Sách
“Pháp Hành Đưa Đến Bình An" gồm 18 bài Pháp thoại do
Hòa Thượng Thiền S U Pandita diễn giảng trong khóa Thiền
Minh Sát Đặc Biệt 20 ngày từ 10 đến 29 tháng 5 năm 2004 tại
Như Lai Thiền Viện.
Những
bài Pháp thoại này được phiên dịch từ tiếng Miến sang
tiếng Anh và Việt ngay trong khóa thiền. Tỳ Kheo Pháp Luân
phụ trách phần thông dịch sang tiếng Việt và ghi chép lại
để Như Lai Thiền Viện in thành sách hầu phổ biến rộng
rãi đến Phật tử và thiền sinh Việt Nam.
Trong
khuôn khổ của một khoá thiền tích cực, Ngài Thiền Sư đã
trình bày Đạo Phật như là một phương cách sống tỉnh
thức dựa trên Giới, Định, và Huệ để tận diệt ba loại
phiền não. Do đó, sự nghiêm trì giới luật là bước đầu
tối cần thiết cho việc hành thiền. Giới học giúp con người
tránh khỏi thân nghiệp và khẩu nghiệp bất thiện là loại
phiền não tác động. Thiền sinh giữ giới trong sạch sẽ
dễ dàng đạt được sự định tâm khi hành thiền. Định
học giúp tâm ý tập trung, tránh ý nghiệp bất thiện là loại
phiền não tư tưởng. Huệ học giúp tận diệt mọi phiền
não ngủ ngầm trong tâm để thành đạt sự giải thoát.
Ngài
đề cập tổng quát đến bốn pháp hành thiền bảo vệ thuộc
Thiền Vắng Lặng gồm sự quán tưởng đến phẩm tính của
Đức Phật, niệm tâm từ hay Từ Quán, quán tưởng sự ô
trược của cơ thể hay Bất Tịnh Quán, và suy niệm về hiện
tượng chết. Quán tưởng về phẩm tính của Phật làm tăng
trưởng đức tin, yếu tố cần thiết khích động nỗ lực
hành thiền. Từ Quán đem lại 11 lợi ích cho người thực
hành. Bất Tịnh Quán làm suy giảm ái dục để bớt bị dính
mắc. Và suy niệm về hiện tượng chết để khỏi bị nỗi
sợ hãi về cái chết vây bủa và để sống một đời sống
tràn đầy ý nghĩa.
Kế
tiếp, Ngài cho thấy sự toàn bích của Giáo Pháp trong việc
đem lại hạnh phúc thanh cao cho chúng sanh. Giáo Pháp toàn bích
vì tốt đẹp ở chặng đầu, tốt đẹp ở chặng giữa và
tốt đẹp ở chặng cuối. Tốt đẹp ở chặng đầu bởi
vì Giáo Pháp làm tăng trưởng đức tin. Khi nghe Giáo Pháp,
tâm tỉnh thức khỏi si mê và không bị năm chướng ngại
chi phối. Tốt đẹp ở chặng giữa là sự thực hành Giáo
Pháp nghiêm chỉnh sẽ đem lại hai loại hạnh phúc là hạnh
phúc an tịnh và hạnh phúc minh sát. Tốt đẹp ở chặng cuối
là sự hành thiền Tứ Niệm Xứ hoàn mãn sẽ đưa đến sự
chứng đạt Đạo và Quả khiến tâm an nhiên tự tại không
còn bị lay động bởi các pháp thế gian. Đây là sự giải
thoát rốt ráo.
Để
thành đạt mục đích phạm hạnh của đời sống tu hành,
trước tiên phải có đức tính tinh tấn. Thiền sinh phải
nỗ lực trong cả ba giai đoạn hành thiền. Tinh tấn khởi
động để bắt đầu hành thiền. Tinh tấn triển khai trong
khi hành thiền để vượt qua sự lười biếng, dễ duôi. Tinh
tấn hoàn thành để phát triển Tuệ Minh Sát và thành tựu
mục tiêu giải thoát.
Hành
thiền Tứ Niệm Xứ tinh cần và đúng đắn sẽ phát triển
được 37 trạng thái tâm hỗ trợ cho sự giác ngộ được
gọi là 37 Phẩm Trợ Đạo. Phải vận dụng sự tinh tấn để
duy trì chánh niệm liên tục hầu ghi nhận kịp thời và chính
xác các đề mục ngay khi chúng sanh khởi và hoại diệt. Kết
quả là phiền não bị chế ngự và Tuệ Minh Sát được triển
khai. Thái độ hành thiền của thiền sinh phải giống như
gà mái ấp trứng theo như lời dạy của Đức Phật được
ghi lại trong bài kinh “Phát Triển Tâm Linh” thuộc Tương
Ưng Bộ Kinh. Theo đó, sự duy trì chánh niệm không đứt đoạn
để phát triển Tuệ Minh Sát và thành đạt giải thoát cũng
tương tự như sự ấp trứng gà liên tục để trứng có thể
nở ra gà con khỏe mạnh. Và sự ra đời của gà con khỏe
mạnh chính là sự phát sanh trí tuệ giải thoát.
Ngài
Thiền Sư luôn sách tấn thiền sinh nỗ lực hành thiền và
duy trì chánh niệm liên tục để phát triển các Tuệ Minh
Sát. Theo Ngài, bất cứ ai hành trì nghiêm chỉnh pháp hành
Tứ Niệm Xứ đều được gọi là tỳ kheo mà không phân biệt
tu sĩ hay cư sĩ và chắc chắn sẽ đạt được hạnh phúc
bình an.
Thiền
Viện thay mặt thiền sinh và Phật tử đa tạ công đức bao
la của Ngài Thiền Sư đã không quản ngại khó khăn và tuổi
cao vượt trùng dương đến thiền viện hướng dẫn thiền
tập hầu như hàng năm. Thiền Viện cũng xin chân thành cảm
tạ Tỳ Kheo Pháp Luân đã phiên dịch và hiệu đính Pháp thoại
của Hòa Thượng Thiền Sư U Pandita và cho phép Thiền Viện
ấn tống để phổ biến đến Phật tử. Ngoài ra, Thiền Viện
cũng xin tri ân mọi sự hỗ trợ công sức và tài lực của
các thiền sinh và Phật tử khắp nơi để Thiền Viện có
đầy đủ phương tiện hoàn thành sách này. Thiền viện mong
mõi tiếp tục nhận được sự ủng hộ của quý vị cho những
dự án ấn tống kinh sách sắp tới. Cầu mong pháp thí cao
thượng này sẽ là duyên lành trên đường tu tập và thành
đạt trí tuệ giải thoát của quí vị trong tương lai.
Thiền
viện xin được hân hạnh giới thiệu sách “Pháp Hành Đưa
Đến Bình An” đến tất cả thiền sinh và Phật tử việt
Nam.
Trong
tâm từ,
Ban
Tu Thư Như Lai Thiền Viện
Sơ
Lược Tiểu Sử
Hòa
Thượng Thiền Sư U Pandita
Hòa
Thượng Thiền Sư U Pandita sinh ngày 29 tháng 7 năm 1921 tại
thôn Swebosu, làng Tadahgalay, thị trấn Insein, Miến Điện. Ngài
là con thứ chín trong 10 người con của ông U Hpe và bà Daw
Chit Su.
Năm
lên bảy tuổi, Ngài được cha mẹ cho theo học lớp Phật
Pháp dành cho thiếu nhi tại tu viện Kocheh Village Monastery thuộc
tỉnh Pegu với Hòa Thượng U Jagara. Ngài đậu hai kỳ thi sơ
cấp và trung cấp của chương trình Phật Học. Đến năm 1
2 tuổi, Ngài thọ Sa Di với ngài Hòa Thượng Jagara. Năm 18
tuổi, Ngài được thầy gởi đến thọ giáo với Hòa Thượng
Kelasmhay Thera tại tu viện Mahabodhi Forest Monastery làng Kyauktan
Village thuộc tỉnh Pegu.
Khi
vừa đến tuổi 20, Ngài thọ Tỳ Khưu với Hòa Thượng trụ
trì tu viện Mahabodhi Forest Monastery. Vào năm 1946, Ngài đậu
kỳ thi Patama Pan Pali bậc trung cấp tiêu chuẩn được chính
quyền Miến điện tổ chức lần đầu tiên. Một năm sau,
Ngài đậu luôn kỳ thi Phật Pháp cao cấp.
Năm
1948, Ngài đến tu viện New Mahavisuddhyone Monastery và thọ
giáo với ngài Hòa Thượng U Siyatathera. Năm 1949, Ngài đậu
kỳ thi Pháp Sư (Dhammacariya) và năm 1952 kỳ thi Cetiyanganaparigiyatti
do chính phủ Miến điện tổ chức. Ngài được trao danh hiệu
Vibhamsa.
Ngài
nhận dạy Giáo Pháp toàn thời gian cho tu viện New Shwegyin Monastery.
Trong khi dạy học, Ngài tham dự kỳ Kiết Tập Kinh Điển lần
thứ sáu được tổ chức vào năm 1954. Công việc của Ngài
là phụ trách phần tổ chức và hiệu đính phần Phạn ngữ
Pali.
Tuy
nhiên, kể từ năm 1950, Ngài nhận thức được rằng Phật
Pháp sẽ trường tồn nếu pháp học được đi đôi với pháp
hành. Ngài đến học thiền tại Thiền Viện Yangon Sasama Yeiktha
hay còn gọi là Thiền Viện Mahasi vì do Ngài Mahasi sáng lập.
Ngài học Thiền Minh Sát dưới sự hướng dẫn trực tiếp
của Thiền sư Ashin Vicara. Năm 1955, Ngài rời công việc giảng
dạy Giáo Pháp và chú tâm vào việc hành thiền và được
Hòa Thượng Thiền Sư Mahasi giao cho nhiều trách nhiệm tại
Thiền Viện Mahasi.
Tháng
Giêng năm 1959, Ngài tháp tùng Hòa Thượng Thiền Sư Mahasi sang
Tích Lan và ở lại xứ này ba năm để hoằng pháp và giúp
thiết lập chi nhánh tại ngoại quốc cho trung tâm thiền Mahasi.
Về lại Ngưỡng Quang vào năm 1961, ngài hành thiền tích cực
dưới sự chỉ dạy trực tiếp của Hòa Thượng Thiền Sư
Mahasi. Sau đó Ngài phụ tá Hòa Thượng Thiền Sư Mahasi để
hướng dẫn thiền sinh. Một thời gian sau, Ngài trở thành
thiền sư chính thức của Thiền Viện. Ngài hướng dẫn các
tỳ khưu và tu nữ tại các trường thiền Mahasi tại ba nơi
Yangon, Moulmein, và Mandalay. Ngày 22 tháng 8 năm 1982, ngài được
bầu làm Thiền Sư Trưởng (Ovadacariya) Thiền viện Mahasi để
tiếp tục trông coi thiền viện sau khi Hòa Thượng Thiền Sư
Mahasi qua đời.
Năm
1984, lần dầu tiên Ngài sang Anh, Hoa kỳ, và Mã Lai để hướng
dẫn hành thiền tại các quốc gia này. Năm 1985, Ngài sang Nepal
và Úc với sứ mạng tương tự. Năm 1986, Ngài sang Hoa Kỳ
lần thứ hai theo lời mời của tổ chức Buddha Sasana Foundation
để hướng dẫn khóa thiền tại Yucca Valley, Califomia. Ngài
đến hướng dẫn thiền cho nhóm thiền tiền thân của Như
Lai Thiền Viện lần đầu tiên vào năm 1989 trong một khóa
thiền được tổ chức tại tu viện Tuangpulu Monastery ở
Santa Cruz, California. Sau khi thiền viện được thành lập vào
năm 1991, hầu như năm nào Ngài cũng sang hướng dẫn Khoá Thiền
Đặc Biệt Mùa Xuân tại Như Lai Thiền Viện. Ngoài ra, Ngài
còn hướng dẫn các khóa thiền cho trung tâm thiền Insight Meditation
Society ở Barre, Massachussetts.
Trong
sứ mạng hoằng pháp, ngoài việc giảng dạy Giáo Pháp vả
hướng dẫn hành thiền tại nhiều nơi trên thế giới, Ngài
còn thành lập nhiều trung tâm thiền tại Miến Điện, Nepal,
Úc, và Đại Hàn. Ngài đã viết một số sách bằng tiếng
Miến và Anh trong đó có các cuốn In This Very Life, On the Path
to Freedom, The Way to the Happiness of Peace, và The Meaning of
Satipatthana.
Sách được dịch ra tiếng Việt có cuốn Ngay Trong Kiếp
sống Này do Như Lai Thiền Viện ấn tống.
Ngài
Hòa Thượng Thiền Sư U Pandita là một trong ba vị cao tăng
hướng dẫn tinh thần cho Như Lai Thiền Viện kể từ khi Thiền
Viện được thành lập.
Nam
Tassa Bhagavato Arahato
Sammāsambuddhassa
Con
xin thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn
Bậc
A La Hán Cao Thượng
Đấng
Chánh Biến Tri