|
.
THIỀN LÂM
BẢO HUẤN
Hòa
Thượng Thích Thanh Kiểm Dịch và Chú thích
Phật
lịch 2516, Mùa Xuân năm Quý Sửu 1973
THIỀN
LÂM BẢO HUẤN
Quyển
Thứ Tư
Sa
môn Tịnh Thiện đất Ðông Ngô trùng tập.
Sa
môn Thích Thanh Kiểm, dịch và chú thích
Trang
01
228.-
CHỮ HÁN: Phật Trí Dụ Hòa thượng viết: Tuấn mã chi bôn
dật, nhi bất cảm tứ túc giả, hàn bí chi ngự dã. Tiểu
nhân chi cường hoạnh, bất cảm túng tình giả, hình pháp
chi chế dã. Ý thức chi lưu lãng, bất cảm phan duyên giả,
giác chiếu chi lực dã. Ô hô! Học giả vô giác chiếu, do
tuấn mã vô hàm bí. Tiểu nhân vô hình pháp, tương hà dĩ
tuyệt tham dục, trị vọng tưởng hồ.
Dữ
Trịnh Cư Sĩ pháp ngữ.
228.-
DỊCH NGHĨA: Phật Trí Dụ Hòa thượng nói: Con tuấn mã chạy
nhanh như vũ bão mà không dám buông chân tự tại, vì nó bị
chế ngự bởi hàm thiếc dây cương. Kẻ tiểu nhân cường
bạo ngang tàng, mà không dám buông ý tung hoành, vì hắn bị
chế ngự bởi hình pháp. Ý thức lưu lãng của con người,
mà không dám buông lung theo trần duyên, vì nó bị ngăn cản
bởi sức giác chiếu. Than ôi! Người học đạo mà không có
sức giác chiếu, cũng như con tuấn mã không có hàm thiếc
và dây cương. Còn kẻ tiểu nhân nếu không có hình pháp,
thì đem gì để dứt bỏ tham dục, đối trị vọng tưởng.
Pháp
ngữ gởi Trịnh cư sĩ (1).
CHÚ
THÍCH:
(1)
Trịnh cư sĩ: Pháp tự của Ðại Tuệ Cảo thiền sư, cũng
gọi là Trịnh Ngang cư sĩ.
229.-
CHỮ HÁN: Phật Trí vị Thủy Am viết: Trụ trì chi tể hữu
tứ yên: nhất đạo đức, nhị ngôn hành, tam nhân nghĩa, tứ
lễ pháp. Ðạo đức ngôn hành nãi giáo chi bản dã, nhân nghĩa
lễ pháp não giáo chi mạt dã. Vô bản bất năng lập, vô mạt
bất năng thành. Tiên thánh kiến học giả bất năng tự trị,
cố kiến tùng tâm dĩ an chi, lập trụ trì dĩ thống chi. Nhiên
tắc tùng lâm chi tôn, phi vị trụ trì. Tứ sự phong mỹ phi
vị học giả. Giai dĩ Phật Tổ chi đạo cố. Thị dĩ thiện
vi trụ trì giả, tất tiên tôn đạo đức thủ ngôn hành.
Năng vi học giả tất tiên tôn nhân nghĩa tuân lễ pháp. Cố
trụ trì phi học giả bất lập. Học giả phi trụ trì bất
thành. Trụ trì dữ học giả, do thân chi dữ tý, đầu chi
dữ túc, đại tiểu bất xứng nhi bất hội, nãi tương tu
nhi hành dã. Cố viết: "Học giả bảo ư tùng lâm, tùng lâm
bảo ư đạo đức!". Trụ trì nhân vô đạo đức, tắc tùng
lâm tương kiến ký phế hỹ.
Thực
Lục.
229.-
DỊCH NGHĨA: Phật Trí bảo Thủy Am: Thực thể của Trụ trì
có bốn điều: Ðạo đức, ngôn hành, nhân nghĩa và lễ pháp.
Ðạo đức và ngôn hành là gốc của sự giáo hóa, nhân nghĩa
và lễ pháp là ngọn của sự giáo hóa. Không có gốc thì
chẳng hay đứng được, không có ngọn thì chẳng hay thành
được. Bậc Tiên thánh thấy người học đạo không tự trị
được, nên mới kiến lập tùng lâm để họ có chỗ an trụ,
suy cử người trụ trì để thống lĩnh họ, nhưng vì cái
tôn của tùng lâm không phải vì trụ trì. Cơm ăn, áo mặc,
đồ dùng, thuốc thang đầy đủ, không phải vì người học
đạo, mà đều là vì cái đạo của Phật Tổ. Bởi thế,
người khéo trụ trì trước hết phải tôn đạo đức, giữ
ngôn hành, người khéo học đạo, tất nhiên phải giữ nhân
nghĩa tuân đạo đức. Cho nên, nếu trụ trì không có người
học đạo thì không thể thành lập. Trụ trì và người học
đạo cũng như thân mình với cánh tay, đầu và chân, lớn
nhỏ phải thích ứng mà không trái nhau mới có thể cùng nương
vào nhau mà làm việc. Nên nói: "Người học đạo thì bảo
thủ tùng lâm, tùng lâm thì giữ gìn đạo đức". Người trụ
trì nếu không có đạo đức thì tùng lâm cũng hầu như tàn
phế vậy.
Thực
Lục.
230.-
CHỮ HÁN: Thủy Am Nhất Hòa thượng viết: Dịch ngôn: "Quân
tử tư họa nhi dự phòng chi". Thị cố cổ chi nhân tư sanh
tử đại hoạn phòng chi dĩ đạo. Toại năng kinh đại truyền
viễn. Kim chi nhân vị cầu đạo vu khoát, bất nhược cầu
lợi chi thiết đáng. Do thị cạnh tập phù hoa kế hiệu hàm
mạt. Hy mục tiền chi sự, hoài cẩu thả chi kế. Sở dĩ mạc
khẳng vi chu tuế chi qui giả. Huống sinh tử chi lự hồ. Sở
dĩ học giả nhật bỉ tùng lâm nhật phế, kỷ cương nhật
trụy, dĩ chí lăng di điên bái, đãi bất khả cứu. Ta hồ!
Khả bất giảm tai.
Song
Lâm Thực Lục.
230.-
DỊCH NGHĨA: Thủy Am Nhất Hòa thượng nói: Kinh Dịch có nói:
"Người quân tử nghĩ tới tai họa nên phải dự bị đề
phòng". Thế nên người xưa, luôn luôn nghĩ tới cái đại
hoạn sanh tử, mà phải đem đạo để phòng ngừa, nên sự
nghiệp mới lớn lao, tiếng thơm mới xa rộng. Còn người
đời nay lại bảo cầu đạo là vu khoát, cầu lợi là thiết
đáng. Do thế họ ganh đua nhau tập thói phù hoa, tính kế vụn
vặt, chỉ cầu mong những việc trước mắt, hoài bảo những
kế cẩu thả, ngay đến cả việc trù liệu kế hoạch cho
một năm cũng chẳng chịu làm, nữa là lo đến việc lớn
sanh tử. Vì thế, người học đạo ngày càng quê hèn, chốn
tùng lâm ngày càng hoang phế, kỷ cương ngày càng trụy lạc.
Sở dĩ tùng lâm đi đến chỗ nghiêng ngửa đổ nát hầu như
không thể cứu được. Than ôi! Ta phải lấy đó làm gương
soi chung vậy.
Song
Lâm Thực Lục.
231.-
CHỮ HÁN: Thủy Am viết: Tích du Vân Cư kiến Cao Am dạ sam
vị: "Chí đạo kính đĩnh bất cận nhân tình. Yếu tu thành
tâm chính ý vật sự kiểu sức thiên tà. Kiểu sức tắc cận
trá nịnh. Thiên tà tắc bất trung chính. Dĩ chí giai bất hợp
hỹ. Thiết tư kỳ ngôn cận lý. Nãi khắc ý tiễn chi. Ðãi
kiến Phật Trí tiên sư, thủy hạo nhiên đại triệt, phương
đắc bất phụ bình sinh hành cước chi chí".
Dữ
Nguyệt Ðường thư.
231.-
DỊCH NGHĨA: Thủy Am nói: Xưa kia tôi đi hành cước tới chùa
Vân cư, thấy Cao Am nói trong buổi dạ sam: "Chí đạo là con
đường thẳng tắp xa cách tình người, nên phải thành tâm
chính ý, chớ chuộng kiểu sức thiên tà. Kiểu sức thì gần
trá nịnh, thiên tà thì không trung chính, đều không hợp với
chí đạo. Tôi trộm nghĩ lời nói của Cao Am rất gần chân
lý, nên khắc vào tâm khảm làm theo. Mãi đến khi được yết
kiến Phật Trí tiên sư, tôi mới bỗng nhiên đại triệt ngộ,vì
thế mà không phụ cái chí bình sinh hành cước của tôi".
Thư
gởi Nguyệt Ðường (1).
CHÚ
THÍCH:
(1)
Nguyệt Ðường: Cũng gọi Nguyệt Ðường Ðạo Sương thiền
sư, pháp tự của Tuyết Phong Tuệ thiền sư.
232.-
CHỮ HÁN: Thủy Am viết: Nguyệt Ðường trụ trì, sở chí
dĩ hành đạo vi kỷ nhậm. Bất phát hóa chủ bất sự đang
nghệ. Mỗi tuế thực chỉ tùy thường trụ sở đắc dụng
chi. Nột tử hữu chí sung hóa đạo giả đa khước chi. Hoặc
viết: "Phật giới Tỳ khưu bát dĩ tư thân mệnh. Sư hà cụ
chi phất dung". Nguyệt Ðường viết: "Ngã Phật tại nhật
tắc khả. Khủng kim nhật vi chi tất hữu hiếu lợi giả,
nhi chí ư tự dục hỹ". Nhân tư Nguyệt Ðường phòng vi đỗ
tiệm thâm thiết trứ minh. Xứng thực chi ngôn kim do tại nhĩ.
Dĩ kim nhật quan chi, hựu khởi chỉ tự dục nhi dĩ hỹ.
Pháp
ngữ.
232.-
DỊCH NGHĨA: Thủy Am nói: Cách trụ trì của Nguyệt Ðường,
ở nơi nào ngài cũng lấy việc hành đạo làm nhiệm vụ của
mình, không cần người hóa chủ, không chuộng đồ cúng dường.
Sự ăn uống mỗi năm chỉ tùy theo nơi thường trụ có bao
nhiêu dùng vậy. Kẻ nột tử có chí muốn sung vào việc khất
thực hóa đạo, ngài đều từ khước. Hoặc có kẻ nói: "Phật
răn các Tỳ khưu trì bát khất thực để nuôi thân mệnh,
sao ngài chống đối chẳng cho". Nguyệt Ðường nói: "Khi đức
Phật còn tại thế thì được, nhưng ngày nay làm hạnh đó
tất sẽ có người ham lợi mà đưa đến chỗ tự bán cả
thân mình". Nhân thế tôi ngĩ ngài Nguyệt Ðường, ngài phòng
ngừa tội lỗi từ lúc còn nhỏ nhiệm, ngăn chặn không cho
chúng lớn dần, thật là thấm thiết rõ ràng. Những lời
nói xứng thực đó nay còn văng vẳng bên tai. Ngày nay đem
lời nói ấy mà quan sát, há lại chỉ có sự bán mình mà
thôi đâu.
Pháp
ngữ.
233.-
CHỮ HÁN: Thủy Am vị Thị Lang Vưu Diên Chi viết: Tích Ðại
Ngu, Từ Minh, Cốc Tuyền, Lang Gia kết bạn sam Phần Dương.
Hà Ðông khổ hàn chúng nhân đạn chi. Duy Từ Minh chí tại
ư đạo. Hiểu tịch bất đãi, dạ tọa dục thụy, dẫn chùy
tự thích. Thán viết: "Cổ nhân vị sinh tử sự đại, bất
thực bất tẩm, ngã hà nhân tai nhi túng hoang dật, sinh vô
ích ư thời, tử vô văn ư hậu, thị tự khí dã". Nhất đán
từ quy. Phần Dương thán viết: "Sở Viên kim khứ, ngô đạo
Ðông hỹ".
Tây
Hồ Ký Văn.
233.-
DỊCH NGHĨA: Thủy Am bảo quan Thị Lang Vưu Diên Chi (1): Xưa
kia các ngài Ðại Ngu, Từ Minh, Cốc Tuyền và Lang Gia cùng
kết bạn tham học ở ngài Phần Dương. Nơi đây là vùng đất
thuộc Hà Ðông quá đỗi rét lạnh, mọi người đều ghê
sợ. Duy có Từ Minh có chí hướng với đạo, sớm tối tu
hành không lười biếng, ban đêm ngồi thiền, mỗi khi buồn
ngủ, ngài lấy chiếc dùi tự đâm vào mình mà than: "Cổ nhân
vì sinh tử sự đại nên không ăn không ngủ, ta đây là người
thế nào mà lại buông lung biếng nhác để lúc sống thì vô
ích với đời, khi chết không một tiếng vang để lại, như
thế là tự bỏ mình vậy". Nhân một ngày, ngài Từ Minh tới
cáo biệt, Phần Dương than rằng: "Nay Sở Viên đi, đạo của
ta trở về Ðông vậy".(2)
Tây
Hồ Ký Văn.
CHÚ
THÍCH:
(1)
Vưu Diên Chi: Họ Vưu tên Mậu, tự là Diên Chi, hiệu là Toại
Sơ cư sĩ, tham đạo ở ngài Thủy Am Nhất thiền sư.
(2)
Ðạo của ta trở về Ðông: Trịnh Huyền đời nhà Hán thờ
Mã Dong làm thầy, khi từ biệt thầy trở về nhà, Mã Dong
nói: "Ngô đạo Ðông hỹ".
234.-
CHỮ HÁN: Thủy Am viết: Cổ đức trụ trì xuất kỷ hành
đạo, vị thường cẩu giản tự tứ. Tích Phần Dương mỗi
thán: "Tượng quý kiêu ly học giả nan hóa". Từ Minh viết:
"Thậm dị. Sở hoạn chủ pháp giả bất năng thiện đạo
nhĩ". Phần Dương viết: "Cổ nhân thuần thành thượng thả
tam nhị thập niên phương đắc thành biện". Từ Minh viết:
"Thử phi Thánh triết chi luận. Thiện tạo đạo giả thiên
nhật chi công". Hoặc vị Từ Minh vọng đản bất thính. Nhi
Phần Dương địa đa lãnh nhân bãi dạ sam. Hữu dị Tỳ kheo
vị Phần Dương viết: "Bất tam niên quá hữu lục nhân thành
đạo giả". Phần Dương thuờng hữu tụng viết: "Hồ Tăng
kim tích quang, thỉnh pháp đáo Phần Dương. Lục nhân thành
đại khí, khuyến thỉnh vị phu dương".
Tây
Hồ Ký Văn.
234.-
DỊCH NGHĨA: Thủy Am nói: Cổ đức trụ trì, dấn mình để
hành đạo, chưa từng tự mình phóng túng cẩu thả. Xưa kia
Phần Dương thường than thở: "Ðời Tượng quý mỏng manh
bội bạc, người học đạo khó giáo hóa". Từ Minh nói: "Việc
đó rất dễ, chỉ là người chủ pháp không khéo dạy bảo
mà thôi". Phần Dương nói: "Người đời xưa thuần thành cũng
còn phải hai ba mươi năm trời mới thành biện được". Từ
Minh nói: "Ðó không phải là lời bàn về Thánh triết, người
khéo đi tới đạo là công lao của cả ngàn ngày". Hoặc có
người bảo lời nói của Từ Minh là quái đản không nghe
theo. Nhân vì đất Phần Dương quá lạnh nên bãi buổi dạ
sam, bỗng có một Tỳ khư lạ bảo Phần Dương: "Trong pháp
hội có sáu bậc đại sĩ (1) tai sao không ra đời thuyết pháp".
Sau quả nhiên chưa tới ba năm đã có sáu vị thành đạo,
nên ngài Phần Dương thường có bài tụng rằng:
Hồ
Tăng dung tích trượng,
Thỉnh
pháp tới Phần Dương.
Khuyên
ta nói pháp bảo,
Sáu
người liễu đạo vàng.
Tây
Hồ Ký Văn.
CHÚ
THÍCH:
(1)
Sáu bậc đại sĩ: Từ Minh Viên, Ðại Ngu Chi, Lang Gia Giảo,
Cốc Tuyền Ðạo, Pháp Hoa Cử và Thiên Thắng Thái.
235.-
CHỮ HÁN: Ðầu Tử Thanh Hòa thượng họa Thủy Am tượng cầu
tán viết: "Tự thanh thiền nhân, cô ngạnh vô địch. Thần
hôn nhất trai, hiếp bất chí tịch. Thâm nhập thiền định,
ly xuất nhập tức. Danh đạt cửu trùng, đàm thiền tuyển
đức. Long nhan đại duyệt, tứ dĩ kim bạch. Lực từ giả
tam, thượng nãi gia thán. Chân đạo nhân dã, thảo mộc đằng
khoán. Truyền dư lậu chất, chú hương thỉnh tán. Thị sở
vị thanh xuất ư lam nhi thanh ư lam giả dã".
Kiến
Họa tượng.
235.-
DỊCH NGHĨA: Ðầu Tử Thanh (1) Hoà thượng khi vẻ tượng Thủy
Am, có xin ngài làm bài tán để vào bức tranh như sau:
Thanh
thiền nối pháp,
Cao
vút vô song.
Ngày
ăn một bữa,
Tối
chẳng ngả lưng.
Thâm
nhập thiền định,
Hơi
thở chẳng vương.
Tên
vang chín bệ, (2)
Tuyển
đức bàn thiền.
Long
nhan vui đẹp,
Ban
bố lụa vàng.
Ba
lần từ chối,
Vua
càng tán dương.
|