ sở trên Chánh Niệm, thái
độ tỉnh thức thường trực đối với tất cả thực tại.
Sự
thành tựu trọn vẹn khả năng chánh niệm được xem là thành
quả cao nhất của cuộc tu hành. Như chính Ðức Phật cũng
đã từng dạy rằng các loài hương mộc dầu cao quý hiếm
đến mấy nhưng cũng chỉ có thể cho ra một mùi hương hạn
chế, còn mùi thơm của một con người đức hạnh khéo điều
chế nội tâm thì là vô lượng, có thể xông thấu đến tận
thiên giới.
Nhưng
chúng ta phải làm thế nào để có thể bắt đầu công phu
sự tỉnh thức đó? Trong bộ Thanh Tịnh Ðạo có ghi hai dòng
kệ ngắn sau đây:
"Thế
giới đang bị rối reng trong một mớ bòng bong phức loạn,
và biết ai là người tự giải thoát mình?"
Tu
tập thiền quán chính là phương cách tốt nhất để ta tự
tháo gỡ bản thân mình ra khỏi cái rắc rối cuộc đời đó.
Chúng ta phải liên tục trung thực để ý thức về những
gì mà mình vẫn từng ngày bị cầm cố giam hãm: đó là những
ghét thương, âu lo, buồn khổ... Ðiều đó đề nghị ở chúng
ta một sự chiêm ngắm về tất cả những kinh nghiệm thường
nhật, đồng thời để học cách lắng nghe tất cả những
biến động tâm sinh lý của chúng ta trong mỗi ngày. Ðó là
một thái độ sống trí tuệ. Mà sự thành tựu trí tuệ tuyệt
đối không phải đến từ sự đầu tư những khái niệm lý
tính xơ cứng, mà phải là từ những thể nghiệm chín chắn
về mọi sự, thấy chúng là chúng.
Thế
nào là thiền định? Ðây là một câu hỏi hết sức đặc
biệt bởi vì xưa nay đã có không ít những câu trả lời
về nó. Tính đến hôm nay, trên toàn cầu đã có đến hàng
trăm trường phái thiền định mà lý tưởng và đường hướng
xem ra không khác nhau là mấy: Chung quy dòng thiền nào, bất
luận với một lối hướng dẫn chuyên biệt nào đó, từ
cách cầu nguyện đến phương pháp tĩnh tọa... đều nhắm
tới một cái nhìn thấu thị về thực tại, và làm trung hoà
tất cả những xung động nội tâm để hướng đến cái tĩnh
lặng nội tại. Nói theo lý thuyết là vậy, nhưng có một
điều hết sức hiển nhiên mà có lẻ ai cũng có thể nhận
biết rằng làm sao lại không thể có những sai biệt nhất
định nào đó giữa các trường phái. Nhưng đó là một vấn
đề ngoài lề, ngay lúc này chúng ta hãy trở lại vấn đề
mà chúng ta vẫn bàn đến nãy giờ. Pháp môn thiền quán của
Phật giáo Nguyên thủy (hoặc của một vài dòng thiền được
thoát thai từ đó) luôn đặc biệt có lý tưởng là mang lại
một trí tuệ thật sự. Pháp môn thiền quán được bắt đầu
bằng sự trau dồi khả năng tỉnh thức và một quá trình
tự vấn bản thân. Từ những điều đã nói trên, câu hỏi
"Thế nào là thiền định?" cũng đồng nghĩa và tương tự
như câu hỏi: "Thế nào là nội tâm? Tôi là ai? Thế nào là
đời sống và thế nào là tự do?" Câu hỏi về ý nghĩa thiền
định như vậy cũng có nghĩa là những tra vấn sâu sắc về
bản chất của cuộc tử sinh mà mỗi người đã, đang và
sẽ phải biết tới. Chúng ta phải tự biết trả lời những
câu hỏi này bằng chính những kinh nghiệm nội tại trung thực
nhất của mình xuyên qua từng cuộc khám phá tự thân. Ðó
chính là tâm điểm của Thiền Ðịnh.
Ði
tìm lời đáp cho những câu hỏi trên là một điều vô cùng
kì thú. Bỡi vì nếu nói một cách hóm hỉnh nhưng trung thực
thì toàn bộ đời sống của chúng ta cứ như một chuyến
không hành của một chiếc phi cơ không người lái. Có biết
bao người trãi qua hàng mấy mươi năm trong cuộc đời vẫn
cứ triền miên bị điều động bời những mê lụy, âu lo
đầu cơ và nói chung là một chuỗi dài bất tận của những
biến động tâm sinh lý. Cái nếp sống quẩn quanh, lúng túng
đó gọi theo thuật ngữ Phật học là một cuộc luân hồi.
Mọi sự sẽ dễ hiểu hơn nếu chúng ta thự biết dành ra
một ít thì giờ để nhận thức về đời sống của chính
mình: sinh ra, lớn lên rồi là một cái chết, chúng ta vui,
chúng ta buồn, ăn ngủ và sinh hoạt... cái gì cũng trôi qua
đi thật nhanh như một con nước mạnh. Chính sự tỉnh thức
về bản chất khổ đau của đời sống xuyên qua các quy trình
sinh, lão, bệnh, tử đã đem lại cho Bồ tát Sĩ Ðạt Ta những
trở trăn thao thức về cội nguồn của chúng cũng như con
đường nào dẫn đến một tự do thật sự. Mỗi người trong
chúng ta đều luôn tự có riêng một cách trả lời cho những
vấn đề đó: thấu suốt được bản thân và đời sống
của mình chính là điểm nóng của pháp môn thiền quán - hướng
đến trí tuệ và tự do.
Chúng
ta phải nhìn nhận rằng trí tuệ hay sự hiểu biết của con
người luôn có nhiều hình thái: có người tìm đến trí tuệ
bằng những hiểu biết vay mượn từ sách vở văn tự. Chúng
ta đã đọc nhiều lắm, từ những thông tin kiến thức mang
tính đại chúng cho đến cả những lĩnh vực tinh thần, siêu
hình. Mặc dù thứ trí tuệ từ chương này luôn là hữu dụng
nhưng trước sau gì nó cũng chỉ là những sao chép các kinh
nghiệm của người khác. Chúng ta còn thấy một hình thái
khác của trí tuệ, đó là trường hợp chúng được đầu
tư qua những đối thoại trực tiếp, chẳng hạn như khi ta
ngồi lại lắng nghe một ai đó hơn mình... và thứ kiến thức
đó hiển nhiên cũng không phải là vô bổ vì đôi lúc ở
một vài trường hợp nhất định nó cũng mang lại cho ta những
đóng góp hữu dụng.
Ngoài
ra còn có một hình thái trì tuệ sâu sắc hơn được đặt
cơ sở trên sự thẩm tra và phản ảnh của tự thân, nhưng
với một sự tự tin xuẩn động, để thứ trí tuệ đó lúc
này thành ra một hình thái trí tuệ mà thuật ngữ Phật giáo
vẫ gọi là Sở Tri Chướng. Thế nhưng chúng ta phải làm gì
để có thể vượt qua giai đoạn này? Ðiều gì sẽ xảy ra
đến khi chúng ta bắt đầu có những tự vấn nghiêm túc về
bản thân? Thế nào là tình thương? Rồi thế nào là một
tự do thật sự? Những câu hỏi này tuyệt nhiên không thể
được giải đáp bằng những hiểu biết thuần lý hay sang
tay. Những gì Ðức Phật đã khám phá cũng như những kinh
nghiệm được truyền thừa giữa các đệ tử của Ngài có
thể được xem là một con đường để giúp chúng ta tìm thấy
lời đáp thỏa đáng cho những vấn đề gây cấn ấy, nhưng
hãy nhớ rằng lời đáp đó luôn có được bằng một trí
tuệ im lặng, những trưởng dưỡng tiềm lực tự thân cho
một cái nhìn thấu suốt và trực diện.
Nhưng
bây giờ thì chúng ta phải bắt đầu cho công phu đó như thế
nào chứ? Với một tinh thần giáo lý truyền thống, chúng
ta có thể hiểu rằng khả năng trí tuệ như thật này luôn
được tựu thành từ sự phát triển ba giá trị đạo đức
nội tại mà thực ra ở bất cứ ai cũng có thể có được.
Ðó chính là giáo lý tam học: Giới-Ðịnh-Tuệ hay còn gọi
là Giới học, Ðịnh học, và Tuệ học.
Giới
học: Ngũ Giới
Vấn
đề đầu tiên trong tam học chính là thái độ sống hài hòa
và vô hại đối với cuộc đời chung quanh. Ðể phát triển
công phu đào luyện nội tâm, điều tiên quyết là chúng ta
phải tự biết xây dựng một căn bản đạo đức trong đời
sống chính mình, bởi một khi chúng ta có một hành động
lớn nhỏ nào đó có thể phương hại đến mình và người
khác, chẳng hạn như những đau buồn hay một xung đột mâu
thuẩn, thì chắc chắn rằng điều đó sẽ là một trở lực
nghiêm trọng cho thiền định, con đường trung hòa nội tâm
cho ngày một tỉnh lặng hơn, đồng thời nó cũng là cánh
cửa ác hại khép kín tất cả những giá trị tinh thần khác.
Còn đối với Ðịnh học và Tuệ học thì lý tưởng cao nhất
của chúng, y cứ trên nền tảng những giá trị được kế
thừa từ Giới học, thành quả đó mới có thể dễ dàng
có được.
Ðức
Phật ban hành Ngũ giới cho người Phật tử là nhằm để
hướng dẫn cho chúng ta một đời sống có ý thức. Sự chấp
trì của ngũ giới là một động cơ tích cực cho con đường
tu tập thiền quán. Ngũ giới tuy vậy không phải là những
tín điều cưỡng bức vô lối, mà mọi sự ở đây đều
phải xuất phát từ một tự nguyện. Hơn thế nữa, ta phải
hiểu thêm rằng chúng là những hướng dẫn hữu hiệu có
thể giúp ta một nếp sống hài hòa, đồng thời phát triển
và nâng cao sự an lành cũng như những sức mạnh khác của
nội tâm. Có sống trong tinh thần giới luật, chúng ta mới
có dịp thấy rằng chúng là những luật sống tuyệt với
có giá trị đối với mọi nền văn hóa cùng tất cả thời
đại. Ngoài ý nghĩa là cơ sở cho công phu thiền quán, giới
luật còn có thể giúp ta làm thăng hoa đời sống nội tâm
đa dạng của mình.
Học
giới đầu tiên trong ngũ giới là cấm sát. Học giới này
đòi hỏi chúng ở ta một tấm lòng hiếu sinh để từ đó,
dầu có phải chịu đựng một ác cảm hay thành kiến bất
mãn nào đó, ta cũng không được quyền cướp đi sự sống
của bất kỳ sinh vật lớn nhỏ nào. Ðại khái chúng ta phải
luôn biết tôn trọng sự sinh tồn của tất cả chúng sinh
dưới mọi hình thức. Nói theo giáo lý Bát Chánh Ðạo thì
làm vậy là ta đã thực hiện được một phần Chánh nghiệp.
Chúng ta luôn có nhiều lý do để tự cho phép mình sát sanh,
thậm chí kể cả trường hợp để thể thao hoặc tiêu khiển.
Một khi biết tự tạo mối đồng cảm, giao tình sâu sắc
với đời sống thì tự nhiên chúng ta sẽ không còn những
hứng thú trong việc giết chóc nữa, một cách sinh hoạt chỉ
xuất phát từ ác ý. Không một sinh vật nào lại muốn tìm
đến cái chết cả, nên học giới đầu tiên trong ngũ giới
là khuyên ta đừng bao giờ sát sinh.
Học
giới thứ hai chính là sự lương thiện. Không làm điều trộm
cướp, tức không bằng một hình thức nào đó lấy đi một
vật lớn nhỏ của người khác. Không trộm cướp cũng là
một thái độ sống vô hại đối với người khác. Chúng
ta cần giải trừ lòng tham và sự ôm giữ quá đáng. Nói vậy
còn có nghĩa là chỉ nên biết tự thích nghi với một điều
kiện vật chất mang tính nhu cầu thật sự mà thôi, đồng
thời nên có một thái độ san sẻ với tha nhân quanh mình.
Trong đời sống thường nhật, chúng ta phải cần thiết nhiều
thứ lắm: cây cỏ, súc vật thậm chí đến côn trùng. Và
toàn bộ thế giới này luôn tự tồn tại với những vận
động bù trừ như là một giải pháp sinh tồn.
Ðại
để, thế giới như một con tàu với nhiều sinh vật sống
còn trên đó. Từ con ong, cái kiến, chú giun đất đều luôn
có ảnh hưởng và giá trị quan trọng sự sống của mỗi
người. Sự sinh tồn của chúng ta nói cho cùng, chỉ là một
hình thức tồn tại vay mượn và nhờ cậy. Nếu chúng ta học
được cách trân quý, gắn bó với thế giới, tự khắc ta
sẽ có được một đời sống hạnh phúc. Ðây cũng chính
là vấn đề sinh thái của địa cầu. Ðồng thời cái gọi
là động cơ xây dựng hòa bình thế giới còn là những sinh
hoạt có ý nghĩa chăm sóc, hài hòa đối với vấn đề môi
sinh bằng tinh thần thiền định: không bỏ mặt nó mà vẫn
quan tâm giao lưu với những cái khác.
Từ
sinh phong tuyệt vời này, cuộc đời chúng ta sẽ thoải mái
và hữu dụng hơn. Sự phát triển tâm hồn hào sảng nhân
hậu cũng là một phần quan trọng của đời sống nội tâm.
Như vậy chúng ta nên cùng lúc chấp trì các học giới, tu
tập thiền định và nuôi dưỡng một tâm hồn rộng rãi để
nhờ đó trái tim ta ngày một rộng mở thêm, hùng hậu mà
cũng nhẹ nhàng thêm và niềm an lạc trong cuộc tu cũng theo
đó mà được nhân lên. Ðức Phật đã nhấn mạnh tầm quan
trọng của bàn tay bố thí hào phóng qua một lời dạy hết
sức sâu sắc và thú vị: "Nếu các ngươi biết rằng ta đã
thấu suốt giá trị của hành động bố thí như thế nào
thì chắc chắn các ngươi sẽ không vất bỏ vô ích một hạt
cơm nào cả".
Theo
kinh điển truyền thống, có đến ba trường hợp bố thí.
Chúng ta phải có can đảm đón nhận bất cứ cơ hội bố
thí nào đó, gặp dịp là thực hiện ngay. Bởi đôi khi, thậm
chí thường xuyên, chúng ta vẫn có thói quen do dự ít nhiều
trước khi đem cho thứ gì đó đến người khác. Nhưng dù
sao bố thí với tâm thái nào cũng là tốt cả, bởi đó là
lối sống san sẻ và vị tha. Vừa rồi là một trường hợp
bố thí: bố thí trong phân vân, do dự.
Trường
hợp bố thí thứ hai: lối bố thí mang tinh thần bè bạn.
Ðó là một thái độ sẳn sàng dành ra một thời gian, một
công sức hay một vật chất nào đó cho người khác như một
món quà tương giao. Lối bố thí này cũng là một thái độ
sống thú vị. Bởi thực ra chúng ta đâu phải cần đến quá
nhiều những sở hữu mà mình vẫn ngỡ là sẽ mang lại hạnh
phúc. Vì chính nhân cách và thái độ tương giao đối với
cuộc đời mới là cái quy định những buồn vui của chúng
và hãy luôn nhớ rằng hạnh phúc hay niềm vui nội tại chỉ
đi ra từ một tấm lòng.
Trường
hợp bố thí thứ ba là hình thức bố thí bằng một sự trân
trọng: trao tặng cho người những gì mà mình cũng trân quý,
kể cả một thời giờ hay một công sức nào đó khó dành
ra. Có lẽ ai cũng thấy rằng trường hợp bố thí này là
cả một điều khó khăn nhưng vô cùng quý giá mà mình phải
cố gắng thực hiện.
Ðể
việc bố thí hay những nghĩa cử hào sảng nào đó của chúng
ta có được cái giá trị tích cực cho nội tâm thì mỗi người
nên hiểu rằng thái độ hy sinh đó của mình hoàn toàn không
có ý nghĩa tô điểm, vun bồi một sự hãnh diện cho cái Tôi
nào cả, nó phải có được lý tưởng là nhân cách và sức
mạnh nội tâm cũng như một nguồn tịnh lạc thật sự. Ðiều
cần nói thêm ở đây là dĩ nhiên chúng ta không nhất thiết
phải tuôn hết tất cả cho lòng hào sảng: ta còn có đời
sống riêng tư nên tất nhiên cũng phải biết nghĩ tới mình.
Ðừng quên rằng trong mọi trường hợp một sự thái quá
hay bất cập đều không nên có. Lời cuối cùng là chúng ta
vẫn phải đặc biệt quan tâm đến một tâm hồn khoáng đạt,
phơi mở bởi chính nó vẫn dạy chúng ta bài học về tình
thương.
Học
giới thứ ba là tránh những hình thức quan hệ tình dục bất
hợp pháp, một hành động có thể phương hại đến người
khác. Học giới này đề nghị ở chúng ta một nếp sinh hoạt
sinh lý khả dĩ thích đáng và nghiêm túc. Chúng ta phải nhận
rằng nhu cầu và hấp lực tình dục đối với phần đông
đều luôn mãnh liệt. Ðặc biệt trong thời đại gần như
tự do tình dục của hôm nay, chúng ta càng phải luôn thận
trọng và biết tự chế. Chỉ cần một nếp sinh hoạt tình
dục bừa bãi thì ta rất dễ dàng gây ra biết bao phiền phức
cho mình và người khác, chẳng hạn đối với trường hợp
ngoại tình. Một đời sống bình yên và hạnh phúc lại bị
đánh đổi bằng chút khoái cảm phù du mà cũng nguy hiểm đó
xem ra quá rẻ và thật đáng tiếc.
Ðiểm
tinh thần của học giới này là sự phản tỉnh tự thân về
những động lực tâm lý đàng sau các sinh hoạt của mình.
Con đường đó sẽ cho phép ta thấy được ảnh hưởng liên
đới của dục tính với nội tâm bản thân, cũng như cả
những giá trị tích cực của nó trong đời sống thường
nhật: Chẳng hạn nó có vai trò và ý nghĩa gì trong tình yêu
cùng những tình cảm khác. Ðại khái ta sẽ có được một
bài học thú vị, bổ ích về vấn đề quan hệ tính giao,
tình yêu đôi lứa và thái độ sống cũng như các hiểu về
chúng. Trong khi hầu hết chúng ta thường có những phút giây
điên dại trong tình dục, xem đó là một cách thưởng thức
cái đẹp hoặc để thỏa mãn thú tính của mình bằng một
ý thức chiếm hữu. Tự chế được hấp lực của tình dục
bản thân cũng là một phần quan trọng trong đời sống tu
tập.
Học
giới thứ tư trong ngũ giới là tránh không nói dối, một
chi phần của Chánh ngữ trong giáo lý Bát Chánh Ðạo. Chúng
ta đừng bao giờ nói dối, thay vào đó là những lời chân
thật và hữ ích, những câu nói chỉ xuất phát từ trí tuệ
và tinh thần trách nhiệm. Pháp môn Chánh ngữ đã đặt ra
cho chúng ta một vấn đề quan trọng là đòi hỏi chúng ta
tự biết vận dụng ngữ ngôn của mình một cách tốt đẹp
bằng sự tỉnh thức trước khi phát biểu. Chúng ta đã mất
quá nhiều thời gian trong cuộc đời ngắn ngủi của mình
cho những cuộc phiếm luận vô ích, mà thường thì ta ít khi
chịu tỉnh táo, bình tỉnh để biết mình đang nói gì. Chúng
ta có thể tu tập trong từng câu nói, từng giây phút phát
biểu, bằng cách ý thức rõ ràng về những gì đang xảy ra,
từ não trạng đến những cảm xúc tâm lý. Rồi khi im lặng,
ta cũng vẫn tiếp tục giữ chánh niệm để nghe người khác
nói. Chúng ta có thể tự tạo những quy tắc ngôn ngữ cho
mình với những tiêu chuẩn chân thật và hữu ích. Có tu tập
thiền định ta mới có thể khám phá nhiều điều kỳ thú
về ngữ ngôn.
Người
ta kể lại rằng, tại địa phương kia có một danh y nỗi
tiếng về khả năng trị bệnh cho trẻ con và điều đặc
biệt là thay vì sử dụng các thứ thuốc men, ông chỉ luôn
trị liệu bằng vài câu nguyện ngắn. Lần đó, trong số những
người đến xem ông chữa bệnh có một gã thanh niên ngỗ
ngáo tỏ vẻ nghi ngờ khả năng của vị danh y bằng vài câu
nói vô lễ. Vị danh y quay nhìn anh ta rồi buông gọn một câu:
- Mi
chỉ là một thằng ngu biết gì mà nói!
Gã
thanh niên dĩ nhiên nổi nóng và sắp sửa có phản ứng với
vị danh y nhưng cũng ngay lúc ấy vị danh y điềm đạm mĩm
cười với anh ta:
- Nếu
có một câu nói đủ khiến người ta bị bất ổn về tâm
sinh lý thì tại sao lại không có được một câu nói nào
đó có thể giúp người ta ổn định tâm sinh lý chứ!
Mỗi
câu nói của chúng ta luôn có một giá trị nhất định nào
đó, tiêu cực hay tích cực: Một lời nói có thể đủ sức
gây ra những đổ vở mà cũng có thể hàn gắn những chia
rẻ rạn nứt. Do đó, chúng ta phải luôn thận trọng và biết
chân thành mỗi khi phát ngôn. Chúng ta luôn được tín nhiệm
khi chỉ nói thật. Ðiều đòi hỏi là một công phu tự tỉnh
thường trực và nhờ vậy, nội tâm của chúng ta cũng ngày
một yên tỉnh, rộng mở và an hoà hơn.
Học
giới cuối cùng trong ngũ giới là kiêng hẳn tất cả các
thức uống có tác dụng gây say. Sở dĩ phải như vậy vì
những thức uống đó chỉ có tác dụng hủy hại tâm sinh
lý của chúng ta, đồng thời làm tiêu tán mọi khả năng tỉnh
thức, sáng suốt của tâm hồn. Nói một cách nôm na, chúng
ta, trong từng phút giây, chỉ sống bằng một cái tâm (luôn
biến đổi) nên ta phải biết trân trọng bảo trì nó. Trên
thế giới hôm nay, có đến hàng trăm triệu người nghiện
rượu và một lượng người đáng kể khác lại liên tục
lạm dụng các loại thuốc kích thích dưới nhiều hình thức
và mục đích. Chính những cơn nghiện tai hại đó đã cùng
lúc đem lại biết bao phiền phức cho người khác. Ở đây
ta phải nhận rằng, một đời sống tinh thần có tự chủ
quả là không dễ dàng tí nào. Bởi để thực hiện được
một đời sống nội tâm như vậy, ta phải liên tục đối
đầu với biết bao giằng xé, vật vã. Sự nghiện ngập, từ
đó, dĩ nhiên không thể chấp nhận được.
Ðể
có thể hội nhập một cách hữu ích và tích cực với xã
hội, đồng thời thiết lập một nền tảng cho đời sống
tâm linh chính mình, vấn đề đòi hỏi ở chúng ta một sự
tỉnh thức và tinh thần trách nhiệm đối với từng quan hệ
trong thế giới chung quanh cũng như mỗi mỗi sinh hoạt, hành
động của riêng bản thân. Sinh phong đó chắc chắn là một
giá trị nhân cách mang ý nghĩa tương giao tuyệt với với
cuộc đời mà cũng là nhân tố cho một nội tâm có bản lĩnh.
Một căn bản đạo hạnh luôn mang lại cho chúng ta tất cả
an lành và tự do, bên cạnh đó, còn là một điều kiện tiên
quyết, cần thiết cho thiền quán. Với chừng đó công phu,
coi như ta đã có được một đời sống đầy ý thức để
không lãng phí cái kiếp người vốn khó được, cũng như
không tự đnh mất cơ hội vun bồi lòng từ bi cùng trí tuệ
như thật về cuộc đời, những giá trị cao vời chỉ có
ở những người thật sự diễm phúc.
Ðịnh
học
Tiếp
theo sau Giới học, điều kiện tiên quyết cho nếp sống tỉnh
thức, ta còn phải dấn bước vào hành trình thứ hai, tức
Ðịnh học, công đoạn kiên định và tập trung nội tâm.
Một khi chúng ta tự giàn xếp được một hình thức sống
khã dĩ hữu ích cho đời và chắt lọc được những giá trị
đức hạnh cho chính mình thì cũng có nghĩa là khi đó ta đã
tự thiết lập được một trật tự nội tại yên bình và
trong sáng. Ðó chính là một bước khởi hành nhiều hứa hẹn
cho cuộc tu thiền định sắp tới, tức những công phu đào
luyện nội tâm: ở đây ta đồng hóa thân tâm thành một (là
chỉ đơn giản xem toàn bộ những sinh hóa của chúng trong
từng thoáng chốc là đối tượng để tri nhận, nhìn ngắm
một cách khách quan mà thôi), đồng thời chú hướng từng
cái nhìn ngắm vào mỗi cảm nghiệm của mình vào thực tại
trước mắt, từng phút và từng phút. Khả năng tập trung
và kiên định nội tâm luôn là nền tảng cho tất cả pháp
môn thiền định và thâm chí khả năng đó cũng là tuyệt
đối cần thiết cho biết bao lĩnh vực khác trong đời sống:
nghệ thuật, thể thao, một phút lập trình vi tính hay cả
những phút giây trầm tư đơn độc.
Trong
pháp môn thiền (của các trường phái nói chung), sự phát
triển năng lực tập trung tinh thần luôn có nhiều phương
pháp thông qua các đề mục chú niệm khác nhau: từ hơi thở
ra vào đến một câu kinh đã được chọn sẵn hoặc một
khái niệm nào đó như lòng từ bi...
Ở
các chương sau chúng ta sẽ bàn nhiều về phương thức tập
trung tư tưởng bởi từ bây giờ thì đó chính là vấn đề
quan trọng nhất. Cái căn bản tối trọng của thiền định
chỉ đơn giản là quá trình gom hết sự chú ý vào đề mục
tri nhận nào đó chẳng hạn như hơi thở rồi liên tục duy
trì công phu đó. Những phút giây như vậy đòi hỏi chúng
ta phải tạm thời chấm dứt tất cả vọng niệm về mọi
sự tốt, xấu, vui, buồn đã và sẽ xảy ra. Chúng ta lúc này
chỉ có một ý thức duy nhất về những gì đang xảy ra mà
thôi, với một sự tỉnh thức thật tốt.