|
.
THIỀN LÂM
BẢO HUẤN
Hòa
Thượng Thích Thanh Kiểm Dịch và Chú thích
Phật
lịch 2516, Mùa Xuân năm Quý Sửu 1973
THIỀN
LÂM BẢO HUẤN
Quyển
Thứ Tư
Sa
môn Tịnh Thiện đất Ðông Ngô trùng tập.
Sa
môn Thích Thanh Kiểm, dịch và chú thích
Trang
03
279.-
CHỮ HÁN: Hạt Ðường viết: Học đạo chi sĩ yếu tiên chính
kỳ tâm, nhiên hậu khả dĩ chính kỷ chính vật. Kỳ tâm ký
chính tắc vạn vật định hỹ. Vi văn tâm trị nhi thân loạn
giả. Phật Tổ chi giáo do nội cập ngoại, tự cận chi viễn.
Thanh sắc hoặc ư ngoại, tứ chi chi tật giả. Vị kiến tâm
chính nhi bất năng tri vật, thân chính nhi bất năng hóa nhân.
Cái nhất tâm vi căn bản, vạn vật di chi diệp. Căn bản trác
thực, chi diệp vinh mậu. Căn bản khô tụy, chi diệp yểu
triết. Thiện học đạo giả trị nội dĩ dịch ngoại, bất
tham ngoại dĩ hại nội. Cố đạo vật yếu tại thanh tâm.
Chính nhân cố tiên chính kỷ, tâm chính kỷ lập nhi vạn vật
bất tòng hóa giả vị chi hữu giả.
Dữ
Nhan Thị Lang thư.
279.-
DỊCH NGHĨA: Hạt Ðường nói: Kẻ sĩ học đạo cần biết
chính tâm làm đầu, vậy sau mới có thể chính mình và chính
sự vật. Tâm đã chính thì an định được vạn vật. Ta chưa
hề nghe thấy tâm đã trị mà thân lại loạn. Giáo pháp của
Phật Tổ do từ bên trong mà kịp đến bên ngoài, từ gần
đến xa. Mê hoặc thanh sắc ở bên ngoài là bệnh của tứ
chi, vọng tình phát khởi ở trong là bệnh của tâm phúc. Ta
chưa bao giờ thấy tâm đã chính mà không hay giáo hóa được
người. Bởi lẽ, lấy nhất tâm làm cội gốc, vạn vật làm
cành lá, nếu cội gốc khỏe chắc thì cành lá tốt tươi,
cội gốc khô gầy, cành lá tất héo gãy. Người khéo học
đạo, trước hết phải trị nơi nội tâm để chống lại
ngoại vật, đừng có tham ngoại vật để hại nội tâm. Cho
nên muốn dẫn đạo được vật, điều cần thiết là ở
chỗ tâm thanh tịnh. Muốn chính người tất nhiên trước phải
chính mình. Nếu tâm đã chính, mình đã lập mà vạn vật
không theo chỗ giáo hóa của mình, thì việc đó chưa từng
có vậy.
Thư
gởi Nhan Thị Lang (1).
CHÚ
THÍCH:
(1)
Nhan Thị Lang: Người triều nhà Tống, tên là Nhan Kỳ Phục,
tên chữ là Di Trọng, theo học ở Lã Vinh Công, làm chức quan
Thị Lang.
280.-
CHỮ HÁN: Giản Ðường Cơ Hòa thượng, trụ Bà Dương Quản
Sơn cận nhị thập tải. Canh lê phạn thử, nhược tuyệt
ý ư vinh đạt. Thường hạ sơn văn lộ bàng ai khấp thanh.
Giản Ðường trắc nhiên đãi tuân chi. Nhất gia hàn tật,
cận vong lưỡng khẩu, bần vô liễm cụ đặc tựu thi đại
quan táng chi. Hương nhân cảm thán bất dĩ. Thị Lang Lý Công
(Thung Niên) vị sĩ đại phu viết: "Ngô hương cơ lão hữu
đạo nột tử dã. Gia dĩ từ huệ cập vật, Quản Sơn an năng
cửu xử hồ". Hội Khu Mật Uông (Minh Viễn), Tuyên Phủ chư
lộ đạt vu Cửu Giang, Quận thú Lâm Công (Thúc Ðạt), hư
Viên Thông pháp tịch nghinh chi. Giản Ðường văn mệnh nãi
viết: "Ngô đạo chi hành hỹ". Tức hân nhiên duệ trượng
nhi lai. Ðang tọa thuyết pháp viết: "Viên Thông bất khai sinh
dược phố, đan đan chỉ mãi tử miêu đầu. Bất tri na cá
vô tư toán, khiết trược thông thân lãnh hãn lưu". Chuy tố
kinh dị. Pháp tịch nhân tư đại chấn.
Lại
Am Tập.
280.-
DỊCH NGHĨA: Giản Ðường Cơ Hòa thượng, trụ trì chùa Quản
Sơn huyện Bà Dương đã gần hai mươi năm. Ngài chỉ ăn cơm
gạo nếp, canh rau lê, dường như tuyệt ý nghĩ về đường
vinh đạt. Một hôm ngài xuống núi, bên đường đi, nghe thấy
tiếng khóc ai oán thảm thiết. Ngài động lòng trắc ẩn,
liền tìm tới hỏi đầu đuôi sự việc, mới biết rõ, đó
là một gia đình bị bệnh thương hàn, vừa chết mất hai
người, nhưng vì nhà quá nghèo, nên không có tiền sắm đồ
liệm. Ngài vội tới chợ mua áo quan để mai táng cho họ.
Người trong làng thấy thế ai nấy đều cảm thán nghĩa cử
của ngài không ngớt. Quan Thị Lang Lý Công Thung Niên, nói
với các sĩ đại phu rằng: "Làng tôi có Giản Ðường Cơ
lão sư là người nột tử có đạo, lại thêm lòng nhân huệ
từ ái với mọi người, chùa Quản Sơn đâu phải là nơi
cư trụ lâu dài của ngài vậy ư?". Ông liền họp quan Khu
Mật Uông Minh Viễn cùng các quan tuần phủ các quận để
trình bày sự việc về quan Quận thú đất Cửu Giang là Lâm
Công Thúc Ðạt, để đón ngài về trụ trì chùa Viên Thông,
vì chùa này còn vắng ngôi pháp chủ. Ngài Giản Ðường nghe
biết và thuận mệnh nói: "Ðạo của ta sẽ được thực hành
vậy". Rồi ngài vui vẻ chống gậy tới nhậm chức trụ trì.
Khi thăng tòa thuyết pháp ngài nói:
Viên
Thông chẳng mở thuốc trường sinh,
Chỉ
bán đầu mèo chết lại tanh.(1)
Vật
ấy đâu hay suy tính được,
Nuốt
rồi mình mẩy nhẹ tênh tênh.
Tất
cả hai hàng Tăng tục nghe thấy ai nấy đều kinh dị. Pháp
tịch của ngài nhân thế mà vang dội khắp nơi.
Lại
Am Tập (2).
CHÚ
THÍCH:
(1)
Ðầu mèo chết: Vật này vốn dĩ khi đã chết thì tanh hôi
lạ thường, nhưng đây lại cốt để tỷ dụ cho sự việc
quí báu để hướng thượng.
(2)
Lại Am: Lại Am Dĩnh Nhu thiền sư, pháp tự của Kính Sơn Cảo
thiền sư.
281.-
CHỮ HÁN: Giản Ðường viết: Cổ giả tu thân trị tâm, tắc
dữ nhân cộng kỳ đạo. Hưng sự lập nghiệp, tắc dữ nhân
cộng kỳ công. Ðạo thành công trứ tắc dữ nhân cộng kỳ
danh. Sở dĩ đạo vô bất minh, công vô bất thành, danh vô
bất vinh. Kim nhân tắc bất nhiên. Chuyên kỷ chi đạo, duy
khủng nhân chí thắng ư kỷ. Hựu bất năng tòng thiện vụ
nghĩa, dĩ tự quảng dã. chuyên kỷ chi công, bất dục tha nhân
hữu chi. Hựu bất năng nhậm hiền dữ năng, dĩ tự đại
dã. Thị cố đạo bất miễn ư tế, công bất miễn ư tổn.
danh bất miễn ư nhục. Thử tam giả nãi cổ kim học giả
chi đại phân dã.
[b]281.-
DỊCH NGHĨA: Giản Ðường nói: Người xưa tu thân trị tâm
thì cùng với người cùng chung cái đạo đó. Dấy việc lập
nghiệp thì cùng với người cùng chung cái công đó. Khi đạo
đã thành, công đã hiển thì cùng với người cùng chung cái
danh đó. Vậy nên đạo không có gì là chẳng sáng, công không
có gì là chẳng thành, danh không có gì là chẳng vinh. Người
đời nay thì không thế, họ chỉ chuyên cái đạo vị kỷ,
chỉ sợ người ta hơn mình. Họ không biết theo điều thiện
làm việc nghĩa để tự rộng. Chỉ chuyên đưa cái công về
mình, không muốn người khác dự phần vào đó. Họ lại không
biết dùng người hiền cùng kẻ tài năng để tự lớn mình.
Vì thế, nên đạo không tránh khỏi sự che lấp, công không
tránh khỏi sự tổn hại, danh không tránh khỏi sự nhục nhã.
Ðó là ba điều phân cách giữa người học đạo xưa và nay
vậy.
282.-
CHỮ HÁN: Giản Ðường viết: Học đạo do như chủng thụ,
phương vinh nhi phạt chi, khả dĩ cấp tiều tân. Tương thịnh
nhi phạt chi, khả dĩ tác suy giác. Sảo tráng nhi phạt chi,
khả dĩ sung doanh phương. Lão đại nhi phạt chi, khả dĩ vi
lương đống. Ðắc phi thủ công viễn, nhi kỳ lợi đại hồ.
Sở dĩ cổ chi nhân, duy kỳ đạo cố đại nhi bất hiệp,
kỳ chí viễn áo nhi bất cận, kỳ ngôn sùng cao nhi bất ty.
Tuy thích thời chở ngữ, cùng ư cơ hàn, đãi vong khâu hác,
dĩ kỳ di phong dư liệt, cắng bách thiên niên hậu, nhân do
dĩ vi pháp nhi truyền chi. Hướng sử hiệp đạo cẩu dung,
nhĩ chí cầu hợp, ty ngôn sự thế, kỳ lợi chỉ vinh ư nhất
thân, an hụu dư trạch, phổ cập ư hậu thế tai.
Dữ
Lý Thị Lang thư.
282.-
DỊCH NGHĨA: Giản Ðường nói: Người học đạo cũng như
trồng cây. Cây vừa tốt mà đã chặt, chỉ để cung cấp
làm củi. Cây sắp lớn mà đã chặt, chỉ có thể cung cấp
làm rui mè. Cây hơi lớn mà đã chặt, chỉ có thể sung làm
kèo cột. Cây đã già và lớn mới chặt, thì có thể dùng
làm xà nóc. Như vậy, há chẳng phải là dùng công xa rộng
thì lợi đó cũng lớn vậy ư? Sở dĩ người xưa chỉ duy
ở cái đạo đó cố nhiên là rộng lớn mà không chật hẹp,
cái chí đó xa vời mà không thiển cận, coi lời nói đó cao
thượng mà không thấp hèn. Tuy có lúc gặp phải thời thế
dở dang, gặp lúc đói rét khốn cùng, hay dù phải vong thân
nơi rừng núi, nhưng cái di phong dư liệt đó, cũng vẫn còn
rạng rỡ suốt hàng trăm năm sau, người ta cũng vẫn còn lấy
đó làm phép tắc mà truyền trì. Trước đây, giả sử những
người xưa chỉ coi đạo một cách chật hẹp để cầu chỗ
tạm dung, chỉ lập chí một cách thiển cận để cầu hợp,
phát ngôn một cách ty tiện để chuộng quyền thế, thì sự
lợi ích đó chỉ vinh đạt ở một mình mình, đâu còn có
ân huệ thấm nhuần phổ cập tới tận đời sau được.
Thư
gởi Lý Thị Lang.
283.-
CHỮ HÁN: Giản Ðường Thuần Hy ngũ niên tứ nguyệt, tự
Thiên Thai Cảnh Tinh Nham, tái phò Ẩn Tĩnh, Cấp Sự Ngô Công
Phất, dật lão vu Hưu Hưu Ðường, họa Uyên Minh thi tập tam
thiên tống hành.
-
Kỳ nhất viết:
Ngã
tự qui lâm hạ,
Dĩ
dữ thế tương sơ.
Lại
hữu thiện trí thức,
Thời
năng quá ngã lô.
Bạn
ngã thuyết đạo thoại,
Ái
ngã độc Phật thư.
Tức
vị nham thượng khứ,
Ngã
diệc vị cao sa.
Tiện
dục triển ngã bát,
Tùy
sự đồng phạn sơ.
Thoát
thử trần tục luỵ,
Trường
dữ nham thạch cư.
Thử
nham cố cao hỹ,
Trác
xuất Sơn Hải Ðồ.
Nhược
tỷ ngô sư cao,
Thử
nham hoàn bất như.
-
Nhị:
Ngã
sinh sơn quật lý,
Tứ
diện thị sàn nhan.
Hữu
nham hiệu Cảnh Tinh,
Dục
đáo tri kỷ niên.
Kim
thủy tín kỳ tuyệt,
Nhất
lãm tiểu chúng sơn.
Cánh
đắc sư vi chủ,
Nhị
Diêu vị di ngôn.
-
Tam:
Ngã
gia hồ sơn thượng,
Xúc
mục thị lâm khâu.
Nhược
tỷ tư sơn tú,
Bồi
lũ cố nan trù.
Vân
sơn thiên lý biện,
Tuyền
thạch tứ thời lưu.
Ngã
kim tài nhất đáo,
Dĩ
thắng Ngũ hồ du.
-
Tứ:
Ngã
niên thập nhất ngũ,
Mộc
mạt quải tàn dương.
Túng
sử thân vi thệ,
Diệc
năng khởi cửu trường.
Thượng
ký lâm gian trụ,
Dữ
sư công mạt quang.
Cô
vân nga tạm xuất,
Viễn
cận hãi thương hoàng.
-
Ngũ:
Ái
sơn đoan hữu tố,
Câu
tục diệc khả lân.
Tạc
thủ đương đồ quận,
Bất
thức Ẩn Tĩnh Sơn.
Tiện
sư lai hựu khứ,
Qui
ngã phục hà ngôn.
Thượng
kỳ vô cửu trụ,
Qui
tống ngã tàn niên.
-
Lục:
Sư
Tâm như tử khôi,
Hình
diện như cảo mộc.
Hồ
vi nột tử qui,
Tự
ưởng đáp không cốc.
Cố
ngã trần cấu thân,
Chính
đãi đề hồ dục.
Cánh
nguyện trương Phật đăng,
Vị
ngã đại minh chúc.
-
Thất:
Phù
sơ nham thượng thụ,
Nhập
hạ tổng thành âm.
Kỷ
niên kim cức địa,
Nhất
đán thành tùng lâm.
Ngã
phương dữ nột tử,
Cộng
thính Hải triều âm.
Nhân
sinh đa tụ tán,
Ly
biệt hốt kinh tâm.
-
Bát:
Ngã
dữ sư lai vãng,
Tuế
nguyệt tuy vị trường.
Tương
khán hành nhị lão,
Phong
lưu diệc dị thường.
Sư
yến tọa nham thượng,
Ngã
phương vị tụ lương.
Thảng
sư năng tảo qui,
Thử
lạc do vị ương.
-
Cửu:
Phân
phân học thiền giả,
Yêu
bao cạnh bôn tẩu.
Tài
năng thuyết cát đằng,
Si
ý tiện tự phụ.
Cầu
kỳ đạo đức tôn,
Như
sư cái hy hữu.
Nguyện
truyền thượng thừa nhân,
Vinh
quang Lâm Tế hậu.
-
Thập:
Ngô
ấp đa chuy đồ,
Hạo
hạo nhược vân hải.
Ðại
Cơ cửu dĩ vong,
Lại
hữu Tiểu Cơ tại.
Nhưng
cánh dữ Nhất Sầm,
Thuần
toàn lưỡng vô hối.
Ðường
đường nhị lão thiền,
Hải
nội cộng kỷ đãi.
-
Thập nhất:
Cổ
vô trụ trì sự,
Ðản
chỉ truyền pháp chỉ.
Hữu
năng ngộ sắc không,
Tiện
khả siêu sinh tử.
Dong
năng muội bản lai,
Khởi
thức Tây qui lý.
Mại
thiệp tọa thiền sàng,
Phật
pháp tương hà thị.
-
Thập nhị:
Tăng
trung hữu cao tăng,
Sĩ
diệc hữu cao sĩ.
Ngã
tuy bất vị cao,
Tâm
thô năng tri chỉ.
Sư
thị cá trung nhân,
Ðặc
hoạn bất vi nhĩ.
Hà
hạnh ngã dữ sư,
Câu
thị lân gia tử.
-
Thập tam:
Sư
bản cùng Hòa thượng,
Ngã
diệc tùng Tú Tài.
Nhẫn
cùng tâm dĩ triệt,
Lão
khẳng bất qui lai.
Kim
sư tuy tạm biệt,
Tuyền
thạch mạc tương sai.
Ưng
duyên liêu phục ngã,
Sư
khởi hữu tâm tai.
Cảnh
Tinh thạch khắc.
283.-
DỊCH NGHĨA: Tháng tư niên hiệu Thuần Hy năm thh1 5, Giản Ðường
từ Cảnh Tinh Nham núi Thiên Thai trở lại chùa Ẩn Tĩnh. Quan
Cấp sự Ngô Công Phất đang ẩn dật di dưỡng tuổi già ở
Hưu Hưu Ðường, liềnhọa theo vần thơ của Ðào Uyên Minh
gồn mười ba thiên để tiển chân Giản Ðường như sau:
1.-
Từ khi bạn núi rừng,
Tôi
cùng đời cách xa.
Nhờ
có thiện trí thức,
Ðôi
lúc tới thăm nhà.
Thân
tôi, nói chuyện đạo,
Mến
tôi, đọc Phật đà.
Khi
quay về trên núi,
Tôi
cũng tiễn chân qua.
Thầy
cho tô thưởng thức,
Cơm
rau vị đậm đà.
Thoát
khỏi lụy trần tục,
Muốn
ở núi ngâm nga.
Núi
này cao cao ngất,
Vượt
cả Sơn Hải Ðồ.(1)
Nhưng
sánh cao đức thầy,
Núi
này còn kém xa.
2.-
Tôi sinh trong hang núi,
Bốn
mặt cao chênh vênh.
Có
núi gọi Cảnh Tinh,
Muốn
đến đã mấy lần.
Núi
ấy thật kỳ tuyệt,
Mọi
núi nhỏ quanh mình.
Lại
có thầy làm chủ,
Nhị
Diệu (2) khó tả tranh.
3.-
Nhà tôi hồ trên núi,
Nhìn
ra toàn núi rừng.
So
cảnh đẹp của thầy,
Bên
tôi khó sánh cùng.
Mây
tỏa xa ngàn dặm,
Suối
biếc chảy không ngừng.
Tôi
tuy vừa mới tới,
Ngũ
hồ cảnh sao bằng.
4.-
Bảy mươi lăm tuổi lẽ,
Tàn
dương treo ngọn cây.
Ví
rằng thân chưa mất,
Cũng
chẳng được bao ngày.
Còn
mong ở rừng núi,
Cùng
thầy hưởng dư quang.
Cô
vân vụt biến mất,
Gần
xa thấy bàng hoàng.
5.-
Yêu núi là số phận,
Nợ
tục cũng đáng thương.
Xưa
coi Ðương Ðồ Quận,
Núi
Ẩn Tĩnh đâu tường.
Khen
thầy nay đi lại,
Lòng
tôi thấy ngỡ ngàng.
Mong
đừng đi lâu lắm,
Về
thăm tôi năm tàn.
6.-
Tâm thầy như tro lạnh,
Hình
vóc tựa cây khô.
Nột
tử đều quy tụ,
Tựa
vang dội hư vô.
Ðoái
tới thân trần cấu,
Nước
đề hồ gội trong.
|