Chương
6
Thất
Giác Chi
Lần
đó có người đến hỏi Ngài Lạt Ma Govinda rằng phải có
thái độ thế nào trước quá nhiều truyền thống sai biệt
nhau của Phật Giáo, Ngài Govinda đã trả lời rằng Giáo Pháp
của Ðức Phật chẳng khác gì một hạt giống được gieo
trên đất và từ đó đâm chồi nẩy lộc thành một cội
cây có đủ gốc cành, thân, lá. Ðứng trước cội cây đó
mỗi người một cách chọn lựa: Kẻ thích gốc, người thích
cành... và dĩ nhiên nếu cứ vậy thì mỗi chọn lựa không
khéo sẽ là những cái nhìn khiếm khuyết, ngộ nhận, bởi
vì mỗi phần của cội cây đó đều có một giá trị riêng,
ta không thể phủ nhận bất cứ cái nào cả.
Ðức
Phật có dạy một giáo lý, thường được gọi là Thất giác
chi hay bảy yếu tố giác ngộ. Bảy pháp môn nầy giống như
những dòng nhựa nuôi sống cội cây giải thoát vậy. Chúng
là những giá trị tinh thần được tựu thành từ công phu
đào luyện nội tâm mà chính Ðức Phật cũng đã kinh nghiệm
qua bằng chính sự tu tập của Ngài. Khi được thấu đáo,
bảy pháp nầy sẽ đem lại cho chúng ta những kinh nghiệm nội
tại trong sự tu tập. Chúng thực ra không phải là cái gì
xa xôi trừu tượng cả, mà ngược lại là những mực thước
để đo lường trình độ tu tập của chúng ta. Tu tập Thất
giác chi, mối giao hòa giữa chúng ta với thế giới chung quanh
sẽ trở nên sâu sắc hơn nhiều.
Thất
giác chi bao gồm 3 pháp động, 3 pháp tĩnh, và một pháp trung
hòa để cân bằng tất cả - đó là Chánh niệm giác chi. Hiểu
biết về Thất giác chi là hiểu biết về phép gia giảm của
một toa thuốc. Ðời sống tu hành cũng giống như một cuộc
trị liệu. Có hiểu biết về Thất giác chi ta mới có thể
điều hành nội tâm mình bằng những giá trị thiện pháp
một cách tương ứng và hữu hiệu nhất để từ đó đạt
tới giải thoát.
Niệm
giác chi
Yếu
tố đầu tiên cũng là tâm điểm quan trọng cho thiền định
Phật giáo chính là niệm, sự ghi nhận kịp thời tất cả
những hiện khởi của thân tâm trong từng phút giây. Tất
cả được bắt đầu từ Niệm bởi từ đây hành giả mới
có được đời sống tỉnh thức. Với Niệm giác chi, hành
giả nhìn thấy một cách rõ ràng về bất cứ cái gì hiển
hiện chung quanh. Chúng ra sao thì thấy đúng như vậy. Chính
với thái độ dó, tự hành giả luôn có một sự cảnh giác
thật trọn vẹn và hữu hiệu.
Có
chịu nhìn vào từng sinh hoạt của mình trong đời sống ta
sẽ kinh ngạc khi thấy rằng thực ra bấy lâu nay ta đã sống
như một cái máy tự động, ngủ thức khó phân và ký ức
coi như bị chìm mất trong cái mớ hỗn độn của quá nhiều
sự việc, sự vật chung quanh. Chúng ta hãy thử nhớ lại xem,
có biết bao lần đi, đứng, làm việc, sinh hoạt mà không
hề biết mình đang làm gì để rồi sau đó chẳng còn nhớ
được gì hết. Chính trong lối sống xô bồ tạp loạn đó,
những sợ hãi - đau khổ - tật đố... đã tiếp nối nhau
đày đọa chúng ta. Chỉ có lúc quay lại với Niệm giác chi,
ta mới được sống trọn vẹn với mình mà thôi. Ngay cả
với cái chết cũng thế, có bình tỉnh và can đảm nhìn thẳng
vào nó thì người ta cũng sẽ cảm thấy an toàn hơn là cứ
để mặc cho những nổi sợ hãi tha hồ ào ạt tìm tới.
Có
Niệm giác chi, mọi sinh hoạt của chúng ta tự nhiên sẽ có
thêm những sức mạnh mới, chẳng hạn một sự tinh cần và
một niềm vui kỳ lạ. Có thể ta lúc đó chẳng cần ngóng
đợi thành quả mà công việc vẫn trôi chảy vì trong từng
phút ta đã sống hết mình và như vậy thì trong từng phút
ta gặt hái biết bao thành quả. Ðại khái sống với Niệm
giác chi là sống với một sự thận trọng và biết mình trọn
vẹn.
Niệm
giác chi có ba chức năng:
- Niệm
giác chi giúp ta ghi nhận rõ ràng và như thật tất cả những
gì xãy đến. Nên nhớ, cái biết của Niệm giác chi là một
sự ghi nhận trực tiếp và đơn sơ, không thông qua một sự
chấp thủ bám víu nào cả. Cái biết của Niệm giác chi phải
luôn là cái biết trung thực, mọi sự ra sao thì thấy như
vậy mà không cần tới hình ảnh liên quan nào đó làm trạm
trung chuyển. Ở đây hoàn toàn không có sự can dự của bất
cứ một sự đối chiếu, lý luận, cân đong nào cả. Nhờ
sự vô tư nầy ta mới thấy được thân tâm nầy thực ra
được điều hành bởi cái gì, ra sao và chỉ với nội tâm
thoải mái đó, ta sẽ cảm nhận được sự tự do của chính
tâm hồn mình.
- Chức
năng thứ hai của Niệm giác chi là làm nhân tố phát triển
các giác chi còn lại. Có Niệm giác chi thì các giác chi kia
mới có thể khởi lên. Bởi vì từ cơ sở an bình ổn định
của nội tâm, các giá trị tinh thần khác như trí tuệ, định
tâm, sự điềm đạm bình thản... thậm chí kể cả sự chuyên
chú trong âm nhạc, thể thao, khoa học và cả chuyện ái tình
mới có thể có mặt một cách kịp thời và cần thiết. Niệm
giác chi sẽ cứu vớt chúng ta trong mọi tình huống sống và
trên hết, thiếu niệm thì không thể có trí tuệ với từ
bi.
- Chức
năng thứ ba của Niệm giác chi là cân bằng tâm não trạng.
Khi niệm được vận dụng đúng mức, mọi thứ xảy ra không
gây ảnh hưởng gì tới nội tâm được và như vậy nội
tâm trở nên quân bình. Trong những giây phúc tệ hại nhất
của nội tâm, chẳng hạn một sự sợ hãi hay đau đớn nào
đó, nếu niệm kịp thời can thiệp thì ta sẽ tự giữ được
cái tâm thái thăng bằng ngay trong chính sự đối xúc với
chúng.
Hành
giả phải học được ở chính mình cái kinh nghiệm ứng dụng
Niệm giác chi ở những tình huống khó khăn nhất để tự
tạo lấy sự cân bằng trong tâm hồn vào mọi lúc mọi nơi;
và điều được ghi nhận là dù thử thách có ra sao đi nữa,
chỉ cần một phút giây có mặt của Niệm thì lập tức sự
bình tâm sẽ được vãn hồi. Lại nữa, một khi nhận thấy
nội tâm yên tĩnh quá mức cần thiết, có vẻ dễ đưa tới
thụ động thì hành giả chỉ việc chú niệm ngay vào nó,
lập tức sự tỉnh thức và trạch pháp (trí tuệ) sẽ có
mặt để kéo lại mức quân bình. Hoặc khi nhận thấy nội
tâm đang ở tình trạng quá năng động thì hành giả vận
dụng Niệm giác chi ghi nhận rằng mình đang quá năng động.
Nhờ sự chú niệm nầy Ðịnh giác chi sẽ xuất hiện để
can thiệp cho tâm trở lại bình hòa.
Niệm
giác chi có đến bốn cơ sở để y cứ theo đó mà tồn tại.
Ở đấy ta lại nhắc tới Tứ Niệm Xứ. Trước hết là Thân
quán niệm xứ.
- Thân
quán niệm xứ là cơ sở cho Niệm giác chi khởi lên bằng
sự tỉnh thức ghi nhận tất cả mỗi mỗi sinh hoạt của
các giác quan đến những cử động lớn nhỏ, kể cả việc
uống ăn và hít thở. Một xác chết hay chút hài cốt cũng
có thể là đề mục an trú chánh niệm về thân.
- Thọ
quán niệm xứ là trường hợp Niệm được vận dụng để
nhận biết từng cảm giác bất kể tốt xấu trong mỗi giây
phút của thân tâm. Kinh nghiệm nầy rất quan trọng vì trong
đời sống thường nhật chúng ta thường tự mắc bẩy trong
chính tình cảm ghét, thương, chán, thích... của mình. Một
nội tâm thiếu Niệm sẽ dễ dàng bị cuốn hút vào luồn
sóng cảm giác: Gặp điều như ý ta bị hấp dẫn, gập điều
bất toại ta phản ứng bất mãn... và nếu phải đối đầu
với cảm giác nhạt nhẻo vô vị thì nội tâm lại chuyển
hướng tiêu cực, thụ động. Cứ thế tự thâm tâm chúng
ta cứ luôn là những chìm nổi của một dòng trầm luân. Chính
trong đời sống cảm giác đó, nếu Niệm kịp thời có mặt
thì ta sẽ tự chủ được mình bằng cái nhìn trung thực vào
cảm thọ cũng như những phản ứng tâm lý của mình. Theo
Phật giáo, đó là một đời sống trí tuệ và tỉnh thức.
- Cơ
sở thứ ba cho Niệm là Tâm quán niệm xứ. Chánh Niệm ở
đây lấy những biến đổi của nội tâm làm đối tượng.
Vị hành giả chuyên tâm chú ý tất cả những đổi thay trong
lòng mình: Ðâu là nghi hoặc, sợ hãi, đâu là từ bi, trí
tuệ.... Nội tâm ra sao thì như thật tri nhận theo vậy. Ý
nghĩa của Niệm xứ nầy là để hành giả thấy được các
bản chất tự đến tự đi của các tâm trạng. Ta chỉ nhìn
ngắm nó mà không cần can dự bằng bất cứ thành kiến nào.
- Cuối
cùng là Pháp quán niệm xứ, trường hợp Niệm giác chi ghi
nhận chặt chẻ tất cả những động lực nào điều hành
thân tâm của mình. Có nhìn thấy được những nhân tố hiện
hữu của thân tâm, hành giả mới hiểu được vạn pháp chỉ
là một dòng nước vô chủ, trôi chảy theo luật vận hành
của nhân duyên và ở đây hoàn toàn không có sự hiện hữu,
tồn tại của bất cứ một cái Tôi nào hết. Mọi sự đến
và đi theo luật tắc của riêng mình và không hề có một
điều gì nằm trong ý muốn của chúng ta. Chúng chỉ trôi qua
và chúng ta chỉ có bổn phận nhìn theo.
Như
vậy, Niệm rõ ràng là nền tảng cho lý tưởng tu chứng giải
thoát của tất cả mọi người. Dĩ nhiên trên hành trình đó,
khả năng tỉnh thức phải trải qua nhiều trình độ khác
nhau tùy theo sức chú niệm của chúng ta, nhưng điểm quan trọng
là ta chẳng nên quan tâm đến chuyện mình đã đạt đến
đâu, có một cái gì. Cứ nuôi dưỡng Niệm giác chi thì mọi
cái sẽ thành tựu. Trí tuệ sẽ trở nên bén nhạy sâu sắc
khi Niệm giác chi được vận dụng đúng mức.
Chẳng
hạn khi nghe một tiếng động bên tai mình, nếu ta để Niệm
giác chi lơi lỏng, ta sẽ chấp thủ đó là âm thanh gì, Có
thể là tiếng chim hót. Từ đó, ta nghĩ đến con chim và tự
nhiên muốn nghe nó hót thêm nữa. Vậy là chúng ta đã đi quá
xa trong một tiếng động thay vì chỉ cần nghe qua một lần
bằng tất cả sự vô tư đơn giản nhất. trong khi đó, nếu
với một Niệm giác chi thường trực thì ta sẽ chỉ ghi nhận
âm thanh kia như một cái gì không quen biết. Nó như một cơn
gió bất chợt đi qua và cái tâm ghi nhận được nó cũng xuất
hiện tình cờ như một người khách lạ. Ta cùng lúc nhận
diện được khuôn mặt sinh diệt của thân tâm nầy một cách
bình yên và nhẹ nhàng như kẻ đứng trên cầu nhìn dòng nước
trôi đi bên dưới hoặc một sơn nhân lạnh lùng nhìn mây
trắng bay ngang đỉnh núi vậy thôi... Ta khi đó được xem
như đang sống bằng cái tâm "ngoại vật", cái gì không phải
của mình cứ để nó tự nhiên đến và đi. Nội tâm hành
giả lúc nầy coi như không còn bị giới hạn bởi ngoại cảnh
nữa.
Với
công phu thường xuyên, Niệm giác chi sẽ ngày một vững mạnh.
Bằng vào khả năng nhìn ngắm chính mình và trên những phản
ứng và biến tướng của thân tâm trong mọi hoàn cảnh, trình
độ tỉnh thức của hành giả sẽ càng lúc sâu sắc thêm
nhiều.
Ðiều
kỳ diệu và thú vị là ở bất cứ nơi đâu, lúc nào ta cũng
đều có thể tu tập Niệm giác chi cả.Trong lúc lái xe, sinh
hoạt gia đình, hay ngay cả khi sống một mình, ta điều có
thể tự mình chứng kiến, mục kích tất cả những gì đang
xãy ra ở thân tâm. Chúng kéo đến, ta nhìn ngắm, một cách
thơ ngây và trong sạch. Có kinh nghiệm qua công phu nầy, ta
sẽ thấy Niệm giác chi đem lại cho mình cái gì. Ðó chính
là trí tuệ, sự tự do và bình an thanh thản của tâm hồn!
Cần
giác chi (Tinh tấn giác chi)
Sau
Niệm, giác chi có nhiệm vụ cân bằng nội tâm, kế đến
là ba giác chi có tính năng động hóa nội tâm. Trước tiên
là Cần giác chi. Làm thế nào để vận dụng đúng mức sự
chuyên cần của mình, đó là một vấn đề lớn cho tất cả
hành giả và làm sao để có thể thực hiện được điều
đó?
Một
cách cơ bản, Cần giác chi là sự nỗ lực trong đời sống
tỉnh thức và ức niệm. Như vậy sự nỗ lực ở đây không
hề có nghĩa là một cố gắng can dự hay phản ứng nào đó
trước ngoại cảnh, mà lại là sự chuyên tâm nhắm tới một
động tác ngắm nhìn mọi sự với tất cả trong sáng và khách
quan. Ta có thể tự kiểm tra Cần giác chi của nội tâm bằng
cách nội quán "Mình đã thật sự hết lòng trong sự chú niệm?"
Thứ
đến, phải hiểu rằng Cần giác chi chỉ phát triển khi ta
dốc sức trong công phu đào luyện. Mà chúng ta thì thường
có thói quen dè xẻn trong năng lực vì cứ ngầm sợ mình phải
làm dư đến quá mức cần thiết. Ta thích sống hoạt động
theo một thời gian qui định nào đó mà cứ quên rằng đời
sống tỉnh thức thật ra luôn là cần thiết trong mọi lúc.
Bởi đối với một hành giả, không có giây phút tỉnh thức
nào là thừa, và để có được một điều đó thì sao lại
có thể thiếu sự nỗ lực? Ở đây, ta nên tâm niệm rằng
sự nỗ lực luôn giúp ta đối phó với tất cả những gì
là bất an, và năng lực của con người chúng ta không giống
như của một viên pin. Chúng ta càng gia tăng nỗ lực thì sức
mạnh nội tâm cũng càng lúc lớn mạnh theo. Một vị thiền
sư đã nói rất đúng: "Tu hành đừng có mặc cả!"
Nói
vậy không có nghĩa là chúng ta cắm đầu vật lộn với thời
gian một cách xuẩn động, mà ở đây hành giả nên hiểu
rằng sự tinh tấn trong trường hợp nầy chính là một tâm
lực thúc đẩy ta không dừng bước. Có thể một cách kín
đáo nhẹ nhàng thôi nhưng bền bỉ, đều đặn đủ giúp hành
giả không tiêu phí thời gian.
Cần
giác chi đem tới cho hành giả những giá trị sống và năng
lực hoạt động ngay trong chính cuộc tu và giúp ích cả thể
xác sinh lý nầy nữa. Hình thức nỗ lực nào cũng là tất
cả. Chẳng hạn trong tư thế tĩnh tọa, tự nó có thể đem
lại cho ta một sự nhẹ nhàng thư giản. Mặc dù vẫn có không
ít những hành giả lại cho rằng các tư thế vận động sẽ
tốt hơn bởi nhờ đó năng lực của cơ thể mới được
hiển hiện và vận dụng hữu hiệu.
Cần
giác chi có nhiều cấp độ khác nhau khi chúng ta biết điều
hành công phu của mình. Nói theo kinh điển, về cơ bản, có
đến bốn trường hợp Cần giác chi, mà xét trên ý nghĩa
chung thì đó là những nỗ lực trong chính sự thể nghiệm
và thanh lọc nội tâm mà mục đích cao nhất là giúp hành
giả đọc hiểu được chính bản chất của mình:
- Trong
trường hợp thứ nhất, Cần giác chi là nỗ lực duy trì bền
bỉ những giá trị thiện pháp đã thành tựu nơi bản thân
để tiếp phát triển nhiều hơn, giống như người ta cố
gắng nuôi dưỡng một thân cây đã được trồng xuống cho
lớn mạnh thêm. Nhận thấy những nhận thức nào là cao đẹp,
trong lành thì hành giả cần cố giữ lại để ngày một nâng
cao thêm.
- Trường
hợp Cần giác chi thứ hai là sự nổ lực từ bỏ những gì
ác xấu hình thành trong tâm hồn bằng sự thấu đáo trực
diện với chúng. Có thấy tham muốn là một phiền phức ta
sẽ dễ dàng tẩy xóa nó hơn. Ý nghĩa của Cần giác chi nầy
không phải là một sự "Thành kiến, ác cảm" đối với bất
cứ cái gì, mà ở đây chỉ đơn giản là một cái nhìn thấu
suốt hướng tới trạng thái tịnh lạc, bình an. Chỉ cần
vậy là ta đã có thể xoay lưng với tất cả bất thiện rồi.
- Trường
hợp tiếp theo là sự cố gắng gây tạo những thiện tâm
nào mà mình chưa có đúng mức, chẳng hạn như một tình thương
đối với tha nhân. Ta lưu ý tới nó để biết mình thiếu
nó, cần trưỡng dưỡng nó nhưng vẫn tiếp tục sống bình
đạm và tỉnh thức, không sục sạo kiếm tìm như một kiểu
đầu cơ trẻ con.
- Trường
hợp cuối cùng là Cần giác chi trong ý nghĩa nỗ lực đề
phòng ác pháp bằng cách cẩn trọng và đặc biệt lưu tâm
đến những hoàn cảnh và tình huống mà chúng có thể xuất
hiện để kịp thời ngăn đón và tự vệ nội tâm.
Nâng
cao năng lực nội tại bằng sự phát triển Cần giác chi là
một điều thiết yếu cho công phu tu tập. Với một nỗ lực
đúng hướng, đúng mức, hành giả sẽ có khả năng đào sâu
chính mình hơn, để vươn mình lên những sự thật kỳ diệu
hơn và trên hết là làm tăng hoa cuộc tu của mình bằng chính
những thành quả đó.
Trạch
pháp giác chi
Giác
chi thứ ba là trạch pháp hay trí tuệ suy lượng các pháp theo
tính bản nhiên của chúng.
Nhiều
lúc chúng ta có khuynh hướng mặc nhiên chấp nhận điều mình
thủ đắc một cách tự mãn dễ dàng buông xuôi niềm tin trước
những rao giảng của một ông thầy hay một cuốn sách nào
đó mà không hề nghĩ tới việc gậm nhấm lại tất cả một
cách khách quan, cẩn thận. Chính giác chi thứ ba nầy sẽ giúp
ta thực hiện điều đó. Trạch Pháp giác chi không cho phép
ta chấp nhận một kiến thức sang tay hay một hiểu biết mô
phỏng nào cả, mà lại đề nghị với ta một con đường
tự vấn. Ðó là cả một sự mạo hiểm khi chúng ta một mình
làm cuộc kiểm tra xác định lại tất cả những gì vẫn
được xem là kinh điển. Ðúng là Trạch pháp giác chi luôn
đề nghị chúng ta một cuộc mạo hiểm. Ðó là sự đối
diện với những gì ta chưa thật sự thấu đáo và cũng là
một ước muốn nhắm tới những câu hỏi sâu sắc nhất trong
đời sống. Don Juan bảo rằng chỉ với tư cách của một
chiến sĩ, người ta mới có thể dấn bước trên con đường
tri thức. Phải biết mạo hiểm trong trí tuệ vì trong khi đối
với hầu hết mọi người, kinh nghiệm cuộc sống chỉ là
cái gì ân sũng tự nhiên của trời cho, nhưng đối với các
bậc hiền giả thì đời sống là cả một hành trình khám
phá. Trạch Pháp giác chi cho phép ta nhìn thẳng vào tất cả
kinh nghiệm, và để đi qua đoạn đường nầy ta có thể sẽ
phải trãi qua những giai đoạn cai đắng của hoài nghi, nãn
chí, bức xúc và thậm chí của cả những bối rối, hoãng
loạn - đại khái là tất cả thảm kịch ghê gớm của nội
tâm. Nhưng đó cũng chính là lúc ta có dịp bắt gặp rất
nhiều thứ và có cơ hội kiểm nghiệm trọn vẹn bản thân
mình để khả dĩ có được một cái hiểu biết và tự do.
Chúng
ta có thể đối diện với lắm điều thử thách, chẳng hạn
một viễn ảnh về cái chết hoặc một nổi bất an nào đó
đối với thế giới chung quanh nhưng chẳng sao hết, cứ can
đảm nhìn thẳng vào chúng để soi rọi và xác định qua đó
những qui luật. Có chịu ra sức chiêm ngắm tất cả kinh nghiệm
của mình thì dù ở bất cứ nơi đâu, lúc nào ta cũng sẽ
thấy chúng đều là những pháp môn cả, bởi đời sống luôn
tự trình bày bản chất của nó và ta chỉ việc trông thấy
mà thôi. Kinh nghiệm khách quan dạy ta nhiều thứ lắm, vì
nó là Pháp. Kinh nghiệm đời sống dạy ta về vô thường,
đau khổ, nghiệp lý và cả sự giải thoát nữa. Thi sĩ Kabir
cũng từng nói như thế: "Khi biết lắng tai và mở to đôi
mắt thì đến cả những chiếc lá trên cây cũng có thể truyền
dạy cho ta lắm điều kỳ diệu chẳng khác gì những trang
thánh thư cao siêu nhất."
Trí
tuệ về bộ mặt bản nhiên của thân tâm nầy thật ra không
là thứ kiến thức theo ý nghĩa thông thường mà ta vẫn hiểu.
Cho đến khi nào chưa nội quán một cách chính chắn rằng
mình là cái gì thì tinh thần chúng ta vẫn còn bị khép kín
trong bóng tối ảo tưởng, như một người bị nhốt trong
phòng tối sẽ bị mất hết mọi ý thức hoạt động. Ngày
nào chưa nhận diện được chính mình, còn bị nhầm lẫn
về bản chất của các thứ kinh nghiệm thì chúng ta sẽ tiếp
tục chất đầy lòng mình những nghi hoặc bại liệt. Khi trí
tuệ Trạch Pháp có mặt, bóng tối sẽ bị đẩy lùi và căn
phòng tăm tối kai sẽ bị rọi sáng.
Sức
mạnh của trí tuệ Trạch Pháp tăng giảm theo chiều sâu của
sự đào luyện. Chúng ta có thể gia công quán sát, nhìn ngắm
tất cả những nhân tố tựa thành nên thân tâm nầy. Bằng
vào sự chú niệm và chiêm nghiệm đó, ta sẽ dễ dàng thấy
rõ hoạt động của tứ đại, lục căn, bản chất của thiện
ác trong chính nội tâm mình và cả con đường giải thoát.
Chúng ta có thể thể nghiệm tuyến trình sinh diệt chớp nhoáng
của tâm pháp, tận mắt nhìn thấy cội nguồn của những
âu lo, những chấp thủ, những hình thức hiện hữu trong đời
sống bản thân... Ðể thực hiện được điều đó, chúng
ta phải biết mở rộng nội tâm mình một cách hoàn toàn,
bởi vì đôi khi nhờ thế từ trong bóng tối mịt mùng của
nội tâm, tất cả những đau khổ, bất an sâu kín nhất được
hiển hiện, và điều đó cũng có nghĩa là những sự thật
quan trọng nhất sẽ được chứng nghiệm.
Ðời
sống vốn nhiều phức tạp và có thể nói rằng tình huống
nào cũng có những câu hỏi cho chúng ta cả, và nhờ vậy ta
sẽ có cơ hội tự giải đáp. Nhưng câu trả lời sẽ sâu
cạn tùy theo trình độ và mối giao cảm của chúng ta đối
với thế giới chung quanh xuyên qua công phu tu chứng mà ở
đây, có thể nói rõ là sự tu tập về Tứ Niệm Xứ.
Hay
tổng quát hơn, trình độ trí tuệ của hành giả được biểu
hiện qua khả năng tiếp cận nhìn ngắm đánh giá ngoại giới,
những hiểu biết và bản lãnh giải thoát trong mọi lĩnh vực
của đời sống thường nhật, từ đối giao xã hội, sinh
hoạt gia đình và hoạt động của bản thân... Trình độ
đó được hướng dẫn bởi một sự phản tỉnh sáng suốt
cộng thêm tinh thần cầu học bất thối và những thắc mắc
nghiêm túc đặt trên lý tưởng khám phá chơn lý. Những nghi
vấn đó không phải là các câu hỏi quanh quẩn vớ vẫn hay
lo ra (hướng ngoại) mà là một hành trình tìm vào chính bên
trong của chúng ta.
Ðiều
nên nhớ là sự suy lượng, tìm tòi và trí tuệ ở đây phải
được giữ thăng bằng bởi một niềm tin. Vì một sự tra
vấn thái quá lại thiếu niềm tin thì sẽ dễ dàng dẫn đến
sở tri chướng, thiếu tư duy, nặng lý thuyết và chất đầy
nghi hoặc. Ngược lại, không có trí tuệ, ta sẽ mắc vào
thứ đức tin mù quáng. Cho nên cái chúng ta thật sự cần
đến ở đây phải là một niềm tin được thiết lập trên
sự tỉnh thức và khám phá, để từ đó, chánh tri kiến được
kết tinh.
Hỷ
giác chi
Giác
chi tiếp theo là hỷ duyệt, phép sống và tu trong sự thoải
mái, vui vẻ. Thành tựu được yếu tố nầy coi như ta càng
có điều kiện trưởng dưỡng thiền định hơn, bởi vì một
kiếp sống bằng một tâm hồn khoáng đạt, không quá câu
thúc, thì các đức tin thiện pháp trong ta cũng rộng đường
phát triển lớn mạnh hơn.
Dĩ
nhiên lúc nào vị hành giả cũng phải đối diện với tất
cả những kinh nghiệm về đời sống cũng như cuộc tu, nhưng
cái quan trọng là mọi thứ chỉ để ta nhìn qua chứ không
phải lưu trữ, bởi vì rất có thể điều đó sẽ dẫn tới
những hồi tưởng vướng vít và xáo trộn nội tâm chúng
ta. Trong chúng ta có rất nhiều những hồi ức bị tạm thời
lãng quên nhưng luôn sẵn sàng trổi dậy. Trong đống hoang
tàn đó cái gì cũng có, từ những cái sôi động đến buồn
tẻ, niềm vui hay nổi đau khổ... mà giá trị của hỷ giác
chi là mở rộng tâm hồn đón nhận mọi thứ bằng tất cả
thú vị như đứng trước những bài học kỳ diệu, một niềm
vui lớn. Với Hỷ giác chi, hành giả có thể an nhiên sống
giữa đời một cách hào hứng như đứa bé trên sân trường
chỉ luôn có trong đầu những ý tưởng: "Ta có thể học được
cái gì ở đây, trò chơi nầy vui lắm không?", và tuyệt vời
nhất là cảm giác tự tin "có ra sao ta cũng có thể vào cuộc!".
Cơ
sở cho Hỷ giác chi là một thái độ sống khoáng đạt. Giá
trị của bản thân chúng ta nhiều khi nằm ở điều ta ưa
và ghét, mà đời sống thì trước sau cũng chỉ là một vở
kịch. Hỷ giác chi giúp ta biết cách đánh giá vở kịch đó.
Nói theo Don Juan, đó là cách ngắm nhìn cuộc sống trên trái
đất nầy từ một khoảng cách không gian thật lớn với một
thời gian thật dài. Cái gì rồi cũng sẽ ra đi, chúng ta đã
làm gì và còn giữ lại một kỷ niệm nào, cái đó không
thành vấn đề. Ðiều quan trọng là ta đã có thái độ ra
sao trong cuộc chơi ngắn ngủi nầy. Những điệu khiêu vũ
chóng vánh rồi cũng đến giây phút chấm dứt nhưng ta đã
học được bài học yêu thương nào từ đó hay chưa?
Hãy
sống vui vẻ một cách thông minh giữa cuộc đời phù du nầy.
Trong cái chớp bể mưa nguồn, tang thương dâu biển, niềm
vui dù sao cũng là cần thiết.
Càng
sống nhiều trong thiền định ta mới thấy rõ ràng Hỷ giác
chi là một tác động mãnh liệt như thế nào đối với năng
lực nội tâm và ngựơc lại, ở một trình độ thiền định
càng kiên cố, một nội tâm càng yên tĩnh thì Hỷ giác chi
cũng sẽ sung mãn hơn. Chính Hỷ giác chi ở trình độ đó
sẽ có năng lực tác động rất lớn đối với tâm sinh lý
của hành giả, và niềm hạnh phúc đó kỳ diệu ngoài sức
tưởng tượng của mãnh liệt dâng trào như sống biển mà
lại trong sáng, cao khiết như sương trời - khác hẳn với
tất cả cảm giác khoái lạc trần tục thông thường. Với
sự gia trì đó của Hỷ giác chi, tự thâm tâm hành giả sẽ
được đối diện với những kinh nghiệm trực quan sâu sắc,
sức mạnh của định tâm cũng hùng hậu hơn và tất cả điều
diễn ra trong một thú vị tuyệt vời. Ðó chính là những
gì cần biết về Hỷ giác chi.
Ðịnh
giác chi
Ba
giác chi mang tính Ðộng vừa kể trên đây là Cần giác chi,
Trạch Pháp giác chi, Hỷ giác chi luôn được điều hoà bằng
ba giác chi khác mang tính Tĩnh. Ðầu tiên là Ðịnh giác chi.
Một cách nôm na, Ðịnh là sự tập trung tư tưởng, có mặt
khi ý thức nhắm ngay vào đối tượng nào đó một cách chuyên
chú. Ðịnh luôn đem lại một năng lực lớn cho tinh thần.
Cũng như ánh sáng trong tia Laser có thể cắt đứt cả thép,
một nội tâm có trang bị Ðịnh giác chi sẽ có thể chi phối
một cách đáng kể vào vận động của thân tâm, và trí tuệ
của hành giả lúc nầy có khả năng vươn tới những chiều
kích tư duy sâu rộng hơn.
Một
điều thoạt nhìn đã thấy là nội tâm của chúng ta luôn
thiếu sự điều hành, phức loạn và chất đầy những vọng
chấp, phân biệt - nói theo nghĩa chuyên môn của Phật học.
Tất cả sinh diễn theo phản xạ của bản năng phiền não
và tồn tại, vận động như một dòng nước lũ. Nhưng với
sự can thiệp của Ðịnh giác chi, tâm hồn sẽ trở nên yên
tĩnh, và lúc nầy ta có thể bắt đầu theo dõi được dòng
chãy của các tư tưởng trong từng giây phút để xem chúng
xuất hiện, tồn tại và biến mất ra sao. Chẳng những nhìn
thấy được nội tâm của mình, hành giả thậm chí còn thấy
cả tiến trình thay đổi thường trực của thế giới khách
quan mà ở đây, có thể là một âm thanh hay hình ảnh nào
đó. Ðối tượng tri nhận của các giác quan vật chất lúc
nầy sẽ không còn là những thực thể thuần túy và bất
động nữa, mà thành ra những cái bóng chớp nhoáng với nhiều
giai đoạn kế thừa nhau trên một dòng sanh diệt vô thường.
Theo
giáo lý truyền thống thì có đến hai hình thái Thiền định.
Trước hết là thứ thiền định nhắm đến sự tập trung
tư tưởng trên một đối tượng duy nhất đã được chọn
lựa, để nâng cao khả năng chuyên chú. Ðối tượng đó có
thể là hơi thở ra vào hay một hình ảnh màu sắc nào đó
hoặc một khái niệm căn bản như lòng từ bi và thậm chí,
một câu thần chú đã được trao truyền cẩn thận. Hình
thái thiền định thứ hai tạm gọi là thứ thiền định trực
quan, có đối tượng tạm thời và không chuyên nhất, vì loại
thiền định nầy chỉ nắm bắt các đối tượng trong từng
lúc, cái nào xảy đến thì ghi nhận, vậy thôi. Nói thế có
nghĩa là khi tu tập thiền định nầy, hành giả có thể liên
tục thay đổi đối tượng trong mỗi mỗi giây phút, từ những
vận động chuyển đổi của cơ thể đến bất cứ một đối
tượng ngoại giới nào vừa đưa đến như một mùi thơm,
một tiếng động nào đó. Nói rõ hơn, đây chính là thứ
thiền định nhắm tới lý tưởng nội quán, nên vấn đề
đối tượng tri nhận không là quan trọng, tất cả chỉ đặt
trọng tâm ở trình độ tỉnh thức.
Về
công năng của hai hình thái thiền định nầy dĩ nhiên cũng
có điểm khác nhau. Ðành rằng thiền định nào cũng có một
lý tưởng căn bản là làm an tĩnh nội tâm nhưng loại thiền
định thứ nhất (tập trung vào một đối tượng duy nhất
đã chọn sẵn) chỉ có tính năng an tâm tạm thời, khá chật
hẹp vì đối tượng quá giới hạn. Còn với loại thiền
định trực quán, nhờ tính năng linh động nên hành giả có
thể kịp thời xoay trở trước mọi tình huống một cách
hiệu quả hơn.
Thiền
định trực quán nhắm tới tất cả những gì đang xảy ra,
một thực tại Ðang là, Ðang có.Sự tập trung ở đây quả
là một nghệ thuật bởi vì bản chất của nội tâm là khó
điều động, mà yêu cầu của thiền định nầy là sự phản
tỉnh để nhìn ngắm các đối tượng sở tri trong tường
giây phút. Ðó là chưa kể đến chiều dài thời gian mà chúng
ta đã hoang phí trong sự loạn động và chính điều đó đã
hình thành trong ta một thói quen khó bỏ, để mỗi khi bắt
đầu công phu nội quán thì lập tức ta bị cuốn hút và chi
phối mãnh liệt từ phía những tham dục, sợ hãi, nói chung
là tất cả những đối lập lại sự điều động của ta,
nằm trá hình kín đáo trong từng cơn đau đớn, bức xúc sinh
lý, những cơn giận hờn, cảm giác cô đơn, lòng ái luyến
tham chấp hoặc bất cứ một bận rộn lớn nhỏ nào trong
sinh hoạt thường nhật. Ðể dàn xếp tất cả thứ đó, ta
phải tự học được cách thư giản, buông bỏ và vượt khỏi
chúng.
Kinh
nghiệm nầy cũng giống như quá trình trao dồi một ngoại
ngữ mà bí quyết cơ bản vẫn là sự ôn tập, lập đi lập
lại. Mọi chuyện sẽ trôi chãy sau một thời gian không sao
lãng. Vấn đề dĩ nhiên là đòi hỏi chúng ta một nghị lực
bền bỉ và đừng bao giờ tự cho rằng mình bất lực. Trước
chúng ta đã có biết bao người từng đi qua con đường nầy
rồi. Bằng từng bước thực tập với các công phu khám phá
và bình tĩnh, dần dần rồi hành giả sẽ thâu gặt được
lần lượt các thành quả từ ít đến nhiều. Bởi càng lên
cao, càng tự tại trước các chướng pháp, thì ta càng có
cơ hội thưởng thức được tất cả tịnh lạc và bình yên
mà thiền định mang lại. Hơn thế nữa, thành quả cao nhất
của tiến trình nầy còn là sự phấn khích kích thích cho
chặng đường còn lại để ta tiếp tục vững bước trong
đời sống an hoà, tỉnh thức.
Khi
đã đạt được khả năng thuần thục, thiền định của
ta càng dễ dàng vượt qua các trở lực để ngày một tiến
bộ hơn. Chúng ta không được dậm chân tại chổ mà phải
luôn tìm cách nâng cao thiền định. Chúng ta phải làm nhiều
thứ lắm: tự dàn xếp chính mình, chọn lấy những thao tác,
tư thế thích hợp khi thiền định và trên hết là biết xử
lý khéo léo trước tất cả chướng ngại ngăn trở nội tâm
khi chúng vừa xuất hiện.
Trong
một số trường hợp, khi thiền định vừa được bắt đầu
nhen nhúm thì trí tuệ xuất hiện và nếu đối tượng tri
nhận ở đây được linh động thì trí tuệ đó sẽ thành
ra khả năng nội quán sâu sắc vừa đủ cho hành giả ghi nhận
kịp thời tất cả sinh diễn chuyển biến của thân tâm. Nhưng
cũng có khi thiền định không phát triển theo chiều hướng
đó, tức là từ trình độ thiền định thấp hành giả lại
tiến đạt lên cấp độ thiền định khác cao hơn. Từ chuyên
môn gọi đó là trình độ cận định hay thiền định dẫn
nhập. Ở trình độ nầy nội tâm hành giả coi như đã tự
hạn chế tối đa các tạp niệm và gần như gắn chặt vào
đối tượng tri nhận. Lúc đó tất cả tâm lực dường chỉ
dồn hết vào đối tượng, các chướng ngại tinh thần tạm
thời vắng mặt và sự hiện hữu của dòng tâm thức cũng
trở nên yên lắng, êm đềm hơn rất nhiều. Chính cận định
nầy mới chính là ngõ vào trình độ chứng nhập cao nhất
mà thiền định nhắm tới.
Trình
độ cận định là một điểm hội tụ lý tưởng của cùng
lúc nhiều giác chi khác để giúp nó vững mạnh và hữu hiệu
hơn. Và một lúc nào đó, với khả năng nầy, ta sẽ cảm
nhận một kinh nghiệm kỳ diệu, đó là sự chuyên nhất của
ý thức. Ở đây tất cả tạp niệm đều lắng xuống, các
cảm thức chủ quan trở nên vô tư và tất cả kinh nghiệm
thiền định lúc nầy trở thành nguồn động lực đưa ta
vào tiếp diện với thực tại một cách trọn vẹn.
Cận
định là một phương tiện tuyệt vời cho pháp môn thiền
quán, con đường chứng nghiệm bản chất của thân tâm. Bởi
với trình độ tập trung đó, hành giả dễ dàng bắt gặp
tất cả những giai đoạn biến tướng chi li của danh và sắc.
Mọi ảo tượng về cái thuần nhất sai biệt trong các pháp
coi như tan biến trước cái nhìn soi rộng nầy. Ðó chính là
giá trị độc đáo của thiền định nội quán. Vì dù có
đặt cơ sở trên bất cứ mức độ thiền định nào, pháp
môn nầy cũng đều đem lại cho ta một hiểu biết chính chắn
về thực tại và một đời sống nội tâm thật sự tự do.
Mà nói vậy có nghĩa là ta một lần nữa nhấn mạnh tính
cấp thiết của Ðịnh giác chi, bởi rõ ràng là lấy nền
tảng từ đây, mọi hành trình tu chứng với tất cả hình
thái phát triển mới được bắt đầu và nâng cao.
Nói
tóm lại, với bất cứ trình độ thiền định nào, từ các
thiền khóa hay trong đời sống thường nhật, Ðịnh giác chi
luôn giúp ta biết sống dung hợp và cũng cố tâm hồn với
trí tuệ của mình. Càng tu tập, trưởng dưỡng giác chi nầy,
ta sẽ có được tất cả an lạc và hiểu biết một cách
tự tại, cộng thêm một đời sống nằm ngoài mọi hệ lụy,
buộc ràng của các phức cảm phiền não. Ðó cũng chính là
một phần trong cuộc tu của chúng ta.
Tĩnh
giác chi (Khinh an giác chi)