Theo
Chú Giải, khi thật sự thực hành và thực hành hiệu quả,
hành giả sẽ thành đạt hai loại hạnh phúc: hạnh phúc thiền
định, samatha-sukha, và hạnh phúc minh sát, vipassanā-sukha, cuối
cùng đưa tới hạnh phúc tịch tỉnh, santi-sukha, là loại hạnh
phúc trong sạch thanh cao. Phẩm chất “Khéo Tuyên Giảng”
của Giáo Pháp biểu hiện với ba đặc tính “Tốt Đẹp Ở
Chặng Đầu” là 1úc nghe và hiểu phương pháp thực hành,
“Tốt Đẹp Ở Chặng Giữa” là lúc thật sự thực hành,
và “Tốt Đẹp Ở Chặng Cuối” là khi thực hành có kết
quả. Hai đặc tính đầu đã được bàn qua, bây giờ chúng
ta nói đến đặc tính cuối “Tốt Đẹp Ở Chặng Cuối”.
Cũng
theo Chú Giải, cần phải thực hành đúng phương pháp theo
như Đức Phật chỉ dạy, không phải theo ý riêng của cá
nhân, và phải thực hành cho đến mức độ nào đó thì hành
giả mới kinh nghiệm được hai loại hạnh phúc đầu tiên:
hạnh phúc thiền định và hạnh phúc minh sát. Giống như khi
mới tập viết, cần phải viết trong hai đường kẽ, để
giữ cho chữ viết không bị lên xuống khó coi. Hay giống như
khi cưa, muốn đạt đúng kích thước, phải cưa theo đường
chuẩn đã vạch trước trên thanh gỗ. Cùng thế ấy, muốn
đạt được hai loại hạnh phúc trên, cần phải thực hành
tinh cần, đúng phương pháp như Đức Phật chỉ dạy, patipada,
và phải thực hành với phương cách như vậy cho đến khi
tẩy sạch tất cả ô nhiễm nơi tâm, trở thành A La Hán, người
hoàn toàn giác ngộ, chứng đạt tầng thánh cuối cùng. Hành
giả khi hành thiền nên nuôi dưỡng ý định thực chứng được
bốn tầng thánh, từ Tu Đà Hườn, sotāpanna, đến Tư Đà
Hàm, sakadāgāmi, A Na Hàm, anāgāmi, và cuối cùng A La Hán, arahanta,
để thành đạt hạnh phúc tịch tĩnh santi sukha.
Thực
hành thiền minh sát qua sự theo dõi liên tục vào đối tượng
ngày qua ngày sẽ giúp chánh niệm mạnh dần, tăng trưởng
khả năng chế ngự phiền não
của
tâm. Hành giả thực hành để tiếp tục phát triển những
điều thiện lành cần được phát triển theo đúng ý nghĩa
của sự đào luyện ý, bhāvanā. Khi thành đạt tuệ minh
sát, bắt đầu bằng sự phân biệt tâm và vật chất giúp
xóa bỏ tà kiến về bản ngã, tôi, ta. Hiểu được tương
quan nhân quả của các hiện tượng giúp xóa bỏ tà kiến
về sự hiện hữu của một đấng Tạo Hóa, Thượng Đế,
hay cho rằng chẳng có nhân quả. Hành giả không còn tin vào
những điều như vậy. Và khi thấy các pháp vô thường, nên
không tin vào thường còn, hiểu được khổ, nên không còn
cho là vui sướng, và hiểu được vô ngã, nên không còn tin
vào bản ngã thường còn. Khi thấy sự sinh diệt của các
pháp, hành giả từ bỏ thường kiến và đoạn kiến. Cho đến
khi đạt đến tuệ Diệt, bhanga ñāṇa, tuệ giác thấy được
sự diệt của các pháp, hành giả kinh nghiệm sự diệt của
đối tượng quán sát và tâm ghi nhận đối tượng theo từng
cặp đôi một cách mau lẹ. Khi đạt tuệ minh sát cao hơn nữa,
tuệ Xả Hành, sankhārupekkhā ñāṇa, tâm trở nên nhu nhuyễn
có khả năng chịu đựng những gì tốt xấu, hợp ý hay trái
ý. Dù chưa thành đạt A La Hán, nhưng tâm lúc này có sự an
nhiên tự tại, như tâm của vị A La Hán. Tiếp tục tu tập,
cho đến khi thực chứng Đạo Quả A La Hán, sẽ viên mãn được
sức mạnh an nhiên tự tại, quân bình, thường trực nơi tâm.
Đây là kết quả của sự tu tập, phản ảnh đặc tính “Tốt
Đẹp Ở Chặng Cuối”, pariyosāna kalyāṇa.
Khi
tâm không được tu luyện, tâm rất non yếu, thường bị chế
ngự bởi sự tốt xấu của đối tượng. Với đối tượng
ưa thích, tham phát sinh; với đối tượng không ưa thích, sân
hận phát sinh. Tâm luôn luôn bị phiền não chế ngự, trở
nên mất thăng bằng, dễ nhạy cảm với các đối tượng
ưa ghét. Khi thực hành thiền minh sát, tâm được chánh niệm
bảo vệ không bị phiền não chi phối, tâm trở nên quân bình,
thăng bằng. Trong đời sống phức tạp hàng ngày, con người
va chạm, tiếp xúc với các đối tượng ưa ghét. Tâm hay phản
ứng dưới hình thức vui buồn, yêu ghét, tạo nên sự căng
thẳng, lo âu, khủng hoảng, có khi đưa đến quyên sinh. Tất
cả cũng vì sự chế ngự của phiền não. Muốn thoát khỏi
phiền não, phải thực hành thiền Minh Sát. Bằng cách giữ
chánh niệm, ghi nhận kịp thời mọi hiện tượng, làm cho
phiền não suy yếu, tâm được chánh niệm bảo vệ trở nên
khỏe mạnh, an tịnh nên có khả năng chịu đựng mọi hoàn
cảnh tốt xấu trong đời. Sự tu tập giúp phát triển trí
tuệ xóa bỏ Vô Minh. Tâm được phát triển, trở nên linh
hoạt, lành mạnh không còn tham ái, sân hận, nhờ kết quả
của sức mạnh Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định
trong nhóm Định học. Tâm con người vốn mang sẵn Vô Minh,
và tham ái từ các kiếp trước. Mặc dù thể xác con người
tăng trưởng, nhưng tâm không bao giờ tăng trưởng. Tuổi có
c, nhưng tâm vẫn luôn non yếu, không chống chọi được phiền
não. Giống như khi cây còn non không đủ khả năng chịu đựng
thời tiết, nắng mưa. Đến khi đã lớn mạnh, cây có khả
năng chịu đựng tốt hơn. Tâm khi được phát triển trở
nên trưởng thành có khả năng chống lại phiền não, không
còn bị đối tượng ưa ghét làm ảnh hưởng tâm. Do đó,
nếu không tu luyện, tâm sẽ không bao giờ trưởng thành. Như
vậy, bằng sự thực hành thiền minh sát viên mãn, tâm
phát triển hoàn toàn, trở nên an nhiên tự tại, tadhibava.
Đây là phẩm tính của bậc A La Hán. Các ngài không còn bị
lay động, ảnh hưởng trước Tám Pháp Thế Gian. Phẩm chất
này biểu hiện của đặc tính “Tốt Đẹp Ở Chặng Cuối”
của Giáo Pháp.
Khi
đạt đến tuệ Xả Hành, tâm luôn quân bình không ưa ghét,
tâm không bao giờ rời khỏi đề mục quán sát. Do chánh niệm
luôn liên tục, dù có hướng về đề mục mang tính chất
ái dục hay sân hận, tâm cũng không bị ảnh hưởng, tâm chạy
trở về với đề mục đang quán sát Đây là hiệu ứng thu
hồi của tâm. Giống như hiệu ứng thu hồi của thanh boomerang.
Khi được ném trúng mục tiêu, thanh boomerang tự động quay
trở về tay người ném. Ở tuệ Xả Hành, chánh niệm luôn
gắn chặt vào đối tượng một cách tuyệt diệu. Kinh điển
diễn tả như sau: “Khi tâm vị Tỳ Khưu đã hoàn toàn xóa
sạch ô nhiễm, không còn vui buồn đối với những gì nhìn
thấy, vị này an trú trong sự quân bình nơi tâm với chánh
niệm và tỉnh giác hoàn toàn.”
Thực
hành thiền minh sát thành công sẽ phát triển được các tuệ
giác. Sức mạnh của các tuệ giác tạm thời ngăn chận được
phiền não, “tạm thời” vì chưa phải là vĩnh viễn. Hành
giả đạt được sự bình an hạnh phúc tạm thời, một loại
hạnh phúc minh sát. Chỉ đến khi chứng nghiệm sự diệt tận
của danh sắc, hành giả mới thành đạt loại hạnh phúc cuối
cùng, accanta santi, loại hạnh phúc bình an cao tột. Đây là
phẩm tính “Tốt Đẹp Ở Chặng Cuối" của Giáo Pháp.
Trước
khi đạt đến giai đoạn kinh nghiệm sự diệt tận của danh
sắc, hành giả kinh nghiệm được trạng thái lục căn xả
thọ, chalanguppekhā. Hành giả thản nhiên nhìn sự diệt tận
của các đối tượng qua lục căn. Tâm trở nên an nhàn trước
thế gian pháp. Cho đến khi thành tựu Đạo Quả A La Hán, mới
thật sự có được lục căn xả thọ một cách vĩnh viễn.
Cho
dù chưa đạt đến tầng thánh cuối cùng, thành đạt tầng
thánh Tu Đà Hườn cũng đủ bảo đảm không còn đọa vào
bốn khổ cảnh. Đây cũng là phẩm chất Tốt Đẹp Ở Chặng
Cuối của Giáo Pháp. .
Bắt
đầu từ lúc nghe Giáo Pháp một cách chăm chú, phiền não
bị chế ngự, tâm được thanh tịnh, bạn hiểu được phẩm
tính “Tốt Đẹp Ở Chặng Đầu”. Khi thật sự thực hành,
hưởng được hạnh phúc Giáo Pháp tức thời, bạn hiểu được
phẩm tính “Tốt Đẹp Ở Chặng Giữa”. Khi thành tựu tầng
thánh cuối cùng, kinh nghiệm hạnh nhúc Niết Bàn, bạn hiểu
được phẩm tính “Tốt Đẹp Ở Chặng Cuối”.
Và
như vậy, qua sự thực hành Tam Học, Giới-Định-Huệ viên
mãn, bạn thực sự hiểu được trọn vẹn ý nghĩa của phẩm
tính “Khéo Tuyên Giảng” của Giáo Pháp.