Trong
thiền vắng lặng, hành giả chú tâm liên tục trên một đối
tượng duy nhất không thay đổi như đĩa đất kasina, hay chú
tâm vào đối tượng là người thân như trong thiền tâm Từ.
Thực hành thiền vắng lặng không cho hành giả đạt sự hiểu
biết như phân biệt được tâm và vật chất hay danh sắc,
hiểu rõ sự tương quan nhân quả, và hiểu được sự sanh
diệt của đối tượng quan sát. Trái lại, trong sự thực
hành thiền minh sát, dù rằng sự chánh niệm được giữ trên
các đối tượng luôn luôn thay đổi, luôn luôn mới, nhưng
giúp hành giả hiểu được thế nào là tâm và vật chất,
sự tương quan nhân quả, và đặc tính sinh diệt của các
đối tượng quán sát. Trong thiền vắng lặng, vì không cho
hành giả sự hiểu biết về tâm và vật chất nên hành giả
có sự chấp giữ những quan kiến như tin về sự hiện hữu
của một tự ngã, hay linh hồn, hay một đấng Sáng Tạo. Hay
hành giả không hiểu được sự tương quan nhân quả, sẽ
tin nơi sự không có quả báo, hoặc chỉ tin vào nhân duyên
một cách sai lạc làm cho hành giả tin có sự hiện hữu một
đấng Tối Cao tạo ra muôn loài, tạo ra vũ trụ. Đây là những
sự tin tưởng sai lầm. Khi không có sự hiểu biết về sự
sanh diệt hành giả sẽ hiểu sai lạc. Nếu chỉ tin vào sự
sinh mà không có sự diệt, hành giả sẽ tin vào sự thường
còn vĩnh viễn, hay thường kiến. Hoặc chỉ tin vào sự diệt
không thôi, sẽ tin vào không có tái sinh, chết là hết, hay
đoạn kiến. Do đó nếu không hành thiền minh sát, không có
trí tuệ minh sát, hành giả sẽ tiếp tục mang trong tâm những
sự tin tưởng sai lầm như vậy trong suốt nhiều đời nhiều
kiếp. Vì thế, chính vì tính chất tục thế của tâm định
đạt được trong thiền vắng lặng, nên hành giả chỉ đạt
được sự an tịnh nơi tâm chứ không đạt được trí tuệ
để giúp hành già buông bỏ các tà kiến.
Sát
na định, khaṇika samādhi, là sự gom tâm thành một điểm
trong một khoảnh khắc khi tâm ghi nhận hay có sự chánh niệm,
hình thành ngay lập tức khi đề mục xuất hiện. Sát na định
là loại định tâm rất quen thuộc đối với hành giả thiền
minh sát. Sát na định còn có đặc tính khác là sự gắn chặt
cực mạnh vào đề mục, gom tụ tâm vào một điểm tương
đương với cận định trong thiền vắng lặng. Sát na định
chỉ sinh khởi khi có chánh niệm được giữ không gián đoạn,
qua sự luôn luôn ghi nhận và liên tục ghi nhận đề mục.
Nhờ sự liên tục của chánh niệm ở thời điểm trước
và thời điểm kế tiếp, nên không cho các chướng ngại tâm
chen vào được.
Khi
sát na định phát triển mạnh mẽ, minh sát tuệ hình thành.
Hành giả thấy sự sinh diệt vô cùng mau lẹ của đề mục
quán sát. Trong khoảnh khắc này, tâm hành giả hoàn toàn vắng
bóng các chướng ngại tâm như ái dục, sân hận, dã dượi
buồn ngủ, phóng dật hối tiếc, và hoài nghi. Do đó, tâm
trở nên an tịnh. Đặc biệt khi hành giả đạt được tuệ
giác xả hành, sankhārupekkha-ñāṇa, tâm hành giả trở nên
cực kỳ định tĩnh, không thể bị các chướng ngại tâm
này ảnh hưởng.
Khi
sự định tâm mạnh mẽ, tâm trở nên định tĩnh và được
gọi là chứng đắc thiền jhāna.
Có
hai loại chứng đắc thiền: Chứng đắc qua thiền vắng lặng
āramanūpa-jhāna hay samatha-jhāna và chứng đắc qua thiền minh
sát lakkhanūpa-jhāna hay vipassanā-jhāna.
Trong
thiền vắng lặng, hành giả thành tựu trạng thái định tĩnh
này bằng sự quan sát liên tục đề mục như dĩa đất kasina.
Khi hành giả thấy được dĩa kasina hiện rõ trong tâm, hành
giả đắc thiền.
Trong
thiền minh sát, hành giả đắc thiền trong hai trường hợp:
đắc thiền trong khi quán sát đề mục phát triển tuệ minh
sát, và đắc thiền khi chứng đạt Đạo Quả.
Trong
trường hợp thứ nhất, hành giả thành tựu trạng thái định
tĩnh khi đạt tuệ giác phân biệt tâm và vật chất, hay tuệ
giác phân biệt danh sắc, hay khi hành giả hiểu được
đặc tính riêng của đề mục, sabhāva lakkhaṇa. Như trong
lúc quán sát phồng xẹp, hành giả thấy được đặc tính
riêng của vật chất biểu hiện của tứ đại như yếu tố
gió là sự chuyển động, hay của yếu tố đất là cứng
mềm, của yếu tố lửa là nóng lạnh, hay của yếu tố nước
là sự dính chặt hay ẩm ướt. Hay thấy đặc tính riêng của
tâm biểu hiện qua sự nhận biết, buồn vui, ưa, thích, sướng,
khổ..v.v... Hoặc hành giả thành tựu trạng thái định tĩnh
này khi thấy đặc tính chung, samañña lakkhaṇa, biểu hiện
qua sự sinh diệt của đề mục. Tâm hành giả có sự định
tĩnh. Hành giả chứng đắc tầng thiền minh sát.
Trong
trường hợp thứ hai, hành giả đắc tầng thiền minh sát
và chứng đạt sự diệt tận của danh sắc, thành đạt Đạo
Quả. Hãy tạm thời để vấn đề này qua một bên.
Hãy
đề cập đến hai chi thiền tầm, vilakka, và tứ, viccāra,
trong thiền định. Khi quán sát đề mục, hành giả hướng
tâm một cách chính xác và trực tiếp vào đề mục, đây
là đặc tính của chi thiền tầm. Sau khi đặt tâm trên đề
mục, chi thiền tứ hình thành qua sự chà sát đề mục và
giữ yên trên đề mục. Khi hai chi thiền này có mặt liên
tục làm chế ngự được các chướng ngại tâm như ái dục,
sân hận dã dượi, buồn ngủ v.v..không để chúng xâm nhập
tâm. Tâm vắng bóng phiền não. Tâm trở nên an tịnh, tĩnh
lặng. Trạng thái này gọi là tâm ẩn cư phiền não. Kế đến,
hành giả cảm thấy hoan hỉ biểu hiện qua các hình thức
như nổi óc, rờn rợn..và hành giả cảm thấy dễ chịu,
an lạc, hạnh phúc. Tâm hành giả trở nên định tĩnh gom tụ
thành một điểm, ekkagatā. Tóm lại, hành giả chứng đắc
thiền định qua sự phát triển liên tục bằng các chi thiền
tầm, tứ, hỉ, lạc, và nhất tâm.
Trong
thiền minh sát, sự đắc thiền minh sát cũng được khởi
đầu nhờ yếu tố tầm. Khi quán sát phồng xẹp, phải vận
dụng sự hướng tâm về đề mục, là tầm. Lúc ban đầu,
cần phải có yếu tố tầm, làm trung gian giữa chánh niệm
và đề mục để nhận thấy được đặc tính riêng của
đề mục, vì chánh niệm chưa làm quen với đề mục. Giống
như một người lạ muốn vào gặp vua, không thể trực tiếp
gặp nhà vua được, trước nhất cần có người trung gian
tiến dẫn đến cho gặp vua. Sau này, quen dần, không còn cần
người tiến dẫn nữa. Cũng như vậy, lực đầu cần phải
có sự hướng tâm về đối tượng hay tầm làm trung gian giữa
chánh niệm và đề mục. Chánh niệm nhờ đó được giữ
liên tục trên đề mục như thể xúc chạm, chà sát đề mục.
Đây là biểu hiện của yếu tố tứ, sự xúc chạm và chà
sát đề mục. Lúc này coi như chánh niệm có sự quen thuộc
được đề mục. Do đó, nhờ sự phát triển của tầm và
tứ, chánh niệm tăng trưởng sự tiếp xúc và duy trì trên
đề mục mạnh hớn nữa, tăng trưởng sự quen thuộc với
đề mục hơn nữa. Đến lúc này, hành giả cảm thấy tự
tin với sự thực hành của mình. Hành giả cảm thấy hoan
hỉ, sung sướng, bình an, đưa đến sự an tịnh trong tâm.
Tâm trở nên định tĩnh. Hành giả kinh nghiệm sự đắc thiền
minh sát.
Theo
tiến trình thiền tập, sức mạnh sát na định trở nên mạnh
mẽ bảo vệ tâm không bị phiền não xâm nhập. Tâm không
còn bị giao động, trở nên an tỉnh. Giống như một 1y nước
bị quấy đục với cặn.bã, khi được để yên, dần dần
nước bớt đục, cặn bã lắng đọng xuống đáy ly, cuối
cùng chỉ còn nước trong bên trên, cặn bã nằm bên dưới.
Cũng giống như vậy, khi sát na định trở nên mạnh mẽ ngăn
chận không để các ô nhiễm ái dục, sân hận, dã dượi
buồn ngủ, v.v.. xâm nhập tâm, tâm trở nên trong sạch an tịnh.
Nhờ tâm an tịnh, phát sinh sự hiểu biết như khả năng nhận
thấy thế nào là
đề
mục quán sát và thế nào là tâm ghi nhận, hay sự phân biệt
được tâm và vật chất (namā và rūpa), còn gọi là danh sắc.
Hành giả cũng hiểu được thế nào là tương quan nhân quả
của các hiện tượng tâm và vật chất. Đây là minh sát tuệ
đầu tiên. Thấy được tác ý là tâm làm nhân, chuyển động
là vật chất hay sắc, là quả. Hoặc thấy vật chất là nhân,
tâm là quả, hay tâm là nhân, tâm là quả, hay vật chất làm
nhân tạo ra vật chất là quả. Hành giả hiểu được rõ
ràng tương quan nhân quả của các hiện tượng. Tiếp tục
phát triển sát na định sẽ đưa đến sự hiểu biết bản
chất sinh diệt của tâm và vật chất. Hành giả hiểu được
đặc tánh chung của các pháp là vô thường, bất toại nguyện,
và thấy rằng tất cả các hiện tượng tâm và vật chất
chỉ đơn thuần là một tiến trình, mả không có cái tôi
ta, tự ngã, hay linh hồn nào trong tiến trình này.
Theo
sự tiến triển trong thiền tập, sức mạnh của chánh niệm
và sát na định ngày càng phát triển hơn nữa, hành giả kinh
nghiệm các pháp sinh diệt vô cùng mau lẹ. Tâm không bị phiền
não chi phối do năng lực chánh niệm được duy trì liên tục.
Ở giai đoạn này, ái dục, kāmacchanda nīvaraṇa, tạm
thời không còn sinh khởi. Hỉ, lạc phát sinh. Tâm an tịnh
một cách phi thường. Trạng thái này tương đương với sự
thành đạt cận định hay nhập thiền trong thiền vắng lặng.
Đặc
biệt khi hành giả đạt tuệ giác cao hơn như tuệ sinh diệt,
udayabbaya-ñāṇa, hay tuệ diệt, bhanga-ñāṇa, sát na định
càng trở nên mạnh nhiều hơn nữa. Hành giả cũng chứng nghiêm
được hỉ, lạc, hay ánh sáng v.v... là những kết quả đem
lại sự vui thích, khích lệ, làm cho hành giả không còn thoái
thác trong thiền tập. Chánh niệm giờ đã quen thuộc với
đề mục nên không còn nhờ yếu tố tầm làm trung gian. Thiền
tập trở nên có trớn mạnh, không còn khó khăn như trước
kia. Chánh niệm tự động hướng đến đề mục và tự động
duy trì trên đề mục. Hành giả không còn cần phải cố gắng
đưa tâm về đề mục và cố sức duy trì chánh niệm trên
đề mục. Hai yếu tố tầm và tứ giờ đây không còn. Hỉ
lạc phát sinh càng mạnh hơn. Hành giả vui thích với hỉ lạc
nhiều hơn. Hành giả có khuynh hướng dính mắc vào các cảm
giác sung sướng, lâng lâng, an lạc... Sự dính mắc vào các
cảm giác, nikanti, làm cho đình trệ pháp hành. Hành giả phải
tiếp tục gia tăng chánh niệm vào tất cả các hiện tượng,
sao cho sự dính mắc không còn xuất hiện nơi tâm nữa.
Chúng
ta đã bàn qua các điểm khác biệt giữa thiền vắng lặng
và thiền minh sát. Trong thiền chỉ, đề mục hành thiền thuộc
về tục đế. Hành giả chú tâm quán sát đề mục cố định,
làm cho tâm định tĩnh. Trong thiền minh sát, đề mục hành
thiền thuộc về chân đế. Hành giả quán sát tất cả các
hiện tượng tâm và vật chất sinh khởi, hình thành tuệ minh
sát. Hành giả hiểu được thế nào là thân tâm, hay danh sắc,
thế nào là nhân quả, và hiểu được ba đặc tánh: Vô Thường,
Bất Toại Nguyện, và Vô Ngã, để cuối cùng chứng đạt
Đạo Quả.
Do
đó, thay vì thực hành thiền chỉ, bạn có thể trực tiếp
hành thiền minh sát để thành đạt thánh quả.