Nếu
muốn tu tập để rèn luyện tâm, thành đạt trí tuệ, chỉ
cần vận dụng tinh tấn để duy trì chánh niệm liên tục.
Người thực hành như vậy gọi là thiền sinh, yogi. Thế nên,
là thiền sinh, bạn chỉ có nhiệm vụ duy nhất phải làm là
chú tâm ghi nhận vào tất cả hiện tượng, quán sát phồng
xẹp một cách kỹ lưỡng, vận dụng tinh tấn cùng sự hướng
tâm đến đề mục, thiết lập chánh niệm, và duy trì chánh
niệm trên đề mục bằng nỗ lực, tinh cần và tỉnh giác.
Nhờ năng lực của chánh niệm, phiền não không chen vào tâm.
Tâm thoát khỏi phiền não. Đúng theo ý nghĩa “chánh niệm
chế ngự phiền não”. Tuy nhiên, nếu không thực hành theo
tinh thần của một thiền sinh đúng nghĩa, bạn dễ duôi, mơ
mộng, nói chuyện, phân tích, suy tư “tại sao như vầy, phải
như thế này, như thế kia, v.v...” làm mất chánh niệm, không
theo dõi kịp đề mục. Thực hành như vậy thà rằng đừng
thực hành chi hết, tốt hơn đừng hành thiền. Không chánh
niệm và thất niệm làm cho phiền não xâm nhập quấy phá
tâm.
Đã
hơn hai tuần qua, đầu khóa thiền, Sư đã giảng ý nghĩa,
nội dung và phương pháp hành thiền, cũng như đưa thí dụ
cụ thể, dễ hiểu để giúp các bạn hiểu và hành cho đúng.
Tuy nhiên, Sư nhận thấy vẫn còn thiền sinh hành thiền không
đúng cách. Có thể các thiền sinh này vẫn còn ưa suy nghĩ,
phân tách, nên không thể nào chú tâm, quán sát được đề
mục, giữ được chánh niệm ghi nhận kịp thời khi đề mục
xuất hiện. Ngoài ra, vẫn còn thiền sinh không trình pháp đúng
cách như đã được chỉ dẫn.
Như
đã bàn qua, mục đích của thiền tập là tu sửa để có
được một nhân cách tốt đẹp, tâm tư trong sạch, và trí
tuệ sáng suốt. Khi cá nhân tu tập viên mãn Giáo Pháp có được
các phẩm tính cao thượng, được gọi là sāsana sampatti, sự
viên mãn Giáo Pháp. Nếu cá nhân viên mãn Giáo Pháp, sẽ có
nhân cách tốt đẹp, phẩm giá cá nhân được nâng cao. Muốn
thực hiện được mục đích này, cần phải đạt hai yếu
tố: (1) Chăm chú lắng nghe Giáo Pháp để hiểu phương pháp
và cách trình pháp, (2) Tinh tấn chú tâm đúng vào đối tượng,
yoniso mānasikāra, để ghi nhận kịp thời và chính xác. Thực
hiện viên mãn hai điều này gọi là sāsana sampatti.
Hai
tuần hơn đã qua, nếu thiền sinh thực hành chưa tiến bộ,
hay chưa biết được lợi lạc của pháp hành, thiền sinh coi
như không đạt được yêu cầu của một hoặc cả hai điều
này, có nghĩa thiền sinh không hành đúng, hay không có sự
chú tâm đúng, không duy trì được chánh niệm. Đây là câu
trả lời cho các thiền sinh thực hành chưa tiến bộ hay chưa
biết được lợi lạc của pháp hành. Có những thiền sinh
khác, khi được hỏi “Ghi nhận phồng xẹp như thế nào?”,
“Giữ tâm trên phồng xẹp được bao lâu?”. Có thiền sinh
nói “5 phút, 10 phút,” có người nói “lâu 45 phút”. Thiền
sư nói “Tốt, nếu giữ được như vậy thì tốt!”, và
hỏi “Bạn hiểu phồng xẹp như thế nào?”. Đáp “Vâng!
Tôi theo dõi và hiểu được phồng xẹp”. Trình pháp như
vậy chứng tỏ thiền sinh thực hành không cẩn thận, không
đúng cách, vì không chăm chú lắng nghe lời hướng dẫn. Thiền
sinh nên biết, tâm rất khó kiểm soát, dù chỉ trong 1 giây
hay 1 phút. Thiền sinh nói giữ tâm được 5, 10, 45 phút là
chuyện không thể có được. Tuy nhiên đối với thiền sinh
có chăm chú nghe cẩn thận và hành thiền đúng cách sẽ có
khả năng vận dụng được tinh tấn, chú tâm duy trì chánh
niệm trên phồng xẹp, thiền sinh hiểu được bản chất của
đề mục quán sát. Nhờ vậy, thiền sinh có khả năng hay biết
khi có phóng tâm và theo dõi được sự phóng tâm. Thiền sinh
hiểu biết cụ thể việc hành thiền của mình ra sao. Đây
là loại thiền sinh thực hành chân thật, và trình pháp chân
thật. Có thiền sinh khác không dám nói thật rằng mình không
có khả năng giữ được chánh niệm trên đề mục. Đây là
loại thiền sinh thiếu chân thật. Những ai thực hành đúng
đắn sẽ có khả năng hiểu được sự hành thiền của mình,
nên họ chân thật thú nhận lúc nào có chánh niệm, lúc nào
thất niệm. Thiền sinh thuộc loại chân thật như vậy sẽ
thực hành tiến bộ, và sẽ mau đạt được tuệ Minh Sát.
Nếu
thiền sinh vận dụng được tinh tấn, chú tâm quán sát phồng
xẹp một cách cẩn thận, tinh cần, duy trì được chánh niệm
liên tục, sẽ làm phát sinh sát na định, cũng như luôn duy
trì chánh niệm trong mọi oai nghi, mọi nơi mọi lúc. Thực
hành như vậy, cho dù chưa phát triển được tuệ Minh Sát,
nhưng nhờ giữ chánh niệm liên tục trên đề mục, nên bảo
vệ được tâm không bị phiền não xâm nhập. Do tâm trong
sạch không phiền não, nên không phát sinh tham ái dính mắc
đối với đề mục đang quán sát, cũng như đề mục không
quán sát. Do tham ái không có mặt trong tâm nên tâm không lấm
nhơ bởi phiền não. Kết quả, dù không ước muốn tâm được
giải thoát khỏi phiền não, thiền sinh cũng thực hiện được
sự giải thoát. Tiếp tục thực hành đúng cách như vậy,
thiền sinh sẽ đạt được sự phân biệt được tâm và vật
chất, hay tuệ danh sắc, thiền sinh hiểu rõ ràng đối
tượng quán sát và tâm ghi nhận, là hai hiện tượng riêng
biệt. Thiền sinh còn hiểu được đặc tướng riêng của
mỗi đối tượng quán sát như căng khi phồng, dãn khi xẹp,
chuyển động, hay cứng mềm, nóng lạnh, v.v...Thấy được
như vậy, thiền sinh không còn tin vào đàn ông, đàn bà, hay
cá nhân, tôi ta, tự ngã v.v... nơi đối tượng quán sát. Thiền
sinh bỏ tham ái, thoát được dục thủ và tà kiến thủ. Do
dó, thiền sinh thành tựu được điều mong ước mà không
cần phải ước mong. Vì chính thiền sinh tự tu tập, tự chứng
nghiệm kết quả qua sự thực hành, nên đương nhiên thiền
sinh thành đạt đúng như vậy. Do đó, sự thực tiễn của
Giáo Pháp thật rõ ràng: “có tu, có chứng”.
Từ
sự thực hành có kết quả đúng đắn, thiền sinh hiểu được
những lợi ích như sau:
Khi
giữ được tinh tấn, phiền não sẽ bị đẩy lui. Không tinh
tấn, sẽ bị phiền não tấn công.
Khi
giữ được chánh niệm, chánh niệm sẽ bảo vệ tâm không
bị phiền não quấy phá. Không có chánh niệm tâm bị
phiền não quấy phá.
Khi
chánh niệm duy trì liên tục, bám chặt đề mục, xuyên thấu
đề mục, định tâm hình thành. Tâm an trụ trên đề mục.
Nhờ vậy, không còn tham ái.
Khi
chánh niệm kịp thời đề mục sinh khởi, sẽ hiểu biết
rõ ràng thực tướng thân tâm của đề mục. Nhờ vậy, buông
bỏ tà kiến. Không còn tin vào đàn bà, đàn ông, tự ngã,
tôi ta, linh hồn, Thượng Đế. Ngoài ra, còn loại bỏ ba bất
thiện tâm: Dục Tưởng, Sân Tưởng và Hại Tưởng. Phiền
não bị khô cạn.
Nhờ
tinh tấn, chánh niệm, và chánh định sẽ làm cho tâm thiền
sinh trở nên khỏe mạnh, tăng trưởng được các tâm hiền
lành, và phát triển trí tuệ. Đây là kết quả của sự tu
tập.
Nếu
giữ được tâm khỏe mạnh như vậy liên tục trong 1 giây,
mỗi giờ tâm trong sạch được 3600 lần, kết quả luyện
tâm như vậy thật là tốt đẹp biết bao!
Khi
tâm bị phiền não như dục ái, hữu ái bám chặt tâm trở
nên nặng nề, trì trệ. Khi tâm thoát phiền não, tâm trở
nên nhẹ nhàng, linh hoạt, tươi mát. Nhờ sự hiểu biết thực
tướng của các pháp tâm trong sáng, an tịnh. Thiền sinh không
còn vô minh tức không hiểu biết hay hiểu biết sai.
Vì
tâm ảnh hưởng đến vật chất, nên khi tâm được thanh tịnh,
linh hoạt, tươi mát, thân được thoải mải, khỏe mạnh,
nhẹ nhàng.
Các
kết quả đem lại từ sự hành thiền đúng phương pháp sẽ
làm tăng trưởng tín lực, tấn lực, niệm lực, định lực,
và tuệ lực. Thiền sinh phát triển được Ngũ Lực mà không
cần phải ước mong. Đây là những kết quả đương nhiên
thiền sinh gặt hái được nhờ thực hành một cách tinh cần,
cẩn trọng.
Nhờ
đâu thiền sinh có được tâm thanh tịnh, trong sạch, khỏe
mạnh, giải thoát khỏi phiền não dục thủ, tà kiến thủ,
không còn vô minh? Đức Phật dạy rằng, thiền sinh đạt các
kết quả này, chính vì tự thiền sinh tu tập, tu tập những
gì cần phải tu tập và tự chứng nghiệm.
Do
tu tập bằng pháp nào đem lại các kết quả này? Chính 1à
sự tu tập theo pháp thiền Tứ Niệm Xứ.