|
.
THIỀN LÂM
BẢO HUẤN
Hòa
Thượng Thích Thanh Kiểm Dịch và Chú thích
Phật
lịch 2516, Mùa Xuân năm Quý Sửu 1973
THIỀN
LÂM BẢO HUẤN
Quyển
Thứ Tư
Sa
môn Tịnh Thiện đất Ðông Ngô trùng tập.
Sa
môn Thích Thanh Kiểm, dịch và chú thích
Trang
02
250.-
CHỮ HÁN: Chuyết Am viết: "Xuất thân lâm chúng, yếu dĩ trí,
khiển vọng trừ tình tu tiên giác. Bội giác hợp trần tắc
tâm mông tế hỹ. Trí ngu bất phân tắc sự vẫn loạn hỹ.
Hoa
Giám Tự thư.
250.-
DỊCH NGHĨA: Chuyết Am nói: Nếu muốn dấn thân tới đại
chúng, cần phải dùng đến trí huệ, muốn bỏ vọng trừ
tình, cần phải dùng đến giác ngộ. Nếu khi đã trái giác
hợp trần thì châm tâm bị lu mờ. Khi không phân trí ngu thì
công việc phải rối loạn.
Thư
gởi Hoa Giám Tự (1).
CHÚ
THÍCH:
(1)
Hoa Giám Tử: tức Linh Nham Hoa thiền sư, pháptự của Thái
Bình Cần thiền sư.
251.-
CHỮ HÁN: Chuyết Am viết: Phật Giám trụ Thái Bình, Cao Am
sung Duy Na. Cao Am xỉ thiếu khí hào, hạ thị chư phương thiểu
hữu khả kỳ ý giả. Nhất nhật trai thời minh kiền, kiến
hành giả biệt khí trí thực vu Phật Giám tiền. Cao Am xuất
đường lệ thanh viết: "Ngũ bách Tăng thiện trí thức tác
giá ban khứ tựu, hà dĩ phạm mô hậu học". Phật Giám như
bất văn kiến. Ðãi hạ đường tuân chi, nãi thủy tê thái.
Cái Phật Giám tố hữu tỳ tật bất thực du. Cố Cao Am hữu
quý. Nghệ phương trượng cáo thoái. Phật Giám viết: "Duy
Na sở ngôn thậm đáng. Duyên Huệ Cần bệnh nãi nhĩ. Thường
văn Thánh nhân ngôn: Dĩ lý thông chư ngại, sở thực ký bất
ưu ư chúng, toại bất nghi dã. Duy Na chí khí minh viễn, tha
nhật đương trụ thạch tông môn. Hạnh vật dĩ thử giới
đới". Ðãi Phật Giám thiên Trí Hải. Cao Am quá Long Môn, hậu
vi Phật Nhãn chi tự.
251.-
DỊCH NGHĨA: Chuyết Am nói: Phật Giám trụ trì chùa Thái Bình,
Cao Am sung chức Duy Na. Cao Am tuổituy còn nhỏ, nhưng chí khí
anh hào, coi rẻ chư phương tôn túc, ít có người vừa ý mình.
Một hôm đánh kiền trùy thụ trai. Cao Am trong thấy thị giả
mang một món thức ăn riêng để trước mang Phật Giám. Cao
Am liền ra trước Tăng đường nói lớn: "Nơi đây có 500 Tăng
chúng mang danh bậc thiện trí thức, lại làm cái việc như
thế, còn lấy gì làm mô phạm cho kẻ hậu học". Phật Giám
coi như không nghe thấy. Cao Am vội xuống nhà dưới hỏi đầu
đuôi, mới biết rõ món thức ăn đó là rau thủy tê (rau ngổ).
Vì lẽ Phật Giám vốn có bệnh đau lá lách, không dùng được
dầu. Cao Am có vẻ hổ thẹn, tới trước Phương trượng đường
xin cáo lui chức Duy Na. Phật Giám nói: "Duy Na nói rất xác
đáng, vì Huệ Cần này có bệnh nên mới làm thế. Ta thường
nghe Thánh nhân nói: Lấy lý để thông suốt mọi chướng ngại.
Món ăn ta dùng đã không hơn chúng, thì còn ngờ vực chi nữa.
Duy Na là người có chí khí thông minh xa vời, ngày sau sẽ
là trụ thạch của tông môn. Ta mong rằng ông chớ nên thắc
mắc vì việc nhỏ mọn này, mà cứ giữ chức Duy Na như cũ".
Ðến khi Phật Giám dời Trụ trì chùa Trí Hải, Cao Am cũng
qua ở chùa Long Môn, sau Cao Am được nối pháp ngài Phật Nhãn.
252.-
CHỮ HÁN: Chuyết Am viết: Ðại phàm dữ quan viên luận đạo
thù tạc. Tu thị sản khứ tri giải vật linh tha tọa tại
khòa quật lý. Trực yếu đan minh hướng thượng nhất trước
tử. Diệu Hỷ tiên sư thường ngôn: "Sĩ đại phu tương kiến
hữu vấn tức đối, vô vấn tức bất khả. Hựu tu thị cá
trung nhân thủy đắc". Thử ngữ hữu bổ ư thời, bất thương
trụ trì chi thể: "Thiết nghi tư chi".
Dữ
Hưng Hóa Phổ Am thư.
252.-
DỊCH NGHĨA: Chuyết Am nói: Ðạiphàm cùng với các quan viên
luận đạo thù tạc thi thố, nên phải cắt bỏ chỗ hiểu
biết rườm rà, chớ để họ thấu suốt vào tận tâm can
mà phải đú ngay ra một vấn đề đan thuần hướng thượng
rõ ràng. Diệu Hỷ tiên sư thường nói: "Khi cùng với kẻ
đại phu tương kiến, họ có hỏi liền đáp ngay, không hỏi
thì không nên và hơn thế nữa, lãi cần phải biết họ là
người cùng một chí hướng vì đạo mới được". Lời nói
đó rất bỏ ích cho thời nay và không phương hại đến đại
thể của trụ trì: "Cần nên suy nghĩ vậy".
Thư
gởi Hưng Hóa Phổ Am (1).
CHÚ
THÍCH:
(1)
Hưng Hóa Phổ Am: Viễn Châu Từ Hóa Phổ Am Ấp Tức thiền
sư, pháp tự của Hoàng Long Trung thiền sư.
253.-
CHỮ HÁN: Chuyết Am viết: Ðại chi mỹ giả thiện dưỡng
vật, chủ chi nhân giả thiện dưỡng sĩ. Kim xưng trụ trì
giả, đa bất dĩ chúng nhân vi tâm, cấp kỷ sở dục, ố văn
thiện ngôn, hiếu tế quá ác, tứ hành tà hạnh. Ðồ khoái
nhất thời chi ý, phản bị tiểu nhân tựu kỳ hiếu ố thủ
chi, tắc trụ trì chi đạo, an đắc bất nguy hồ.
Dữ
Hồng Lão thư.
253.-
DỊCH NGHĨA: Chuyết Am nói: Vùng đất tốt khéo nuôi được
thực vật, người chủ nhân khéo gây được hiền sĩ. Người
nay xưng là trụ trì, phần nhiều không lấy tâm đại chúng
làm tâm mình, mà chỉ vội vã theo ý muốn riêng tư, không
thích nghe lời hay, ưa che đậy lỗi xấu, buông lung theo tà
hạnh. Luống chỉ thỏa mãn cái ý nhất thời, rồi lại bị
những kẻ tiểu nhân nhắm vào chỗ ưa ghét đó mà bắt chước
làm theo, thì cái đạo của trụ trì há lại không nguy vong
vậy ư?".
Thư
gởi Hồng Lão (1).
CHÚ
THÍCH:
(1)
Hồng Lão: Tùy Châu Ðại Hồng Lão Nột Tử Chứng thiền sư,
pháp tự của Ðại Quy Quả thiền sư.
254.-
CHỮ HÁN: Chuyết Am vị Dã Am viết: Thừa Tướng Tử Nham cư
sĩ ngôn: "Diệu Hỷ tiên sư, bình sinh dĩ đạo đức tiết
nghĩa dũng cảm vị tiên. Khả thân bất khả sơ, khả cận
bất khả bách, khả sát bất khả nhục, cư xứ bất dâm,
ẩm thực bất nhục, lâm sinh tử họa hoạn, thị chi như vô.
Chính sở vị Can Tương, Mạc Da nan dữ tranh phong, đãn ngu
thường khuyết nhĩ". Hậu như Tử Nham chi ngôn.
Huyễn
Am Ký Văn.
254.-
DỊCH NGHĨA: Chuyết Am bảo Dã Am (1): Thừa Tướng Tử Nham
cư sĩ nói: "Diệu Hỷ tiên sư bình sinh lúc nào cũng lấy đạo
đức tiết nghĩa dũng cảm làm đầu, chỉ ưng thân mà không
ưng sơ, ưng gần mà không ưng bức bách, ưng giết mà không
ưng nhục. Chốn ở không xa hoa, ăn uống không nồng hậu.
Tới lúc sanh tử họa hoạn cũng coi đó như không. Thật đúng
với truyện Can Tương, Mạc Da (2) khó cùng tranh phong với nhau
được, nhưng đãn hiềm vì lo có thương tổn lầm lỗi vậy".
Về sau quả nhiên đúng như lời của Tử Nham đã nói.
Huyễn
Am Ký Văn.
CHÚ
THÍCH:
(1):
Ðoạn này phần đầu có ý tán thán ngài Diệu Hỷ, phần
cuối e Diệu Hỷ bị thương khuyết vì trí tuệ kiến văn
của ngài quá sắc bén.
(2)
Can Tương, Mạc Da: Theo Ngô Việt Xuân Thu, Can Tương, Mạc Da
là hai danh kiếm. Can Tương người đất Ngô. Mạc Da là vợ
của Can Tương. Can Tương làm kiếm, Mạc Da cắt tóc và móng
tay của mình cho vào trong lò vàng sắt liền chảy thành kiếm.
Kiếm dương gọi là Can Tương, kiếm âm gọi là Mạc Da. Vì
đương thời Can Tương và Mạc Da là hai vợ chồng, và cùng
là người đúc kiếm, nên kiếm hùng gọi là Can Tương, kiếm
thư gọi là Mạc Da.
255.-
CHỮ HÁN: Chuyết Am viết: Dã Am trụ trì, thông nhân tính chi
thủy chung, minh tùng lâm chi đại thể. Thường vị dư ngôn:
"Vị nhất phương chủ giả, tu trạch hữu chí hạnh nột tử
tương dũ kỳ tán, do phát chi hữu sơ, diện chi hữu giám,
tắc lợi bệnh hảo xú bất khả đắc nhi ẩn hỹ. Như Từ
Minh đắc Dương Kỳ, Mã Tổ đắc Bách Trượng, dĩ thủy đầu
thủy, mạc chi nghịch dã".
Huyễn
Am Tập.
255.-
DỊCH NGHĨA: Chuyết Am nói: Dã Am khi làm trụ trì, thông suốt
được trước sau của tình người, hiểu rọ được đại
thể của tùng lâm. Ngài thường bảo vớita rằng: "Người
làm chủ một phương, cần phải lựa chọn kẻ nột tử có
trí hạnh, để cùng giúp đỡ, cũng như tóc có lược chải
và mặt có gương soi, thì hay dỡ tốt xấu không thể nào
dấu được. Cũng như Từ Minh có Dương Kỳ, Mã Tổ được
Bách Trượng, chẳng khác gì nước hòa với nước, không có
chi phương hại nhau vậy".
Huyễn
Am Tập.
256.-
CHỮ HÁN: Chuyết Am viết: Mạc học phu thụ, đồ quý tiện
mục, chung mạc năng cứu kỳ áo diệu. Cố viết: "Sơn bất
yếm cao, trung hữu trùng nhan tích thủy, hải bất yếm thâm,
nội hữu tứ minh cửu uyên. Dục cứu đại đạo, yếu tại
cùng kỳ cao thâm, nhiên hậu khả dĩ chiếu chúc u vi, ứng
biến bất cùng hỹ".
Dử
Cận Lão thư.
256.-
DỊCH NGHĨA: Chuyết Am nói: Người học đạo đời mạt pháp
chỉ học phần ngọn, hấp thụ phần ngoài da, quý trọng phần
tai nghe, khinh rẻ nơi mắt thấy, rốt cục không thể cứu
mình được chỗ cao xa nhiệm mầu của đạo. Nên có câu:
"Núi càng cao thì trong đó có tích lũy, chồng chất nhiều
hang xanh trùng điệp, động sâu đá lạ. Biển càng sâu thì
trong đó có hàm chứa bốn bể (1), chín nguồn (2). Nếu muốn
nghiên cứu đại đạo cần phải cùng tận hết chỗ cao sâu
đó, vậy sau mới có thể lấy đó mà chiếu sáng chỗ u huyền
vi diệu và ứng biến không cùng.
Thư
gởi Cận Lão (3).
CHÚ
THÍCH:
(1)
Bốn bể: Dịch ở chữ tứ minh,có nghĩa là bốn bể ở Ðông,
Tây, Nam, Bắc.
(2)
Chín nguồn: Dịch ở chữ cửu uyên, lòng sâu nhất dưới
đáy biển có chín lần xoáy chuyển, nên gọi là chín nguồn.
(3)
Cận Lão: Tịnh Không Trí Cận thiền sư, pháp tự của Phật
Chiếu Quang thiền sư.
257.-
CHỮ HÁN: Chuyết Am vị Vưu Thị Lang viết: Thánh hiền chi
ý hàm hoãn nhi lý minh, ưu du nhi sự hiển. Sở dụng chi sự
bất kỳ dĩ tốc hành, nhi hứa dĩ tri cửu, bất hứa dĩ tất
tiến, nhi hứa dĩ thứ cơ, dụng thị thôi thánh hiền chi ý,
cố năng cận vạn thế nhi trì vô quá thất giả nãi nhĩ.
Huyễn
Am Tập.
257.-
DỊCH NGHĨA: Chuyết Am bảo Vưu Thị Lang (1): Ý của Thánh hiền
thì hàm súc hòa hoãn mà lý sáng tỏ, thung dung nhàn nhã mà
sự rõ ràng, chỗ dùng việc không mong chóng thành, mà hứa
hẹn ở ý chí lâu bền, công việc không mong quyết tiến,
mà hứa hẹn ở hy vọng công việc thành tựu. Dùng điều
đó để tìm ý của Thánh hiền, cho nên người học đạo
có thể giữ gìn điều đó suốt cả đời mà không lầm lỗi,
chính là nghĩa thế vậy.
Huyễn
Am Tập.
CHÚ
THÍCH:
(1):
Ðoạn này ý nói bổn phận của người học đạo là phải
tiến không lùi bước trước khó khăn, nhưng cũng không nên
mong việc tốc thành và cấp tiến sẽ gặp nhiều trở ngại
mà có phương hại.
258.-
CHỮ HÁN: Thị Lang Vưu Công viết: Tổ Sư dĩ tiền vô trụ
trì sự. Kỳ hậu ứng thế hành đạo bách bất đắc dĩ.
Nhiên cư tắc hồng tất thủ tế phong vũ, thực tắc thô lệ
thủ sung cơ lỗi. Tân khổ tiều tụy hữu bất kham kỳ ưu,
nhi vương công đại nhân chi hữu nguyện kiến nhi bất khả
đắc giả. Cố kỳ sở kiến tập giai lỗi lỗi lạc lạc
kinh thiên động địa. Hậu thế bất nhiên, cao đường quảng
hạ, mỹ y phong thực, di chỉ như ý, ư thị ba tuần chi đồ,
thủy dương dương nhiên động kỳ tâm, tư thư quyền môn,
dao vỹ khất lân, thậm giả sảo thủ hào đoạt, như chính
chú quặc kim, bất phục tri thế gian hữu nhân quả sự. Diệu
Hỷ thử thư, khởi đặc vị Bác Sơn thiết, kỳ niêm tận
chư phương, tự lai tập khí, bất di hào phát, như ẩm Thương
Công Thượng trì chi thủy, đồng kiến can phủ. Nhược năng
tín thụ phụng hành, an dụng biệt cầu Phật pháp.
Kiến
Linh Ẩn Thạch Khắc.
258.-
DỊCH NGHĨA: Thị Lang Vưu Công nói: Các bậc Tổ Sư trở về
trước, vốn không có lập chức trụ trì. Nhưng sau đó, vì
sự bức bách ứng thế hành đạo nên bất đắc dĩ phải
đặt ra. Tuy vậy nhưng chỗ ở của các ngài thì lợp bằng
cỏ lá, đủ để che mưa gió, ăn thì chỉ dùng cơm gạo thô
để đở đói khát. Thật là vất vả tiều tụy, có vẻ như
không kham nỗi sự lo âu, thế mà vương công đại nhân tới,
mong được yết kiến các ngài mà cũng không được gặp.
Cho nên chỗ kiến lập việc gì của các ngài đều là những
sự tài cán lỗi lạc, kinh thiên động địa. Người đời
sau lại không thế, thênh thang ở nhà cao cửa rộng, ăn cơm
ngon, mặc áo đẹp, muốn sai khiến việc chi chỉ cần nhếch
mép trỏ tay. Bởi thế bọn ma Ba Tuần (1) mới hay dương dương
tự đắc, rung động tâm can, nhộn nhịp trước cửa quyền
quý, vẫy đuôi xin ban bố tình thương. Tệ hơn nữa chúng
còn dùng chước khéo để chiếm lấy, cậy quyền hành để
cướp đoạt, giống như kẻ cắp vàng (2) giữa ban gnày, không
biết đến thế gian này cũng có luật nhân quả. Lá thư này
của Diệu Hỷ, chẳng những chỉ gởi riêng cho chùa Bác Sơn,
mà trong đó ngài còn nhắc tới hết tất cả những tập khí
của các người trụ trì của chư phương từ trước dẫn
lại không sót một mảy may, ví như người uống nước Thượng
trì của Thương Công (3), thông suốt được gan ruột con người.
Nếu ai hay tin theo và thực hành lời dặn này thì hà tất
phải cầu đến Phật pháp ở nơi nào khác nữa.
Khắc
ở bia đá chùa Linh Ẩn.
CHÚ
THÍCH:
(1)
Ba tuần: Tiếng Phạn là Pàpi. Tàu dịch là ác ma. Thứ ma vương
luôn luôn mong dứt hại tuệ căn của con người. Chúng xuất
hiện ngăn cản đạo nghiệp khi Phật Thích Ca sắp thành đạo.
(2)
Ăn cắp vàng: Truyện Liệt Tử nói: Xưa kia có một người
nước Tề thích có vàng. Một buổi sáng nọ, nhân lúc chợ
đang đông người, liền đến một tiệm vàng, lén lấy trộm
vàng rồi đi. Chủ tiệm vàng bắt giữ người đó lại và
nói: "Tại sao trước mặt đám đông người như vậy, mà ngươi
dám đánh cắp vàng". Người kia trả lời: "Khi tôi lấy vàng,
tôi không thấy người nào cả, mà chỉ lấy vàng thôi". Ðại
ý đoạn này răn những người tham lợi mà quên hết điều
sĩ nhục, chỉ biết có lợi mà quên mất cái hại.
(3)
Nước Thượng trì: Sử ký chép: Phía Ðông đất Lư Việt,
có ông Biển Thước họ Tần tên là Hoàn, người quận Bột
Hải. Thiếu thời làm quảng lý một nhà trọ, nhân có người
khách tên là Tang Quân, thấy ông Biển Thước có tướng kỳ
lạ độc đáo, nên ông thường lui tới gặp gỡ. Sự tới
lui như vậy đã hơn mười năm. Nhân lúc hôm Tang Quân mời
Biển Thước cùng ngồi một nơi yên tịnh và nói với Biển
Thước: "Tôi có một phương thuốc gia truyền, nay tuổi đã
già, tôi muốn truyền lại cho ông, nhưng ông không được
tiết lậu cho ai". Biển Thước kính cẩn vâng lời. Tang Quân
liền lấy phong thuốc ở trong bọc ra trao cho Biển Thước
mà bảo: "Ông hãy lấy nước Thượng trì mà uống thuốc này,
chỉ nội trong 21 ngày ông sẽ thấy được sự vật". Tang
Quân liền lấy hết thuốc trao cho Biển Thước rồi bỗng
nhiên biến mất. Biển Thước theo đúng như lời dạy và uống
trong vòng 21 ngày, quả nhiên Biển Thước trông thấy rõ được
người ngoài bức tường và sau đó ông coi bệnh cho bệnh
nhân, ông thấy suốt được cả chỗ trưng kết trong ngũ tạng.
Vì thế ông nổi danh về tài chẩn mạch, và là một danh y
lúc đương thời. Chú thích: Nước thượng trì là thứ nước
hạt móc ban đem còn đọng ở trên lá trúc cành cây chưa rơi
xuống mặt đất.
259.-
CHỮ HÁN: Thị Lang Vưu Công vị Chuyết Am viết: Tích Diệu
Hỷ trung hưng Lâm Tế chi đạo ư điêu linh chi thu, nhi tính
thượng khiêm hư, vị thường trì sính kiến lý, bình sinh
bất xu quyền thế, bất cẩu lợi dưỡng. Thường viết: "Vạn
sự bất khả dật dự vi, bất khả sa thái trì. Cái hữu lợi
ư thời nhi tiện ư vật giả, hữu kỳ quá nhi vô kỳ công
giả. Nhược túng chi sa dật tắc bất tế hỹ". Bất tiếu
bội phục tư ngôn, toại vi chung thân chi giới. Lão sư tạc
giả tao ngộ chúa thượng lưu túc Quán Ðường, thực vị
Phật pháp chi hạnh. Thiết ký bất quyện bi nguyện, sử tiến
thiện chi đồ khai minh, nhậm chúng chi đạo ích đại, thứ
cơ hậu sinh vãn bối, bất mưu cận tập, các hoài viễn đồ,
khởi bất vi tùng lâm chi lợi tế hồ.
Nhiên
Thị Giả Ký Văn.
259.-
DỊCH NGHĨA: Thị Lang Vưu Công nói với Chuyết Am: Xưa kia,
Diệu Hỷ là người trung hưng đạo pháp của Lâm Tế, giữa
lúc cảnh tượng điêu tàn, thế mà ngài rất chuộng sự nhúng
nhường, thanh thản, chưa từng theo đuổi về sự tranh biện
đấu lý. Bình sinh ngài không xu phụ kẻ quyền thế, không
màng lợi dưỡng. Ngài thường nói: "Mọi việc không thể
buông lòng túng ý mà làm được, không thể xa hoa bừa bãi
mà giữ được. Bởi lẽ có việc thì có lợi cho thời mà
cũng có ích cho vật, nhưng cũng có việc chỉ có lỗi lần
mà không có công lao. Nếu ta cứ phóng túng sự việc ở chỗ
túng ý xa hoa thì không thể thành tựu được". Kẻ bất tiếu
này nhớ mãi lời nói ấy và lấy đó làm điều răn trọn
đời. Lão sư trước kia đã được gặp chúa thượng và được
lưu lại nghỉ ở Quán Ðường, thật là cái may cho Phật pháp.
Tôi tha thiết mong mỏi ngài không quên tâm bi nguyện, để
con đường tiến thiện được khai minh, con đường gánh vác
việc chúng càng rộng lớn, ngõ hầu đề phòng kẻ hậu sinh
vãn bối không mưu cầu học tập những việc thiển cận mà
đều ấp ủ mưu đồ những việc cao xa, thì đó há không
phải là việc lợi tế cho tùng lâm vậy ư?".
Nhiên
Thị Giả (1) Ký Văn.
CHÚ
THÍCH:
(1)
Nhiên Thị Giả: Khả Am Nhiên thiền sư, pháp tự của Ðại
Tuệ Cảo thiền sư.
260.-
CHỮ HÁN: Mật Am Kiệt Hòa thượng viết: Tùng lâm hưng suy
tại ư lễ pháp, học giả mỹ tại hồ tục tập. Sử cổ
chi nhân sào cư huyệt sử giản ẩm mộc thực hành chi ư kim
thời, tắc bất khả dã. Sử kim chi nhân phong y văn thái, phạn
lương khiết phì, hành chi ư cổ thời diệc bất khả dã.
An hữu tha tai, tập bất tập cố. Phù nhân triêu tịch kiến
giả vi thường, tất vị thiên hạ sự chính nghi như thử.
Nhất đán khu chi tựu bỉ khứ thử, phi độc sinh nghi nhi bất
tín, tương khủng diệc bất tòng hỹ. Dụng thị quan chi, nhân
tình an ư sở tập hài kỳ vị kiến, thị kỳ thướng tình,
hựu hà túc quái.
Dữ
Thi Ty Gián thư.
260.-
DỊCH NGHĨA: Mật Am Kiệt(1) Hòa thượng nói: Chốn tùng lâm
hưng hay suy yếu đều lệ thuộc ở lễ pháp. Người học
đạo tốt hay xấu đều do ỏ tập tục. Cổ nhân ở hang lỗ,
uống nước suối, ăn trái cây, nếu đem những việc đó mà
ứng dụng cho thời nay thì không thể được. Người đời
nay mặc áo đẹp, ăn cơm gạo tám, dùng thức ăn ngon, nếu
đem những việc đó áp dụng cho thời xưa cũng không thể
được. Vậy chẵng có chi là khác lạ đâu? Chỉ do tập quên
hay không tập quen đó thôi. Ôi! Sự thấy biết của con người
từ buổi sớm đến buổi chiều cho đó là việc thường,
tất nhiên họ sẽ bảo những công việc trong thiên hạ, chính
đều là như thế. Nhưng nhất đán họ phải xê dịch từ
chỗ này qua chỗ khác thấy mọi sự vật đổi thay, thì chẳng
những họ chỉ sinh thêm nghi ngờ mà còn không tin, và còn
sợ họ cũng chẳng làm theo là khác. Nếu dùng việc đó quan
sát sự việc, nên ta biết tình con người vì an định ở
chỗ tập theo thói quen, mà sợ hãi những sự việc chưa thấy
biết. Ðó cũng là thường tình có chi là quái gở.
Thư
gởi Thi Ty Gián (2).
CHÚ
THÍCH:
(1)
Mật Am Kiệt: Tú Minh Thiên Ðồng Mật Am Hàm Kiết thiền sư,
pháp tự của Ứng Am Hòa thiền sư, đời thứ 17 phái Nam Nhạc.
(2)
Thi Ty Gián: Hoặc có tên là Thi Sư Mặc, người đời Tống.
261.-
CHỮ HÁN: Mật Am vị Ngộ Thủ Tọa viết: Tùng lâm trung duy
Triết nhân khinh nhu thiểu lập. Tử chi tài khí hoành đại,
lượng độ uyên dung, chi thượng đoan xác, gia dĩ kiến địa
ẩn mật. Tha nhật vị dị ngôn, đản tự thao hối vô lộ
khuê các. Hủy phương ngõa hợp trì dĩ trung đạo, vật vi
thể lợi thiểu uổng. Tức chi bất xuất trần lao nhi tác
Phật sự dã.
Dữ
Tiếu Am thư.
261.-
DỊCH NGHĨA: Mật Am bảo Ngộ Thủ Tọa(1): Trong chốn tùng
lâm, duy có người đất Triết Giang, phần nhiều khinh bạc
hèn yếu, ít ai hay tự lập. Ông tuy cũng là người đất Triết
Giang, nhưng có tài khí rộng lớn, lượng độ bao dung, chí
hướng ngay thực, thêm vào đó kiến thức lại vững vàng,
tương lai ông ra sao chưa tiện nói nhưng ông phải nên tự
kín đáo, chớ để lộ khuê dác, bửa hình vuông lợp lại
làm ngói (2), giữ gìn đúng trung đạo. Ông chớ vì thế lợi
mà khuất phục mảy may. Làm được như thế tức là ở ngay
cõi trần lao này mà vẫn làm Phật sự vậy.
Thư
gởi Tiếu Am.
CHÚ
THÍCH:
(1)
Ngộ Thủ Tọa: Linh Ẩn Tiểu Am Liễu Ngộ thiền sư, pháp
tự của Mật Am Kiệt thiền sư.
(2):
Công việc của người làm ngói, trước hết nặn theo hình
tròn, rồi bửa hình làm bốn, thì ngói trở thành vuông, bửa
hình tròn mà làm hình vuông, hợp hình vuông mà làm hình tròn,
tượng trưng cho nghĩa hàm dung khoan dụ vậy.
262.-
CHỮ HÁN: Mật Am viết: Ưng Am tiên sư thường ngôn: "Hiền
bất tiếu tương phản bất đắc bất trạch. Hiền giả trì
đạo đức nhân nghĩa dĩ lập thân. Bất tiếu giả chuyên
thế lợi trá nịnh dĩ dụng sự. Hiền giả đắc chí tất
hành kỳ sở học, bất tiếu giả xử vị đa thiện tự tâm.
Ðố hiền tật năng thị dục cẩu tài, mỹ sở bất chí.
Thị cố đắc hiền tất tùng lâm hưng, dụng bất tiếu tắc
phế. Hữu nhất vu tư bất năng an tĩnh".
Kiến
Nhạc Hòa Thượng thư.
262.-
DỊCH NGHĨA: Mật Am nói: Ưng Am tiên sư thường nói: "Người
hiền kẻ bất tiếu tương phản nhau nên cần phải lựa chọn.
Người hiền giữ đạo đức nhân nghĩa để lập thân, kẻ
bất tiếu ham thế lợi trá nịnh để dụng sự. Người hiền
khi đắc chí tất làm theo chỗ đã học của mình, kẻ bất
tiếu ở ngôi vị nào cũng chỉ chiếm cứ riêng tư. Ghét kẻ
hiền, ghen người tài, ham thị dục, cầu lợi dưỡng, làm
bất cứ một việc gì họ cũng chẳng từ nan. Thế nên, được
người hiền thì tùng lâm hưng thịnh, dùng kẻ bất tiếu
thì tùng lâm suy vi. Nếu trong tùng lâm có một kẻ bất tiếu
xen vào tất nhiên nơi đó không thể an tĩnh được".
Thư
gởi Nhạc Hòa Thượng (1).
CHÚ
THÍCH:
|