|
.
THIỀN LÂM
BẢO HUẤN
Hòa
Thượng Thích Thanh Kiểm Dịch và Chú thích
Phật
lịch 2516, Mùa Xuân năm Quý Sửu 1973
THIỀN
LÂM BẢO HUẤN
Quyển
Thứ Nhất
Sa
môn Tịnh Thiên (2) đất Ðông Ngô trùng tập.
Sa
môn Thích Thanh Kiểm, dịch và chú thích.
Trang
03
56.-
CHỮ HÁN: Hoàng Long viết: Trụ trì yếu tại đắc chúng, đắc
chúng yếu tại kiến tình. Tiên Phật ngôn: "Nhân tình giả,
vi thế chi phúc điền, cái lý đạo sở do sinh dã". Cố thời
chi bĩ thái, sự chi tổn ích, tất nhân nhân tình. Tình hữu
tông tắc, tắc bĩ thái sanh, sự hữu hậu bạc, tắc tổn
ích chí. Duy Thánh nhân năng thông thiên hạ chi tình, cố dịch
chi biệt quái, càn hạ khôn thượng tắc viết thái, càn thượng
khôn hạ tắc viết bĩ. Kỳ thủ tượng, tổn thượng ích
hạ, tắc viết ích, tổn hạ ích thượng, tắc viết tổn.
Phù càn vi thiên, khôn vi địa, thiên tại hạ nhi địa tại
thượng, vị cố quai hỹ, nhi phản vị chi thái giả, thượng
hạ giao cố dã. Chủ tại thượng nhi tân xử hạ, nghĩa có
thuận hỹ, nhi phản vị chi bĩ giã, thượng hạ bất giao cố
dả. Thị dĩ thiên địa bất giao, thứ vật bất dục, nhân
tình bất giao, vạn sự bất hòa, tổn ích chi nghĩa diệc do
thị hỹ. Phù tại nhân thượng giả, năng ước kỷ dĩ dụ
hạ, hạ tất duyệt nhi phụng thưởng hỹ, khởi bất vị
chi ích hồ. Tại thượng giả miệt hạ nhi tứ chư kỷ, hạ
tất oán nhi bạn thượng hỹ, khởi bất vị chi tổn hồ.
Cố thượng hạ giao tắc thái, bất giao tắc bĩ. Tự tổn
giả nhân ích, tự ích giả nhân tổn, tình chi đắc thất,
khởi dung dị hồ. Tiên thánh thường dụ nhân vi chu, tình
vi thủy, tủy năng tải chu, diệc năng phú chu, thủy thuận
chu phù, vi tắc một hỹ. Cố trụ trì đắc nhân tình tắc
hưng, toàn thất nhi toàn phế. Cố đồng thiện tắc phúc đa,
đồng ác tắc họa thâm. Thiện ác đồng loại, đoan như quán
châu, hưng phế tượng hành, minh nhược quan nhật,tư lịch
đại chi nguyên qui dã.
Dữ
Hoằng Nguyệt Thắng Thư.
56.-
DỊCH NGHĨA: Hoàng Long nói (1): Trụ trì cần ở chỗ được
lòng chúng. Ðược lòng chúng là ở chỗ thấy tình. Ðức
Phật nói: "Tình người làm ruộng phước cho đời, đạo lý
đều từ đó sanh ra". Cho nên, sự bĩ thái của thời, tổn
ích của việc, tất nương vào tình người. Tình người có
thông tác, nên bĩ thái phát sinh. Sự việc có hậu bạc, nên
tổn ích phải đến. Duy Thánh nhân hay sáng suốt được cái
tình của thiên hạ, nên những quẻ riêng biệt trong kinh Dịch
có chia ra; Càn ở dưới khôn ở trên thời nói rằng thái
(2), càn ở trên khôn ở dưới, thời nói rằng bĩ (3). Theo
Tượng truyện của Dịch: Tổn ở trên ích ở dưới, thời
nói rằng ích (4), tổn ở dưới ích ở trên, thời nói rằng
tổn (5). Ôi! Càn là trời, khôn là đất, trời ở dưới mà
đất ở trên, thời ngôi vị đó trái ngược, mà lại bảo
đó là thái, là vì lẽ trên dưới giao hòa nhau vậy. Chủ
ở trên mà khách ở dưới, thì nghĩa đó là thuận, mà trái
lại bảo đó là bĩ, là vì lẽ trên dưới chẳng giao hòa
với nhau vậy. Bởi lẽ trời đất chẳng giao hòa với nhau,
nên mọi vật chẳng được sự nuôi nấng, lòng người chẳng
giao cảm với nhau, nên muôn việc chẳng hòa, cái nghĩa tổn
ích cũng bởi thế mà ra. Ôi! Người ở địa vị trên, thời
tự biết mình phải tiết ước, mà phải rộng rãi với kẻ
dưới, thời người dưới tất vui vẻ mà cung phụng người
trên, há chẳng bảo đó là ích vậy ư! Ở ngôi trên mà khinh
miệt kẻ dưới, lại tự mình phóng túng, thời người dưới
tất oán mà trái lệnh trên, há chẳng bảo đó là tổn vậy
ư! Cho nên trên dưới giao hòa thời thái, chẳng giao hòa thời
bĩ! Tự tổn mình thì ích người, tự ích mình thì tổn người.
Sự được hay mất của tình người, đâu có dễ dàng vậy.
Tiên thánh (6) thường ví người là con thuyền, tình là nước,
nước hay chở được thuyền, nhưng nước cũng hay lật được
thuyền, thuận với nước thì thuyền nổi, trái với nước
thì thuyền chìm. Vậy nên, người trụ trì nếu được lòng
người thì hưng thịnh, mất lòng người thời suy vi. Ðược
hoàn toàn thì hoàn toàn thịnh, mất hoàn toàn thì hoàn toàn
suy. Thế nên, cùng làm điều thiện thì phúc nhiều, cùng làm
điều ác thì vạ lắm. Thiện ác cùng một loại, luân chuyển
như đầu mối chuỗi hạt châu. Thịnh suy theo pháp tắc tuần
hành tỏ rõ như xem mặt trời vậy. Ðó là nguyên qui (7) cho
đời này qua đời khác phải noi theo.
Thư
gởi cho Hoàng Nghiệt Thắng (8).
CHÚ
THÍCH:
(1):
Ðoạn này nói rõ sự tương quan trên và dưới phải giao hòa
với nhau thì mọi việc mới nhất trí.
(2)
Càn ở dưới khôn ở trên, thời nói rằng thái: Dịch ở
câu: Càn hạ khôn thượng, tắc vị chi thái. Ðó là nói quẻ
Ðịa Thiên Thái. Quẻ Dìạ Thiên Thái thì càn ở dưới khôn
ở trên, nên gọi là càn hạ khôn thượng. Khôn là địa,
càn là thiên, nên tên quẻ đọc là Ðiạ Thiên Thái. Thái
có nghĩa là an vui, thông thuận.
(3)
Càn ở trên khôn ở dưới, thời nói rằng bĩ: Dịch ở câu:
Càn thượng khôn hạ, tắc viết bĩ. Ðó là nói về quẻ Thiện
Ðịa Bĩ trong kinh Dịch. Quẻ Thiên Ðịa Bĩ thì khôn ở dưới,
càn ở trên. Càn là thiên, khôn là địa, nên quẻ đọc là
Thiên Ðịa Bĩ. Bĩ nghĩa là che lấp, cùng quẫn.
(4)
Tổn ở trên ích ở dưới, thời nói rằng ích: Dịch trong
câu: Tổn thượng ích hạ, tắc viết ích. Ðó là quẻ Phong
Lôi Ích trong kinh Dịch Quẻ Phong Lôi Ích thi chấn ở dưới
tốn ở trên. Tốn là phong, chấn là lôi nên tên quẻ đặt
là Phong Lôi Ích. Phong là gió, lôi là sấm, gió mạnh thời
sấm càng vang, sấm vang thời gió càng dữ, gió sấm hổ trợ
nhau nên gọi là ích.
(5)
Tổn ở dưới ích ở trên, thời nói rằng tổn: Dịch ở
câu: Tổn hạ ích thượng, tắc viết tổn. Ðó là quẻ Sơn
Trạch Tổn trong kinh Dịch. Quẻ này đoài ở dưới cấn ở
trên. Cấn là sơn, đoài là trạch, nên tên quẻ đọc là Sơn
Trạch Tổn (sơn là núi, trạch là sông). Tổn có nghĩa là
thiệt hại, giảm bớt. Ví như đào đất ở dưới đưa đắp
lên trên làm nền, thời nền hỏng mà tường tháp phải đổ
ngay, thế thì tổn dưới ích trên là việc rất nguy hiểm,
nên đặt quẻ bằng tổn.
(6)
Tiên thánh thường ví: Sách Gia Ngữ chép: "Ôi! Vua như là con
thuyền, dân như là nước, nước hay chở được thuyền, nhưng
nước cũng hay làm cho thuyền lật.
(7)
Nguyên qui: Nguyên qui có nghĩa là con rùa lớn, ngày xưa thường
dùng mai rùa để bói việc cát hung. Nguyên qui ở đây có nghĩa
là khuôn phép cho muôn đời vậy.
(8)
Hoàng Nghiệt Thắng: Hoàng Nghiệt Duy Thắng thiền sư, pháp
tự của Hoàng Long Nam thiền sư.
57.-
CHỮ HÁN: Hoàng Long vị Kinh Công viết: Phàm thao tâm sở vi
chi sự, thường yếu diện, tiền lộ kính, khai quát sử nhất
thiết nhân hành đắc, thủy thị đại nhân dụng tâm. Nhược
dã, hiểm ải bất thông, bất độc sử tha nhân bất năng
hành kiêm tự gia diệc vô thố túc chi địa hỹ.
Chương
Gia Tập.
57.-
DỊCH NGHĨA: Hoàng Long bảo Kinh Công (1) rằng: Phàm để tâm
vào công việc chỗ mình làm, thường cần phải mở rộng
con đường thẳng trước mắt, khiến cho hết thảy mọi người
đều đi được, đó mới là cách dụng tâm của đại nhân.
Bằng như con đường lại nguy hiểm chẳng thông, chẳng những
khiến người ta chẳng hay đi được, mà chính ngay cả tự
mình cũng không có nơi đặt chân vậy.
Chương
Gia Tập.
CHÚ
THÍCH:
(1)
Kinh Công: Tên chữ là Giới Thụ, thường gọi là Vương an
Thạch, là quan Tri Sự ở Kinh Châu, pháp tự của Bảo Phong
thiền sư.
58.-
CHỮ HÁN: Hoàng Long viết: Phù nhân ngữ mặc cử thố, tự
vị thượng bất khi thiên, ngoại bất khi nhân, nội bất khi
tâm, thành khả vị chi đắc hỹ. Nhiên do giới cẩn hồ độc
cử ẩn vi chi gian, quả vô tiêm hào sở khi, tư khả vị chi
đắc hỹ.
Ðáp
Kinh Công thư.
58.-
DỊCH NGHĨA: Hoàng Long nói (1): Ôi! Người ta nói năng lúc lặng
thinh, khi cử động lúc an tĩnh, tự mình phải, trên chẳng
dối trời, ngoài không dối người, trong chẳng dối lòng,
đó mới bảo là được vậy. Tuy nhiên, cũng còn phải nên
khuyên răn và thận trọng trong cả ở chỗ một mình hay nơi
vắng kín, quả thật không một mảy may dốitrá, như thế
mới bảo đó là được vậy.
Thư
đáp Kinh Công.
CHÚ
THÍCH:
(1):
Ðoạn này ý nói về việc làm của con người dù ở chỗ
sáng cũng như chỗ tối, cần phải thân tâm nhất chí.
59.-
CHỮ HÁN: Hoàng Long viết: Phù Trưỡng lão chi chức, nãi đạo
đức chi khí. Tiên thánh kiến tùng lâm, trần kỷ cương, lập
danh vị, tuyển trạch hữu đạo đức nột tử, mênh chi viết
Trưởng lão giả, tương hànhkỳ đạođức, phi cẩu thiết
thị danhdã. Từ Minh tiênsư thường viết: "Dữ kỳ thủ đạo,
lão tử khâu hác, bất nhược hành đạo lãnh chúng ư tùng
lâm". Khởi phi thiện thủ Trưởng lão chi chức giả, tắc
Phật Tổ chi đạo đức tồn dư.
Dữ
Thuý Nham Chân thư.
59.-
DỊCH NGHĨA: Hoàng Long nói: Ôi! cái chức của Trưởng lão
(1) là khí cụ của đạo đức. Bậc Tiên thánh kiến tạo
tùng lâm, đặt ra kỷ cương, lập ra danh vị, tuyển chọn
người nột tử có đạo đức để gánh vác chức đó. Nên
chức vụ của Trưởng lão có trách nhiệm là phải thực hành
phần đạo đức của mình, chẳng phải chỉ lạm dụng cái
tên đó vậy. Từ Minh tiên sư thường nói: "Cùng với người
giữ đạo tuy cùng chết già trong lò gạch, nhưng chẳng bằng
người hành đạo lãnh chúng chốn tùng lâm". Há chẳng phải
là người khéo giữ cái chức vụ Trưởng lão, thời đạo
đức của Phật Tổ còn được tồn tại đó sao".
Thư
gởi Thúy Nham Chân.
CHÚ
THÍCH:
(1)
Trưởng lão: Chức Trưởng lão trong thiền gia có ba bậc:
a.
Kỳ niên trưởng lão, vị có nhiều tuổi đời và tuổi hạ.
b.
Pháp trưởng lão, chỉ vào vị có trí tuệ, đức độ. liễu
đạt được pháp tánh.
c.
Tác trưởng lão, chỉ gán cho danh hiệu trưởng lão mà thôi
60.-
CHỮ HÁN: Hoàng Long vị ẩn sĩ Phan Diên Chi viết: Thánh hiền
chi học, phi tạo thứ khả thành, tu tại tích lũy. Tích lũy
chi yếu, duy chuyên dữ cần. Bình tuyệt thị hiếu, hành chi
vật quyện, nhiên hậu khoáng nhi sung chi, khả tận thiên hạ
chi diệu.
Long
Sơn Quảng Lục.
60.-
DỊCH NGHĨA: Hoàng Long bảo ẩn sĩ Phan Diên Chi (1) rằng: Cái
học của Thánh hiền, không thể thành tựu ngay được mà
cần phải tích lũy. Cái yếu của tích lũy, duy ở chỗ chuyên
và cần, trừ khử lòng thị hiếu, thực hành không biết mỏi,
vậy sau mới mở mang rộng rãi ra, thì có thể hết được
cái diệu trong thiên hạ.
Long
Sơn Quảng Lục.
CHÚ
THÍCH:
(1)
Phan Diên Chi: Tức cao sĩ Phan Diên Chi, tên chữ Hưng Tự, thường
hỏi pháp ở Hoàng Long Nam thiền sư.
61.-
CHỮ HÁN: Phan Diên Chi văn Hoàng Long pháp đạo nghiêm mật,
nhân vấn kỳ yếu. Hoàng Long viết: "Phụ nghiêm tắc tử kính,
kim nhật chi qui huấn, hậu nhật chi mô phạm dã. Thi tri chư
địa, long giả hạ chi, oa giả bình chi. Bỉ tương đăng vu
thiên nhận chi sơn, ngô diệc dữ chi câu. Khốn nhi cực ư
cửu uyên chi hạ, ngô diệc dữ chi câu. Kỹ chi cùng, vọng
chi tận, bỉ tắc tự hưu dã". Hựu viết: "Hú chi ấu chi,
xuân, Hạ sở dĩ sinh dục dã. Sương chi tuyết chi, Thu, Ðông
sở dĩ thành thục dã. Ngô dục vô ngôn khả hồ".
Lâm
Gian Lục.
61.-
DỊCH NGHĨA: Phan diên Chi (1) nghe biết Hoàng Long là người
đạo pháp nghiêm mật, nhân đến hỏi vế yếu lĩnh đó. Hoàng
Long nói: "Cha nghiêm thời con kính, qui huấn ngày nay là mô
phạm cho đời sau. Ví như san đất, chỗ cao thì đào cho thấp,
chỗ trũng thì lấp cho bằng. Kẻ kia muốn lên núi cao ngàn
nhận (2) ta cũng theo họ đi cùng, khốn khổ đến cùng cực
ở nơi vực thẳm (3), ta cùng đi tới với họ. Khi tài đã
cùng, vọng đã hết, thời kẻ kia tự nghỉ vậy". Lại nói
rằng: "Có nuôi có dưỡng (4), nên vạn vật sở dĩ sinh trưởng
ở mùa Xuan mùa Hạ, có sương có tuyết, nên vạn vật thành
thục ở mùa Thu mùa Ðông. Ta muốn đừng nói có thể được
vậy ư". (5)
Cửu
Phong Tập.
CHÚ
THÍCH:
(1):
Ðoạn này đại ý nói sự tiếp chúng của thầy cũng giống
vớilý phát sinh nuôi dưỡng vạn vật của trời đất không
khác.
(2)
Nhận: Nhà Chu ấn định bề cao ba thước ta là một nhận.
(3)
Cửu uyên: Dịch là vực thẳm, tức là chỗ nước sâu nhất.
(4)
Có nuôi có dưỡng: Dịch câu Hú chi ấu chi. Trời lấy khí
để nuôi vạn vật gọi là hú, đất lấy hình để dưỡng
vạn vật gọi là ấu.
(5):
Câu này ý nói: Theo chỗ phát sinh và nuôi dưỡng vạn vật
là chỗ buông thả của tự nhiên, nhưng vì căn cơ thấp kém
của thời mạt pháp, nên ta phải rủ lòng khắn bó dạy bảo.
62.-
CHỮ HÁN: Hoàng Long thất trung hữu tam quan ngữ. Nột tử thiểu
khế kỳ cơ giả, thoát hữu thù đối, duy liễm mục nguy tọa,
thù vô khả phủ. Diên chi ích khấu chi. Hoàng Long viết: "Dĩ
quá quan giả trạo tý nhi khứ, tòng quan lại vấn khả phú,
thử vị thấu quan giả dã.
Lâm
Gian Lục.
62.-
DỊCH NGHĨA: Hoàng Long trong trượng thất có ba lời then chốt
gọi là "Tam quan ngữ" (1). Kẻ nột tử ít người khế hợp
được cơ đó, hoặc có thù đối, chỉ nhắm mắt ngồi ngay,
không quyết đoán khả phủ được (2). Diên Chi luôn luôn nghiền
ngẫm quan ngữ đó. Hoàng Long nói: "Người đã qua cửa ải
rồi thì vung cánh tay mà đi, nếu còn theo người giữ cửa
để hỏi khả phủ, thì đó là người chưa thấu được quan
ngữ vậy".(3)
Lâm
Gian Lục.
|