Dòng Dõi Đức Phật
Tiết mục:
I. Chủng tộc Sát-Ðế-Lỵ
II. Dòng Cam-Giá
III. Họ Thích-Ca
IV. Gia thuộc
Pháp Tạng trích dẫn: Kinh Phật-Thuyết-Thất-Phật, Kinh
Khởi-Thế-Nhân-Bản, Kinh Phật-Bản-Hạnh, Kinh Phật-Thuyết-Thập-Nhị-Du.
Đề yếu: Chủng tộc Sát-Ðế-Lỵ trong tiết thứ nhất, đại khái chỉ
cho dòng dõi thống trị, viễn nhân của giai cấp Sát-Ðế-Lỵ về sau, chớ lúc
ấy chưa có giai cấp đó. Tiết thứ hai, thứ ba, lược thuật về trạng thái của
kiếp giảm, con người lần lần kém phước, nên từ Đại-chuyển-luân-vương
truyền đến Tiểu-chuyển-luân-vương rồi Túc-tán-vương. Trong hàng
Túc-tán-vương nầy, đã sản xuất ra họ Thích-Ca thuộc chủng tộc Cam-Giá
(Iksvàku). Tiết thứ tư mới chánh thức nói đến gia thuộc của Đức Phật, do
một mạch liên lạc từ khi kiếp sơ biến chuyển đến thời gian ấy.
Theo sử thì chủng tộc Thích-Ca ở dưới chân núi Hy-Mã, về phía bắc sông
La-Bạt-Đề (Rapti) chiếm một diện tích ước 320 dặm vuông. Giữa khu vực ấy
lại có con sông Rô-Hi-Ni (nay là sông Rohana) chảy xuyên qua. Thành
Ca-Tỳ-La-Vệ vị trí ở về phía tây bắc sông nầy, nơi đã sản xuất ra bậc
thánh-nhơn cứu thế.
Tiết I: Chủng Tộc Sát Ðế Lỵ
Đức Phật
bảo: - Ta sanh nơi cung vua Tịnh-Phạn, thuộc chủng tộc Sát-Ðế-Lỵ. (Kinh
Phật-Thuyết-Thất-Phật)
Nầy các
Tỷ-khưu! Vào thuở kiếp sơ, lúc thế gian mới phân chia ruộng nương, mới có
danh tự, chưa thành lập sự trừng phạt, có một chúng-sanh tiếc giữ lúa của
mình, trộm lấy của kẻ khác. Có người trông thấy liền bảo rằng: “Nầy anh
kia! Tại sao anh đã có lúa mà trộm lấy của kẻ khác? Anh đã làm chuyện xấu
xa tội ác rồi! Thôi, tôi tha cho, từ rày đừng còn như thế nữa”.
Kẻ trộm
kia tuy đã được tha, song vẫn không hối lỗi, tái phạm nhiều lần. Sau cùng,
anh bị chúng bắt lôi đến chỗ đông, trách mắng, đánh đập, rồi hô to lên
rằng: “Đây là kẻ trộm đạo!” Nhưng anh trộm kia vẫn chối cãi, chống cự, và
nói: “Tôi không có tội gì cả! Mấy người nầy dùng lời thô mắng chửi tôi,
dùng tay đánh đập tôi”. Bấy giờ đại chúng đang tụ tập ở đó, thấy thế đều
sanh lòng buồn rầu. Nhiều người thương khóc nói: “Hôm nay trong bọn chúng
ta có những kẻ đã đem nhau đến chỗ khổn ác, đã sanh ra pháp chẳng lành, đã
bị phiền não làm tăng trưởng quả khổ đời sau và sẽ hướng về ác thú. Tại
sao thế? Vì chúng ta hiện thấy mấy người nầy co kéo, mắng chửi xua đuổi
nhau. Bây giờ bọn ta nên công cử bậc chân chánh lên làm chủ để xử đoán mọi
việc, kẻ nào đáng quở trách thì quở trách, đáng trừng phạt thì trừng phạt,
đáng xua đuổi thì xua đuổi. Đối với vị ấy, chúng ta nên trích mỗi người
một phần lúa để cung cấp”. Sau khi đại chúng đã bình luận như thế rồi,
đồng ưng thuận tìm cầu một vị làm Thủ-hộ-chủ.
Lúc đó
trong đám đông có một người hình vóc đoan chánh, diện mạo tôn nghiêm, cử
chỉ nghi dung rất là đáng mến. Chúng liền cử vị ấy lên làm Hộ-chủ, người
nầy cũng vui lòng ưng thuận. Từ đó về sau, việc xử phạt được nghiêm minh,
không còn ai tranh cãi lấn hiếp ai, đại chúng cũng y theo lệ, chung nhau
đóng góp để chung cấp cho vị Hộ-chủ ấy. Cứ như thế đời nầy tiếp đời kia,
thành ra chủng tộc Sát-Ðế-Lỵ. (Kinh Khởi-Thế-Nhân-Bản)
Nầy các
Tỷ-khưu! Các ông nên biết, vua Sát-Ðế-Lỵ cũng gọi là Điền-chủ; bởi kiếp
tối sơ do nhân duyên như thế, đại chúng mới công cử, nên thành ra vương
chủng vậy. (Kinh Phật-Bản-Hạnh)
Tiết II: Dòng Cam Giá
Đức Phật
bảo:
- Bấy
giờ vị vua do đại chúng công cử, về sau sanh được một hài nhi tên là
Chân-Thật. Đứa bé nầy đủ 32 tướng tốt, sau làm Chuyển-luân-vương, là bậc
Ðại-địa-chủ, cai trị bốn châu thiên hạ, có một ngàn người con, bảy báu tự
nhiên đầy đủ, oai đức rộng lớn, nhiếp phục tất cả giặc loạn. Khi vị vua ấy
còn trị hóa ở đời, từ đất liền cho đến bờ biển, không có gai góc và gò
nổng cao thấp. Lúc đó nhân dân được an vui, không gặp sự sợ hãi khó khăn,
ngũ cốc đều tươi tốt. Vua cai trị đúng theo chánh đạo, nên không cần động
đao binh mà các nơi tự hàng phục.
Nầy các
Tỷ-khưu! Trong một ngàn người con của vua Chân-Thật, có vị trưởng tử tên
là Ý-Hỷ, cũng gọi là Tự-Dụng, sau nối ngôi làm Chuyển-luân-thánh-vương. Vị
Luân-vương nầy cũng có bảy báu, một ngàn người con, oai đức và cách trị
hóa y như vua cha. Kế Ý-Hỷ luân-vương là Trí-Giả luân-vương. Kế Trí-Giả
luân-vương là Đảnh-Sanh luân-vương, tương truyền như thế cho đến đời
Đại-Tu-Di luân-vương. Từ vua Chân-Thật cho đến Đại-Tu-Di, kể ra có đến 29
đời Chuyển-luân-thánh-vương.
Vua
Đại-Tu-Di từ khi lên ngôi trị hóa, mỗi đời truyền nhau, được 101 vị
Tiểu-chuyển-luân-vương, đều cư trụ ở thành Bao-Ða-Na, hưởng nhiều phước
lạc. Trong các vì vua ấy, vị rốt sau tên là Sư-Tử-Thừa lên nối ngôi, rồi
truyền lại cho con cháu đến 61 đời Tiểu-chuyển-luân-vương, đều cư trụ ở
thành Ba-La-Nại, trị hóa dân chúng, hưởng phước an vui. Từ vua Sư-Tử-Thừa
truyền cho đến vua Đại-Tự-Đại-Thiên ở thành Mỵ-Di-La, kể chung có đến
173.122 đời Tiểu-chuyển-luân-vương, chỗ cư trụ tùy theo mỗi lớp, đều có
thay đổi.
Nầy các
Tỷ-khưu! Các vì vua ấy tương truyền cho đến vị sau rốt là Ngư-Vương. Nên
biết các bậc Tiểu-chuyển-luân-vương như thế, đều có nhiều phước đức căn
lành, hưởng đủ phước báo ở đời, thống trị từ miền đất liền cho đến mé
biển, cùng tất cả vùng rừng núi. Những Luân-vương ấy, mỗi vị đều có nhiều
Túc-tán-vương. Nay ta kể tiếp cho các ông nghe:
Ngư-Vương có người con làm vua một cõi, tên là Chân-Sanh. Vị hoàng vương
nầy nhân từ đời tổ phụ cho đến bản thân đều có tu tập căn lành, nên mới
được ở địa vị cao; nhưng không bao lâu vì phước báo hết nên mất ngôi. Dân
chúng thời ấy thấy vua phước đức kém, đáng thương xót, nghèo nàn đơn bạc
hơn các đời vua trước, nên lại đặt hiệu là Khả-Quật-Vương. Song vua
Khả-Quật may có được người con phước đức lên nối ngôi, tên là
Bình-Đẳng-Hạnh-Vương. Rồi từ vua Bình-Đẳng-Hạnh mỗi đời truyền nhau cho
đến vua Đại-Mâu-Thảo kể được 142 đời vua, đều cư trụ ở thành Bao-Đa-Na.
Chẳng may tới đời vua Đại-Mâu-Thảo lại không có con truyền nối. Ông nghĩ
rằng: “Các vị Túc-tán-vương trong dòng họ của ta, mỗi khi thấy tóc trên
đầu điểm bạc, liền hội các con lại làm lễ quán đảnh, tùy theo vị thứ phong
cho vương tước. Riêng mình thì đem sản vật của một châu trù phú nhất để bố
thí, rồi cạo râu tóc, từ ngôi vua, xuất-gia tu hành. Nay ta không có con,
ai sẽ nối ngôi ta? Ai sẽ nối dõi dòng họ của ta?” Nhưng lại tự nghĩ: “Nay
nếu ta không xuất-gia tu hành, tức là làm mất chủng tộc hiền-thánh”. Suy
nghĩ cùng cạn như thế, vua Đại-Mâu-Thảo liền đem việc nước giao cho các vị
đại-thần, rồi cạo râu tóc xuất-gia.
Sau khi
xuất-gia, ông giữ giới thanh tịnh, tu hành tinh tấn, chứng được Tứ-thiền,
có đủ ngũ thông, thành bậc vương-tiên. Vị vương-tiên ấy sống rất lâu, da
nhăn lưng còm, thân thể suy yếu, tuy chống gậy nhưng không đi được xa. Mấy
đệ-tử của vương-tiên, khi muốn khất thực hay có việc đi đâu, thường dùng
cỏ nhuyễn lót trên cái giá để thầy ngồi, rồi treo rút lên cây, vì sợ các
loài thú đến khuấy nhiễu tiên-nhơn trong cơn thiền định. Một hôm, sau khi
hàng đệ-tử đi khất thực, có anh thợ săn ở xa trông thấy vương-tiên, ngỡ là
loài chim, trương cung bắn chết. Các môn đệ lúc khất thực trở về, thấy
thầy bị tuẫn nạn, liền chất củi làm lễ trà tỳ, rồi thâu linh cốt xây bảo
tháp, thường dùng hương hoa để cúng dường.
Trong
lúc vương-tiên bị tên, có hai giọt máu nhỏ xuống đất. Chỗ hai giọt máu ấy,
về sau sanh ra hai mụt mía (cam giá). Hai mụt mía nầy lần lần cao lớn,
nắng rọi mưa chan, không bao lâu đã đến thời kỳ thuần thục. Ngày nọ, nơi
hai thân cây bỗng nổ vang lên tiếng lớn, xuất hiện một đồng nam và một
đồng nữ, tư dung xinh đẹp vô cùng. Hàng đệ-tử của vương-tiên thấy thế,
nghĩ rằng thầy mình lúc còn tại tục không có con cái, nay hai đứa bé nầy
cũng là huyết thống của người, liền hết lòng nuôi dưỡng và báo cho các vị
đại-thần hay. Khi mấy vị đại-thần nghe nói, rất đỗi vui mừng, cùng nhau
đến rừng rước hai đứa bé đem về cung, rồi thỉnh một vị Bà-La-Môn đến xem
tướng và đặt tên. Vị Bà-La-Môn xem xong, khen là phước tướng, lại nhân đứa
đồng tử nầy do ánh mặt trời rọi vào thân cây mía, đến ngày thuần thục mà
được xuất sanh, nên đặt họ là Cam-Giá-Sanh, tên là Thiện-Sanh, cũng gọi là
Nhật-Chủng. Còn đứa đồng nữ thì đặt tên là Thiện-Hiền, cũng gọi là
Thủy-Ba. Về sau, Cam-Giá-Sanh được tôn lên làm vua, và Thiện-Hiền thì làm
đệ nhất vương-phi của vua. (Kinh Phật-Bản-Hạnh)
Tiết III: Họ Thích Ca
Vua
Cam-Giá có bà vương-phi thứ hai, tư dung rất xinh đẹp. Bà nầy sanh được
bốn người con tên là: Cự-Diện, Kim-Sắc, Tượng-Chúng và Biệt-Thành. Còn
Thiện-Hiền vương-phi chỉ sanh một con tên là Trường-Thọ. Luận về dung mạo,
Trường-Thọ vương-tử rất khôi ngô tuấn tú, ít có người hơn; nhưng theo
tướng sư thì vương-tử không đủ cốt cách làm vua một nước lớn.
Cũng vì
lẽ ấy, nên Thiện-Hiền vương-phi hằng đem lòng lo buồn. Bà nghĩ: “Bọn
Cự-Diện bốn đứa thảy đều oai dũng, ta chỉ có một người con, phải làm thế
nào cho nó được nối ngôi? Hiện thời vua rất yêu quí ta, hằng quyến luyến
ít khi xa rời. Vậy ta phải trang điểm cực kỳ xinh đẹp làm cho ngài say mê,
rồi nhân lúc vắng vẻ ta sẽ cầu xin điều đó”. Sau khi suy nghĩ như thế, bà
dùng nước thơm tắm gội sạch sẽ, tóc tẩm dầu thơm, chải bới vén khéo, điểm
phấn thoa son, đầu kết vòng hoa, cổ đeo chuỗi anh lạc, rồi đi đến chỗ vua.
Cam-Giá-Vương thấy bà kiều diễm như vậy, càng thêm say đắm. Trong lúc đi
nghỉ, chỉ có hai người, vương-phi tâu rằng: “Thưa Đại-vương! Thiếp may mắn
được nhờ ơn yêu dấu, nay có một điều tâm nguyện, xin Đại-vương thuận cho”.
Vua bảo: “Ái phi! Nàng có điều chi mong ước, cứ hãy nói ra, ta sẽ chấp
thuận”. Vương-phi lại tâu: “Nếu Đại-vương hứa nhận sự yêu cầu của thiếp,
xin chớ cải hối, bằng có như thế thì thiếp không dám tỏ ra”. Vua nói: “Ta
nhất định thuận theo sở nguyện của Ái phi, nếu về sau mà cải hối thì đầu
của ta sẽ bị vỡ ra làm bảy mảnh”. Sau khi nghe vua đã hứa như thế,
vương-phi tâu xin đuổi bốn anh em Cự-Diện ra khỏi nước, để cho con mình
được nối ngôi. Cam-Giá-Vương biết bốn con không có lỗi lầm, khó lấy cớ chi
mà đuổi ra khỏi nước, nhưng vì vương-phi nài nỉ, nhắc lại lời thề, nên kết
cuộc vua phải theo.
Sáng ra,
vua gọi bốn hoàng tử đến bảo: “Các con hãy sắp đặt rời khỏi xứ nầy, đi đến
nơi khác mà ở”. Bốn vương-tử quỳ xuống tâu: “Bạch Phụ-vương! Chúng con
không có lỗi chi, cớ sao Phụ-vương lại nỡ đuổi đi nơi khác?” Vua nói: “Đó
là ý kiến của Thiện-Hiền vương-phi, cha đã hứa lỡ, nên trót phải theo”.
Khi ấy đệ nhị vương-phi, mẹ của bốn hoàng tử, và các bà phi khác, biết
được tin ấy, cũng xin vua đem con cái và quyến thuộc đi theo. Kế đó, các
hàng đại-thần, các quan văn võ, quân giữ voi ngựa, quân cung nỗ, quan quân
giữ kho tàng, cũng xin đem bè đảng quyến thuộc đi theo. Trước tình cảnh
ấy, không biết nói sao, vua cũng đành chấp thuận. Rồi cho đến các thợ làm
đồ bằng tre, thợ mộc, thợ da, thợ đúc ngói gạch, thợ gầy rượu, thợ cạo,
thợ nhuộm, các dược sư, y sĩ, hàng nông, mục, ngư, tiều, nghe vua đuổi bốn
hoàng tử, cũng xin đem tất cả quyến thuộc đi theo. Trước khi khởi hành,
vua bảo bốn hoàng tử rằng: “Từ nay về sau, nếu muốn kết hôn, các con đừng
chọn người ngoại tộc, chớ để cho dòng Cam-Giá phải bị đoạn tuyệt”. Bốn
vương-tử cúi lạy vâng lời, rồi hướng dẫn đoàn người đi về phía bắc, dưới
dãy Tuyết-Sơn.
Đoàn
người đi chầm chậm, dọc đường săn bắn các loài cầm thú dùng làm thức ăn,
sau rốt đi đến một chỗ đất đai phì nhiêu bằng phẳng, thảo mộc xanh rậm tốt
tươi. Nơi đây có những ao đầm rộng lớn, nước dẫy đầy trong sạch. Lại có
các loại cây như: cây Đa-la, cây A-thuyết-tha, cây Ni-câu-đà, cây
Ưu-đàm-bà-la, cây Ca-lê-la v.v... gốc cao tàn lớn, cành lá giao nhau, phủ
che rậm mát cả một vùng. Lại có những thứ hoa đẹp như: hoa A-đề-mục-đa,
hoa Chiêm-ba, hoa A-du-ca, hoa Ba-đa-la, hoa Bà-lỵ-sư-ca... và các thứ cây
có quả, các loại tạp cầm, dã thú rất nhiều, cảnh sắc rất nên xinh đẹp. Chỗ
nầy nguyên xưa là nơi cư trụ của một vị tiên tên là Ca-Tỳ-La (Kapila -
Kiếp-Tỷ-La).
Các vị
vương-tử tìm được chỗ tốt, liền quyết định ở đó lập thành ấp để trị hóa.
Mỗi vị đều vâng lời cha, lựa người trong họ mà kết hôn. Sau vua Cam-Giá
hay được, trong lòng vui mừng, khen rằng: “Các con ta khéo lập quốc kế,
hay đem nhân đức trị hóa thần dân”. Nhân đó, bốn vương-tử mới lấy họ là
Thích-Ca (Năng-Nhân cũng gọi là Kiều-Đáp-Ma, xưa dịch Cù-Đàm), lại nhớ gốc
tích của vị tiên xưa ở đó, nên đặt tên thành là Ca-Tỳ-La. Về sau ba vị
vương-tử lần lượt qua đời chỉ còn một vị trụ thế trị vì, lấy hiệu là
Ni-Câu-La-Vương. Vua Ni-Câu-La sau truyền ngôi cho con là Câu-Lư, Câu-Lư
truyền cho Cù-Câu-Lư, Cù-Câu-Lư truyền cho Sư-Tử-Hiếp. Sư-Tử-Hiếp-Vương
sanh được bốn trai một gái, khi lớn tuổi truyền ngôi cho người con cả là
Duyệt-Đầu-Đàn, đời đời nối tiếp ở tại thành Ca-Tỳ-La, trị hóa nhân dân,
hưởng nhiều phước lạc. (Thành ấy bây giờ là xứ Piprawa, phía đông bắc là
tỉnh Ba-La-Nại – Bénarès - phía nam là xứ Népal). (Kinh Phật-Bản-Hạnh)
Tiết IV: Gia Thuộc
Bấy giờ
vị quốc chủ xứ Ca-Tỳ-La-Vệ (Kapilavastu) là Tịnh-Phạn-Vương (cũng gọi là
Bạch-Tịnh-Vương). Cách thành Ca-Tỳ-La không xa, lại có một thành tên là
Thiên-Tý. Nơi thành nầy hiện cư ngụ một nhà Thích-chủng rất hào quí, tên
là Thiện-Giác trưởng-giả. Trưởng-giả giàu lớn, đầy đủ oai đức, tư sản to
tát, các kho châu báu rất nhiều, nhà cửa đẹp lộng lẫy như cung điện
Tỳ-Sa-Môn thiên-vương.
Vị Thích
trưởng-giả nầy sanh được tám người con gái đẹp là: Vi-Ý, Vô-Tỷ-Ý, Đại-Ý,
Vô-Biên-Ý, Kế-Ý, Hắc-Ngưu, Sấu-Ngưu và Đại-Huệ. Nàng con gái thứ tám,
trong buổi sơ sanh, có vị Bà-La-Môn đến xem tướng và nói: “Cô bé nầy lớn
lên, nếu có gia thất, sẽ sanh một người con làm Chuyển-luân-thánh-vương,
bảy báu tự nhiên, oai đức đầy đủ, cho đến không cần dùng hình phạt mà trị
dân”.
Vua
Tịnh-Phạn (Suddhodana) nghe nói cô gái thứ tám của Thiện-Giác trưởng-giả
có tướng sanh con quí, liền nghĩ: “Ta sẽ cưới người con gái ấy làm
hoàng-hậu, để cho ngôi Chuyển-luân của dòng Cam-Giá ta không đoạn tuyệt”.
Nghĩ rồi, ngài sai sứ đến nhà Thiện-Giác trưởng-giả hỏi xin Đại-Huệ.
Trưởng-giả trình với sứ rằng: “Ông về tâu lại cùng Đại-vương, nói tôi có
tám con gái, đứa lớn là Vi-Ý đứa út là Đại-Huệ, tại sao Đại-vương lại hỏi
đứa nhỏ nhất? Vậy xin Đại-vương chờ tôi gả bảy đứa lớn xong, việc ấy sẽ
định sau”. Sứ-giả về thưa lại, Tịnh-Phạn-Vương bảo: “Nếu như thế, ta sẽ
rước luôn tám nàng về cung”. Hai bên ưng thuận xong xuôi, đến ngày nghinh
hôn, Tịnh-Phạn-Vương cưới cô lớn là Vi-Ý và cô út là Đại-Huệ. Còn ba hoàng
đệ của ngài thì cưới sáu cô kia, mỗi vị hai nàng, đem về làm phi. (Kinh
Phật-Bản-Hạnh)
Vua
Bạch-Tịnh có ba người em trai, kể theo thứ tự là: Cam-Lộ-Tịnh-Vương,
Hộc-Tịnh-Vương, và Thiết-Tịnh-Vương. Hai vị phối thất của ngài, mỗi người
sanh một con, hoàng-hậu Ma-Gia (Maya) sanh ra Thái-tử Tất-Đạt-Ða, còn bà
Kiều-Đàm-Di (cũng gọi là Ba-Xà-Ba-Đề - Prajàpati) sanh ra Nan-Đà.
Cam-Lộ-Tịnh-Vương có hai con, con lớn là Điều-Đạt (Đề-Bà-Đạt-Đa), con thứ
là A-Nan. Hộc-Tịnh-Vương có hai con, con lớn là Thích-Ma-Nạp, con thứ là
A-Na-Luật. Thiết-Tịnh-Vương cũng có hai con, con lớn là Thích-Ca-Vương,
con thứ là Thích-Thiếu-Vương.
Thái-tử
Thích-Ca Tất-Đạt-Đa (Sakya- Siddhàrtha) sanh vào tháng tư, lúc mặt trời
mọc, nhằm ngày trăng tròn (theo lịch Trung-Hoa thì mùng 8, tháng 4 - trước
Gia Tô 624 năm). Điều Đạt sanh ngày mùng 7 tháng tư, Nan-Đà ngày mùng 9
tháng tư, A-Nan ngày mùng 10 tháng tư.
Thái-tử
thân cao một trượng sáu thước (thước mộc), Điều-Đạt cao một trượng năm
thước tư, Nan-Ðà cao một trượng năm thước tư, A-Nan cao một trượng năm
thước ba. Trong họ Thích-Ca, hàng quí tộc phước đức thường thường cao một
trượng bốn thước. Còn nhân dân trong nước mức cao trung bình độ một trượng
ba thước. (Kinh Phật-Thuyết-Thập-Nhị-Du)
---o0o---
Mục
Lục
Thiên thứ nhất | 1
| 2
| 3
| 4
| 5
| 6
| 7
| 8
| 9
| 10
| 11 | 12
Thiên thứ hai
| 1
| 2
| 3
| 4
| 5
| 6
| 7
| 8
Thiên thứ ba
| 1
| 2
| 3
| 4
| 5
| 6
| 7
| 8
---o0o---
Source:
Di Đà Nguyện Hải
Vi tính:
Huệ Toàn, Huệ Trang, Từ Hỷ và Tuệ Cường
Trình bày : Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-04-2003