|
.
THIỀN LÂM
BẢO HUẤN
Hòa
Thượng Thích Thanh Kiểm Dịch và Chú thích
Phật
lịch 2516, Mùa Xuân năm Quý Sửu 1973
THIỀN
LÂM BẢO HUẤN
Quyển
Thứ Hai
Sa
môn Tịnh Thiện đất Ðông Ngô trùng tập.
Sa
môn Thích Thanh Kiểm, dịch và chú thích
Trang
02
103.-
CHỮ HÁN: Văn Chính Công vị Lang Gia viết: Khứ niên đáo thử
tư đắc lâm hạ nhân khả ngữ giả. Thường vấn nhất lại:
"Chư sơ hữu hảo Tăng phủ?". Lại xưng: "Bắc Tự Thụy Quang,
Hy Mậu nhị Tăng vi giai". Dư viết: "Thử ngoại chư thuyền
luật trung biệt vô gia?" Lại đối dư viết: "Nho tôn sĩ hạnh,
tăng luận đức nghiệp. Như Hy Mậu nhị nhân giả, tam thập
niên đạp bất việt khổn, y duy bố tố, thanh danh lợi dưỡng,
liễu vô sở trệ, cố bang nhân cao kỳ tháo lý nhi sư kính
chi. Nhược kỳ đăng tọa thuyết pháp, đại Phật dương hóa,
cơ biện tự tại, xưng thiện trí thức giả, phi ngoan lại
năng hiểu". Ðãi hạ nhật phỏng Hy Mậu nhị thượng nhân,
thị kỳ tố hạnh, nhất như lại ngôn. Dư thoái tư, cựu
xung Tô tú hảo phong tục, kim quan lão lại, thượng năng phân
quân tử tiểu nhân ưu liệt, huống kỳ thức giả da! Lang
Gia viết: "Nhược lại sở ngôn, thành vi cao nghị, thỉnh ký
chi dĩ hiểu vị văn".
Lăng
Gia Biệt Lục.
103.-
DỊCH NGHĨA: Văn Chính Công bảo Lang Gia rằng: Năm ngoái đến
đây, ta muốn có được người ở trong chốn thiền lâm, để
cùng người đó có thể cùng nói chuyện. Ta thường hỏi một
viên quan lại: "Có các vị Tăng tốt trong các sơn môn không?"
Viên quan lại nói: "Có hai vị Tăng là Hy và Mậu ở chùa Bắc
Tự và Thụy Quang (1) được gọi là tốt vậy". Ta lại hỏi:
"Ngoài ra, còn trong các tôn Thiền và Luật khác không có ai
nữa vậy ư?". Quan lại thưa: "Nhà Nho thì tôn về sĩ hạnh,
hàng Tăng thì bàn về đức nghiệp. Như hai vị Tăng Hy và
Mậu đã từng ba mươi năm trời chân không bước ra khỏi
cổng, chỉ mặc áo vải thô sơ, không màn chi đến thanh danh
lợi dưỡng. Nên người từng chuộng cái tiết tháo đó mà
kính trọng như bậc thầy. Nếu đăng tòa thuyết pháp, đại
Phật tuyên giáo hóa, thì cơ biện tự tại, còn như gọi là
bậc thiện trí thức, thì chẳng phải kẻ hèn ngu dại này
hay hiểu được". Tới một ngày nhàn hạ, ta đã tới thăm
hai bậc thượng nhân Hy và Mậu, được coi cái hạnh thanh
bạch của các ngài, nhất nhất đúng lời viên quan lại đã
nói. Ta bất giác và nhớ lại, đất Tô Tú (2) cũ này, được
mệnh danh là nơi có phong tục tốt đẹp, nay xem quan lại già
nua này mà còn hay phân biệt được chỗ ưu liệt giữa quân
tử và tiểu nhân, nữa là người thức giả vậy ư? Lang Gia
nói: "Nếu như chỗ viên quan lại nói, thì thật là lời bàn
cao quí, xin ghi lại đây để bảo cho những người chưa được
nghe biết".
Lăng
Gia Biệt Lục.
CHÚ
THÍCH:
(1)
Thụy Quang: Chùa Thụy Quang nằm trong thành Tô Châu. Vì chùa
này có nhiều điềm lạ nên gọi là Thụy Quang:
a.
Chuông trống không người đánh tự nhiên kêu.
b.
Bảo tháp phóng ra hào quang rực rỡ.
c.
Trúc xanh giao nhau.
d.
Rùa trắng biết nghe pháp.
(2)
Tô Tú: Tú tức là phủ Gia Hưng thuộc Tô Châu.
104.-
CHỮ HÁN: Linh Nguyên viết: Chung Sơn Nguyên Hòa thượng, bình
sinh bất giao công khanh, bất cầu lợi dưỡng, dị ti tực
mục, dĩ đạo tự lạc. Sĩ Ðại Phu sơ miễn kỳ ứng thế.
Nguyên viết: "Cẩu hữu lương điền, hà ưu vãn thành, đệ
khủng phạp tài cụ nhĩ". Kinh Công văn chi viết: "Sắc tư
cử hỹ, tường nhi hậu tập". Tại Nguyên Công đắc chi hỹ.
Chế
Vưu Tập.
104.-
DỊCH NGHĨA: Linh Nguyên nói: Chung Sơn Nguyên Hòa thượng, bình
sinh không giao thiệp với công khanh, không ham danh lợi, lấy
chỗ khiêm để tự xử, lấy đạo để tự vui. Kẻ sĩ đại
phu lúc đầu khuyên ngài nên ra ứng thế. Nguyên Hòa thượng
nói: "Nếu có phần ruộng tốt, lo gì thành quả muộn, chỉ
sợ thiếu tài năng mà thôi". Kinh Công nghe thế liền nói:
"Thấy sắc mặt người mà bay liệng đi rồi sau mới tìm chỗ
đậu". Nguyên Công ứng ở trường hợp này vậy (1).
Chế
Vưu Tập.
CHÚ
THÍCH:
(1):
Chim là loài vật, nhưng nếu nó nhìn thấy sắc mặt hung ác
của con người, thì nó liền tung cánh bay đi, rồi bay liệng
quan sát tới chỗ nào không có súng đạn cung tên mới đậu.
Con người nếu biết ứng cơ mà làm việc cũng tương tự
như thế.
105.-
CHỮ HÁN: Linh Nguyên viết: Tiên triết ngôn: "Học đạo ngộ
chi vi nan, ký ngộ thủ chi vi nan, ký thủ hành chi vi nan. Kim
đương hành thời, kỳ nan hựu quá ư ngộ thủ. Cái ngộ thủ
giả, tinh tiến kiên trác, miễn tại kỷ cung nhi dĩ. Duy hành
giả tất đẳng tâm, tử thệ dĩ tổn kỷ, ích tha vi nhậm.
Nhược tâm bất đẳng, thệ bất kiên, tắc tổn ích đảo
trí, tiện đọa vi lưu tục a sự, thị nghi kỳ úy".
105.-
DỊCH NGHĨA: Linh Nguyên nói (1): Tiên triết nói rằng: "Học
đạo tới chỗ ngộ là khó, đã ngộ rồi mà giữ được
lại là khó, đã giữ được mà thực hành theo cũng là khó.
Nay đương lúc thực hành đạo thì cái khó lại hơn cả khi
ngộ đạo và giữ đạo. Vì lẽ ngộ đạo và giữ đạo thì
chỉ tinh tiến và kiên trì, gắng gỏi ở chỗ hết sức mình
mà thôi. Duy việc thực hành đạo thì tất phải bằng đẳng
ở nơi tâm, thề chết để quên mình đem lợi ích cho người
làm nhiện vụ. Nếu tâm chẳng bằng đẳng, lời thề không
vững chẳng thì tổn và ích bị đảo ngược, liền sa ngã
vào a sự của thế tục đó là điều đáng nên sợ hãi".
CHÚ
THÍCH:
(1):
Ðoạn này đại ý nói đạo học phải chú trọng ở chỗ
thực hành và thệ nguyện độ sinh.
106.-
CHỮ HÁN: Linh Nguyên viết: Ðông Sơn sư huynh, thiênutư dị
đặc, ngữ mặc trung độ. Tầm thường xuất thị ngữ cú,
ký lý tự thắng. Chư phương dục hiệu chi bất quỷ tục
tắc dâm lậu, chung mạc năng cập, cầu ư cổ nhân trung diệc
bất khả đắc. Nhiên do khiêm quang đạo vật, bất thí cơ
khát. Thường viết: "Ngã vô Pháp Ninh Khắc Cần chư tử, chân
pháp môn trung tội nhân hỹ".
106.-
DỊCH NGHĨA: Linh Nguyên nói (1): Sư huynh chùa Ðông Sơn, có
thiên tư đặc biệt, khi nói lúc lặng thinh đều giữ trung
độ. Tuy chỉ nói những câu chuyện tầm thường, nhưng có
lý do rất xác đáng. Người các nơi muốn bắt chước sư
huynh, nhưng nếu chẳng dối trá thời vụng về, trọn chẳng
hay kịp được. Tìm ngay cả trong những con người xưa cũng
không thể có được. Tuy vậy, nhưng sư huynh vẫn khiêm nhượng,
để dạy đời rất tha thiết, chẳng khác gì như đói được
ăn, khát được uống. Và thường nói: "Ta không có các ông
Pháp Ninh (2) và Khắc Cần thì thật là kẻ tội nhân trong
pháp môn vậy.
CHÚ
THÍCH:
(1):
Ðại ý đoạn này chỉ cách dùng lời khiêm nhượng để khen
ngợi tán dương các bậc sư tượng trong các tông phái khác.
107.-
CHỮ HÁN: Linh Nguyên đạo học hạnh nghĩa, thuần thành hậu
đức, hữu cổ nhân chi phong, an trọng quả ngôn. Vưu vi sĩ
phu đại tôn kính. Thường viết: "Chúng nhân chi sở hốt,
thánh nhân chi sở cẩn. Huống vi tùng lâm chủ, trợ tuyên
Phật hóa, phi hành giải tương ứng, cự khả vi chi. Yếu tại
thời thời kiểm trách, vật sự thanh danh lợi dưỡng hữu
manh ư tâm, thảng pháp lệnh hữu sở vị phu, nột tử hữu
sở vị phục, đương thoái tư tu đức, dĩ đãi phương lai,
vi kiến hữu thân chính nhi tùng lâm bất trị giả. Sở vị
quan đức nhân chi dung, sử nhân chi ý tiêu, thành thực tại
tư!".
Ký
Văn.
107.-
DỊCH NGHĨA: Ðạo học và hạnh nghĩa của Linh Nguyên thì thuần
thành (1), có phong độ của cổ nhân, trọng nơi yên tĩnh và
ít nói, rất được kẻ sĩ phu đại tôn kính. Ngài thường
nói: "Chỗ khinh hốt (không lưu tâm) của mọi người là ở
chỗ cẫn thận của Thánh nhân, huống chi người làm chủ
một tùng lâm thay Phật tuyên hóa, nếu chẳng phải là bậc
hành giải tương ứng, đâu hay lại làm được như vậy ư!
Ðiều cốt yếu là phải tự kiểm trách từng giờ từng phút,
chớ để cho thanh danh lợi dưỡng nó manh nha nơi tâm. Hoặc
giả pháp lệnh có chỗ chưa được người tin, kẻ nột tử
có chỗ chưa qui phục, thì phải thoái lui để tư duy và tu
đức, chờ đợi ở ngày mai. Ta chưa từng thấy người giữ
mình chính đính mà chốn tùng lâm lại chẳng thịnh trị.
Chính chỗ bảo rằng, xem cái hình dáng của người có đức,
mà có thể khiến tiêu tan được cái ý nghĩ của người,
thật là nghĩa đó vậy".
Ký
Văn.
CHÚ
THÍCH:
(1)
Thuần thành: Tinh nhất không tạp gọi là thuần, chân thật
không dối trá gọi là thành.
108.-
CHỮ HÁN: Linh Nguyên vị Viên Ngộ viết: Nột tử tuy hữu
kiến đạo chi tư, nhược bất thâm súc hậu dưỡng, phát
dụng tất tuấn bạo, phi đặc vô bổ giáo môn, tương khủng
hưu chiêu họa nhục.
108.-
DỊCH NGHĨA: Linh Nguyên bảo Viên Ngộ rằng: Kẻ nột tử tuy
có cái tư chất thấy đạo, nếu họ chẳng súc tích nuôi
dưỡng, một khi đem ra dùng, tất nhiên sẽ không tránh khỏi
nhiều thô bạo, như vậy chẳng những vô bổ cho giáo môn,
mà còn chuốc lấy họa nhục nữa(1).
CHÚ
THÍCH:
(1):
Ðoạn này ý nói, cần phải nuôi dưỡng pháp thai, dù cả
khi ngộ đạo rồi cũng còn phải ẩn náu nơi núi rừng để
rèn luyện thêm định lực.
109.-
CHỮ HÁN: Viên Ngộ thiền sư viết: Học đạo tồn hồ tín,
lập tín tại hồ thành. Tồn thành ư trung nhiên hậu tỉ chúng
vô hoặc. Tồn tín ư kỉ, khả dĩ giáo nhân vô khi. Duy tín
dữ thành, hữu bổ vô thất. Thị tri, thành bất nhất, tắc
tâm mạc năng bảo, tín bất nhất, tắc ngôn mạc năng hành.
Cổ nhân vân: "Y thực khả thử, thành tín bất khả thất".
Duy thiện trí thức, đương giáo nhân dĩ thành tín. Thả tâm
ký bất thành, sự ký bất tín, xưng thiện trí thức khả
hồ. Dịch viết: "Duy thiên hạ chí thành, toại năng tận kỳ
tính. Năng tận kỳ tính, tắc năng tận nhân tính". Nhi tự
ký bất năng tận ư kỷ, dục vọng tận ư nhân, chúng tất
đãi nhi bất tòng. Tự ký bất thành ư tiền, nhi viết thành
ư hậu, chúng tất nghi nhi bất tín. Sở vị cát phát nghi cập
phu, tiễn trảo nghi xâm thể. Lương dĩ, thành bất chí tắc
vật bất cảm, tổn bất chí, tắc ích bất trăn. Cái thành
dữ tín bất khả tư tu khứ kỷ dã minh hỹ".
Dữ
Ngu Sát Viện thư.
109.-
DỊCH NGHĨA: Viên Ngộ thiền sư nói: Người học đạo cần
giữ lòng tin, gây niềm tin ở chỗ thành. Giữ lòng thành ở
trong, vậy sau mới khiến chúng không nghi hoặc. Giữ lòng tin
ở mình, mới có thể dạy người không dối trá. Duy tín cùng
với thành hai bên hỗ trợ cho nhau, mới đưa đến chỗ không
lỗi lầm. Thế nên biết, nếu thành mà bất nhất thời tâm
chẳng hay giữ, tín mà bất nhất thời nói chẳng hay làm.
Cổ nhân nói: "(1) Áo mặc cơm ăn còn có thể bỏ được,
nhưng thành và tín thì không thể để cho mất" Duy bậc thiện
trí thức đáng đem thành tín để dạy người. Vã lại, tâm
đã chẳng có thành thật, việc đã chẳng giữ lòng tin, thì
sao gọi được là bậc thiện trí thức vậy ư! Kinh Dịch
nói: "Duy cái chí thành của thiên hạ mới hay hết được
cái tính (2) đó, hay hết được cái tính đó, mới hay hết
được cái tính của con người". Nếu tự mình đã chẳng
hay hết ở mình, mà muốn mong hết ở người, thời chúng
tất khinh nhờn mà chẳng theo. Tự mình đã chẳng thành thật
ở trước, mà nói rằng thành thật ở sau, chúng tất ngờ
mà chẳng tin. Chính là nghĩa, cạo tóc nên cạo sát da, cắt
móng nên cắt sát thịt. Bởi nếu thành mà chẳng chí thiết
thời vật chẳng cảm, tổn chẳng đến thời ích chẳng tới.
Ðúng là "thành" và "tín" không thể giây phút cách xa mình
thật rõ ràng vậy.
Thư
gởi Ngu Sát (3) Viện.
CHÚ
THÍCH:
(1):
Câu này trích trong sách Luận Ngữ.
(2):
Tính đức vẹn toàn, lý luận đầy đủ, không có cái riêng
tư về nhân dục.
(3)
Ngu Sát Viện: tên chữ là Kỉnh Thần, người đất Tiền Ðường
thuộc Hàng Châu, năm Nguyên Hựu thứ năm được vời làm
quan Giám Sát Ngự Sử (theo Tống Sử Liệt Truyện).
110.-
CHỮ HÁN: Viên Ngộ viết: Nhân thùy vô quá, quá năng nhi cải,
thiện mạc đại yên. Tòng thượng giai xưng cải quá vi hiền,
bất dĩ vô quá vi mỹ. Cố nhân chi hành sự, đa hữu quá sai,
thượng trí hạ ngu câu sở bất miễn. Duy trí giả năng cải
quá thiên thiện, nhi ngu giả đa tế quá sức phi. Thiên thiện
tắc kỳ đức nhật tân, thị xưng quân tử. Sức quá tắc
kỳ ác di trứ, tư vị tiểu nhân. Thị dĩ văn nghĩa năng tỉ,
thường tình sở nan. Kiến thiện lạc tòng, hiền đức sở
thượng. Vọng công tương vong ư ngôn ngoại khả dã.
Dữ
Văn Chủ Bạ.
110.-
DỊCH NGHĨA: Viên Ngộ nói: Con người ai không có lỗi, lỗi
mà biết hối cải, thời tất cả chẳng gì lớn hơn vậy.
Từ thượng cổ đều nhận biết nếu cải quá là người
hiền, chẳng lấy việc không có lỗi làm người tốt. Cho
nên, việc làm của con người có quá nhiều sự sai lầm. Bậc
thượng trí kẻ hạ ngu, đều không thể tránh khỏi điều
đó được. Duy có người trí hay đổi lỗi để sửa lại
nết hay, còn kẻ ngu phần nhiều lại trang sức để che đậy
lỗi lầm. Ðổi lỗi để sửa lại nết hay thời đức đó
ngày một mới, nên gọi là quân tử. Trang sức để che đậy
chỗ sai lầm, thời ác đó ngày càng dầy, nên bảo đó là
tiểu nhân. Bởi thế, thấy việc nghĩa mà lại dời bỏ, đó
là cái nạn thường tình, thấy điều thiện vui theo, là chỗ
chuộng của người hiền đức. Vậy mong ông (1) hãy cùng quên
đi ở ngoài lời nói (2) là hơn vậy.
Thư
gởi Văn Chủ Bạ.
CHÚ
THÍCH:
(1)
Ông: đây là chỉ vào Văn Chủ Bạ.
(2)
Quên đi ở ngoài lời nói: Ý nói, nên quên đi những dấu
vết của ngôn ngữ để đạt tới chỗ tự chứng đắc.
111.-
CHỮ HÁN: Viên Ngộ viết: Tiên sư ngôn: "Tố trưởng lão hữu
đạo đức cảm nhân giả, hữu thế lực phục nhân giả,
do như loan phương chi phi, bách cầm ái chi, hổ lang chi hành,
bách thú uý chi. Kỳ cảm phục tắc nhất, kỳ phẩm loại
cố tiêu nhương hỹ.
Chế
Vưu Tập.
111.-
DỊCH NGHĨA: Viên Ngộ nói: Tiên sư nói: "Bậc trưởng lão
có đạo đức thì cảm đựợc người, có thế lực thì phục
được người. Cũng ví như chim Loan chim Phượng tung bay, trăm
lài chim đều yêu mến, loài hổ loài lang cất bước, trăm
loài thú đều khiếp sợ. Tuy chỗ cảm phục đó là một,
nhưng về phẩm loại của chúng thì khác nhau như trời cao
vực thẳm.
Chế
Vưu Tập.
112.-
CHỮ HÁN: Viên Ngộ vi Long Tạng Chủ viết: Dục lý tùng lâm
nhi bất vụ đắc nhân chi tình, tắc tùng lâm bất khả lý.
Vụ đắc nhân chi tình, nhi bất cần ư tiếp hạ, tắc nhân
tình bất khả đắc. Vụ cần tiếp hạ nhi bất biện hiền
bất tiếu, tắc hạ bất khả tiếp. Vụ biện hiền bất tiếu,
nhi ố ngôn kỳ quá, duyệt thuận kỳ kỷ, tắc hiền bất
tiếu bất khả biện. Duy hiền đạt chi sĩ, bất ố ngôn quá,
bất duyệt thuận kỷ, vị đạo thị tòng, sở dĩ đắc nhân
tình nhi tùng lâm lý hỹ.
Quảng
Lục.
112.-
DỊCH NGHĨA: Viên Ngộ bảo Long Tạng Chủ (1) rằng: Người
muốn sửa trị tùng lâm mà chẳng lo việc được tình người,
thì chốn tùng lâm không thể sửa trị được. Muốn được
tình người mà chẳng lo việc tiếp dẫn kẻ dưới, thời
tình người không thể thu được. Chuyên cần tiếp kẻ dưới
mà chẳng biện biệt được người hiền kẻ bất tiếu, thời
kẻ dưới không thể tiếp được. Lo việc biện biệt người
người hiền kẻ bất tiếu, nếu lại ghét kẻ hay nói lỗi,
ưa kẻ thuận theo mình, thời không thể phân biệt được
người hiền kẻ bất tiếu. Duy kẻ sĩ hiển đạt thì chẳng
ghét kẻ hay nói lỗi, chẳng ưa kẻ thường thuận mình, mà
chỉ lấy cái đạo lý để noi theo, nên không những thu được
tình người mà chốn tùng lâm cũng sửa trị vậy.
Quảng
Lục.
CHÚ
THÍCH:
(1)
Long Tạng Chủ: tức Hổ Kỳ Thiệu Long thiền sư, pháp tự
của Viên Ngộ thiền sư đời thứ 15 phái Nam Nhạc.
113.-
CHỮ HÁN: Viên Ngộ viết: Trụ trì dĩ chúng trí vi trí, chúng
tâm vi tâm. Hằng khủng nhất vât bất tận kỳ tình, nhất
vật bất đắc kỳ lý. Tư tư phỏng nạp, duy thiện thị cầu.
Ðương vấn lý chi thị phi, cự luận sự chi đại tiểu. Nhược
lý chi thị, tuy my phí đại, nhi tác chi hà thương. Nhược
sự chi phi, tuy dụng độ tiểu nhi trừ chi hà hại. Cái tiểu
giả đại chi tiệm, vi giả trứ chi manh. Cố hiền giả thận
sơ, thánh nhân tồn giới, quyên quyên bất át, chung biến tang
điền. Viêm viêm my trừ, tốt liệu nguyên dã. Lưu phiến ký
thịnh, họa tai dĩ thành. Tuy dục cứu chi, cố vô cập hỹ.
Cổ vân: "Bất căng tế hạnh, chung lụy đại đức" thử chi
vị dã.
Dữ
Phật Trí thư.
113.-
DỊCH NGHĨA: Viên Ngộ nói: Người trụ trì lấy chỗ hiểu
biết của chúng làm chỗ hiểu biết của mình. Thường sợ
chẳng suốt được tình của mỗi vật. Chẳng hiểu được
lý của mỗi việc. Phải luôn luôn lo lắng tìm nhận những
điều hay, hỏi cho xác đáng những điều phải trái của nghĩa
lý ở bất cứ những việc lớn hay nhỏ. Nếu đúng với lý
thì dẫu có hao phí lớn lao, mà phải làm theo cũng chẳng tổn
hại gì. Nếu là trái với sự việc, thì dẫu là chỗ dùng
sức rất nhỏ để trừ bỏ đi thì đâu có trở ngại chi.
Bởi lẽ nhỏ là cái đầu mối của lớn dần, thầm kín là
mầm móng của sự sáng tỏ. Vậy nên, người hiền thì cẩn
thận ngay từ lúc đầu, Thánh nhân thì giữ gìn ở điều
răn cấm. Dòng nước tuy nhỏ, nhưng nếu chẳng ngăn chận,
thời sẽ biến ruộng dâu thành bể cả; ngọn lửa tuy nhỏ,
nhưng nếu chẳng dập tắt, tất sẽ cháy cả vùng đồng rộng.
Nước chảy lửa cháy đã thịnh, tai họa đã thành, thì dù
có muốn cứu vãn cũng không sao kịp được. Cổ nhân nói
(1): "Chẳng giữ gìn hạnh nhỏ, tất lụy đến đức lớn",
chính là nghĩa thế vậy.
Thư
gởi Phật Trí (2).
CHÚ
THÍCH:
(1):
Câu này trích trong Kinh Thư.
(2)
Phật Trí: Phật Trí Ðoạn Dụ thiền sư, chùa dục Vương
thuộc Minh Châu, pháp tự của Viên Ngộ Cần thiền sư.
114.-
CHỮ HÁN: Viên Ngộ vị Nguyên Bá Ðại viết: Phàm xưng trưởng
lão chi chức, trợ tuyên Phật hóa, thường tư dĩ lợi tế
vi tâm, hành chi vô căng tắc sở cập giả quảng, sở tế
giả chúng. Nhiên nhất hữu căng kỷ sính năng chi tâm, tắc
kiêu hãnh chi niệm khởi, nhi bất tiếu chi tâm sinh hỹ.
Song
Lâm Thạch Khắc.
114.-
DỊCH NGHĨA: Viên Ngộ bảo Nguyên Bá Ðại (1) rằng: Phàm gọi
là chức Trưởng lão, thay Phật tuyên dương giáo hóa, thường
phải nghĩ tới việc lợi ích tế độ làm lòng. Nếu khi thực
hành công việc đó mà không khoe khoang thời chỗ phổ cập
mới rộng, nơi tế độ mới đông. Song le, nếu vạn nhất
có cái tâm khoe khoang tài năng của mình thời cái niềm kiêu
hãnh dấy lên, mà cái tâm bất tiếu cũng hiện ra vậy.
Khắc
ở bia đá chùa Song lâm.
CHÚ
THÍCH:
(1)
Nguyễn Bá Ðại: tức Cảnh Nguyễn thiền sư, trụ trì chùa
Hộ Quốc, pháp tự của Viên Ngộ thiền sư, đời thứ 13
phái Nam Nhạc.
115.-
CHỮ HÁN: Viên Ngộ vị Diệu Hỷ viết: Ðại phàm cử thố
đương cẩn thủy chung. Cố thiện tác giả tất thiện thành,
thiện thủy giả tất thiện chung, cẩn chung như thủy tắc
vô bại sự. Cổ viết: "Tích hồ! Y vị thành nhi chuyển vi
thường, hành bách lý chi bán ư cửu thập. Tư giai thán hữu
thủy nhi vô chung dã". Cố viết: "Mỹ bất hữu sơ, tiển khắc
hữu chung". Tích Hối Ðường lão thúc viết: "Hoàng Nghiệt
Thắng Hòa thượng diệc kỳ nột tử, đãn vãn niên mậu nhĩ.
Quan kỳ thủy, đắc bất vị chi hiền".
Vân
Môn Am Tập.
115.-
DỊCH NGĨA: Viên Ngộ(1) bảo Diệu Hỷ rằng: Ðại phàm lúc
động hay tĩnh đều phải giữ gìn trước sau. Vì thế nếu
làm được điều tốt tất nhiên việc tốt sẽ thành tựu,
điều tốt đã có ở trước tất nhiên phải có ở sau, giữ
gìn sau cũng như trước thời sự việc không thất bại. Người
xưa nói: "Tiếc vậy thay! Áo chưa thành mà lại chuyển thành
xiêm, đường trường một trăm dặm mới đi được chín mươi
dặm đã ngừng". Ðó đều là câu than tiếc cho những sự
việc chỉ có ở trước mà không có ở sau. Cho nên nói rằng:
"Ðều có ở trước mà ít có ở sau". Xưa kia Hối Ðường
lão thúc nói: "Hoàng Nghiệt Thắng (2) Hòa thượng cũng là
một nột tử kỳ tài, nhưng lại bị sai lầm ở lúc tuổi
già. Như vậy nếu chỉ xem người ở phần trước sao được
bảo đó là người hiền".
Vân
Môn Am Tập.
CHÚ
THÍCH:
|