Trong
bài kinh “Phát Triển Tâm Linh”, bài kinh số 149, Phẩm VII,
thuộc Tương Ưng Bộ Kinh, Đức Phật so sánh sự hành thiền
Minh Sát với sự ấp trứng của gà. Ngài giảng bài kinh này
nhằm mục đích giúp cho hội chúng là những người sống
ở thôn quê hiểu được bản chất sự tu tập. Đối với
những ai sống ở thôn quê sẽ hiểu dễ dàng việc gà ấp
trứng, nhưng đối với người sống thị thành thì khó hiểu
thấu đáo được việc này. Tuy nhiên bài kinh diễn tả rất
đầy đủ chi tiết sống động, rất dễ hiểu.
Muốn
trứng nở đúng thời hạn và gà con được chào đời mạnh
khỏe, gà không thể chỉ ước muốn suông. Gà phải làm tròn
ba bổn phận: ấp đủ thời gian đòi hỏi, cung cấp thân nhiệt
truyền sang cho trứng, và cung cấp mùi để bảo vệ trứng.
Chỉ một việc ấp trứng, nhưng tạo nên hai kết quả: hơi
nóng và mùi. Ngoài ra, việc ấp trứng còn tạo thêm năm lợi
ích: (1) ấp đủ lâu theo thời gian đòi hỏi, (2) cung cấp
thân nhiệt đầy đủ, (3) cung cấp mùi để trúng không bị
hư, (4) hơi nóng từ thân giữ trứng được khô ráo, không
bị ẩm ướt, nhờ vậy vỏ trứng trở nên mỏng dần và
(5) giúp điều kiện cho sự tượng hình, chân, cánh, mỏ...
phát triển trọn vẹn. Đúng thời gian đòi hỏi chừng đôi
ba tuần, gà con lớn mạnh, chân mỏ đủ cứng cát, phá được
vỏ trứng, sanh ra mạnh khỏe an toàn.
Việc
hành thiền cũng tương tự như việc gà ấp trứng liên tục.
Thiền sinh phải giữ chánh niệm liên tục vào phồng xẹp,
quán sát các hiện tượng tâm và vật chất. Thiền sinh quán
sát vật chất qua sự biểu hiện đặc tính riêng của Tứ
Đại. Yếu tố gió thể hiện bằng sự thở ra vô, rất dễ
thấy. Vì yếu tố gió thể hiện rõ ràng nhất, dễ theo dõi
nhất trong sự hít thở, nên hơi thở được dùng làm đề
mục hành thiền trong pháp thiền chỉ và thiền minh sát. Trong
kinh Tứ Niệm Xứ, Đức Phật dạy rằng trong Tứ Đại, yếu
tố gió biểu hiện rõ ràng nhất. Thiền sinh quán sát yếu
tố gió thể hiện trong chuyển động phồng xẹp của bụng,
hay trong chuyển động dở, bước, đạp của chân, cũng như
khi đứng lên hay ngồi xuống.
Giống
như khi gà ấp trứng, gà phải ngồi vào ổ một cách thận
trọng, không làm vỡ trứng, và phải xòe cánh bao phủ trọn
vẹn tất cả trứng, không để hơi lạnh len vào làm hư trứng.
Bằng sự tinh tấn, vận dụng nỗ lực hướng tâm về đối
tượng, chánh niệm, cẩn thận quán sát đối tượng bằng
sự chuyên cần, tỉnh giác và năng động luôn luôn, giống
như gà luôn luôn cung cấp hơi nóng cho trứng. Chánh niệm ghi
nhận không bỏ sót hiện tượng, không để phiền não xâm
nhập vào tâm, giống như gà cung cấp hơi nóng liên tục, bao
phủ trọn vẹn ổ trứng, không để hơi lạnh len vào.
Định
tâm phát triển giúp cho trí tuệ hình thành, bắt đầu là
tuệ phân biệt được thân tâm, hay danh sắc, kế đến tuệ
phân biệt nhân duyên, và sau đó là tuệ thấy được tam tánh:
vô thường, bất toại nguyện, và vô ngã của các pháp. Khi
thấy rằng tất cả các pháp đều sinh diệt, không có gì
thường còn, thiền sinh bỏ ngã mạn. Khi hiểu được đặc
tánh khổ nơi các pháp, thấy không có sự vui thích nào trong
các pháp, thiền sinh bỏ sự dính mắc tham ái nơi các pháp.
Khi thấy rằng chỉ đơn thuần là một tiến trình sinh diệt
của tâm và vật chất, thiền sinh hiểu rằng chẳng có thực
chất, có tôi ta, hay tự ngã, linh hồn trong tiến trình này,
thiền sinh buông bỏ tà kiến về ngã. Tương tự với sự
cung cấp hơi nóng bảo vệ cho trứng không hư, thiền sinh khi
đã hiểu ba đặc tánh của các pháp, tâm không còn mang tà
kiến, giống như trứng không bị hư, trứng tiếp tục phát
triển. Cũng vậy, thiền sinh tiếp tục hiểu ngày một sâu
sắc hơn, trí tuệ không còn bị thoái hóa, thái độ tu tập
trở nên tích cực hơn, tinh tấn hơn, không muốn bỏ thiền
tập. Thiền sinh trở nên chuyên cần trong chánh niệm bằng
cách niệm ngay khi sự phồng xẹp xuất hiện, và niệm liền
theo với sự phồng hay xẹp khác xuất hiện kế tiếp, thiền
sinh liên tục niệm không ngừng nghỉ vào đối tương quán
sát.
Sự
quán sát càng ngày càng rõ dần, chánh niệm trở nên bén nhạy,
làm cho tâm định ngày càng sâu sắc hơn. Thiền sinh có sự
tỉnh giác hoàn toàn nơi đối tượng quán sát, sampajañña,
hay minh sát tuệ. Có nghĩa thiền sinh hiểu trọn vẹn, chính
xác, phân biệt thân và tâm, tương quan nhân duyên rõ ràng,
thấy sự sinh diệt của đối tượng biện biệt, hiểu được
ba đặc tánh Vô Thường, Bất Toại Nguyện, và Vô ngã trong
từng đề mục. Hết đề mục này biến đi, nối tiếp theo
là đề mục mới, thiền sinh quán sát hên tục cùng với sự
hiểu biết trọn vẹn đề mục. Như vậy, thiền sinh quán
sát sự lập đi lập lại của đối tượng và có sự hiểu
biết đề mục hoàn toàn, theo đúng như ý nghĩa, anupassanā.
Khi quán sát các hiện tượng vật chất sinh khởi nơi thân,
thiền sinh thực hành đầy đủ theo ý nghĩa “quán thân trong
thân”, nói cách khác, thiền sinh thực hành đúng đắn pháp
Tứ Niệm Xứ. Ở giai đoạn này, thiền sinh không còn muốn
pháp hành bị thoái bộ, cũng như trí tuệ bị đình trệ.
Thiền sinh chỉ muốn sự thực hành của mình tiến bộ nhiều
hơn nữa, mở mang sự hiểu biết sâu rộng hơn nữa.
Trở
lại tiến trình ấp trứng của gà. Nhờ hơi nóng cung cấp,
trứng được giữ khô ráo, làm cho vỏ trứng mỏng dần. Bằng
cách giữ chánh niệm liên tục nơi đề mục, thiền sinh hiểu
được ba đặc tánh của các pháp, nên buông bỏ tham ái và
tà kiến, có được chánh kiến. Nhờ có chánh kiến, nên không
còn vô minh. Sự vô minh ngày càng bớt dần theo công phu tu
tập, giống như vỏ trứng trở nên mỏng đần do ảnh hưởng
của hơi nóng. Vì không còn tham ái, nên không còn dính mắc,
do đó không còn muốn tiếp tục hiện hữu, không muốn tái
sinh. Phiền não tham ái, tanhā, làm bợn nhơ tâm bớt dần,
giống như vỏ trứng mỏng dần. Vì không còn tà kiến về
ngã nên không còn ham muốn tái sinh hay hiện hữu. Phiền não
ngã kiến làm bợn nhơ tâm giảm dần, tương tự như vỏ trứng
mỏng dần. Giống như những kết quả đạt được từ bổn
phận ấp trứng của gà, thiền sinh đạt được sự hiểu
biết, loại bỏ tà kiến, khắc phục phiền não, làm “mỏng
vỏ” vô minh, là những kết quả mang lại từ sự hoàn thiện
bổn phận giữ chánh niệm của thiền sinh. Phiền não bị
khô cạn dần theo tiến trình thiền tập một cách tự nhiên,
không cần phải mong ước. Thiền sinh làm đầy đủ bổn phận
đòi hỏi là vận dụng tinh tấn, cố gắng hướng tâm đến
đề mục, thiết lập chánh niệm, duy trì chánh niệm liên
tục, gắn chặt vào đối tượng quán sát. Kết quả là sát
na định hình thành làm khai mở trí tuệ, khắc phục được
vô minh và phiền não. Tất cả được thành tựu một cách
tự nhiên không cần mong cầu. Đây là điều không thể
phủ nhận được. Do đó, thực hành đúng chắc chắn sẽ
đem lại kết quả, là đặc điểm thực tiễn của pháp hành.
Không
còn vô minh, có nghĩa trước đây không hiểu biết, bây giờ
có hiểu biết, và trước đây hiểu sai, bây giờ hiểu đúng.
Trước đây không hiểu sự thật về khổ, bây giờ hiểu
thế nào là khổ, nên không nghĩ rằng khổ là vui. Trước
đây không hiểu tham ái là nguyên nhân khổ, bây giờ hiểu
tham ái mới đúng là nguyên nhân khổ, nên không còn nghĩ rằng
tham ái là nguyên nhân của sự vui sướng. Trước đây không
hiểu sự chấm dứt khổ là hạnh phúc, bây giờ hiểu sự
chấm dứt khổ mới đúng là hạnh phúc, nên không còn nghĩ
rằng đó là sự chấm dứt hạnh phúc. Trước đây không hiểu
thế nào là con đường diệt khổ, bây giờ hiểu thế nào
là con đường diệt khổ, nên không còn nghĩ rằng đó là
con đường chấm dứt hạnh phúc.
Khi
thiền sinh phân biệt được thân và tâm, vô minh giảm dần;
phân biệt được tương quan nhân duyên, vô minh giảm dần;
thấy được sự sinh diệt, và tam tánh, vô minh giảm dần.
Đặc biệt khi đến tuệ Xả hành, sankhārupekkhāñāṇa, thiền
sinh thấy sự sinh diệt tức thời, vô cùng mau lẹ, vô minh
chấm dứt. Trên đường thực hành, sự tu tập làm cho màn
vô minh từ dày đặc sang mỏng dần. Giống như gà con theo
thời gian phát triển chân, móng, ngày càng cứng cáp, vỏ trứng
mỏng dần. Hành thiền ngày càng tiến bộ, thiền sinh phát
triển tuệ minh sát càng ngày càng sâu sắc, vô minh theo đó
giảm dần.
Có
câu “Thực hành thiền Tứ Niệm Xứ là thực hành tất cả
các pháp” hay “Tất cả các pháp đều nằm trong thiền Tứ
Niệm Xứ”. Điều này có nghĩa, thực hành Tứ Niệm Xứ
là thực hành Thất Giác Chi, hay Thất Giác Chi được thành
tựu do sự tu tập Tứ Niệm Xứ như đã được bàn trước
đây.
Do
sự cố gắng duy trì chánh niệm, làm ngăn chận không cho phiền
não sinh khởi, phản ảnh yếu tố thứ nhất của Tứ Chánh
Cần là tinh tấn ngăn chận bất thiện pháp chưa sinh khởi,
không làm cho sinh khởi. Do sự cố gắng duy trì chánh niệm
tiêu diệt phiền não đang sinh khởi, phản ảnh yếu tố thứ
hai của Tứ Chánh Cần là tinh tấn tiêu diệt bất thiện pháp
khi đã sinh khởi, không cho tiếp tục phát triển. Tương tự,
đối với hiệu quả của sự duy trì chánh niệm giúp phát
triển các tâm thiện được sinh khởi, và làm phát triển
tốt đẹp các tâm thiện đã sinh khởi, phản ảnh yếu tố
thứ ba và thứ tư của Tứ Chánh Cần. Do đó, bằng sự thực
hành Tứ Niệm Xứ, thiền sinh thực hành được luôn Tứ Chánh
Cần.
Trong
sự thực hành, có lúc thiền sinh dựa vào sức mạnh ý muốn
(Dục) thành công, có lúc dựa vào sức mạnh tinh tấn (Tinh
Tấn) để vượt qua trở ngại, có lúc tùy thuộc vào sức
mạnh của tâm kiên định (Tâm Lực) không rút lui, và có lúc
tùy thuộc vào sức mạnh của trí tuệ (Trí). Đây là phản
ảnh nội dung của Tứ Như Ý Túc: Dục, Tinh Tấn, Tâm Lực
và Trí Tuệ. Do đó, bằng sự thực hành Tứ Niệm Xứ, thiền
sinh thực hành được luôn Tứ Như Ý Túc.
Khi
thiền sinh kinh nghiệm được sự sinh diệt mau lẹ của các
pháp, Ngũ Căn và Ngũ Lực bắt đầu phát triển. Các yếu
tố Tín, Tấn, Niệm, Định, và Tuệ phát triển trên đường
tu tập. Như vậy, Ngũ Căn, Ngũ Lực cũng được phát triển
trong khi thực hành Tứ Niệm Xứ.
Ngoài
ra, khi hành thiền Tứ Niệm Xứ, thiền sinh thực hành trọn
vẹn Tam Học: Giới, Định, Huệ, do đó thực hành trọn vẹn
Bát Chánh Đạo.
Tóm
lại, thực hành Tứ Niệm Xứ là thực hành trọn vẹn 37 Phẩm
Trợ Đạo.
Thực
hành tốt đẹp, chánh niệm càng bén nhạy, tâm định càng
sâu sắc, tỉnh giác càng biện biệt, tuệ minh sát càng mạnh
mẽ. Chánh niệm ghi nhận một đối tượng, nhưng có sự hay
biết nhiều đối tượng khác. Ghi nhận một sự phồng, nhưng
hay biết nhiều sự phồng khác. Cũng như khi quán sát có sự
căng dãn trong phồng xẹp, dù không có chú tâm ở nơi khác,
thiền sinh đồng thời cũng hay biết sự nóng lạnh, cứng
mềm, v.v... xuất hiện ở nơi khác. Tầm quán sát trở nên
rộng rãi, bao quát hơn. Dù ghi nhận một đối tượng, nhưng
không bỏ sót các đối tượng khác. Trí tuệ ngày càng mở
mang sâu sắc. Ở giai đoạn này, thiền sinh có thể dính mắc
vào các chướng ngại vi tế, nikanti, xuất hiện như ánh sáng,
phỉ lạc, trạng thái thân tâm an tịnh v.v..Sự dính mắc này
là hình thức vi tế của tham ái, tạo thành chướng ngại
cho tâm. Nếu tiếp tục niệm vào những chướng ngại vi tế
này sẽ làm cho tâm càng thêm trong sạch. Tín tâm tăng trưởng
càng mạnh mẽ hơn, trí tuệ càng lúc càng trong sáng hơn. Đến
giai đoạn này, thiền sinh cần nương tựa vào người thầy
thích nghi có khả năng hướng dẫn để đạt tiến bộ trong
pháp hành. Các yếu tố thích nghi khác cũng trợ giúp cho sự
tu tập tiến bộ như: thích nghi về khí hậu, thực phẩm,
nghe Pháp, v.v...Nếu đạt được đầy đủ các yếu tố này,
thiền sinh sẽ chứng nghiệm Giáo Pháp trong vài ngày.
Từ
lúc thấy sự sinh diệt của tâm và vật chất, tiếp tục
tu tập tiến bộ, thiền sinh sẽ chứng nghiệm được sự
diệt tận của tâm và vật chất, và cuối cùng thành
đạt Đạo Quả. Giống như gà ấp trứng thành công, cuối
cùng trứng nở, gà con chào đời mạnh khỏe an toàn. Thiền
sinh chứng đạt Đạo.
Quả
thoát ra khỏi cái vỏ tối tăm tù túng, giống như chú gà
con sung sướng tung tăng trong thế giới mới lạ. Thiền sinh
cảm thấy tràn đầy hạnh phúc, sung sướng, hoan hỉ cho sự
tu tập thành công.
Hồi
Hướng
Nguyện
cho tất cả chúng sanh
Cùng
chia trọn vẹn phước lành này đây
Nguyện
cho tất cả từ rày
Luôn
luôn an lạc, duyên may mọi miền
Nguyện
cho chư vị Long, Thiên
Trên
trời dưới đất oai thiêng phép mầu
Cùng
chia công đức dầy sâu
Hộ
trì Chánh Pháp bền lâu muôn đời.
Tri
ân
Như
Lai Thiền Viện xin chân thành cảm niệm công đức:
Tỳ
Kheo Khánh Hỷ đã hoan hỷ hiệu đính bản dịch sách “Pháp
Hành đưa đến Bình An”
Họa
sĩ Nguyễn Việt An và đạo hữu Bùi Hoài Thanh đã nhiệt tình
giúp phần trình bày bìa sách và tranh phụ bản.