Sống
trong thời kỳ mà Giáo Pháp và Giới Luật của Đức Phật
còn tồn tại, điều quan trọng cho chư tăng và cư sĩ là phải
tu tập để sống cuộc đời có giá trị. Thực hành Giáo
Pháp và Giới Luật của Đức Phật là sự tu tập theo Tam
Học, Giới-Định-Huệ, hay Sīla-Samādhi-pañña.
Trước
nhất cần phải tu tập Giới để làm cho giới hạnh của
mình được trong sạch. Chư Tăng Ni và cư sĩ phải có Giới
trong sạch, hay giới tịnh, visuddhisīla, mới tiến đến tu
tập Định và Huệ. Giữ Luật Tỳ Khưu, hay Ngũ Giới, hay
Bát Quan Trai Giới, giúp cho thân khẩu được trong sạch, không
tạo nghiệp bất thiện qua thân khẩu chẳng hạn như tránh
không sát sanh, trộm cắp v.v… chế ngự được phiền não
tác động, loại phiền não ảnh hưởng đến hành động và
lời nói. Nhờ vậy bạn có sự cư xử hoà nhã khả ái. Do
đó, nhờ sự giữ giới trong sạch làm nhân, sự cư xử hoà
nhã khả ái là quả. Lợi lạc đầu tiên của sự giữ giới
là bạn không tự chê trách mình. Mỗi khi nhớ đến giới
hạnh trong sạch của mình, bạn cảm thấy an vui, không cảm
thấy hối tiếc, nên không tự chê trách mình. Lợi lạc thứ
hai, bạn không bị chê trách bởi hiền nhân. Lợi lạc thứ
ba là bạn không bị rắc rối bởi luật pháp hiện hành. Lợi
lạc thứ tư là bạn không tái sinh vào khổ cảnh trong kiếp
tương lai do hậu quả bất thiện nghiệp tạo qua thân khẩu.
Như vậy, giới tịnh giúp bạn sống an vui hạnh phúc trong
đời này và đời sau.
Nhờ
có giới, bạn trở nên người có nhân cách xứng đáng. Nếu
là tỳ khưu, bạn trở nên một tỳ khưu có phẩm giá thật
sự của một tỳ khưu. Nếu là cư sĩ, bạn trở nên một
con người có phẩm giá thật sự của một con người. Tại
sao như vậy? Nhờ vào sự thu thúc thân khẩu, bạn không còn
buông lung để tham lam, sân hận cực độ ảnh hưởng đến
hành động và lời nói. Do đó, bạn khắc phục được tham
sân trong con người mình. Bạn trở nên người chiến thắng
phiền não. Thay vì chiến thắng thông thường một cách sai
lạc, bạn chiến thắng với chính mình. Tự mình thắng mình.
Chiến thắng này mang lại cho bạn bình an và hạnh phúc. Nhờ
chính mình có bình an hạnh phúc, nên bạn mang lại bình an
hạnh phúc cho mọi người chung quanh. Nhờ giới học, bạn
tạo lợi ích cho bản thân và xã hội. Do đó, thực hành sự
giữ giới, rèn luyện Giới học, sīla-sikkhā, không phải giới
hạn trong Phật tử mà tất cả mọi người khác không có
cùng đức tin cũng nên thực hành.
Giới
học làm cho hành động và lời nói trong sạch, nhưng không
giúp cho tâm trong sạch. Bạn có thể suy nghĩ điều bất thiện
như có ý muốn giết hại, ngược đãi, có ý muốn chiếm
đoạt, tà hạnh, hay dối trá, v.v... Đây là loại phiền não
tư tưởng. Muốn ngăn ngừa phiền não tu tưởng, cần phải
tu tập Định học qua sự thực hành chánh niệm trong thiền
tập. Do duy trì chánh niệm, bạn không dính mắc vào những
đối tượng sinh khởi qua mắt thấy, tai nghe, v.v. làm phát
sinh ưa ghét, tạo nên các tư tưởng bất thiện như chiếm
đoạt, lừa đảo, sân hận, v.v...Nhờ chánh niệm giúp ngăn
ngừa không cho sinh khởi các tư tưởng bất thiện, và diệt
trừ được các tư tưởng này ngay khi chúng phát sinh trong
tâm. Tâm được chánh niệm bảo vệ trong sạch. Do đó nhờ
Định học, samadhi-sikkhā, bạn trở nên người có nhân tâm
thật sự.
Giới
học giúp cho thân khẩu trong sạch. Định học giúp cho tâm
được trong sạch. Tuy nhiên, thân khẩu ý vẫn còn bị ảnh
hưởng bởi si mê. Si mê thuộc loại phiền não ngủ ngầm,
ẩn tàng trong tâm bộc phát thành tư tưởng và cuối cùng
là thân khẩu. Si mê là gốc rễ bất thiện của tư tưởng
và thân khẩu. Muốn diệt tận si mê, phiền não ngủ ngầm,
cần phải thực hành Tuệ học, pañña-sikkhā. Kết quả của
sự tu tập này đem lại sự thành tựu trí tuệ minh sát, hay
Minh Sát tuệ, vipassana-nañña, và Thánh Tụệ, ariya-nañña.
Nhờ trí tuệ, biết được đúng sai, bạn bảo vệ được
thân khẩu ý ít nhất bạn phải chứng đắc cho được tầng
thánh đầu tiên. Dù rằng bạn chưa tận diệt được tất
cả các ô nhiễm, nhưng bạn thoát được các ô nhiễm bậc
thô tức phiền não tác động. Thành đạt mục tiêu này, bạn
thăng tiến từ phàm nhân hay người còn bị phiền não dính
mắc, puthujjana, để trở thành thánh nhân, ariya, người thoát
khỏi phiền não, người trong sạch và cao thượng. Do đó,
nhờ Tuệ học, bạn trở nên người có minh trí, người có
trí tuệ thật sự.
Đức
Phật là người trong sạch, ngài tuyên dạy Chánh Pháp và Chánh
Luật. Ngài tự mình thực hành Chánh Pháp, loại trừ tất
cả ô nhiễm và đến được vùng bình an. Ngài được gọi
là Thiện Thệ, sugata, là người đã đi trên chánh đạo và
đến được đúng nơi. Ngài chỉ dẫn Chánh Pháp và Chánh
Luật để giúp chúng sanh thực hành. Nếu một ai thực hành
theo sự chỉ dẫn, sẽ được hưởng lợi lạc. Thiện Thệ
cũng mang ý nghĩa là nói những gì đúng đắn và lợi ích.
Thế nên, nếu thực hành đúng theo Chánh Pháp và Chánh Luật,
bạn sẽ đi đúng theo Chánh Đạo và sẽ đến được đúng
nơi. Một khi chính bạn thực hành và đạt kết quả cuối
cùng là đến đúng nơi, bạn giúp chỉ dạy lại cho người
khác để họ cũng đạt được kết quả như vậy. Đây là
phẩm tính Thiện Thệ.
Đức
Phật chỉ dạy những gì đúng và chỉ nói những gì mang lợi
ích với tâm bi mẫn phát xuất từ trí tuệ toàn giác của
Ngài, sabbaññnnuta-ñāna. Tuy vậy, không phải lúc nào Đức
Phật cũng nói hay dạy cho tất cả mọi người ở tất cả
mọi nơi. Ngài hiểu được khi nào nên nói, nói đúng lúc,
đúng với đối tượng. Ngài xem xét người được dạy có
đủ đức tin, hay có đủ duyên, đủ quyết tâm, hay đủ trình
độ tâm linh sẵn sàng để lãnh hội, Ngài mới giảng dạy.
Có khi Ngài dùng lời khen tặng nhằm khuyến khích, có khi Ngài
dùng lời chê trách nhằm cảnh tỉnh để đưa họ trở lại
chánh đạo. Cho dù người nghe có thích hay không thích, Ngài
luôn luôn chỉ dạy như vậy vì chỉ muốn mang lại lợi lạc
cho người này mà thôi. Giống như y sĩ cho thuốc tùy theo bệnh
trạng có khi cần phải cho thuốc ngọt có lúc cần phải cho
thuốc đắng, nhằm mục đích chữa trị cho người bệnh được
bình phục.
Phẩm
tính Đức Phật là dạy để đi đúng đường. Công việc
của Ngài là giúp hướng dẫn để trở về đúng đường.
Với lòng bi mẫn, Ngài luôn luôn dạy chúng sanh đi đúng đường,
không bao giờ chỉ sai đường. Với trí tuệ toàn giác, Ngài
biết cách dạy đúng người, và có khả năng đem người trở
lại đúng đường, để không bị đau khổ vỉ đi lạc đường.
Ngài có cả hai trí tuệ và lòng bi mẫn để dạy dỗ chúng
sanh. Nếu chỉ có trí tuệ suông thôi không thể làm được
điều này.
Mỗi
khi bạn đọc “Buddhaṁ saranaṁ gaccāmi”, “Con xin quy y Phật”.
Tại sao phải quy y Phật? Vì Đức Phật là bậc trí tuệ toàn
giác hướng dẫn đúng đường, và có lòng bi mẫn không muốn
chúng sanh đau khổ vì lạc đường. Ngài là người hướng
dẫn nên do vậy bạn xin nương tựa nơi Ngài.
Khi
bạn hiểu được đâu là đúng và đâu là chánh đạo, bạn
sẽ đến được đúng nơi. Giáo Pháp có hai phẩm tính. Thứ
nhất, nếu bạn thực hành đúng theo Giáo Pháp, đi đúng theo
Chánh Đạo, sẽ không bị rơi vào khổ cảnh, con người bạn
được thăng cao. Thứ hai, đến được đúng nơi. Đi trên
Chánh Đạo là nhân, đến đúng nơi chốn là quả. Đây là
hai phẩm tính của Giáo Pháp. Do vậy, Giáo Pháp xứng đáng
để cho bạn nương tựa và tu tập “Dhammaṁ saranaṁ
gaccāmi” “Con xin quy y Pháp.”
“Đi
đúng đường, đến đúng nơi”. Đây không phải là một
triết lý suông. Chính Đức Phật đã tự mình thực hành và
đã đến được đúng nơi. Do đó chính Đức Phật đã thực
hành và đạt được mục đích như vậy. Giáo Pháp của Ngài
hình thành từ sự thực hành, không phải từ sự mộng mơ
hay tưởng tượng. Chính bạn phải thực hành mới đi đến
nơi. Thực hành đúng như được chỉ dạy, bạn sẽ đến
được nơi an lành. Nếu được chỉ dẫn một đàng, bạn
thực hành một nẽo, hay thực hành không đến nơi chốn, bạn
sẽ không đến được đúng nơi. Những ai đi đúng đường,
đến được đúng nơi, maggapṭipanna, mới trở nên đệ tử
thật sự của Đức Phật. Các thánh đệ tử, những thành
viên của Tăng Đoàn, là những người xứng đáng để nương
tựa và học hỏi. “Sanghaṁ saranaṁ gaccāmi”, “Con xin quy
y Tăng.”
Đức
Phật đã đi đúng đường, đến đúng nơi. Với trí tuệ
toàn giác cùng với tâm đại bi của Ngài, mahākaruna, Ngài
hướng dẫn chúng sanh, giúp họ đi được đúng đường,
đến được đúng nơi. Do vậy, tất cả các thiền sinh nên
cố gắng tu tập để thành đạt mục tiêu cuối cùng. Nếu
thực hành đúng theo sự chỉ dạy, chắc chắn bạn sẽ đến
đúng nơi.