|
.
THIỀN LÂM
BẢO HUẤN
Hòa
Thượng Thích Thanh Kiểm Dịch và Chú thích
Phật
lịch 2516, Mùa Xuân năm Quý Sửu 1973
THIỀN
LÂM BẢO HUẤN
Quyển
Thứ Hai
Sa
môn Tịnh Thiện đất Ðông Ngô trùng tập.
Sa
môn Thích Thanh Kiểm, dịch và chú thích
Trang
03
134.-
CHỮ HÁN: Cao Am viết: Ðạo đức nhân nghĩa bất độc cổ
nhân hữu chi, kim nhân diệc hữu chi. Dĩ kỳ trí thức bất
minh, học vấn bất quảng, căn khí bất tịnh, chí khí hiệp
liệt, hành chi bất lực. Toại bị thanh sắc sở di, sử bất
tự giác. Cái nhân vọng tưởng tình niệm, tích tập nung hậu,
bất năng đốn trừ. Sở dĩ bất đáo cổ nhân địa vị nhĩ.
Dữ
Cảnh Long Học thư.
134.-
DỊCH NGHĨA: Cao Am nói: (1) Ðạo đức nhân nghĩa không phải
để dành riêng cho cổ nhân, mà người đời nay cũng vẫn
có phần. Nhưng vì trí thức của họ chẳng sáng tỏ, học
vấn của họ chẳng sâu rộng, căn khí không thanh tịnh, chí
khí lại hẹp kém, thực hành thì bất lực. Lại bị thanh
sắc nó di chuyển, nên họ chẳng tự giác được đó vậy.
Bởi lẽ, nếu họ chỉ nương vào vọng tưởng tình niệm,
tích tụ ngày một đặc dày, nay đem trừ khử ngay một lúc
tất không phải dễ. Vì thế nên họ chẳng tới được cái
địa vị của cổ nhân.
Thư
gởi Cảnh Long Học.
CHÚ
THÍCH:
(1):
Ðoạn này đại ý nói tâm nhân nghĩa đạo đức thì Thánh
hay phàm cũng vẫn đầy đủ không khác, mà chỉ khác nhau ở
chỗ đạt được hay không mà thôi.
135.-
CHỮ HÁN: Cao Am văn Thành Khô Mộc trụ Kim Sơn thụ dụng xỉ
mỹ. Thán tức cửu chi viết: "Tỳ khưu chi pháp sở quý thanh
kiệm, khởi nghi như thử. Ðồ dữ hậu sinh, bối tập khinh
phì giả, tăng vô yếm chi cầu, đắc bất quý cổ nhân hồ".
Châu
Mục Tập.
135.-
DỊCH NGHĨA: Cao Am nghe biết Thành Khô Mộc (1) trụ trì chùa
Kim Sơn, thụ dụng quá xa xỉ, liền than thở giờ lâu rồi
nói: "Cái pháp của Tỳ khưu, quý ở chỗ thanh kiệm, đâu
nên hoang phí như thế. Ðể lũ hậu sinh tập theo thói quen
xa hoa(2) đó, tăng thêm cái tâm mong cầu không chán, sao được
không hổ thẹn với cổ nhân vậy".
Châu
Mục Tập.
CHÚ
THÍCH:
(1)
Thành Khô Mộc: Khô Mộc Pháp Thành thiền sư, pháp tự của
Phù Dung Giai thiền sư, đời thứ 12 phái Thanh Nguyên.
(2)
Xa hoa: Dịch ở chữ khinh phì. Khinh là nhẹ, nghĩa là mặc
áo lông cừu nhẹ; Phì là béo, tức là cưỡi ngựa béo, ý
nói xa hoa.
136.-
CHỮ HÁN: Cao Am viết: Trụ trì đại thể dĩ tùng lâm vi gia.
Khu biệt đắc nghi, phó dụng đương khí. Cử thố hệ an nguy
chi lý, đắc thất quan giáo hóa chi nguyên. Vi nhân phạm mô
an khả dung dị. Vị kiến trụ trì thỉ túng nhi năng sử nột
tử phục tòng. Pháp độ lăng trì nhi dục cấm tùng lâm bạo
mạn. Tích Dục Vương Kham khiển Thủ Tọa. Ngưỡng Sơn Vĩ
biếm Thị Tăng. Tải ư điển văn, túc vi lệnh phạm. Kim tắc
các tuẫn tư dục, đại huy Bách Trượng qui thằng. Giải ư
túc hưng, đa khuyết tham hội lễ pháp. Hoặc túng tham thao
nhi vô kỵ đạn. Hoặc duyên lợi dưỡng nhĩ chí huyên tranh.
Chí ư tiện tích xú ác mỹ sở bất hữu. Ô hô! Vọng pháp
môn chi hưng, tôn giáo chi thịnh, cự khả đắc da.
Long
Xương Tập.
136.-
DỊCH NGHĨA: Cao Am nói: Ðại thể của người trụ trì phải
lấy tùng lâm làm nhà. Khu biệt (1) nên phải thích nghi, trao
phó (2) nên phải hợp căn cơ lớn nhỏ. Cất nhắc đều can
hệ ở lý an nguy, được mất đều liên can đến nguồn giáo
hóa. Làm người mô phạm đâu phải dễ dàng. Chưa từng thấy
người trụ trì phóng túng mà hay khiến được sự phục tùng
của các nột tử, chưa từng thấy khuôn pháp thối nát (3)
mà muốn ngăn cấm được tật kiêu mạn trong chốn tùng lâm.
Xưa kia Kham Thiền sư chùa Dục Vương (4) cách chức vị Thủ
Tọa, Vĩ Thiền sư chùa Ngưỡng Sơn xuất viện Thị Tăng (5).
Các trường hợp này còn ghi chép trong văn điển, đủ để
làm khuôn mẫu. Người đời nay thường thuận theo tư dục,
phá hủy tan nát cái quy củ thẳng mặc của Bách Trượng.
Lười biếng lại thích ngủ trưa (6) phần nhiều thiếu sót
cả phần tham hội lễ pháp. Hoặc có người lại rông rỡ
tham lam không kiêng sợ, hoặc lại nương theo lợi dưỡng mà
đưa đến việc tranh cải, ngay cả đến những chuyện ti tiện,
hẹp hòi, nhơ nhuốc, hiểm ác cũng chẳng có từ. Than ôi!
Như thế mà mong muốn cho pháp môn hưng thịnh, tôn giáo phát
triển đâu thể được vậy ư.
Long
Xương Tập.
CHÚ
THÍCH:
(1)
Khu biệt: Khu biệt căn cơ.
(2)
Trao phó: Trao phó y bát tâm ấn.
(3)
Thối nát: Dịch ở chữ Lăng trì. Lăng trì là hình phạt xử
tội xẻo thịt ra từng mảnh, ý nói thối nát.
(4)
Kham Thiền sư chùa Dục Vương: Vô Thị Giới Kham thiền sư,
pháp tự của Linh Trường Trác thiền sư. Thiền sư là người
cương nghị, tới chỗ đại chúng đều hợp với pháp tắc
xưa, đương thời đặt cho tên là Kham Thiết Diện.
(5)
Vĩ Thiền sư chùa Ngưỡng Sơn: Hành Vĩ thiền sư, pháp tự
của Hoàng Long Nam thiền sư. Thiền sư là người tánh khí
cương trực, làm việc theo đúng khuôn phép. Sai người nào
làm việc gì thì không ai dám trái lệnh. Như việc từng đem
mười hai người giao cho Duy Na, tới ngày mai những người
này phải có mặt ở Phương trượng đường. Kịp tới giờ
hội họp, lúc điểm danh lại thiếu một người. Vĩ thiền
sư hỏi, người đó là ai? Thị giả thưa: "Ðó là Tùy Châu
Vĩnh Thái". Thủ Tọa nói: "Thái đi chơi núi chưa trở về,
xin thỉnh vị Tăng khác sung vào cho đủ". Vĩ thiền sư bừng
sắc mặt không vui. Chợt có người nói rằng: "Vĩnh Thái hiện
còn ở nhà, đó là Thủ Tọa đem dấu đi một nơi". Vĩ thiền
sư nghiêm sắc mặt, rồi khiến người tìm bằng được Vĩnh
Thái, Vĩnh Thái lúc đó mới tự trình bày tình thực là vì
mình vụng về và yếu đuối, sợ hỏng mất việc được
giao phó nên tự lẫn tránh, còn Thủ Tọa quả thật chẳng
biết chi về việc này. Vĩ thiền sư liền cho đánh chuông
triệu tập chúng và nói: "Mờ tâm dối chúng là điều người
khác chẳng dám làm, nữa là ngôi Thủ Tọa là chức chia tòa
ngồi trao đạo pháp, đó là cái chức Tiên sư đã ban cho mà
lại tự phá hoại vậy ư". Thế rồi cả hai người đều
bị tội xuất viện, bởi thế mà chúng nhân đều phục cái
lẽ công bằng đó. Thái về sau nối pháp Hoàng Long thiền
sư. Thủ Tọa ở núi Qui Sơn, nối pháp Hoàng Long thiền sư
(Theo Tăng Bảo truyện).
(6)
Lại thích ngủ trưa: Dịch ở chữ túc hưng. Túc hưng có nghĩa
là dậy sớm.
137.-
CHỮ HÁN: Cao Am trụ Vân Cư, mỗi kiến nột tử thất trung
bất khế kỳ cơ giả, tức bả kỳ mệ chính sắc trách chi
viết: "Phụ mẫu dưỡng nhữ thân, sư hữu thành nhữ chí.
Vô cơ hàn chi bách, vô chính dịch chi lao. Ư thử bất kiên
xác tinh tiến, thành biện đạo nghiệp, tha nhật hà diện
mục kiến phụ mẫu sư hữu hồ". Nột tử văn kỳ ngữ khấp
thế nhi bất dĩ giả. Kỳ hiệu lệnh chỉnh nghiêm như thử.
Thả
Am Dật Sự.
137.-
DỊCH NGHĨA: Cao Am khi ở chùa Vân Cư, thường thấy các nột
tử trong chốn thiền thất, có người chẳng hợp với cơ
(1) của họ, liền nắm tay áo, nghiêm sắc mặt mắng rằng:
"Cha mẹ nuôi dưỡng thân các người, thầy bạn gây thành
chí các người. Các người không lo lắng về bức bách của
đói rét, không phải gánh vác về công việc lao khổ của
chinh chiến phu phen. Ở nơi đây, nếu chẳng bền chí xác thực
tinh tiến để thành biện đạo nghiệp, thời ngày kia còn
mặt mũi nào nhìn thấy cha mẹ thầy bạn vậy ư". Kẻ nột
tử nghe lời nói đó, có người bất giác rơi lệ mãi không
thôi. Hiệu lệnh của người thật nghiêm chỉnh như thế đó.
Thả
Am Dật Sự (2).
CHÚ
THÍCH:
(1)
Cơ: Chỗ khế hợp giữa tâm năng hóa và sở hóa.
(2)
Thả Am Dật Sự: Thả Am Thủ Nhân thiền sư, pháp tự của
Ô Cự Hành thiền sư. Dật sự là sự việc ghi chép trong lúc
nhàn rỗi thư thả.
138.-
CHỮ HÁN: Cao Am trụ Vân Cư văn nột tử bệnh di Diên Thọ
đường. Tư ta thán tức như xuất chư kỷ. Triêu tích vấn
hậu. Dĩ chí cung tự tiên chử bất thường bất dữ thực.
Hoặc ngộ thiên khí sảo hàn phụ kỳ bối viết: "Y bất đan
hồ". Hoặc trị thời thử sát kỳ sắc viết: "Mạc thái nhiệt
hồ". Bất hạnh bất cứu, bất vấn bỉ chi hữu vô, thường
trụ tận lễ tân tống. Tri sự hoặc tha từ Cao Am sất chi
viết: "Tích Bách Trượng vị lão bệnh giả lập thường trụ,
nhĩ bất bệnh bất tử dã". Tứ phương thức giả cao kỳ
vi nhân. Cập thoái Vân Cư quá Thiên Thai. Nột tử tương tòng
giả cận ngũ thập bối. Gián hữu bất năng vãng giả khấp
thế nhi biệt. Cái kỳ đức cảm nhân như thử.
Sơn
Ðường
Tiểu Xam.
138.-
DỊCH NGHĨA: Cao Am ở chùa Vân Cư, mỗi khi nghe thấy kẻ nột
tử có bệnh, di chuyển tới nhà Diên Thọ (1), ngài thân tới
hỏi han an ủi, coi như chính mình. Ngài thường sớm tối trông
nom săn sóc, dĩ chí tự tay sắc thuốc nấu cơm, nếu chẳng
nếm trước thời không cho người bệnh ăn. Hoặc gặp khi
trời rét, thời vỗ vào lưng họ mà nói: "Áo mặc chẳng đơn
chiếc vậy ư?" Hoặc gặp thời tiết nóng bức, thì quan sát
sắc mặt họ và nói: "Có nóng nực quá chăng?" Bất hạnh
mà không thể cứu sống được thời chẳng hỏi bệnh nhân
có của riêng hay không, hết thảy chỉ dùng của thường trụ
để làm lễ tống táng. Vị Trị sự nếu hoặc có lời ta
thán, thì Cao Am quở mắng và nói: "Xưa kia Bách Trượng vì
những người bệnh già mà lập ra thường trụ, còn người
sẽ không bệnh không chết hay sao". Thức giả khắp bốn phương
cho Cao Am là người cao quí. Kịp tới lúc lui gót chùa Vân
Cư về chùa Thiên Thai, nột tử cùng theo ngài có tất cả
năm mươi người. Hoặc giả có người không thể đi theo ngài
được, đều phải rơi lệ từ biệt. Ðó chính là do cái
đức của con người mà cảm phục được lòng người vậy.
Sơn
Ðường Tiểu Xam.
CHÚ
THÍCH:
(1)
Nhà Diên Thọ: Nhà để nuôi dưỡng người già ca3 và bệnh.
Xưa kia mỗi tùng lâm đều có lập "An Lạc Ðường" để dành
riêng cho các lão Tăng, và "Diên Thọ Ðường" dành cho các
bệnh Tăng.
139.-
CHỮ HÁN: Cao Am thoái Vân Cư. Viên Ngộ dục trị Phật Ấn
Ngọa Long am vi yến hưu chi sở. Cao Am viết: "Lâm hạ nhân
cẩu hữu đạo nghĩa chi lạc hình hài khả ngoại. Dư dĩ tòng
lâm chi niên, chính như trường canh hiểu nguyệt. Quang ảnh
năng kỷ thời. Thả Tây Sơn lư phụ lâm truyền tương thuộc,
giai dư dật lão chi địa. Hà tất hữu chư kỷ nhiên hậu
khả lạc da". Vị kỷ tức duệ trượng quá Thiên Thai. Hậu
chung vu Hoa Ðính Phong.
Châu
Mục Tập.
139.-
DỊCH NGHĨA: Cao Am khi thôi ở chùa Vân Cư. Viên Ngộ muốn
sửa lại am Ngoạ Long của Phật Ấn (1) làm nơi nghỉ ngơi
tĩnh dưỡng (2). Cao Am nói: "Người trong chốn thiền lâm, nếu
đã có cái vui đạo nghĩa, thì cần chi đến hình hài bên
ngoài. Ta nay đã đến tuổi tòng lâm (3), chính cũng như sao
Trường Canh (4) và Hiểu Nguyệt (5), bóng sáng còn được bao
lâu. Lều đống ở núi Tây, suối rừng quen thuộc đều là
những nơi chốn ta vui về tuổi già, hà tất phải có chỗ
riêng cho mình rồi sau mới có thể vui vậy ư?". Chưa được
bao lâu ngài chống gậy qua chùa Thiên Thai, sau mất ở núi
Hoa Ðính.
Châu
Mục Tập.
CHÚ
THÍCH:
(1)
Phật Ấn: Liễu Nguyên Phật Ấn thiền sư núi Vân Cư, pháp
tự của Khai Thiên Kiêm thiền sư.
(2)
Nơi nghỉ ngơi tĩnh dưỡng: Dịch ở chữ Yến hưu.
(3)
Tuổi tòng lâm: Tuổi 70, tức là đến tuổi muốn làm công
việc gì đều theo tâm mình muốn mà không vượt ra ngoài phép
tắc qui củ. Sách Luận Ngữ chép: "Ta mười lăm tuổi mà chí
ở việc học, ba mươi tuổi mà tự lập, bốn mươi tuổi
thì không hoặc, năm mươi tuổi biết được thiên mệnh, sáu
mươi tuổi tới chỗ nhĩ thuận, bảy mươi tuổi thì tòng
lâm, chỗ muốn không vượt ngoài qui củ".
(4)
Trường Canh: Sao buổi sớm, phía Ðông có sao Khai Minh gọi
là Kim Tinh, phía Tây có sao Trường Canh gọi là Thủy Tinh.
Kim Tinh ở phía Tây thì mặt trời mọc, Thủy Tinh ở phía
Ðông thì mặt trời lặn.
(5)
Hiểu Nguyệt: Trăng mọc khoảng ngày 27, 28 trong tháng, khi trăng
vừa mọc thì trời đã sáng, ý nói ánh sáng chẳng được
là bao.
140.-
CHỮ HÁN: Cao Am viết: Nột tử vô hiền ngu. Duy tại thiện
tri thức ủy khúc dĩ sùng kỳ đức nghiệp. Lịch thí dĩ phát
kỳ khí năng. Tinh tưởng dĩ trọng kỳ ngôn. Ưu ái dĩ toàn
kỳ tháo. Tuế nguyệt tích cửu thanh thực tịnh phong. Cái
nhân giai hàm linh duy cần dụ chí. Như ngọc chi tại phác,
để trịch tắc ngõa thạch, trắc ma tắc khuê chương. Như
thủy chi phát nguyên, ủng át tắc ứ nê, sơ tuấn tắc xuyên
trạch. Nãi tri tượng quí, phi độc di hiền nhi bất dụng.
Kỳ ư dưỡng dục khuyến tưởng chi đạo, diệc sở hữu
vị chí hỹ. Ðương tùng lâm ân thịnh chi thời, giai thị
quí đại khí tài. Tại quí tắc ngu, đương hưng tắc trí.
Cố viết: "Nhân giai hàm linh, duy cần dụ chí". Thị tri học
giả tài năng dữ thời thăng giáng. Hiếu chi tắc chí, tưởng
chi tắc sùng, ức chi tắc suy, xích chi tắc tuyệt. Thử học
giả đạo đức tài năng tiêu trưởng chi sở do dã.
Dữ
Lý Ðô Vận thư.
140.-
DỊCH NGHĨA: Cao Am nói: Người nột tử không có hiền hay ngu,
mà chỉ căn cứ ở chỗ uốn nắn của bậc thiện trí thức
để họ biết tôn sùng đức nghiệp, đem chỗ từng thí nghiệm
để họ phát huy khí năng, đem chỗ tưởng lệ khuyến khích
để họ tôn trọng lời nói, đem chỗ ưu ái để họ bảo
toàn tiết tháo, cứ tích góp như thế qua năm này tháng khác,
thì tất nhiên thanh danh và thể chất của họ cũng sẽ được
phong phú. Bởi lẽ, con người ai nấy đều hàm chứa cái tính
thiêng liêng, duy ở chỗ siêng năng dẫn dụ mà tới được.
Ví như viên ngọc còn nằm trong quặng, nếu đem liệng đi
thì nó là sỏi đá, nếu đem mài giũa thì nó thành ngọc Khuê
Chương (1). Cũng như chỗ bắt nguồn của nước, nếu nguồn
bị úng tắc ứ đọng thời thành sình lầy, nếu đem khơi
thông cho sâu thời tất thành sông ngòi hào lạch. Liền biết,
trong đời Tượng quí này (2) chẳng những chỉ bỏ sót mất
người hiền chẳng dùng, mà ngay đến con đường dưỡng dục
khuyến tưởng cũng còn có chỗ chưa đến được vậy. Ngay
cả lúc đương thời chốn tùng lâm cả thịnh cũng đều là
những nhân tài bị bỏ rơi ở đời Tượng quí này. Nên con
người ở thời mạt pháp thời gọi là ngu, ở thời hưng
thịnh lại gọi là trí. Cho nên nói: "Con người đều hàm
chứa cái tính thiêng liêng, duy ở chỗ siêng năng dẫn dụ
mà tới được". Thế nên biết, tài năng của người học
cũng theo thời mà lên hay xuống. Nếu khi thích thời nó sẽ
đến, khen thưởng thời nó được tôn sùng, đè nến thời
nó phải suy, chê trách thời nó sẽ tuyệt diệt. Ðó là lý
do của lẽ tiêu diệt hay tăng trưởng về đạo đức cũng
như tài năng của người học đạo vậy.
Thư
gởi Lý Ðô Úy Vận.
CHÚ
THÍCH:
(1)
Ngọc Khuê Chương: Thứ ngọc đẽo phẳng gọi là Khuê, xẻ
đôi lấy một nửa gọi là Chương.
(2)
Tượng quí: Tượng pháp và quí pháp hay mạt pháp.
(3)
Lý Ðô Úy Vận: Lý sĩ Hành, tên chữ là Thiên Quân, đỗ Tiến
sĩ, làm chức Ðô Chuyển Vận Sứ ở Hà Bắc.
141.-
CHỮ HÁN: Cao Am viết: Giáo hóa chi đại mạc tiên đạo đức
lễ nghĩa. Trụ trì nhân tôn đạo đức học giả thượng
cung kính. Hành lễ nghĩa tắc học giả xỉ tham cạnh. Trụ
trì hữu thất dung chi mạn, tắc học giả hữu lăng bạo chi
tệ. Trụ trì hữu động sắc chi tránh, tắc học giả hữu
công đấu chi họa. Tiên thánh tri ư vị nhiên, toại tuyển
minh triết chi sĩ chủ ư tùng lâm. Sử nhân cụ chiêm bất
dụ nhi hóa. Cố Thạch Ðầu Mã Tổ đạo hóa thịnh hạnh
chi thời. Anh kiệt chi sĩ xuất, uy nghi nhu gia, ung ung túc túc
phát ngôn cử lệnh, thuấn mục dương mi, giai khả dĩ vi hậu
thế chi phạm mô giả nghi kỳ nhiên hỹ.
Dữ
Tử Tâm thư.
141.-
DỊCH NGHĨA: Cao Am nói: Việc lớn của giáo hóa không gì lớn
bằng đạo đức nhân nghĩa. Người trụ tri tôn đạo đức
thời người học đạo sùng chuộng cung kính, thực hành lễ
nghĩa thời người học hổ thẹn về tham muốn cạnh tranh.
Nếu một khi người trụ trì tỏ vẻ ở dáng mặt khinh nhờn,
thời người học có cái tệ lấn át thô bạo. Người trụ
trì lộ vẻ tranh luận mà biến đổi sắc mặt, thời người
học có cái vạ đấu tranh. Bậc Tiên thánh biết lúc chưa
xảy ra, nên mới tuyển lựa kẻ sĩ minh triết làm chủ chốn
tùng lâm, khiến cho mọi người đầy đủ phần quan chiêm,
chẳng cần phải dạy bảo mà vẫn theo chỗ giáo hóa. Nên,
đương thời ngài Thạch Ðầu (1), Mã Tổ đạo hóa thịnh
hành, thì các bậc anh kiệt đua nhau xuất hiện. Các cử chỉ
như uy nghi nhu hòa, nghiêm trang kính cẩn, phát ngôn ra lệnh,
chớp mắt dương lông mày, đều có thể lấy đây làm mô
phạm cho đời sau, nên mới làm như thế vậy.
Thư
gởi Tử Tâm.
CHÚ
THÍCH:
(1)
Thạch Ðầu: Thạch Ðầu Hy Thiên thiền sư, pháp tự của
Thanh Nguyên Hành Tư thiền sư.
142.-
CHỮ HÁN: Cao Am viết: Tiên sư thường ngôn: "Hành cước xuất
quan, sở chí tiểu viện đa hữu bất như ý sự. Nhân tư Pháp
Nhãn xam Ðịa Tạng, Minh Giáo kiến Thần Ðỉnh thời, tiện
bất kiến hữu phiền não dã".
Ký
Văn.
142.-
DỊCH NGHĨA: Cao Am nói: (1) Tiên sư thường nói: "Ði hành cước
khi bước ra khỏi cửa, đến các tự viện nhỏ, phần nhiu
gặp những việc không như ý. Nhân khi nghĩ đến việc Pháp
Nhãn (2) tham thiền ở Ðịa Tạng, Minh Giáo (3) yết kiến Thần
Ðỉnh, liền chẳng thấy vướng bận chuyện phiền não vậy".
Ký
Văn.
CHÚ
THÍCH:
(1):
Ðại ý đoạn này nói sự tu hành của người đi hành cước,
lúc nào cũng phải giữ phần chính niệm, không để cho mối
nghĩ cẩu thả xen vào.
(2)
Pháp Nhãn: Pháp Nhãn Văn Ích thiền sư đi hành cước bị mưa,
tới nghĩ ở viện Ðịa Tạng thuộc Thạch Sơn, nhân thế
được gặp vị lão Tăng hiệu là Sâm thiền sư, do chỗ trao
đổi một vài câu chuyện đạo mà Pháp Nhãn đại ngộ.
(3)
Minh Giáo: Khi Minh Giáo Tung thiền sư yết kiến Thần Ðỉnh,
Ðỉnh đang ngồi trên thiền đường. Tung trải tọa cụ kính
lễ. Ðỉnh chỉ lên hai cái hũ nhỏ trên nhà thiền và nói:
"Ông tới đây rất đúng lúc, trong chùa năm nay bắt đầu
có tương ăn". Ðến sáng, khi ăn cháo, Tung thấy một tịnh
nhân cắp một cái sọt vuông, lấy đồ vật trong đó để
vào trong bát của chúng Tăng, Tung đưa mắt nhìn trên dưới,
có người thì nhai nhấm chút ít, có người thì để đấy
không ăn. Tung không ăn liền để vật đó trong tay áo xuống
dưới nhà bửa ra xem, thì đó là một thứ bánh làm bằng
cơm khô. Tung mới hỏi bậc kỳ túc thì được biết, chùa
này không bao giờ nấu cháo buổi sáng, nếu ngày nào có đàn
việt thỉnh trai, thì lần lượt phải khiến chư Tăng đi,
nếu ăn còn thừa thì thức ăn đem về phơi khô để trong
kho, tới ngày nào không có người thỉnh trai, phần đó đem
ra chia đều để ăn. Ðó là tiêu biểu cho sự cam khổ dữ
đồng vậy.
143.-
CHỮ HÁN: Cao Am biểu lý đoan kính phong cách lẫm nhiên. Ðộng
tĩnh bất vong lễ pháp. Tại chúng nhật lữ kiến xâm hại
thù bất giới ý. Chung thân dĩ giản ước tự phụng. Thất
trung bất vọng hứa khả. Sảo bất tương khế, tất chính
sắc trực từ dĩ tài chi. Nột tử giai tín phục. Thường
viết: "Ngã đạo học vô quá nhân giả. Ðãn bình sinh vi sự
vô quí ư tâm nhĩ".
[b]143.-
DỊCH NGHĨA: Cao Am là người đoan nghiêm cương trực ở cả
trong tâm cũng như hình thức bề ngoài, phong cách lẫm liệt,
động tĩnh không quên lễ pháp. Ngày còn ở trong chúng thường
thấy có việc gì xâm hại, ngài cũng chẳng để ý tới. Trọn
đời chỉ lấy chỗ giản ước để tự xử. Trong chốn thiền
thất chẳng bao giờ ngài hứa khả (1). Không có lý do chánh
đáng, nếu hơi có điều gì chẳng cùng khế hợp, tất nhiên
ngài nghiêm sắc mặt và nói thẳng để ngăn cản, nên trong
đám nột tử ai nấy đều tin phục. Ngài thường nói: "Ta
là người học đạo không hơn người, nhưng bình sinh làm
việc không để hổ thẹn với lương tâm".
CHÚ
THÍCH:
(1)
Hứa khả: Tham thiền cốt yếu ở chỗ thực chứng ngộ, nên
người nào có chứng ngộ xác thực mới được thầy hứa
khả cho, tức chứng nhận.
144.-
CHỮ HÁN: Cao Am trụ Vân Cư, kiến nột tử hữu công nhân
ẩn ác giả, tức thung dung dụ chi viết: "Sự bất như thử,
lâm hạ nhân đạo vi cấp vụ, hòa nãi tu thân. Khởi khả
cẩu túng ái tăng, hoại nhân hành chỉ". Kỳ uỷ khúc như
thử. Sư sơ bất phó Vân Cư mệnh. Phật Nhãn di thư miễn
văn: "Vân Cư giáp ư Giảng Tả, khả dĩ an chúng hành đạo,
tự bất tu cố nhượng". Sư viết: "Tự hữu tùng lâm dĩ lai,
học giả bị giá ban danh mục, hoại liễu tiết nghĩa giả,
bất vi bất thiểu". Phật Giám văn chi viết: "Cao Am khứ tựu
nột tử sở bất cập".
Ký
Văn.
144.-
DỊCH NGHĨA: Cao Am ở chùa Vân Cư, thấy nột tử kẻ nào hay
soi bói cái lỗi xấu bí ẩn của người, ngài liền ung dung
bảo họ rằng: "Sự việc chẳng nên như thế. Người trong
chốn thiền lâm, phải lấy tu đạo làm việc cấp bách, lấy
hòa hoãn làm đích sửa mình. Ðâu lại buông bỏ ở lòng yêu
ghét, để phá hoại chỗ tiến thoái của người". Ngài dạy
cặn kẻ như thế đó. Cao Am lúc đầu không vâng mệnh trụ
trì chùa Vân Cư, Phật Nhãn có gởi thư khuyên rằng: "Chùa
Vân Cư là danh lam bậc nhất ở Giang Tả (1), nơi ấy có thể
an chúng hành đạo vậy ngài không nên khiêm nhường mà cố
từ". Cao Am nói: "Từ khi có tùng lâm trở lại đây, người
học đạo bị cái danh mục ấy, nó làm bại hoại mất tiếc
nghĩa của con người không phải là ít". Phật Giám nghe thấy
thế liền nói: "Chỗ đi và chỗ tới của Cao Am, người nột
tử ít ai sánh kịp".
|