THIỀN
LÂM BẢO HUẤN
Quyển
Thứ Hai
Sa
môn Tịnh Thiện đất Ðông Ngô trùng tập.
Sa
môn Thích Thanh Kiểm, dịch và chú thích
Trang
01
79.-
CHỮ HÁN: Trạm Ðường Chuẩn Hòa thượng sơ tham Chân Tịnh,
thường chích đăng trướng trung khán độc. Chân Tịnh ha viết:
"Sở vị học giả cầu trị tâm dã. Học tuy đa nhi tâm bất
trị, túng học nhi hề ích. Nhi huống bách gia dị học, như
sơn chi cao, hải chi thâm, tử nhược vi tận chi, kim khí bản
trục mạt, như tiện sử quí, khủng phương đạo nghiệp.
Trực tu đỗ tuyệt chư duyên, đương cầu diệu ngộ, tha nhật
quan chi, như suy môn nhập cữu, cố bất nan hỹ". Trạm Ðường
tức thời bình khứ sở tập, chuyên trú thiền quán. Nhất
nhật văn nột tử độc Gia Cát Khổng Minh xuất sư biểu,
khoát nhiên khai ngộ, ngưng trệ đốn thích, biện tài vô ngại,
tại lưu bối trung tiển hữu quá giả.
79.-
DỊCH NGHĨA: Trạm Ðường Chuẩn Hòa thượng, lúc đầu tham
thiền ở Chân Tịnh, thường thắp đèn trong trướng đọc
kinh sách. Chân Tịnh liền mắng rằng: "Ðiểm chính của người
học là ở chỗ trị tâm. Nếu học dẫu nhiều mà tâm chẳng
sửa trị, thì ví có học nhiều cũng chẳng có ích gì. Hơn
nữa, lại còn rất nhiều môn học khác của hàng trăm nhà
khác nhau, nhiều như núi cao biển sâu. Vậy ông dù có học
hết được tất cả, nhưng đó chỉ là sự việc bỏ gốc
theo ngọn, đem cái hèn dùng vào chỗ quí, sợ nó ngăn ngại
mất đạo nghiệp. Vậy nên phải chấm dứt mọi duyên, để
cầu diệu ngộ. Nếu ở một ngày khác ông xem các môn học
ấy, thì dễ dàng cũng như người chỉ việc đẩy chốt cửa
mà vào, chẳng gặp chi khó khăn". Trạm Ðường tức thời
dẹp bỏ chỗ mình đang tập, rồi chuyên tu thiền quán. Vào
một ngày, ông nghe thấy kẻ nột tử đọc biểu xuất sư
của Gia Cát Khổng Minh (1) bừng dậy khai ngộ, gỡ hết các
chỗ ngưng trệ, có biện tài vô ngại, trong hàng lưu bối
ít ai hay vượt được ông.
CHÚ
THÍCH:
(1)
Biểu xuất sư: Trạm Ðường khai ngộ nhờ được nghe câu:
"Cung trung phủ trung câu vi nhất thể" (trong cung trong phủ đều
là một thể), trong bài xuất sư biểu của Gia Cát Lượng.
80.-
CHỮ HÁN: Trạm Ðường viết: Hữu đạo đức giả lạc ư
chúng, vô đạo đức giả lạc ư thân. Lạc ư chúng giả trường,
lạc ư thân giả vong. Kim xưng trụ trì giả, đa dĩ hiếu ố
lâm chúng, cố chúng nhật phật chi. Cầu kỳ hiếu nhi tri kỳ
ố, ố nhi tri kỳ hiếu giả tiển hỹ. Cố viết: "Dữ chúng
đồng ưu lạc, đồng hiếu ố giả nghĩa dã. Nghĩa chi sở
tại, thiên hạ thục bất qui yên".
Nhị
sư Lại Khả Chuế Vưu Tập.
80.-
DỊCH NGHĨA: Trạm Ðường nói: Người có đạo đức thời
vui với chúng, người không có đạo đức thời vui với mình,
Cái vui cùng chúng thời lâu dài, cái vui ở riêng mình thời
dễ mất. Ngày nay người xưng là trụ trì, phần nhiều lấy
sự ưa ghét để xét chúng, nên chúng nhân đều uất ức.
Tìm cái ưa đó để biết chỗ ghét, tìm cái ghét để biết
chỗ ưa đó thì ít vậy. Cho nên nói: "Cùng chúng cùng dự
phần lo hay vui, cùng dự phần ưa hay ghét là nghĩa vậy. Ðã
có nghĩa thời thiên hạ ai mà chẳng phục".
Hai
việc trên trong Lại Khả Chuế Vưu Tập.
81.-
CHỮ HÁN: Trạm Ðường viết: Ðạo giả cổ kim chính quyền.
Thiện hoằng đạo giả yếu tại biến thông. Bất tri biến
giả câu văn, chấp giáo, trệ tướng, thế tình, thử giai
bất đạt biến quyền cố. Tăng vấn Triệu Châu: "Vạn pháp
qui nhất, nhất qui hà xứ?" Châu vân: "Ngã tại Thanh Châu,
tố lĩnh bố sam, trọng thất cân". Vị, cổ nhân bất đạt
quyền biến, năng nhược thị chi thù tạc. Thánh nhân vân:
"U cốc vô tư, toại chí tư tưởng, hồng chung cự thụ, khẩu
vô bất ứng". Thị tri, thông phương thượng sĩ,tương phản
thường hợp đạo, bất thủ nhất nhi bất ưng biến dã.
Dữ
Lý Thương Lão thư.
81.-
DỊCH NGHĨA: Trạm Ðường nói: Ðạo là chính (1) và quyền(2)
của xưa và nay. Người khéo hoằng đạo, cần ở chỗ biến
thông. Người chẳng biến thông, cứ câu nệ vào văn, chấp
vào giáo, trệ ở tướng, khốn ở tình, thì đó đều là
người không đạt được quyền biến. Vị Tăng hỏi Triệu
Châu: "Vạn pháp qui về một, một qui về chốn nào?" Triệu
Châu nói: "Ta ở Thanh Châu làm một chiếc áo lót bằng vải,
nặng bảy cân". Nghĩa là, cổ nhân nếu chẳng đạt được
quyền biến, thì sao hay thù đáp được như thế đó. Thánh
nhân nói (3): "Hang sâu thẳm thì vô tư,, nên phát được âm
hưởng ấy, chuông lớn vì chịu được sà ngang, nên khi đánh
mới ứng được âm thanh ấy". Thế nên biết, bậc thượng
sĩ khắp nơi, dùng chỗ trái lẽ thường mà vẫn hợp đạo.
Chẳng giữ một chiều mà không ứng biến vậy.
Thư
gởi Lý Thương Lão.
CHÚ
THÍCH:
(1)
Chính: là con đường ngay thẳng.
(2)
Quyền: là con đường tắt, con đường bất thường, tạm
đạt ra trong lúc cần dùng, xong rồi bỏ đi.
(3)
Triệu Châu: tức Triệu Châu Quan Âm Viện tên là Tòng Thẩm
thiền sư, pháp tự của Nam Tuyền Phổ Nguyện thiền sư, ngài
nóira công án này, thuộc tắc thứ 45 trong sách Bích Nham Tập
và Triệu Châu Lục.
(4):
Câu này trích trong văn bia chùa Gian Thê Ðầu Ðà.
82.-
CHỮ HÁN: Trạm Ðưuờng viết: Học giả cầu hữu, tu thị
khả vi sư giả. Thời trung trường hoài tôn kính, tác sự
thủ pháp, ký hữu sở ích. Hoặc trí thức sai thắng ư ngã
diệc khả tương tòng, cảnh sở vị đãi. Vạn nhất dữ ngã,
tương tự, tắc bất như vô dã.
Bảo
Phong Thực Lục.
82.-
DỊCH NGHĨA: Trạm Ðường nói: Người học tìm bạn, phải
nên tìm người đáng bậc làm thầy, luôn luôn mang lòng tôn
kính, nếu làm việc gì cũng nên lấy đó mà bắt chước,
bạn như thế mới mong có ich. Hoặc giả, trí thức của họ
cách xa với ta, cũng có thể y theo đó mà làm bạn, để cảnh
sách chỗ của ta chưa theo kịp. Vạn nhất, họ cùng với ta
ngang nhau, thời chẳng bằng không có là hơn vậy.
Bảo
Phong Thực Lục.
83.-
CHỮ HÁN: Trạm Ðường viết: Tổ đình thu vãn lâm hạ nhân,
bất vi hiếu phù giả, cố tự nan đắc. Tích Chân Như trụ
Tri Hải, thường ngôn: "Tại Tương Tây Ðạo Ngô thời, chúng
tuy bất đa, do hữu lão nột sổ bối, lý tiển thử đạo.
Tự Ðại Qui lai thử, bất hạ cửu bách Tăng, vô thất ngũ
nhân, hội ngã thuyết thoại. Dư dĩ thị tri, đắc nhân bất
tại chúng đa dã".
Thực
Lục.
83.-
DỊCH NGHĨA: Trạm Ðường nói: Ðương lúc Tổ đình thu vãn(1),
trong chốn tùng lâm những người không làm chuyện bôn tẩu
ồn ào, quả thật là rất khó có được. Xưa Chân Như trụ
trì chùa Trí Hải, thường nói: "Khi ta trụ trì chùa Ðạo
Ngô ở Tương Tây, chúng tuy không nhiều, nhưng cũng còn có
vài bậc Trưởng lão, noi theo cái đạo ấy. Từ khi ta từ
chùa Ðại Qui trở lại chùa Trí Hải, thì số Tăng chúng thường
thường rất đông đảo không bao giờ con số dưới 900 người,
nhưng không có được lấy năm bảy người, lãnh hội được
chỗ nói đạo của ta. Bởi thế ta biết, chọn được người
hiền không phải cứ nơi đông chúng vậy".
Thực
Lục.
CHÚ
THÍCH:
(1):
Câu này ý nói đạo đang lúc suy vi trong thời mạt pháp.
84.-
CHỮ HÁN: Trạm Ðường viết: Duy nhân lý hành, bất khả dĩ
nhất thù nhất cật cố năng tận tri. Cái khẩu thiệt biện
lợi giả, sự hoặc vị khả tín, từ ngữ chuyết nột giả,
lý hoặc bất khả cùng. Tuy cùng kỳ từ, khủng vị cùng kỳ
lý, năng phục kỳ khẩu, khủng vị phục kỳ tâm, duy nhân
nan tri, thánh nhân sở bệnh. Huống cận thế nột tử thông
minh, bất vụ thông vật tình, thị thính đa chỉ tứ quá khích,
dữ chúng vi dục, dữ đạo quai phương, tương thượng dĩ
khi, tương mạo dĩ trá. Sử Phật Tổ chi đạo my my nhi du bạc,
đãi bất khả cứu hỹ.
Ðáp
Lỗ Trực thư.
84.-
DỊCH NGHĨA: Trạm Ðường nói: Duy chỗ lý lịch và hành vi
của con người, ta không thể đem một lời cật vấn hay một
câu trả lời mà hay biết được hết. Vì lẽ, ngoài miệng
lưỡi của họ tuy biện bạch lanh lợi, nhưng hoặc việc làm
của họ chưa có thể tin được. Kẻ nói năng tuy vụng về,
nhưng đối với lý của họ hoặc có thể là khôn cùng. Tuy
lời của họ cùng, nhưng sợ cái lý của họ chưa cùng. Hay
phục về miệng lưỡi của họ, nhưng sợ chưa phục cái tâm
của họ. Duy cái khó biết người, Thánh nhân cũng còn cho
đó là việc đáng lo. Huống hồ kẻ nột tử gần đây, chỗ
thông minh của họ thì không thông suốt được vật tình,
chỗ thấy nghe nhiều của họ, cũng chỉ như nhìn qua lỗ hổng.
Ðối với chúng thì trái với ý muốn, đối với đạo thì
trái với đường lối. Cùng sùng chuộng nhau ở chỗ dối,
cùng che đây nhau ở chỗ trá. Khiến cho cái đạo của Phật
Tổ bời bời mà càng ngày càng mỏng manh, thực không thể
cứu vãn được.
Thư
đáp Lỗ Trực.
85.-
CHỮ HÁN: Trạm Ðường vị Diệu Hỷ viết: Tượng quí Tỳ
khưu, ngoại đa tuẫn vật, nội bất minh tâm, túng hữu hoằng
vi, giai phi cứu kính. Cái sở phu ty ổi nhi sử nhiên. Như đoàn
ngưu chi manh, phi chỉ sổ bộ, nhuợc phu ký vĩ, tiện hữu
truy phong trục nhật chi năng, nãi ý thác chi thắng dã. Thị
cố học giả, cư tất trạch xứ, du tất tựu sĩ, toại năng
tuyệt xà tích, cận trung chính văn chính ngôn dã. Tích Phúc
Nghiêm Nhã Hòa thượng, mỗi ái Chân Như Triết, tiêu trí khả
thượng, đãn vị tri sở phụ giả hà nhân. Nhất nhật kiến
dữ Ðại Ninh Khoan, Tưởng Sơn Nguyên, Thúy Nham Chân giai hành.
Nhã hỷ bất tự thắng, thung dung vị Triết viết: "Chư đại
sĩ pháp môn long tượng, tử đắc tòng chi du, dị nhật chi
ngô đạo chi khuynh đồi, chương tổ giáo chi lợi tế, cố
bất tại dư chi đa chúc dã"
Nhất
Thiệp Ký.
85.-
DỊCH NGHĨA: Trạm Ðường bảo Diệu Hỷ rằng (1): Tỳ khưu
thời Tượng quí (2), bề ngoài phần nhiều chạy theo vật
chất, bên trong chẳng minh được tâm tính, ví có hoằng dương
đạo pháp, đều chẳng phải là cứu cánh. Bởi lẽ vì nương
vào chỗ thấp kém mà khiến đến thế. Cũng ví như con nhặng
(ve) trâu, bay chỉ được vài bước, nhưng nếu nương vào
đuôi con ngựa ký thì nó có khả năng lướt gió đuổi ngày.
Ðó là lẽ hơn của sự nương cậy vậy. Thế nên người
học, ở ắt phải chọn nơi, chơi tất phải tìm bạn, liền
hay dứt được tà vạy, gần được chỗ trung chính, và nghe
được chính ngôn. Xưa kia Phúc Nghiêm Nhã (3) Hòa thượng chỉ
yêu chuộng phần tiêu biểu cao vút của mỗi Chân Như Triết,
nhưng chưa biết chỗ Triết nương tựa vào người nào. Nhân
một ngày thấy Triết cùng Ðại Ninh Khoan (4), Tưởng Sơn Nguyên
(5), Thúy Nham Chân (6) cùng đi với nhau. Nhã vui mừng khôn xiết,
liền thung dung bảo Triết rằng: "Chư đại sĩ (7) là những
bậc long tượng (8) trong pháp môn, ông được đi theo với
các ngài du hành, ngày khác sẽ chống giữ cái suy đồi của
đạo ta, làm rực rỡ chỗ lợi tế của Tổ giáo, thật không
cần ở chỗ di chúc nhiều của ta vậy".
Nhất
Thiệp Ký.
CHÚ
THÍCH:
(1):
Ðoạn này ý nói các Tỳ khưu thời Mạt pháp không kịp được
cái đức độ của cổ nhân, và răn dạy phải chọn bạn
tốt để giao tế.
(2)
Tượng quí: Thời Tượng pháp và Mạt pháp.
(3)
Phúc Nghiêm Nhã: Phúc Nghiêm Lương Nhã thiền sư, pháp tự
của Ðỗng Sơn Thủ Sơ, đời thứ 8 phái Thanh Nguyên.
(4)
Ðại Ninh Khoan: Ðại Ninh Khoan Ðạo thiền sư, pháp tự của
Thạch Sương Sở thiền sư, đời thứ 11 phái Nam Nhạc.
(5)
Tưởng Sơn Nguyên: Tán Nguyên Giác Hải thiền sư, pháp tự
của Thạch Sương.
(6)
Thúy Nham Chân: Thúy Nham Khả Chân thiền sư.
(7)
Ðại sĩ: Người có tâm quảng đại hay đảm được được
Phật sự.
(8)
Long tượng: Long là dòng vua loài thủy tộc, tượng là voi
vua loài thú trên cạn, dụ cho người có tài xuất chúng.
86.-
CHỮ HÁN: Trạm Ðường vị Diệu Hỷ viết: Tham thiền tu yếu,
thức lự cao viễn, chí khí siêu mại, xuất ngôn hành sự,
trì tín ư nhân, vật tùy thế lợi cẩu uổng, tự nhiên bất
vi bằng bối miêu mô, thời sở thượng hạ dã.
Bảo
Phong Ký Văn.
86.-
DỊCH NGHĨA: Trạm Ðường bảo Diệu Hỷ rằng (1): Người
tham thiền cần phải có trí thức cao xa, chí khí vượt mức,
lời nói và việc làm phải giữ lòng tin với người, chớ
có theo thế lợi mà cẩu thả làm càn. Như thế tự nhiên
chẳng bị mô tả bởi bè bạn, chẳng bị cao thấp bởi nơi
chốn vậy.
Bảo
Phong Ký Văn.
CHÚ
THÍCH:
(1):
Ðoạn này ý nói sự siêu việt của nột tử không phải là
mục tiêu của người thường.
87.-
CHỮ HÁN: Trạm Ðường viết: Dư tích đồng Linh Nguyên thị
Hối Ðường ư Chương Giang tự. Linh Nguyên nhất nhật dữ
nhị Tăng nhập thành, chí vãn phương qui. Hối Ðường nhân
vấn: "Kim nhật hà vãng?" Linh Nguyên viết: "Thích vãng Ðại
Ninh lai". Thời Tử Tâm tại bàng lệ thanh ha viết: "Tham thiền
dục thoát sanh tử, phát ngôn tiên yếu thành thực, thanh huynh
hà đắc vọng ngữ". Linh Nguyên nhiệt diện bất cảm đối.
Tự nhĩ bất nhập thành quách, bất vọng phát ngôn. Dư cố
tri, Linh Nguyên, Tử Tâm giai lương khí dã.
Nhất
Thiệp Ký.
87.-
DỊCH NGHĨA: Trạm Ðường nói: Ta trước cùng với Linh Nguyên
cùng thị giả Hối Ðường ở chùa Chươong Giang. Linh Nguyên
một ngày cùng với hai ông Tăng vào thành mãi tối mới trở
về. Hối Ðường thấy thế hỏi: "Ngày hôm nay đi đâu?" Linh
Nguyên nói: "Vừa đi chùa Ðại Ninh trở về". Trong lúc đó
Tử Tâm (1) ở bên cạnh lớn tiếng mắng rằng: "Tham thiền
cần ở chỗ thoát sanh tử, phát ngôn cần phải thành thật,
ông anh sao lại được vọng ngữ". Linh Nguyên đỏ mặt chẳng
dám đáplại. Từ đó về sau, không dám vào thành quách, và
cũng không phát ngôn bừa bãi nữa. Nên ta biết Linh Nguyên
và Tử Tâm đều là đồ dùng tốt vậy.
Nhất
Thiệp Ký.
CHÚ
THÍCH:
(1)
Tử Tâm: tức Ngộ Tâm thiền sư, pháp tự của Hoàng Long Tổ
Tâm thiền sư, đời thứ 13 phái Nam Nhạc.
88.-
CHỮ HÁN: Trạm Ðường viết: Linh Nguyên hiếu duyệt kinh sử,
thực tức vị thường thiểu khế, cận năng bối phúng nãi
chỉ. Hối Ðường nhân ha chi. Linh Nguyên viết: "Thường văn,
dụng lực chi giả, thu công viễn". Cố Hoàng Thái Sử Lỗ
Trực viết: "Thanh huynh hiếu học như cơ khát chi thị ẩm
thực, thị lợi dưỡng phân hoa nhược ố xú. Cái kỳ thành
tâm tự nhiên phi đặc nhĩ dã".
Chế
Vưu Tập.
88.-
DỊCH NGHĨA: Trạm Ðường nói (1): Linh Nguyên thích xem kinh
sử, ăn xong chưa từng nghỉ ngơi một chút nào, vội đọc
kinh sử cho tới khi thuộc lòng mới thôi. Hối Ðường thấy
thề liền trách mắng. Linh Nguyên nói: "Tôi từng nghe dùng
sức nhiều thì thu công cũng xa". Nên Hoàng Thái Sử Lỗ Trực
nói: "Ông anh hiếu học, như đói thích ăn, như khát thích
uống, coi lợi dưỡng phồn hoa như phân rác". Ðó có lẽ là
chỗ tự nhiên của tâm thành thật nên mới được như thế.
Cửu
Phong Tập.
CHÚ
THÍCH:
(1):
Ðoạn này ý nói cổ nhân hiếu học là tự nơi đáy lòng
thành thật phát ra.
89.-
CHỮ HÁN: Linh Nguyên Thanh Hòa thượng trụ Thư Châu Thái Bình.
Mỗi kiến Phật Nhãn, lâm chúng chu mật, bất thậm thất sự.
Nhân vấn kỳ yếu, Phật Nhãn viết: "Dụng sự ninh thất ư
khoan, vật thất ư cấp, ninh thất ư lược, vật thất ư tường.
Cấp tắc bất khả cứu, tường tắc vô sở dung, đương trì
chi ư trung đạo, đãi chì hàm hoãn, thứ cơ vi lâm chúng hành
sự chi pháp dã".
Thập
Di.
89.-
DỊCH NGHĨA: Linh Nguyên Thanh Hòa thượng trụ trì chùa Thái
Bình ở Thư Châu, thường thấy Phật Nhãn (1) khi làm chúng
rất chu đáo tế mật, chẳng phạm việc lầm lỗi. Nhân hỏi
cái yếu chỉ đó. Phật Nhãn nói: "Dùng việc thà mất ở
chỗ khoan, chớ nên mất ở chỗ cấp. Thà mất ở chỗ lược,
chớ nên mất ở chỗ tường. Cấp thời chẳng thề cứu được,
tường thời không thể dung được. Nên phải giữ nó ở phần
trung đạo, dùng cách khoan thai chậm chạp để đối xử với
mọi công việc. Có như thế, ngõ hầu mới làm cái pháp tắc
cho cách tới chúng làm việc vậy" (2).
Thập
Di.
CHÚ
THÍCH:
(1)
Phật Nhãn: tức Thanh Viễn thiền sư ở chùa Long Môn thuộc
Thư Châu.
(2):
Câu này đại ý nói người tiếp chúng phải thích nghi cả
vội và khoan để khỏi mất đạo trung dung.
90.-
CHỮ HÁN: Linh Nguyên vị Trường Linh Trác Hòa thượng viết:
Ðạo chi hành cố tự hữu thời. Tích Từ Minh phóng ý ư Kinh
Sở gian, hàm sỉ nhẫn cấu, kiến giả hốt chi. Từ Minh tiếu
nhi dĩ. Hữu vấn kì cố, đối viết: "Liên thành dữ ngõa
lịch tương xúc dư cố tri bất thắng hỹ". Ðãi kiến Thần
Ðỉnh hậu, dự bá tùng lâm, chung khởi Lâm Tế chi đạo.
Ta hồ, đạo dữ thời dã, cẩu khả cưỡng hồ.
Bút
Thiếp.
90.-
DỊCH NGHĨA: Linh Nguyên bảo Trường Linh Trác (1) Hòa thượng
rằng: Làm việc đạo, cố nhiên tự nó cũng có thời. Xưa
kia Từ Minh, khi tham học ở đất Kinh Sở, phải ngậm ngùi
những điều sĩ nhục, nhẫn những việc nhơ nhuốc, có kẻ
thấy thế coi thường ngài. Từ Minh chỉ mỉm cười mà thôi.
Nhân có người hỏi về nguyên cớ. Ngài đáp: "Ngọc Liên
thành (2) cùng ngõa lịch cùng lẫn với nhau, cố nhiên ta biết
chẳng thế hơn vậy". Kịp sau khi thấy Thần Ðỉnh (3) thì
Từ Minh được tiếng khen khắp chốn tùng lâm, làm nổi bậc
cái đạo của Lâm Tế (4). Than ôi! Ðạo cũng phải cùng với
thời vậy, người ta sao có thể miễn cưỡng được vậy
ư".
Bút
Thiếp.
CHÚ
THÍCH:
(1)
Trường Linh Trác: Trường Linh Thủ Trách thiền sư, pháp tự
của Linh Nguyên Thanh thiền sư, trụ trì chùa Thiên Ninh ở
Ðông Kinh, đời thứ 14 phái Nam Nhạc.
(2)
Liên thành: Nước Triệu có viên ngọc Bích Biện Hòa. Chiêu
Vương nhà Tần muốn đem mười lăm thành trì liền nhau để
đổi lấy viên ngọc quí. Nước Triệu bèn phái Tương Như
đem ngọc Bích vào nhà Tần. Tương Như nhận thấy Tần Vương
duy chỉ có tâm yêu thích viên ngọc Bích, không có ý định
cắt thành để đổi. Tương Như bèn nói dối rằng: "Viên
ngọc Bích có tì vết, xin cho thần xem lại". Vua trao ngọc
Bích cho Tương Như. Tương Như liền cầm ngọc Bích tựa vào
cột mà đứng, khí giận xung thiên mà nói rằng: "Thần nghe
những kẻ áo vải giao kết với nhau cũng còn chẳng nỡ dối
nhau nữa là mang danh một đại quốc vậy ư? Vua nếu cấp
bức thần, thì đầu thần cùng với viên ngọc Bích này đều
vỡ nát ở bên cột". Vua sợ ngọc Bích vỡ, liền khiến người
đỡ Tương Như ra khỏi cột, và trả ngọc Bích về cho nước
Triệu.
(3)
Thần Ðỉnh: Thần Ðỉnh Hồng Ðàm thiền sư, người Ðàm
Châu, pháp tự của Thủ Sơn Niệm thiền sư, đời thứ 9 phái
Nam Nhạc, trụ trì chùa Thần Ðỉnh, người đã làm cho chốn
tông môn được hưng thịnh, các môn đệ của ngài đều lỗi
lạc hơn các môn phái khác. Do thế, Từ Minh để tóc dài không
cắt, mặc áo rách tới tham đạo ở Thần Ðỉnh. Thần Ðỉnh
nói: "Ta nghe nói đất Phần Dương có Tây Hà Sư Tử phải
hay không?" Từ Minh nhờ thế mà lãnh ngộ, sau tên tuổi ngài
được vang lừng bốn phương.
(4)
Lâm Tế: Lâm Tế Nghĩa Huyền thiền sư, thủy tổ của Lâm
Tế tông, pháp tự của Hoàng Nghiệt Hy Vận.
91.-
CHỮ HÁN: Linh Nguyên vị Hoàng Thái Sử viết: Cổ nhân vân:
"Bão hỏa thố vu tích tân chi hạ, nhi tẩm kỳ thượng, hoả
vị cập nhiên, cố dĩ vi an". Thử thành dụ an nguy chi cơ,
tử sinh chi lý, minh như cảo nhật, gián bất dụng phát. Phù
nhân bình cư yến xứ, hãn dĩ sinh tử họa hoạn vi lự. Nhất
đán sự xuất bất trắc, phương đốn túc ách uyển nhi cứu
chi, chung mạc năng tế hỹ.
Bút
Thiếp.